Tiền bạc từ đâu ra?

Qua lịch sử loài người, các đế quốc giúp các giống dân, không cùng văn hoá, ngôn ngữ, nhưng có thể sống chung đụng trong một xã hội trật tự, tuân theo các luật lệ chung hổn hợp. Có một loại văn hoá khác, trao đổi khác khiến các giống dân trên thế giới, trong hay ngoài các đế quốc vẫn được sự đồng thuận, chấp nhận của mọi người. Ấy là tiền bạc.
Tên khủng bố khét tiếng Osama Bin Laden, căm thù người Mỹ. Khi bị bắn chết trong căn phòng của ông ta, người ta tìm thấy cái két sắt chứa vô số tiền mỹ kim, của kẻ thù. Có thể nói tiền bạc là một sự đồng thuận khắp nơi trên thế giới cho dù người ta có bất đồng ý kiến về tôn giáo, chính trị….
Hôm viếng thăm thành Vienne, Áo quốc, đồng chí gái đi tìm nhà vệ sinh công cộng nhưng phải trả tiền, mình đưa tiền Florin còn dư khi rời Hung Gia Lợi, bà giữ nhà vệ sinh lắc đầu không nhận, kêu “Euro bitte” cho dù Hung Gia Lợi là hội viên của Liên Hiệp Âu châu, nhưng khi mình đưa 1 đô la thì khuôn mặt bà ta nở rộ nụ cười tưoi như hoa cứt lợn. Không gì khốn nạn bằng khi mót tè, đứng đợi, xếp hàng, rồi khi đến phiên mình, mụ tổ trưởng nhà vệ sinh lắc đầu, chê tiền của mình. Đi chơi xứ nào cứ nhét theo tiền đôla là thoải mái. Cứ móc đôla cho tiền boa là thiên hạ phục vụ mình vui vẻ như có bác hồ trong ngày vui đại thắng.

Người dân Aztec rất ngạc nhiên khi thấy người tây ban nha, Conquistadores, những kẻ chinh phục, rất đam mê về loại kim loại màu vàng. Họ không ngừng hỏi người địa phương về những nơi khai thác, tìm mõ vàng. Kim loại này rất dễ sử dụng, được người dân sở tại làm nữ trang, trang sức, không có giá trị kinh tế vì khi buôn bán thì người Aztec dùng hạt cocoa hay áo quần để làm đơn vị trao đổi.
Khi xưa, ở thời săn bắn, loài người chưa biết sử dụng tiền bạc vì tư duy theo kiểu bày đàn cô lập. Các đám thợ săn tụ họp nhau, sống chung theo bầy đàn, chia sẻ những gì họ đi săn hay hái trái, kiểu làm theo năng suất hưởng theo nhu cầu. Đàn ông và phụ nữ ôm nhau ngủ kiểu thế giới đại đồng, không có ai thuộc về ai, ganh tị. Người ốm yếu hay già cả, không sinh hoạt được nhiều vẫn được chia sẻ thức ăn, theo chủ nghĩa làm theo năng suất, hưởng hteo nhu cầu. Thích ai thì cứ đè đầu xuống làm một tăng như ông Adam và bà Eva trong vườn địa đàng. Tinh thần tư hữu chưa thâm nhập vào DNA vô sản chuyên chính của họ.
Con nít sinh ra đều được nguyên bộ lạc nuôi nấng, không phân biệt con ai cả vì phụ nữ ngủ với mọi người đàn ông trong tinh thần dân chủ tập thể với tư duy càng nhiều tinh trùng càng giúp cấu tạo đứa bé mạnh khoẻ. Đứa bé ấy lớn lên có thể đi săn bắn, chia cho họ thịt, rau quả khi họ về già. Họ chưa biết về tinh trùng và rụng trứng,… mấy năm trước có vụ, toà án bắt một ông chồng cũ, trả tiền nuôi con nhưng ông ta không chịu vì xét DNA thì đứa con sinh đôi không phải là con của ông ta. Được biết trong thời gian rụng trứng, phụ nữ ngủ với nhiều người thì có cơ hội sinh con của nhiều người. Chán Mớ Đời
Đàn ông đều nghĩ đứa bé là con mình nên thay nhau dạy dỗ đứa bé săn bắn, mớm cho ăn, không có cảnh con mày con tao. Nhìn chung thì chủ nghĩa cộng sản kêu gọi thành lập một địa đàng trên thế gian, đã thực dụng từ thời tiền sử mà sau này nhóm Pol Pot đã tàn sát 25% dân số Cambuchia để trở về quá khứ, thực thi một xã hội xưa mà trong cuốn phim Killing Fields diễn đạt khá sâu đậm. Con nít là con của tổ chức, không thuộc về cha mẹ. Trong cuốn phim “The Gods must be crazy” diễn đạt được thời ấy.
