Hiển thị các bài đăng có nhãn Chốn cũ người xưa Đàlạt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chốn cũ người xưa Đàlạt. Hiển thị tất cả bài đăng

2 tấm ảnh Đà Lạt xưa mới tìm thấy



Tuần này mình nhận một tấm ảnh xưa của Đà Lạt do một anh gốc Đà Lạt, bên pháp gửi và thấy một tấm khác ở chợ dưới Đà Lạt trên tài khoản của ông Lê HUy Cầm ở Đà Lạt. Ông này lâu lâu lục đâu ra nhiều tấm ảnh lạ Đà Lạt xưa.


Tấm ảnh đầu tiên thì chụp khu Hoà Bình do anh bạn bên pháp gửi, cho thấy lúc mới bắt đầu với Chợ Xổm, trước khi Chợ Cây được xây cất. Tấm này chưa bao giờ thấy nhưng nhờ cái đồn cảnh sát ở chợ nên có thể đoán ra khúc nào. chỗ Việt Hoa sau này. Thấy mấy ông Tây sen đầm (gendarme). Nói chung đa số là người Tàu nên thấy đề tiếng tàu.


Khu vực này được xây dựng sau khi khu vực người bản xứ bị trận lũ lụt tháng 5 năm 1932 cuốn trôi đi. Người Pháp mới dời khu người bản xứ lên Khu Hoà Bình ngày nay. Lúc đầu chỉ là nhà bằng gỗ, hai tầng. Sau đó thì ông Võ Đình Dung xây bằng gạch hay hắc-lô. dãy nhà do ông Đội Có xây đầu tiên ở khu vực này.

Tấm ảnh này chụp về phía tiệm vàng của bà Bùi Thị Hiếu , con gái của ông Bùi Duy Chước, người làng Kế Môn. Bên trái của tấm ảnh là mấy tiệm của tấm ảnh đầu tiên
Chợ xổm Đà Lạt khi mới được dọn lên khu Hoà Bình
Hình này chụp từ dãy nhà của ông Đội Có nhìn về phía tiệm bánh mì Vĩnh Chấn sau này. Trạm biến điện sau này được dọn vào khu cạnh trường Đoàn Thị Điểm. Thấy đồn cảnh sát nên đoán tấm đầu tiên được chụp từ phía bên trái của đồn cảnh sát. Có dãy nhà 2 tầng sau này khi xây chợ Cây thì họ phá bỏ. Để xây mấy cái kiosque nhỏ. xem bản đồ phía dưới.
Hình chụp thấy dãy tiệm vàng Bùi thị Hiếu và nhà hàng Mekông chưa được xây bằng gạch, thấy con đường sau này mang tên Tăng Bạt Hổ. Sau mái chợ thấy dãy nhà của Đội Có.
Hình này chụp sau khi dãy nhà Bùi Thị Hiếu được xây bằng gạch còn dãy Mekong , Việt Hoa chưa được ông Võ Đình Dung xây lại.
Bản đồ này cho thấy dãy phố Đội Có, và Bùi Thị Hiếu đã được xây bằng gạch và ngói (được tô màu đen). Phần nhà hàng Mekong và Việt Hoa chưa được xây bằng gạch nhưng bằng gỗ như mấy tấm ảnh trên. Tấm ảnh được chụp vào thời lúc này. Phía bên phải (bên chợ Mới sau này) có dãy nhà gỗ mà hình trên đã cho thấy, sau này khi xây chợ Cây thì bị phá bỏ để thay vào đó các kiosque. phần tô màu vàng được phá bỏ. để xây Chợ Cây.
Bản đồ cho thấy khu Mekong , Việt Hoa đã được xây cất với chợ Cây. Khu dãy nhà 2 tầng bằng gỗ đã được phá bỏ và khu vực phốtô Hồng Châu được xây cất. khu Chợ Cây (rạp Hòa Bình sau này được tô màu trắng)
Khu vực người Tàu bị lũ lụt tháng 5 năm 1932 phá vỡ khiến người Pháp phải di chuyển chợ người bản xứ lên khu Hoà Bình

Hai tấm ảnh này cho thấy dãy tiệm vàng, cầm đồ Bùi Thị Hiếu, và Mekong chưa được xây bằng gạch 
Tương tự hình trên nhưng xa hơn. Có chú thích nouveau marchÉ. mình đoán được chụp trên balcon của dãy nhà hai tầng, đấu lưng với Chợ Mới sau này. bị phá bỏ khi xây Chợ Cây (rạp Hòa Bình)
Hình chụp từ dãy nhà Đội Có nhìn tới tiệm VĩnH Chấn, thuốc Tây Nguyễn Văn An
Bản đồ khu vực của người bản xứ, phố tàu nằm ở hạ lưu của sông Cam Ly bị lũ lụt tháng 5 năm 1932, phá vỡ.

chụp từ chỗ trước cà phê Tùng
Dãy nhà Đội Có được xem là xây bằng gạch đầu tiên ở khu vực này.
Bản đồ tô màu đỏ là các dãy phố đã được xây bằng gạch ngói. Phần màu xanh là khu rạp Hoà Bình, Chợ Cây còn khu Việt Hoa và Mekong thì còn làm bằng gỗ.
Sau khi xây chơ Cây, họ cho xây các kiosque nhỏ thay vào dãy phố 2 tầng bằng gỗ mà trên đây mình có tải ảnh.

Tấm ảnh này mình đã thấy trước đây.


Còn tấm ảnh thứ 2 của ông Lê Huy Cầm tải lên khiến nhiều người tranh cãi địa điểm nên mình ghi lại đây để mọi người tham khảo. Chỗ này là nơi đi lên cầu thang nối liền chợ Mới và đường Phan Bội Châu. Nếu không phải đi vòng ra tới cầu thang chỗ nhà hàng La Tulipe Rouge mới đi lên phố được hay phải vào chợ, leo cầu thang. Hai bên là hai dãy phố do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Cả phía bên kia chợ. Nên nhớ là chợ Đà Lạt không phải kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Đọc bào chợ Đà Lạt .