Đến thời cách mạng nông nghiệp, người ta vẫn tiếp tục sống theo từng nhóm, bầy đàn nhỏ để canh tác, chăn nuôi tự túc tự cường, giúp đỡ lẫn nhau, may áo quần, giày dép, dụng cụ nông nghiệp đến khi các thành phố lớn được xây dựng thì nền sản xuất mới được chuyên nghiệp hoá.
Người có khiếu làm giầy, dép, thì chuyên sản xuất giày dép còn ai may áo quần đẹp thì tiếp tục may áo quần, hoặc người làm nữ trang đẹp thì tiếp tục và tìm cách trao đổi các đơn vị sản xuất của mình để lấy những gì mình cần như cá thịt, áo quần,… Một ngôi làng A nổi tiếng sản xuất rượu ngon trong khi ngôi làng B vì đất phong thổ không tốt nên sản xuất rượu dỡ, ngược lại có thể sản xuất đồ sành tốt nên đưa đến kết quả là ai có thể trồng nho, làm rượu ngon để đổi với người làm bình đựng rượu tốt….khởi đầu sự mậu dịch của loài người.
Tương tự người ta có thể trồng nho, táo,…để bán nhưng vấn đề làm sao biết được một cái bình đựng rượu, có thể đổi được bao nhiêu lít rượu nho, bao nhiêu trái táo, mấy con cá…. Dần dần người ta bắt đầu sử dụng vỏ sò, muối, hay những thứ khác để đổi chác.
Ngày nay khoa học giải mã trong chất muối có đến 96 loại khoáng sản, giúp cơ thể hoạt động bình thường. Khi xưa, loài người biết cần ăn muối để sống nên rất quý và trao đổi các đơn vị kinh tế để có muối. Tương tự, lúc người tây phương dùng đường biển để thám hiểm khắp thế giới, tìm vàng, thức ăn trái cây lạ,…
Chúng ta chỉ học hay biết đến những chuyến đi thành công nhưng các sử gia ước lượng các cuộc viễn chinh này đã giết chết trên 2 triệu thuỷ thủ của các đế quốc tây phương. Lý do là người đi biển, chỉ ăn lương khô trong những chuyến hải trình lâu dài nên da bị vàng, khô xanh xao rồi chết.
Một hôm có một ông người Anh Quốc quên tên rồi, làm thí nghiệm trong chuyến hải trình, chia ra nhiều nhóm người trên tàu. Có một nhóm ông ta cho ăn mỗi ngày các loại chanh, cam thì nhận xét da của những người này không bị gì hết suốt cuộc hải trình trong khi các nhóm khác không được ăn cam, chanh thì bị bệnh, đau ốm và có người bị thiệt mạng. Ông ta kết luận là khi đi biển, người ta cần tiêu dùng cam và chanh.
Sau này ông James Cook được hoàng gia Anh Quốc phái đi tìm kiếm đất đai ở Thái Bình Dương như Hạ Uy Di,… ông ta ra lệnh thuỷ thủ phải ăn rau cải, chanh cam thật nhiều mỗi khi tàu cập bến ở đâu. Nhờ chi tiết này mà hải quân của hoàng gia Anh Quốc làm bá chủ các đại dương qua nhiều thế kỷ. Ngày nay thì người ta biết trong trái chanh cam bưởi rau cải có sinh tố C giúp cơ thể đem oxy vào tế bào, giúp hệ thống miễn nhiễm mạnh.