Khi kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế sự nối kết chợ Mới Đà Lạt với khu Hoà Bình. Có đường nối chính; chiếc cầu hình chữ K, nối khúc photô Hồng Châu vào chợ lầu trên. Và cầu thang nối liền từ đường Lê Đại Hành xuống lầu dưới của chợ Mới, giữa khách sạn Mộng Đẹp và này hàng La Tulipe rouge. 


Ngoài ra có 2 cầu thang nhỏ nối liền CHợ Mới với đường Phan Bội Châu nhưng ít người đi nên ít ai nhận ra. Vì khu vực đường Phan Bội châu cũng ít người.

Đây là con đường chia cách Chợ mới và Chợ Cá, Rau, phía sau thấy cầu thang đi lên bên cạnh khu photo Hồng Châu phía đường Phan Bội Châu, chỗ tấm ảnh của ông Lê Huy Cầm tải lên.
Tấm ảnh này trông rõ hơn mấy cầu thang lên đường Phan Bội Châu. Giữa hai căn nhà lầu do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Mình nhớ nhà Nguyễn Văn Thuận đâu gần đây, cũng như nhà của Hùng Con Cua, và ông Đàng có một căn ở đây.
Đây hình ảnh chụp từ cầu hình chữ K do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế nhìn về đường Phan Bội Châu, chỗ Võ Tánh quẹo lên. Ít ai đi. Chỗ này có cầu tiêu công cộng của chợ nhưng mình ít khi vào vì dơ lắm. M
ình thấy thiết kế các cầu thang và Talus rất hay giúp đất khỏi bị trùi vì tường cao. ngăn từng khúc tránh bị đất trùi.
Đây là cầu thang nối từ Lê Đại Hành. Nhà hàng La Tulipe Rouge đang được xây cất còn khách sạn Mộng Đẹp thì chưa.
Cầu thang nổi hình chữ K. Căn nhà bên phải là của ông Nguyễn Văn Ngạch, bán ngủ cốc được bù đền vì căn nhà to đùng 2 tầng chỗ bà cầm giỏ của ông ta bị đập bỏ để xây cầu thang xuống chợ lầu 2. Bên cạnh ty thông tin cũng đã bị đập bỏ. Ai buồn đời thì tìm trên bờ lốc ,mình có kể vụ này với hình ảnh.
Hình này cho thấy khách sạn Mộng Đẹp đã được xây cất.

Bonus thêm tấm ảnh đường Hoàng Diệu khi xưa
Chắc trước khi mang tên La Tulipe Rouge, nhà hàng này mang tên Maxim's. Hình do anh Jimmy, yersinien đăng trên mạng.

Có ông thần tên Jimmy tải mấy tấm ảnh của tiệm ăn và vũ trường này, có thời mang tên Maxim's. Anh chàng này học Yersin trên mình mấy lớp. Chắc dân chơi ban nhạc. Lần đầu tiên mới biết tiệm này có thời mang tên Maxim's. Chỗ này nổi tiếng khi ông thần Xí Rổ, chém Đại Ca Thay khi lên Đà Lạt chơi. Nghe nói Xí Rổ rất giỏi võ. Mình chỉ nhớ có lần Tết, mình đến nhà Đào Văn Quý chơi, thấy ông Xí Rổ, hàng xóm mở sòng bài tài xỉu. Có ông nào thắng kêu ông Xỉ Rổ chung, ông ta rút con dao găm ra để chung khiến ông kia mặt xanh như đít nhái, đứng dậy bỏ đi. Thằng Quý kể là Ông Xí Rổ ăn gian, ông ta chỉ hắn là lấy miếng mousse nhỏ dán nơi cái chén, để chận viên lúc lắc. Nên khi đến xem mình cố ý xem dưới cái chén có miếng mousse như thằng Quý kể nhưng không thấy vì ông ta làm nhanh quá. sau 75 chết. 


Mỗi lần Tết, trong Phước Lộc Thọ họ bán chỗ để bán Tết. Có sòng bài, nghe nói ăn giữa lắm, mỗi ngày mấy chục ngàn đô la. Mình chỉ nghe chớ không thấy vì Tết chỗ này đông lắm, khó kiếm chỗ đậu xe.


Ngoài ra có một ông thần xin mình hình ảnh của Đà Lạt xưa để làm video. Mình có nhờ anh bạn, người cho mình cả ngàn tấm ảnh Đà Lạt xưa, gửi cho anh ta thêm mấy trăm tấm ảnh Đà Lạt xưa. Xem video sau đây. Hy vọng sẽ giúp anh ta có thêm tài liệu để  làm thêm nhiều video về Đà Lạt xưa. Bác nào thích thì nhấn like để ủng hộ anh ta tiếp tục làm video cũ.


https://youtu.be/jqQyLPSLsAI?si=KaxOQ_pCzvT_EfKo


Lâu lâu thấy tấm ảnh cũ của Đà Lạt khiến mình nhớ chút chút về Đà Lạt nên tải lại cho ai chưa bao giờ thấy. Có ông thần nào dân khu Ngọc Hiệp, kêu mình không hiểu gì về Đà Lạt mà không chịu chỉ cho mình sai chỗ nào để học tập nên mình ngọng. Mình sinh sau đẻ muộn nên chỉ biết chút đỉnh về Đà Lạt. Buồn đời mình kể lại chuyện xưa. Nếu ai thấy sai thì giải thích cho mình giúp mình hay người khác hiểu thêm về Đà Lạt thay vì kêu sai rồi không nói gì thêm. Nếu không nói ra thì ký ức của ông thần sẽ mất khi mai mốt đi tây. Xong om


Có bài mình kể về thi tú tài. Có lẻ các năm khác không có vụ khám sức khoẻ ở nhà thương Phương Lan. Nhưng năm mình thi tú tài IBM thì có vụ này. Mình chỉ đoán là họ tìm kiếm các thành phần nằm vùng hay trong rừng ra. Các nữ sinh không phải khám. Về Đà Lạt gặp mấy người bạn học Yersin xưa, kể có bà nào học Yersin tên Thu, nằm vùng , là người đặt chất nổ ở khách sạn Ngọc Lan khiến anh Đức, con ông Châu trên đường Thi Sách thiệt mạng.


Thằng Đa đi chung với mình lên nhà thương khám. Nó đi trước mấy người kể là có tên cỡi truồng, đưa chim đa đa cho bà y tá xem. Bà ta lấy cái kéo nâng con chim hắn, lật qua lật lại xem có bệnh hoa liễu hay gì đó. Bổng nhiên con chim phồng lên như bong bóng. Bà y tá, trở cái kéo khỏ lên con chim Hoành tráng của hắn rồi kêu “nứng nè con”. Tên này đau quá khiến thằng Đa đứng phiá sau cười, kể cho mọi người nghe. Thường thì tên Đa này kể chỉ tin độ 50%, hắn thêm mắm muối nhiều. Sau vụ này có mấy tên trong lớp nghe lời ai trên nhà thương xúi nên đi cắt bì da đầu, vào lớp mấy tên không dám nhắc tên rên rên. Chán Mớ Đời 


Mình nhớ trong lớp có một tên nhà ở Tùng Nghĩa, bố mẹ có tiệm thuốc Tây. Hắn sinh năm 1953 nhưng giấy khai sanh là 1959, trụt đến 6 tuổi. Tha hồ học thi rớt. Hắn ở trọ ở Ngã Ba CHùa, trong khu nhà của bà Mười Võ. Lâu lâu thấy hắn có người đến viếng, mặt mày hung tợn lắm, chắc Việt Cộng nằm vùng hay trong rừng ra. Chị Nga tiệm chè Mây Hồng, lúc đầu được hắn tán tỉnh cũng xiêu lòng nhưng sau khi thấy hắn dẫn đám bạn cô hồn các Đảng vào tiệm chè là mặt xanh như đít nhái, hết dám hữu nghị với hắn. Hắn rớt tú tài rồi biến mất tiêu.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắc sơn tử



Tìm lại bạn Đà Lạt xưa

 

Đậu tú tài xong thì nộp đơn xin du học, mấy tháng sau nhận được nghị định của nha du học do Hùng Con Cua từ Sàigòn gửi lên. Bạn bè gọi Hùng Con Cua vì con của tiệm thuốc Thế An Đường ở đường Duy Tân, kế tiệm bánh mì Vĩnh CHấn, số 5 Duy Tân, tiệm có logo hình 2 con Cua nên dân Đà Lạt kêu tiệm thuốc Con Cua. Đậu tú tài xong hắn về Sàigòn ghi danh học đại học, còn mình thì ghi danh học đại học Đà Lạt. Hùng con cua gửi thư, ông đưa thư nhét dưới cửa nhà làm sao lá thư bay dưới ghế salon nên cả tuần sau mấy đứa em mới thấy dưới ghế. May quá nếu không thì chả biết gì. 


Trong danh sách của nghị định thì có hắn, thằng Nguyên, 4 chị em Chử Nhất Anh và mình là dân học trường Văn Học Đà Lạt. Xem như năm đó trường Văn Học có đến 7 học sinh được du học. Nhớ nghị định có danh sách được đi du học rất ít. Mình nhận được nghị định thì ngày mai chạy về Sàigòn, làm giấy tờ như sổ thông hành ở bộ nội vụ, đợi cả ngày rồi sau đó chạy qua toà lãnh sự Pháp để xin đóng cái dấu chiếu khán . Xong xuôi chạy qua hãng Air France để xem giá tiền và chuyến bay rồi đi xe đò chạy về Đà Lạt. Hai hôm sau ông cụ mang tiền về Sàigòn mua vé sau đó thì một tuần sau mình lên đường đi Tây đến 20 năm sau mới trở lại Đà Lạt. Kinh


Sau này hỏi ra mới khám phá là mình di du học trước tiên trong đám bạn bè học chung ở Văn Học. 1 tuần sau đó mới đến Hùng COn Cua, 2 tuần sau mới đến thằng Nguyên. Mình lên giáo hoàng học viện Đà Lạt để chào ông cha Louis Leahy, người Gia-nã-đại đã dạy mình đàm thoại anh ngữ suốt 2 năm trời, hôm đó thằng Nguyên đi theo. Tên này xin đi du học ở Gia-nã-đại nhưng chưa có chiếu khán nên ông cha Leahy mới viết thư cho toà đại sứ Gia-nã-đại ở Tân Gia Ba. Dạo đó Gia-nã-đại không có lãnh sự ở Việt Nam, chắc đánh nhau nên dùng toà đại sứ ở Tân Gia BA. Thế là 2 tuần sau hắn có chiếu khán dọt luôn đi Ottawa. Cho thấy quen mình cũng có lợi. 3 tháng sau hai anh em họ Chử mới lên đường qua Mỹ, rồi sau đó hai chị em Chử Nhất Anh. độ 1 tháng sau thì Sàigòn mất. Kinh.


Mình đi Tây quá nhanh, lúc về Sàigòn đã thấy biểu ngữ đả Đảo Việt Cộng chiếm Phước Long, sợ cấm xuất ngoại, đôn quân nên chỉ có vài người bạn học biết. Lúc đó mới hiểu là bạn tưởng thân nhưng hoá ra chúng ganh tị, chỉ mong mình không được đi. Vì khi có sổ thông hành mời chúng đi ăn giã từ, mới khám phá ra chúng bàn tán với nhau là nếu không được đi du học chắc mình sẽ này nọ, Chán Mớ Đời. Qua Tây chưa kịp định tình, lo cho cái thân, chỗ ở đàng hoàng thì mấy ông kẹ vào Đà Lạt. Thế là mất tin tức gia đình nên bạn bè cũng đành gác lại. Liên lạc sau. 