Mình nghe kể trong các trại tập trung, trại tù người ta không dùng tiền để trao đổi mà dùng thuốc lá. Chắc có lẻ tiền bị tịch thâu. Mình xem xi nê, thấy họ lột hết quần áo, đồ đạt rồi được phát bộ đồ tù trước khi vào tù. Một điếu thuốc lá có thể đổi một cuộc mát xa, 3 điếu thuốc lá có thể đổi được một cái ống tẩu, tuỳ theo nhu cầu của người tù để buôn bán trao đổi ngay cả người không hút thuốc vẫn dùng thuốc lá để trao đổi…
Ở Phi châu, người ta đi hỏi vợ bằng cách đổi một con bò, 2 con dê để gả (bán) con gái mình cho một gia đình khác hay bộ lạc nào đó. Lý do đó mà ngày nay ở vùng biên giới Congo, xẩy ra chiến tranh vì người ta ăn cắp bò, dê để bán cho ai muốn cưới vợ. Không có bò là không có vợ. Sinh ra một đứa con gái thì bố mẹ được xem là trong tương lai sẽ có bò và dê thêm gà.
Thời thánh chiến giữa Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo tranh dành thánh địa Jerusalem, các nhà khá giả, vương tộc của triều đình âu châu theo các đoàn quân thập tự chinh để đi đánh quân hồi giáo ở Jerusalem. Họ lo ngại đi xa, bị cướp bóc nên đưa tiền cho một nhà thờ tại địa phương rồi nhà thờ viết một tờ giấy đi đường. Dọc đường có những trạm của “templar” thập tự quân, chỉ cần đưa tờ giấy bảo chứng bởi nhà thờ thì khi họ đến mấy trạm trên đường từ Âu châu đến Jerusalem, sẽ đưa tiền cho các thập tự quân dùng để đi ăn nhậu hay vào nhà thổ.
Ngày nay mình đi du lịch chỉ cần đem theo thẻ tín dụng là có thể mua sắm, trả tiền khách sạn hay rút tiền ở máy ATM. Khởi sự thành hình hệ thống ngân hàng trên thế giới bởi nhà thờ Thiên Chúa Giáo, trong khi mấy ông cố đạo lại khuyên con chiên, không nên bận tâm về tiền bạc. Bạc tiền là tà ác, ma quỷ khiến con người mất đi lương tâm,… đưa cho cha để xây dựng nhà thờ.
Nghe kể một ông thuợng toạ nổi tiếng, khi qua đời, cách đây 15 năm, người ta thấy trong tủ sắt trong phòng có $300,000 tươi. Sau được toà cho phép thì người ta mở két sắt trong ngân hàng, thấy thêm 2 triệu đô nhưng thầy lúc sinh tiền vẫn kêu đời là vô thường. Có một ông sư, nhờ mình vẽ chùa, cho biết là lễ Vu Lan năm nay, bá tánh cúng dường được $70,000 còn Tết Ta thì $120,000, cách đây 20 năm về trước.
Trên tờ giấy đôla, có in câu “in God We trust”, chúng ta tin vào thượng đế. Tiền tệ được lưu hành khắp nơi trên thế giới là nhờ loài người tin tưởng vào giá trị tờ giấy bạc hay lượng vàng, lượng bạc, hột xoàn…. Mình về Việt Nam, đem tờ 100 đô đi đổi thì người ta vui vẻ chào mình và nhìn đi nhìn lại rồi lấy viết đặc biệt, viết trên tờ giấy bạc, xem có phải tiền giả vì cái bản mặt mình có chút gì gian gian khiến người ta không tin. Sau đó, người ta đưa mình một cọc tiền bác hồ, nghe đâu mấy triệu khiến mình tưởng là triệu phú. Có lẻ vì vậy người ta không kêu người Việt giàu có tại Việt Nam là triệu phú mà đại gia. Mình có thể mua đồ rồi trả tờ giấy 100 đola, người bán hàng vui vẻ thối lại tiền bác hồ với hối đoái cao hơn nhà nước. Hết tiền xài thì kêu người nhà của bạn đem tiền lại khách sạn rồi mình sẽ trả sau cho con họ du học ở Hoa Kỳ.
Trước khi đệ nhị thế chiến chấm dứt, Hoa Kỳ và Anh Quốc họp mặt tại Bretton Woods ở tiểu bang Maine, để bàn định tương lai về tiền tệ thế giới. Họ nhất trí sau khi bị người Mỹ chuốt rượu với gái gú, sử dụng tiền đôla thay vì bản Anh như xưa, làm chuẩn với 1 lượng vàng trị giá 30 đôla. Nghĩa là ai có 30 đôla, có thể bước vào một ngân hàng để đổi lấy 1 lượng vàng hay ngược lại. Bắt thiên hạ đem vàng của quốc gia họ đến bỏ vào kho của Hoa Kỳ để đổi tiền đôla mà cuốn phim Golden Finger, điệp viên James Bond phải ra tay để tránh Dr. No, ăn cắp vàng trong ngân khố liên bang.