Thư đầu tiên nhận được của bạn bè ở hải ngoại là của thằng Nguyên. Đi sau mình hai tuần còn Hùng Con cua thì mất tích dù có gửi thư sau này khi gặp lại bác và cô của hắn, khách sạn Cẩm Đô tại bên Tây. Bác và cô của nó hiến nhà nước khách sạn Cẩm Đô to đùng ở góc đường Phan Đình Phùng và cầu Cẩm Đô, để được đi Tây. Qua Tây, hai người, quen với mẹ mình ở Đà Lạt, đi kiếm mình đúng lúc mình đang đi làm việc ở Ý Đại Lợi. Sau hè về mới khám phá ra nên đi kiếm thăm. Được cho ăn mì Cẩm Đô lại. Ngon vô cùng. 10 năm trước thì gặp lại Hùng Con Cua ở nhà mình. Sau đó hắn cũng biệt tích giang hồ. Nghe nói về Việt Nam hay Thái Lan có vợ khác. Dạo sinh viên cũng có đi thăm gia đình bác Phấn, bạn tù với mẹ mình, tiệm thuốc Tây Mình Tâm, đường Duy Tân, mướn bằng dược sĩ của ông dượng mình. Khi gia đình chú vượt biển qua Tây rồi sau đó qua Mỹ. Mình có duyên gặp lại gia đình chú thím ở Cali đâu 45 năm sau. 


Thư thằng Nguyên viết, kêu mày học dốt sao lại chạy vào học kiến trúc. Thế là ngọng. Mà đúng thật, khi xưa mình học cực dốt, chỉ có một điều là thi đâu đậu đó nên bạn bè không hiểu lý do. Rồi trời ị trúng đầu , được đi Tây. Thế thôi. Thằng Đa hay kể là nhờ nó chở xe đạp Đến nha du học, xin đơn rồi nạp đơn. Nhớ lại thấy thương hắn, trời nắng đạp xe chở mình đi ở Sàigòn. Mình là số trời ị trúng đầu. Sau này lấy vợ được trời ị cho một mụ vợ xinh đẹp rồi về già sợ mình ngủ khó khăn, đi học đàn hát về tối đánh đàn ru mình ngủ, mỗi đêm. 


Mẹ mình giải thích là mình đậu cao được du học vì bà cụ lén lấy phiếu báo danh thi Tú tài đem ra am Mệ Cái đường Nguyễn Công Trứ cúng và am Cô Bảy (sohier) cúng. Thế là cô BẢY và Cậu Chín độ nên đậu, cải số đi lính. Về Đà Lạt mình có ghé am mệ Cai cúng nhưng am cô Bảy thì không còn dấu tích nữa. 


Thư thứ 2 là của thầy Chử Bá Anh từ Hoa Kỳ. Mình thấy có tờ báo in roneo thời đó, tìm bạn và người thân của người Việt di tản sau 75 nên viết thư tìm kiếm bạn bè người thân, hy vọng gia đình đọc được hay ai ở Đà Lạt biết tin tức gia đình mình. Mình viết thư trả lời thì sau đó có Chử Nhất Anh và Chử Tứ Anh viết thư hỏi thăm đều đều. Từ họ lại khám phá ra Minh Trang, học chung khi xưa, mà bạn bè hay gọi Ma soeur vì rất nghiêm, dân Nguyễn Bá Tòng Sàigòn lên Đà Lạt học. Sau này mình qua Mỹ chơi đi gặp lại cô nàng. Ra về đối tượng một thời nói bạn anh sao giống bạn của má em. Cô nàng lấy chồng lớn tuổi hơn nên phải ăn bận như bà Phán trong phim Xuân Tóc Đỏ. Sau này đi hỏi vợ cho mình. Dặn đừng có giới thiệu tôi là mẹ ông nhé. 

 

Từ thằng Nguyên, lại lòi ra tên Đổ Quý Dân nên có điện thoại hỏi thăm vài lần khi làm hè cho ngân hàng, khỏi tốn tiền điện thoại viễn liên. 


Năm 1986, buồn đời từ Luân Đôn, mình sang Hoa Kỳ du lịch vì hãng TWA khuyến mãi đi 10 nơi tại Hoa Kỳ với $50 một chuyến. Mua vé $500 đi được 10 thành phố. Dạo ấy kiến trúc Hoa Kỳ được xem là đỉnh cao của thế giới nên mình đang làm việc tại Luân Đôn, bay qua đi chơi một tháng hè để viếng xem các tòa nhà chọc trời.  Gia đình mình thăm đầu tiên là gia đình thầy Chử BÁ ANh ở Virginia. Thấy mình còn lông bông, độc thân vui tính nên Chử Nhất Anh xúi Chử Tam Anh giới thiệu cô sinh viên nào cho mình. Dạo ấy hắn đang làm luận án tiến sĩ ở MIT. Ở chơi Virginia được vài ngày thì mình bay qua San Diego, nơi ông thần Chử Nhị Anh đang làm việc. Ở chơi ít ngày rồi bay lên San Francisco, San Jose. Có ngụ lại nhà thằng Dân. Mình mò niên giám của thành phố San Jose thì tìm ra số điện thoại của thằng Dân nên gọi điện thoại. Hắn nhận ra mình nên gọi điện thoại cho công ty TWA lấy vé đi San Jose. Hắn đón mình ở phi trường với con trai đầu của tướng Lâm Quang Thi khi xưa học Yersin. Từ hắn mới điện thoại cho thằng Nguyên, ở Gia-nã-đại. Hai tên này hàng xóm với nhau. Nên mình mới có ý định bay qua Gia-nã-đại thăm thằng Nguyên. Không có trong chương trình. Mình thấy đổi chỗ ở và nước làm việc nên mất liên lạc. Sau này cũng mò niên giám ở Quận Cam, từ Chicago mình mò ra được Võ Hoàng Đa, Con bác Chín chụp hình và bác Thanh, cô mụ nhà bảo sanh Hiền Chi, đường Phan Đình Phùng. 


Rồi bay đi Saint Louis thăm cô bạn người Mỹ khi xưa có thời đi chơi mấy nước ở Âu Châu chung 1 năm sau khi mình ra trường ở Âu châu, hiện đang theo học kiến trúc ở đây. Cô này có bố làm giám đốc ngân hàng, sau trung học buồn đời, bay qua Paris ở một năm, có bà nội trả tiền, rủ mình đi chơi với cô ta vì đi một mình ngại. Mình mới ra trường, chưa có việc nên đi. Sau này cô nàng rủ mình sang Hoa Kỳ sinh sống nhưng mình có em vượt biển sang pháp nên đi làm ở Luân Đôn. Rồi đi Chicago, bú xua la mua.. sau đó bay đến Boston thăm Chử Tam Anh. Hắn giới thiệu mình hai cô người Việt rất xinh, thế là động lực giúp mình qua Mỹ làm việc để kiếm vợ. 


Sau đó bay qua Ottawa thăm gia đình thằng Nguyên. Vụ này ngoài chương trình vì qua thằng Dân mới tìm lại thằng Nguyên.  Sau này thằng Nguyên và vợ có qua Cali thăm gia đình mình mấy lần đến khi qua đời. Tên Nguyên này mình tình cờ quen thân vì kiếp trước mắc nợ hắn. Có lần trong lớp rủ nhau đi ăn chè, tên này thì học chung nhưng không bao giờ đi chơi với nhau. Mình cũng chả biết nhà nó ở đâu. Bổng nó chạy lại kêu cho đi ké. Thế là phải chở 3. Hắn ngồi giữa nên lớ quớ ra sao vì thằng Đa, ngồi cuối đã bỏ chân lên cái đồ gác chân. Thế là buồn đời hắn bỏ chân hắn vào bánh xe. Nghe rẹt rẹt mình ngừng xe lại thấy chân hắn máu me như bị Việt Cộng pháo kích.  


Thế là mình phải chở hắn lên nhà thương băng bó. Mỗi tuần phải qua nhà hắn ở Tăng Văn Danh, chở lên nhà thương thay băng bó cái chân. Thậm chí lúc đầu phải chạy qua nhà nó chở đi học rồi chở về mất mấy tháng đến khi chân nó lành. Lên nhà thương nghe ai xúi, hắn nghe lời cắt bì da đầu. Được cái là tên này rất hiền, tâm tốt như Đào VĂn Quý. Thế là phải chở lên nữa, đi cà nhắc này nọ, rên đau lắm mày ơi nên thân từ đó.


 Hắn bơi giỏi nên dạy mình bơi trong đập Đa Thiện rồi hai thằng mơ màng đi du học nên thân. Hắn có anh đầu du học ở Gia-nã-đại nên mỗi lần vào nhà, xem hình anh hắn, để tóc dài đến rốn. Hình ảnh tuyết mùa đông này nọ. Được cái sau 75, mình đang ở Paris thì anh hắn có viết thư, kêu mình di dân sang Gia-nã-đại dù chưa bao giờ gặp mình. 


Mình có kỷ niệm khá vui với thằng Nguyên, khi gặp lại là hắn nhắc đến. Số là hai thằng muốn đi du học nên tìm cách đàm thoại thêm anh ngữ. Mình thấy quảng cáo trong đường Yagut có người Mỹ, đạo Tin Lành họ dạy anh ngữ nên bò lại. Hôm đó họ giảng đạo về lễ Phục Sinh, nói là Chúa Giê Su chết rồi 3 ngày sau sống lại khiến hai thằng nhìn nhau, sợ vãi ra quần bỏ chạy hết dám tiếp tục học đàm thoại. Sau đi bơi ở đập Đa Thiện, tình cờ gặp ông cha Louis Leahy, dạy ở Giáo hOàng Học Viện, rủ mình đến mỗi thứ 4 để đàm thoại anh ngữ. 30 Phút nói tiếng Việt và 30 phút nói tiếng anh cho ông ta tập nói tiếng Việt. Sau này mình mò trên mạng thì được biết cha qua đời tại Nam Dương và được chôn tại đó. Sau này nó lấy vợ, cô nàng mạc khải theo đạo Tin Lành nên muốn thằng con trai sau này làm mục sư khiến hắn chỉ biết lắc đầu.


Năm 1992, mình về thăm gia đình ở Đà Lạt. Mình có gặp lại Đào VĂn Quý, nhà ở Tăng BẠt Hổ, cạnh Nguyệt vọng Lầu. Anh chàng này khi xưa, học giỏi lắm, đậu tú tài pháp với mention Assez Bien, học khoa học Sàigòn rồi sau 75 chạy xe thồ. Em của anh Đào Văn Sơn, đai đen Nhu Đạo, học với cậu Ân trong Lasan Adran. Tập võ với mình ở ngã ba chùa mỗi sáng với anh Minh, rể ông Xu Huệ. Đi kiếm Nguyễn Đình Tài, Nguyễn Hùng nhưng không gặp, lại gặp Lê HÙng Sơn, chuyên gia đánh bi-da. Hình như anh chàng này học ban A, chỉ biết mặt nhưng không thân lắm. Chỉ nhớ khi Nguyễn Hùng khao ăn đậu tú tài thì mình có gặp tại bữa tiệc. Đi kiếm Ngô Văn Thuỷ thì không gặp, chỉ gặp ông anh phi công A37, ở tù ra, chuẩn bị đi H.O. 


Chỉ có sau này khi gặp mặt lại nhóm học sinh cũ của trường Văn Học Đà Lạt xưa, mình mới tìm ra trên trang nhà của trường vài tên quen khi xưa và còn nhớ mình nên khi về Đà Lạt, có liên lạc thì ca sĩ ngân hàng tổ chức bữa cơm họp mặt. Nói chung chả ai nhận ra mình trừ vài người học chung lớp 11B và 12B khi xưa vì mình làm trưởng lớp và Cái Bớt Một Thời. Mấy cô nhìn mình như bò đội nón. Có cô tự xưng là Kim Anh khiến mình như ngỗng ị. Ca sĩ ngân hàng hiểu ý nên kêu Phạm Thị GÁi đó, nay đổi tên Kim Anh. 


Thời xưa tên Phạm Thị Gái, đến thời cách mạng, cho rằng tên Gái có vẻ phân biệt giai cấp, nam nữ nên đổi tên là Kim Anh. 50 năm sau gặp lại làm sao mình nhớ vì to béo hơn xưa, lại đổi tên. Mình thì nhớ tên Phạm Thị Gái, được chúng bạn gọi là Gái Đen. Tự xưng là Gái Đen thì nhớ, đây lại chơi tên Kim Anh. Ban B con gái ít lắm nên mình nhớ tên hết. Mình kể vụ đi nghỉ hè ở Ninh Chử và Nha Trang năm 1973 với Trần Văn Tiến trong lớp thì cô nàng lắc đầu không nhớ. Chán Mớ Đời. Mình hỏi có nhớ Võ Hoàng Đa không, cô nàng kêu không trong khi tên này kể là sau 75, có phát triển tình cảm hữu nghị với nhau, có đưa cô nàng mỗi ngày về nhà gần Mả Thánh. Lúc đưa Gái Đen về dưới mưa thì không sao đến khi đi về lại thì sợ ma chạy không kịp trối. Trong mấy cô chỉ có Cái Bớt Một thời là còn nhớ mình. Đó là điểm chính.