Đến năm 1971, ông Nixon chơi cha thiên hạ, bỏ cái lệ này, in tiền xài chơi, luôn tiện cướp luôn vàng của thế giới. Chính phủ Pháp cho tàu đến hải cảng mỹ, đòi lại vàng bị từ chối cho cập bến. Con ơi nhớ lấy câu này, cướp đêm là giặc cướp ngày là đế quốc. Hôm trước, đọc báo trên mạng, nghe nói cán bộ cho công an đến tiệm đổi tiền đô, rồi bắt phạt, tịch thu tiền của thiên hạ. Đó cũng là một cách ăn cướp cực ngu. Tương tự hai vụ đổi tiền sau 75 giúp bần cùng hoá người Việt khiến kinh tế Việt Nam te tua đến khi phải đổi mới tư duy.
Ngày nay một lượng vàng giá $1,500, gấp 50 lần khi xưa và Hoa Kỳ cứ tiếp tục in tiền để trả nợ thiên hạ khiến lạm phát lên như điên. Nước nào muốn lấy vàng lại, Hoa Kỳ chỉ cần in đôla đưa, khỏi mất công đem máy bay đến chở, thậm chí in tốn tiền, chỉ cần bám cái nút là số tiền được chuyển sang trương mục ngân hàng chính phủ của họ. 90% tiền đôla lưu hành trên thế giới là qua máy móc, chỉ có 10% là tiền giấy được in ra. Ai muốn buôn bán trên thế giới đều phải trả tiền bằng đôla qua các hệ thống ngân hàng quốc tế. Hôm nào rảnh mình kể vụ 90% tiền đôla từ đâu ra. Chán Mớ Đời
Mình đã kể khi ông vua Hammurabi ra những đạo luật được gọi là bộ luật Hammurabi, có 300 điều lệ. 1 trong những luật lệ cho biết nếu ai giết một nô lệ thì phải trả 20 shekel hay 6 lượng bạc như trong kinh Cựu Ước nói đến bạc thay vì đồng xu. Cựu Ước xuất hiện sau thời Hammurabi, khi người Do Thái bị bắt làm nô lệ, đem tới vùng Assyria, Tiểu Á.
Dần dần những đồng xu được sử dụng và trở thành những tiêu chuẩn cho sự mua bán trao đổi. Một lượng vàng hay bạc rất to nên họ cần những đơn vị nhỏ hơn để dễ mua bán trao đổi tương tự có tờ $100, $20, $10, $5 và $1. Nếu ai làm giả đồng xu thì sẽ bị trị tội rất nặng. Các người dân, thương gia không thuộc đế quốc La MÃ vẫn chấp nhận những đồng tiền Dinarius lưu hành trong đế quốc.
Nếu không có những đồng Dinarius này, đế quốc La MÃ, khó quản lý chặt chẻ dân chúng khắp nơi, nhất là thu thuế. Tưởng tượng nếu đóng thuế người nông dân, sản xuất 10 tấn lúa, lấy 20% thì phải kêu bao nhiêu lính đến, vác đi 2 tấn lúa, sẽ mất thì giờ chuyên chở và nhân dụng rồi phải bán để có tiền. Họ chỉ tới kêu 20 Dinarius thì tên nông dân như mình phải chạy đi bán lúa rồi đổi ra Dinarius để đóng thuế.
Dần dần những người ấn độ, ba tư, ả rập,… buôn bán với đế quốc La Mã cũng tiếp nhận đồng Dinarius của đế quốc la mã như ngày nay khắp thế giới chấp nhận đô la của Hoa Kỳ. Sau này người hồi giáo, ả rập hoá từ ngữ Dinarius thành Dinar, vẫn tiếp tục được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới hiện nay.
Trước 75, Hà Nội gửi bộ đội vào nam, đưa vàng do Liên Xô tiếp tế, cho các vị chỉ huy bộ đội. Vào nam, họ đưa người nằm vùng vàng để đi mua lương thực cho quân đội họ. Bà cụ mình khi xưa, hay mua gạo do mấy ông đại đội trưởng, cắt xén gạo, nhu yếu phẩm của quân tiếp vụ, hay mấy ông cha, bà sơ được viện trợ để bán cho bà cụ mình. Sau này Việt Cộng vô thì bà cụ mới chưng hửng vì mấy người đến mua gạo đường của bà cụ, đều là nằm vùng, làm chức to ở Đàlạt đến khi Hà Nội gửi người của họ vào. Thị trường vàng của Sàigòn, dạo ấy xuống giá thê thảm vì bị vàng của Liên Xô đổ dồn vào.
Người Tàu cũng có một hệ thống tiền tệ tương tự, dùng tiền đồng, bạc và vàng. Các nước âu châu, hồi giáo sử dụng đồng tiền được lan rộng khắp nơi cho đến ngày nay được thay thế bởi đồng bản Anh Sterling rồi mỹ kim hiện nay. Có thể trong tương lai sẽ sử dụng hệ thống tiền tệ Crypto. Vấn đề là dùng Crypto của nước nào. Hoa Kỳ? Do đó dạo này họ đánh xập Bit Coin sau một thời nổi như điên khiến ai cũng sợ, để họ ra tiền Crypto của chính phủ cho chắc ăn.
Vấn đề là người Tàu, Tây- phương, hồi giáo, ấn độ,…sống trong những vùng văn hoá khác nhau, khó có thể chấp nhận được giá trị của vàng bạc, lúa mạch, tơ lụa…tuỳ cảm tính của địa phương. Người Tây Ban Nha thích vàng, người hồi giáo xem trọng và thích trao đổi bằng lúa mạch, người Tàu thì thích tơ lụa hay người ấn độ thích vỏ ốc, gia vị cà ri, ớt cay….
Khi các người thương buôn đi xa, đến các nước khác thì sẽ hiểu rõ giá trị của mỗi thứ tiền tệ, mặt hàng tại các địa phương khác nhau. Họ mua vàng rẻ ở xứ Ấn độ để bán cho anh Tây Ban Nha, Ý Đại Lợi,.. Rồ mua tơ sợi của người Tây phương để bán cho anh ba Tàu, làm giàu, tạo nên một giai cấp mới, được xem là trưởng giả, không thuộc con cháu nhà vua. Tạo dựng ra thời kỳ Phục Hưng mà người ta hay gọi giái cấp trưởng giả theo tên của gia đình Borghese của Ý Đại Lợi, tiếng pháp là Bourgeois.
Sau đó theo kinh tế thị trường tự do, dần dần sẽ giúp giá trị tơ lụa, vàng bạc, lúa mạch được bình thường hoá, tự điều chỉnh theo cung cầu cung bán của thị trường.
Họ sẽ mua vàng với giá rẻ ở Ấn độ để bán cho người Tây Ban Nha tạo nên một thị trường sốt, đòi hỏi vàng ở Ấn độ khiến giá vàng ở ấn độ sẽ được lên cao. Khi người ấn độ, hồi giáo,… thấy người tây phương tin tưởng vào vàng thì bắt đầu dự trữ vàng và cũng xem đó là tài sản vì dễ cất dấu, di chuyển.
Loài người vẫn tiếp tục nói tiếng của nước họ, thờ phụng chúa, Allah, Phật,…. Theo các tập tục khác nhau, văn hoá cá biệt nhưng họ có một sự đồng thuận về giá trị của vàng bạc, những thỏi vàng, thỏi bạc. Người đi buôn chỉ cần đem một số vàng bạc đi theo để mua tơ lụa, hay lúa mạch, đường, bột cà ri, ớt tiêu, đường,… rồi chuyên chở về.
Bao nhiêu năm qua, các nhà thần học, cố đạo, triết gia,..đều gọi tiền bạc là cơ nguyên của những tội lỗi mà con người gây ra. Người theo hồi giáo chống tư tưởng người thiên chúa giáo, người theo đạo tin lành không tin vào đức mẹ đồng trinh…. Người ta chém giết nhau vì đức tin nhưng có một điều mà nhân loại, tuy không biết nhau, hiểu nhau, ghét nhau, thù nhau như người Palestine và người Do Thái, đều nhất trí về giá trị của tiền bạc. Ngày nay, từ tên khủng bố đến một người cùng đinh ở xứ khỉ ho cò gáy đều yêu thích tờ giấy 100 đôla.
Một khi người ta không còn tin vào đồng tiền đôla, lạm phát như điên kiểu ở xứ Mozambique hay Venezuela ngày nay thì đế quốc Hoa Kỳ sẽ tự giải thể như bao đế quốc trước đây qua các nền kinh tế lớn mạnh.
Chán Mớ Đời