Vui nhất là gặp lại thầy Lưu Văn Nguyên, người đã khuyên mình đi du học thay vì đi lính. Có gặp lại thầy Phạm Văn An, dạy việt văn khi xưa. Thầy Hồ Thanh Tâm khi xưa dạy sử thì có gặp lại tại Hoa Kỳ. 


Gặp lại bạn học, chỉ kể chuyện đời xưa chớ cũng không biết nói chuyện gì vì đa số là Đảng viên. Mấy người học chung khi xưa, được chia ra làm hai nhóm: nhóm Đảng viên, làm ăn khá và nhóm không theo chế độ mới nên gặp nhau chung trong nhà hàng có cái gì không được bình thường lắm. 


Sau này về Đà Lạt, mình chỉ gặp một anh bạn khá thân khi xưa, tuy là Đảng viên nhưng vẫn nói chuyện được. Vào Đảng vì thời thế. Không có ai thì anh ta có thể tâm sự được nhất là lên xe phải rút cái máy quay video ghi âm nơi kính hậu để có bằng chứng khi xe đụng mình. Anh ta kể những chuyện khi xưa mình chả nhớ gì cả như khi anh ta bị thương hàn, mình chở anh ta lên bệnh viện cấp cứu này nọ. Hóa ra mình có số chở thiên hạ đi nhà thương. 


Anh ta nhờ mình tìm hai người bạn học xưa. Huỳnh Kim Sang và Phạm Minh Tuấn. Mình đều tìm được cả hai nhưng chỉ gặp lại Huỳnh Kim Sang ở Houston, còn Phạm Minh Tuấn, nhà ở giếng ông Ba Tây trên Thi Sách thì chỉ nói chuyện được 2 phút qua điện thoại, sau đó nghe vợ ngồi bên cạnh bảo cúp và không bao giờ gọi lại. Tương tự Nguyễn mInh Dũng đánh bóng bàn khi xưa, con hai bác Thừa số 49 đường Phan ĐÌnh Phùng. Mình có nói chuyện điện thoại nhưng không bao giờ gặp lại hình như hắn không muốn gặp lại. Vì có hẹn mấy lần rồi cuối cùng hắn huỷ cuộc hẹn. Cuộc đời có duyên thì gặp lại.


Nói chung khi xưa, cũng như ngày nay, mình ít bạn lắm nhất là lấy vợ xong thì chỉ ăn theo diện của vợ. Có lần được đồng chí gái hỏi anh không có bạn học khi xưa, mình nói là có đi học đâu mà có bạn. Bạn bè thân khi xưa rất ít. 1 số cũng bỏ cuộc chơi sớm nên chỉ còn đếm trên ngón tay. Nay chỉ còn vài người bạn quen thời du học khi qua Tây, qua Ý Đại Lợi. Mình định mỗi năm về Paris, Ý Đại Lợi thăm bạn bè cho vui đến mai sau hết đi được thì còn chút gì để nhớ. 


Sau này có mấy người làm quen trên mạng cũng khá vui. Như về Sàigòn hồi đầu năm, có gặp anh chàng làm bờ lốc cho mình. Anh ta đọc bài của mình nhiều nên hiểu, ngồi nói chuyện mấy tiếng đồng hồ. Hay qua Úc, gặp một cặp vợ chồng quen trên mạng, nói chuyện rất thân tình hay hai người ở Sydney. Hay ở bolsa, lâu lâu có người hú mình đi ăn miến gà, ăn mì Nhật Bản, uống cà phê muối thay vì đường, nói chuyện cũng vui. Tuy gặp lần đầu nhưng có cảm tưởng quen rất thân vì đọc stt của nhau từ lâu nên có gì kết nối nhanh. Xong om


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắc sơn tử

Người xưa năm cũ

Cuối tuần rồi nói chuyện với bà cụ sau mấy tuần ở trên núi. Nghe mẹ mình kể là Bà Lào, xóm địa dư mới qua đời tuần trước. Xem như trong xóm nơi khu nhà mình ở thì thế hệ của mẹ mình nay chỉ còn mẹ mình và ông Mai, bố thằng Banh. Bà Lào cùng tuổi mới chết. Ông Lào hình như mấy năm trước cũng ra đi. Rất thọ.

Thầy Phạm Kế Viêm nay ở Pháp, còn thầy Hàn đã qua đời

Đường Hai Bà Trưng khi xưa toàn là các cư xá công chức, khởi đầu là cư xá của viện Pasteur ngay dốc Hai Bà Trưng, chỗ trường Nữ Công Gia Chánh. Có dạo mình tập Vovinam tại đây. Kế đến là khu cư xá của Nha Địa Dư, ty Công Chánh, rồi lên chút nữa gần trường Đa Nghĩa là cư xá của ty Bưu Điện và ty Kiến Thiết.


Cư xá Công Chánh và Nha Địa Dư gần nhau nên con nít của hai cư xá hay chơi với nhau và đánh lộn. Nhớ hồi nhỏ, xóm Công Chánh có thằng Dư, anh con Thuý, thằng Sửu và thằng Hiệp con ông Tô hay bắn bi, đánh lộn với đám xóm Địa Dư, khiến chúng rượt chạy về xóm, lấy ná bắn nhau. Đám con nít Địa dư, lấy đá quăng, rớt vào nhà vệ sinh công cộng, làm bể ngói, trời mưa bị dột. Mình còn nhỏ nên chỉ biết núp với thằng Đắc, con anh Bình, xem chúng bắn nhau. Thằng Sửu chơi bắn bi dỡ nhất, hắn cứ xúi mình mua bi để hắn bắn dùm. Chỉ nhớ tên Hiệp, con ông Tô là bắn bi giỏi nhất đám thêm hắn có tài làm diều giấy bóng. Hắn chơi đã rồi, kêu dụ mình mua con diều của hắn. Thả vài cái thì gió thổi cái bụp, con diều đứt chỉ bay qua mấy cái vườn sau xóm Địa Dư.

Chỗ thang cấp lên trường Văn Học Đà Lạt xưa.

Hôm trước buồn đời, có anh Ngọc, đai đen Thái Cực Đạo xóm Pasteur, còm hỏi mình là ai. Khiến mình thất kinh. Lâu lâu có người Đà Lạt còm hỏi mình là ai là chới với. Mình nhớ họ nhưng chả ai biết mình, ngoại trừ hàng xóm gần nhất. Như thằng Bi, con đại uý Hải, Đinh Gia Lành, nghe tên mình là hắn nhớ chiếc xe Bridgestone khi xưa, ông cụ mua lại của thằng Sửu, cắt ống Pô, chạy tiếng to inh ỏi. Hay anh Toàn con ông Tô, rể của bác Nguyễn Đình Thừa. Anh Ngọc cứ lênh bênh mấy ngày, còm qua còm lại, tự hỏi sao anh ta không nhớ mình, chỉ nhớ ông Châu bên cạnh nhà anh ta. Mình thì nhớ anh ta có giọng cười hề Văn Chung. Dạo hè cả xóm xúm nhau đánh bóng bàn ở nhà ông Nguyễn Văn Nghi, trồng răng. Anh ta cứ cười hé hé chát chúa mà 60 năm sau mình vẫn có thể nhái giọng cười của anh ta. Ông Nghi có người em trai tên Đức đánh bóng bàn khá, tay trái nhưng sau này mình hạ hết trong xóm. Hình như anh Ngọc, có cô em gái cùng tuổi với mình học BÙi Thị Xuân. Mình chỉ đánh bóng bàn thua Nguyễn Minh Dũng, con hai bác Nguyễn Đình Thừa.

Chỗ này trên đường Hải Thượng, bêb tay phải là cổng vào trường Việt Anh, nơi vợ thầy Viêm đưa thầy đi dạy rồi chạy ra cổng tông vào xe của mình đang chạy trên đường Hải Thượng. Cả hai đều không có bằng lái xe. Gần đi Tây mình mới thi bằng lái xe vì mới đủ 18 tuổi. Đến ty công chánh, bạn ông cụ kêu chở chạy vòng vòng, mình chả biết luật lệ gì cũng đậu. Đổi bằng quốc tế oai như Tây. Sang Pháp đem đổi bằng lái xe của Tây đến giờ.

Trong xóm Địa Dư, trội nhất là mấy đứa con ông Lào. Chỉ nhớ mỗi năm đến Trung Thu, là chúng cải trang giả làm ông Địa, rồi mấy anh em cầm trống đánh cà xình cà xình lắc cắc Tùng tùng múa Lân, dẫn đầu đám con nít trong xóm Địa dư đi rước đèn đến nhà ông Sâm rồi quay lại. Dạo ấy nhỏ nên phục chúng lắm. Chúng lớn hơn 2, 3 tuổi nên chả nhớ tên gì nhưng mình phục đám anh em này. Lâu lâu có đá banh với đám Địa Dư. Mấy tên con trai của ông Lào rất giỏi tính toán làm ăn. Khi ông Lào lãnh thầu đóng thùng gỗ để đựng rau cải xà lách bán cho Mỹ thì mình xuống nhà, mấy tên này sắp xếp cho mình đóng thùng rồi ghi sổ ra sao để ông Lào trả tiền. Dạo ấy vui, đi đến xóm Địa dư và Công Chánh là nghe tiếng búa đóng đinh đóng thùng gỗ. Nghe nói con ông Lào sau này đều khá hết, chạy xe hàng,…


Xóm Địa Dư khi xưa, hè mình hay chơi dích hình với thằng Banh, con ông Mai, em của ông Lào. Hình như ông Lào có hai cô em gái, quên tên. Ông ta có người em trai tên Út thì phải, ở khu nhà chú Hồng, số 15 Hai Bà Trưng, cạnh nhà thầy Thành Bắp Sú. Mình ghét tên này lắm. Lý do là tuần nào thứ hai hắn cũng bò lên nhà mình dụ ông bà cụ mình mua Lô Đề, hắn đi biên số Đề kiếm ăn. Mấy năm trời chỉ trúng có một lần. Mình thấy ông bà cụ chơi đề mà sót ruột, thua ná thở còn tên này thì cứ bàn mua con Dê số 35, con rắn số 32, nằm mơ thấy con vịt mua số mấy. Không biết còn sống hay không. Lâu lâu thấy chị thằng Banh, còm trên bờ lốc của mình. Mình không nhớ mặt mũi chị nó ra sao. Thấy tự giới thiệu thì nhớ mại mại. Nghe nói ông Mai nay về xóm ở để được con cháu săn sóc. Vườn tược dưới Phi Nôm không biết ai chăm sóc.


Nhắc đến thầy Thành Bắp Sú, nổi tiếng Đà Lạt. Mình có gặp lại thầy tại San Jose một lần khi họp mặt cựu học sinh Văn Học. Sau này thầy yếu nên không tham dự lần thứ hai và đã qua đời mấy năm trước. Hình như khi xưa thầy khởi đầu dạy ở trường Văn Học, sau đó thầy mở trường bán công Quang Trung. Có thời gian thầy ra ứng cử nghị viên hội đồng thị xã Đà Lạt, lấy danh hiệu “Bắp Sú”, đặc trưng của người Đà Lạt nên từ đó thiên hạ gọi thầy là Thành Bắp Sú. Sau này vượt biên qua Hoa Kỳ, định cư tại San Diego. Thầy không biết ông cụ mình khi xưa, mình cũng không có kỷ niệm với thầy ở Đà Lạt. 


Hôm trước có người còm nói khi xưa có học trường Hiếu Học. Số 8 đường Hai Bà Trưng do thầy Chử Bá Anh thành lập. Ông cụ mình có học đêm để thi bằng tiểu học ở đây. Nhớ tối tối mình đi đón ông cụ học ra. Sau này thầy Chử Bá Anh mở trường Văn Học ở số 4 Hoàng Diệu, để lại cho thầy Trần Đình Bảng, em rể, đổi tên thành trường Thăng Long. Nhưng rồi cũng dẹp vì Đà Lạt ra nhiều trường quá nên ít học trò. Không như hồi chia đôi đất nước.


Có ai gửi tấm ảnh thầy Phạm Kế Viêm và thầy Hoàng Trọng Hàn, chụp thời Đà Lạt. Mình có theo học khoá hè lớp 11 ở trường Việt Anh, chuẩn bị qua trường việt nên có học hình học với thầy Phạm Kế Viêm mấy tuần lễ. Thầy người Bắc, dạy trường Võ Bị Quốc Gia. Dư thời gian thì đi dạy luyện thi tú tài ở trường Văn Học vào buổi chiều. Dạo ấy môn toán là do thầy Viêm dạy, môn Vật Lý là thầy Thân Trọng Bình, người Huế đảm trách và môn Hoá Học do thầy Nguyễn Bào, người Huế dạy. Khóa hè đâu 8 tuần gì đó chỉ có thầy Viêm và thầy Bình dạy còn thầy Bào thì mình học với thầy trên viện đại học Đà Lạt mấy tuần trước khi đi du học. Còn môn hoá học ở Việt Anh, khoá hè thì có ông thầy nào quên tên, người Nam, học chung Nhật ngữ với mình vào buổi tối. Đi học Nhật ngữ thì anata watashi bú xua la mua vào lớp thì thầy em.


Dạo ấy, trường Văn Học có lớp luyện thi tú tài do 3 giáo sư Viêm, Bình, Bào đảm trách. Học sinh Đà Lạt cứ chiều là đến trường Văn Học học luyện thi của bộ Tam Sư này. Sau này, có vấn đề gì đó, 3 ông thầy này, không hợt tác với tường Văn Học, di tản qua trường Việt Anh. Thế là một số lớn học sinh Văn Học kéo chạy qua Việt Anh như Phạm Minh Tuấn, nhà ở khu giếng ông Ba Tây. Hắn rủ mình nhưng lười đi theo. Tên Tuấn nay ở Bôn Sa làm nghề khai thuế nhưng mình chưa gặp lại. Có điện thoại được 2 phút thì vợ hắn kêu cúp.

Lớp nơi mình học Nhật ngữ vào buổi tối khi xưa.

Mình có kỷ niệm khá sống động với cô Diệu Tâm, vợ thầy Viêm, chị bà con chi đó với dượng Ân, rể ông bà Phúng, ở Sydney. Số là khi xưa, chưa có bằng lái xe, nhưng mình vẫn lái xe Jeep của ông cụ, chở mấy đứa em đi học ở trường Hùng Vương vào buổi chiều. Một hôm chạy về nhà thì chạy ngang trường Việt Anh, bổng nhiên có chiếc xe con cóc VW từ trong trường Việt Anh chạy ra, tông xe mình cái rầm. Mình mặt xanh như đít nhái, ngừng xe lại, thấy chiếc xe của thầy Viêm, do cô Diệu Tâm lái. Mình thì run như nghe Việt Cộng pháo kích còn cô thì ngồi trong xe mặt như người xem phim ma. Ai đó chạy vào trường nói gì thì thấy thầy Viêm đi ra, gặp mình, hỏi con ông Đoài, tên ông cụ mình. Mình gật đầu, thầy kêu đi đi. Hú vía. Sau này có ai gửi cho mình bài viết của cô kể lái xe ở Đà Lạt, không có bằng lái xe. Kinh


Còn thầy Hàn thì có dạy mình năm 12 B môn anh văn. Thầy du học ở Hoa Kỳ về, kỹ sư nhưng dạy môn anh văn. Thầy có người anh tên Hoàng Trọng Cang làm lớn ở Đà Lạt. Có dạo thầy làm hiệu trưởng trường Trần Hưng Đạo sau đó được bổ nhiệm làm chức vụ lớn hơn về giáo dục ở Đà Lạt, không nhớ chức vụ. Năm 1986, sang Hoa Kỳ chơi, Chử Nhất Anh có cho điện thoại của thầy để mình gọi hỏi thăm. Thầy chả nhớ mình là thằng sơn đen nào vì học trò đông quá. Cách đây hai ba năm, có chị bạn học kêu đi ăn cơm với cô Xuân Lan, sang Cali thăm con cháu. Cô vẫn đẹp và vui vẻ như xưa. Hình như mình có người em học với cô khi xưa ở trung tâm giáo dục Hùng Vương.


Mình có kỷ niệm vui về thầy Hàn khi dạy anh văn. Hôm đó thầy dạy về số ít số nhiều thì phải thay đổi ra sao như “y” thì số nhiều đổi thành “ies”. Đặc biệt có những từ như Foot thì số nhiều là Feet, hay Tooth thì số nhiều là Teeth. Thầy nói tiếng Huế nên trong lớp chúng cũng đọc lại bằng giọng Huế. Mình mê nhất là khi thầy kể chuyện thời du học ở Mỹ. 


Trong Campus, có máy bán đồ ăn. Lúc đó ở Việt Nam đâu biết chỉ nghe thầy kể thì mượn tượng ra sao đến khi ra Hải ngoại mới biết cái máy gọi vending machine. Cái tủ rồi họ móc kẹo bánh hay chai nước uống với số mã. Mình muốn mua loại nào thì bỏ tiền vào rồi bấm số mã thì máy nhả món ăn đó xuống thùng, chỉ mở nắp lên lấy ăn. Thầy nói có tên bạn, cứ mỗi lần đi mua thức ăn, hắn lúc nào cũng tình nguyện hết. 


Sau khám phá ra hắn tới đập đập vào cái máy bị hư rồi thức ăn rớt xuống hay cà phê này nọ khỏi phải nộp tiền. Nay ở Hải ngoại thì bình thường nhưng dạo ấy, những gì thầy kể khiến mình càng náo nức muốn đi du học như thầy.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn