Hiển thị các bài đăng có nhãn Thiên hạ sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thiên hạ sự. Hiển thị tất cả bài đăng

75% giai cấp trung lưu và nghèo mua xa xỉ phẩm

 


Thấy trên mạng, người Tàu tải các cờ-líp hàng hoá xa xỉ đều được sản xuất bên tàu và bán với giá khủng, họ kêu gọi khách tiêu thụ, nên gửi mua thẳng từ Trung Cộng. Thậm chí họ nói cả đồng hồ Thụy sĩ khiến mình thất kinh. Hôm trước, ở hội Toastmasters có ông Mỹ độ tuổi mình, ăn bận rất sang trọng kiểu cổ, như áo sơ mi, là có nút cài chớ không dùng hạt nút. Ông ta kêu mình kiến trúc sư mà ăn bận lôi thôi, khiến mình buồn cười, nói là nông dân ở trong vườn chỉ thấy sóc và coyote khiến thiên hạ cười.


Nhớ dạo mới phát hiện mối tình hữu nghị, đả thông tư tưởng, điều nghiên lý lịch trích dọc trích ngang với đồng chí gái, mình nghe lời bà đồng nghiệp kêu có người chị bán cho Gucci, kêu 50% khuyến mãi nên mua tặng cho đồng chí gái.. giá $150 thay vì $300. Đồng chí gái bỏ đâu mất tiêu. Nghĩ lại $150 thời đó như $850 ngày nay. Chán Mớ Đời 


Cứ nghĩ mà tiếc. Vì nếu bỏ $150 mua cái đồng hồ là xem như mình phải làm ra $300 rồi đóng thuế đủ trò mất 50%. Nếu không mua đồng hồ, lại mua cổ phiếu cho đồng chí gái. Làm tính ngày nay, trung bình 35 năm qua là 12% lời mỗi năm. Bỏ $300 thì hôm nay sẽ có $19,592.88. Hai vợ chồng đi chơi thả dàn. Trong khi cái đồng hồ Gucci biến mất. Xem như mất 20 ngàn khơi khơi để lấy le hàng xóm.


Tại sao người ta thích, muốn được mọi người xem là giàu có hơn là có tiền thật sự. Đeo cái ví Louis Vuitton giá $2,000, mà chưa có tới $100 thay vì cái ví $100, có $1,900 tiền tươi. Đó là tư duy của phụ nữ nên mình chả hiểu. Thật tế thì chả ai để ý đến mình, có lẻ vì vậy mà thiên hạ phải mua sắm, ăn diện làm nổi để được thiên hạ chú ý đến.


Theo thống kê, khoảng 75% hàng xa xỉ đều được các tầng lớp trung lưu và thấp hơn mua sắm. Cho thấy chiếc áo không làm nên thầy tu. Người giàu có thì ai cũng biết nên họ đâu cần phải khoe khoang. Mình mò tài liệu về người Việt thì được biết tổng quan về thị trường hàng xa xỉ của Việt Nam thì thất kinh. Mình nhớ dạo covid, thiên hạ cũng làm đồ giả như khẩu trang hiệu GUCCI bú xua la mua để đeo. Ra tiệm Song Long, mua đồ về ăn, thấy bà chủ gọi điện thoại đặt hàng khẩu trang Gucci. Hình như vi khuẩn covid thấy khẩu trang hạng giả đồ hiệu là sợ không dám tấn công.


Thị trường hàng xa xỉ của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng do tầng lớp trung lưu gia tăng, đô thị hóa và thu nhập khả dụng ngày càng tăng. Theo báo cáo Statista năm 2025, thị trường hàng xa xỉ của Việt Nam là một phần của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương rộng lớn hơn, dự kiến ​​sẽ chiếm 50% doanh số bán hàng xa xỉ toàn cầu vào năm 2030. Mặc dù con số chính xác của Việt Nam nhỏ hơn Trung Quốc, nhưng những người tiêu dùng trẻ tuổi và đầy tham vọng của đất nước này (đặc biệt là ở Sàigòn và Hà Nội) là những động lực chính. Về Việt Nam, nghe kể người ta mua đồ hiệu đem đến nhà cán bộ rồi quẳng qua cổng. Kinh


 Thị trường hàng xa xỉ tại Việt Nam được định giá khoảng 2,5 tỷ đô la vào năm 2024, với mức tăng trưởng dự kiến ​​là 5–7% hàng năm cho đến năm 2030, theo Euromonitor. Các phân khúc chính bao gồm thời trang (túi xách, quần áo), đồng hồ, đồ trang sức và mỹ phẩm.


Giống như xu hướng toàn cầu (nơi 70–75% chi tiêu xa xỉ đến từ các hộ gia đình có thu nhập trung bình), tầng lớp trung lưu của Việt Nam (các gia đình kiếm được 15.000–50.000 đô la mỗi năm) đóng góp đáng kể. Người tiêu dùng có thu nhập thấp hơn cũng tham gia, thường thông qua các thị trường đồ cũ hoặc hàng xa xỉ cấp thấp (ví dụ: nước hoa, phụ kiện nhỏ). Các cửa hàng Louis Vuitton, Gucci, Chanel, Rolex và Dior có các cửa hàng chính tại Quận 1 của Sàigòn và Tràng Tiền Plaza của Hà Nội. Các thương hiệu "xa xỉ dễ tiếp cận" như Michael Kors và Coach cũng nhắm đến tầng lớp trung lưu của Việt Nam.


Mức tiêu thụ hàng xa xỉ của Việt Nam phản ánh cả xu hướng toàn cầu và sắc thái địa phương, với người mua thuộc tầng lớp trung lưu và hạ lưu bị thúc đẩy bởi địa vị, phương tiện truyền thông xã hội và các giá trị văn hóa như "thể diện". Tương tự như con số 75% toàn cầu, tầng lớp trung lưu của Việt Nam (ước tính chiếm 50% dân số vào năm 2030, theo Ngân hàng Thế giới) mua các mặt hàng xa xỉ để thể hiện sự thành công. Ví dụ, một chiếc ví Gucci trị giá 500 đô la là biểu tượng địa vị đối với những người trẻ chuyên nghiệp kiếm được 1.000 đô la/tháng. Người tiêu dùng có thu nhập thấp hơn có thể tiết kiệm trong nhiều tháng hoặc mua các mặt hàng đã qua sử dụng thông qua các nền tảng như The Luxury Closet.


 Ảnh hưởng của phương tiện truyền thông xã hội: Instagram và TikTok thúc đẩy nhu cầu, với những người có ảnh hưởng giới thiệu lối sống xa xỉ. Theo báo cáo năm 2024 của Deloitte, Thế hệ Z (18–25) và thế hệ thiên niên kỷ (26–40) chiếm 60% lượng mua hàng xa xỉ, thường ưu tiên các thương hiệu hơn là tiết kiệm.


 Ở Việt Nam, sở hữu các mặt hàng xa xỉ giúp nâng cao vị thế xã hội, đặc biệt là trong các sự kiện như Tết Nguyên đán hoặc đám cưới. Điều này phản ánh áp lực trong Cuộc đua đến nơi không đâu (từ câu hỏi trước của bạn), nơi sự xác nhận bên ngoài thúc đẩy hành vi, dù là học thuật hay vật chất. Về quê cũng thấy thiên hạ bận đồ hiệu. Vấn đề là mình không biết hàng nhái hay hàng thật.

 Lạm phát (3–4% vào năm 2025) và chi phí sinh hoạt tăng cao gây sức ép lên ngân sách của tầng lớp trung lưu, nhưng chi tiêu xa xỉ vẫn tiếp diễn, thường thông qua tín dụng hoặc các kế hoạch trả góp. Người mua có thu nhập thấp hơn có thể phải đối mặt với nợ nần, phản ánh mô hình toàn cầu khi 40% Thế hệ Z phải gánh nợ cho hàng xa xỉ (CreditKarma, 2023).


Sources: Statista (2025), Euromonitor (2024), Deloitte (2024), World Bank (2023), Vietcombank (2025),


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Tại sao Vatican là quốc gia nhỏ nhất thế giới

 Nhớ lần đầu tiên đến La Mã, ghé lại tòa thánh Vatican thì khám phá không phải thuộc nước Ý Đại Lợi mà là một quốc gia nhỏ nhất thế giới. Sau này mình có đến nước San Marino cũng nằm chơi vơi giữa nước Ý Đại Lợi. Tuần này các Hồng y trên thế giới đã nhanh chóng bầu được giáo hoàng mới, một Hồng y xuất thân từ Hoa Kỳ.

Sự thành hình của Vatican, tức Quốc gia Vatican (Vatican City State), là một quá trình kéo dài qua 20 thế kỷ, gắn liền với sự phát triển của Giáo hội Công giáo Roma và vai trò của các giáo hoàng. Sau này, giáo hội Công Giáo bị chia đôi, rồi có hai vị giáo hoàng, 1 tại thành phố Avignon của Pháp ngày nay, và một tại La-MÃ.

Theo truyền thống Công giáo, Thánh Paolo, được coi là giáo hoàng đầu tiên, bị tử đạo và chôn cất tại đồi Vatican ở Roma khoảng năm 64-67. Ngôi mộ của ông trở thành điểm hành hương quan trọng cho các Kitô hữu. Sau khi Hoàng đế Constantine I, nghe lời vợ trở về đạo và hợp pháp hóa Kitô giáo qua Sắc lệnh Milano (313), ông đã hiến tặng đất và xây dựng Vương cung thánh đường Thánh Paolo đầu tiên trên ngôi mộ của Thánh Paolo. Khu vực Vatican bắt đầu trở thành trung tâm tôn giáo.

Thánh đường đầu tiên được xây trên ngôi mộ của thánh Paolo tại La-mã. Mình có kể sự hình thành của tánh đường Paolo này trong bài trước 

Năm 756, Vua Pepin của người Frank hiến tặng các vùng đất ở miền trung Ý cho giáo hoàng, hình thành Nhà nước Giáo hoàng (Papal States). Điều này trao cho giáo hoàng quyền lực thế tục (chính trị) bên cạnh quyền lực thiêng liêng, với Vatican là trung tâm hành chính và tôn giáo. Vatican phát triển thành một pháo đài và trung tâm quyền lực. Các giáo hoàng thường xuyên xung đột với các hoàng đế và vua chúa châu Âu (như trong Tranh cãi Phong chức), củng cố vai trò của Vatican trong chính trị và tôn giáo. Khi xưa, đức giáo hoàng hay đem quân đi đánh các vương quốc không cúng dường.

Bản đồ cho thấy Ý Đại Lợi khi xưa gồm có rất nhiều vương quốc, đến khi ông Garibaldi, kêu gọi thống nhất xứ spaghetti này. Đất của các giáo hoàng (papal States màu tím khá rộng) 


Thời kỳ Phục Hưng và suy giảm quyền lực thế tục (Thế kỷ 15-19) Vatican trở thành trung tâm văn hóa và nghệ thuật trong thời Phục Hưng. Các giáo hoàng như Julius II tài trợ xây dựng lại Vương cung thánh đường Thánh Paolo (1506-1626) và trang trí Nhà nguyện Sistine. Tuy nhiên, thời kỳ Avignon (1309-1377) và Đại Ly giáo phương Tây (1378-1417) tạm thời làm suy yếu vị thế của Vatican. Vụ này, nếu ai viếng thành phố Avignon của Pháp sẽ thấy toà nhà của giáo hoàng (palais des Papes). Ông ở Avignon, ông ở La-mã kêu tôi mới là người đại diện cho các con chiên. Cuối cùng họ đồng ý La-MÃ là trung tâm của Công Giáo.

Quốc gia bé nhỏ nhất thế giới và đội quân gồm 138 người lính Thụy sĩ

Thế kỷ 19: Phong trào thống nhất Ý do ông Gaảibaldi khởi xướng, đe dọa Nhà nước Giáo hoàng. Năm 1870, quân Ý chiếm Roma, sáp nhập Nhà nước Giáo hoàng vào Vương quốc Ý. Đức giáo hoàng Pius IX, không vui nên tự xem mình là tù nhân trong toà thánh Vatican. Không nhìn nhận xứ Ý Đại Lợi, đã chiếm đất của toà thánh. Vấn đề của người Ý Đại Lợi là làm gì với đức giáo hoàng sau khi tịch thâu hết đất đai của nhà thờ và vẫn xem là vị lãnh đạo thiên chúa giáo của họ.


Thế là đức giáo hoàng cứ sống trong toà thánh Vatican và nhận tiền hổ trợ, cúng dường của con chiên khắp thế giới để sống trong khi chính phủ Ý Đại Lợi thì không dám đuổi nhà thờ ra khỏi toà thánh Vatican vì sợ bị thế giới lên án. Đến khi ông Benito Mussolini, lên nắm chính quyền với Đảng phát -xít thì ông ta đột phá tư duy, cho nhà thờ thành lập một thực thể độc lập có chủ quyền như nước San Marino. Vừa làm vừa lòng nhà thờ vừa lấy lòng dân ý, theo chỉ tiêu nhất chúa nhì cha thứ 3 Mussolini.

Đức giáo hoàng và Mussolini ký hiệp ước Lateran công nhận toà thánh Vatican là chủ thể độc lập

Thế là vào năm 1929, Giáo hoàng Pius XI và chính phủ Ý (dưới thời Mussolini) ký Hiệp ước Lateran, chính thức thành lập Quốc gia Thành Vatican như một thực thể độc lập có chủ quyền. Vatican được công nhận trên 44 ha đất, với giáo hoàng là nguyên thủ quốc gia. Hiệp ước này giải quyết “Vấn đề Roma” và đánh dấu sự ra đời của Vatican như một quốc gia hiện đại.


Từ 1929, Vatican hoạt động như một quốc gia nhỏ nhất thế giới, với vai trò trung tâm tinh thần của 1,4 tỷ tín hữu Công giáo toàn cầu. Duy trì quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia, sở hữu các cơ quan như Thư viện Vatican, Bảo tàng Vatican, và đóng vai trò quan trọng trong các vấn đề quốc tế, văn hóa, và tôn giáo. Ai đến Vatican nên viếng viện bảo tàng này. Có nhiều tác phẩm trên thế giới, do các ông cố đạo đi gì truyền giáo mang về.


Tóm tắc, Vatican thành hình qua ba giai đoạn chính: khởi nguồn từ ngôi mộ Thánh Paolo và sự phát triển của Giáo hội Công giáo, củng cố quyền lực thế tục qua Nhà nước Giáo hoàng, và cuối cùng trở thành một quốc gia độc lập nhỏ bé nhưng có ảnh hưởng toàn cầu nhờ Hiệp ước Lateran 1929.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Ngày Mẹ hay tiêu tiền báo hiếu

Nói cho ngay, mình chỉ tham dự ngày lễ từ mẫu từ khi lấy vợ vì ở Việt Nam thì có Vu Lan, rồi đi Tây có vụ Fête des Mères. Hình như cuối tháng 5. Fête des mères bên Tây, để tôn vinh mấy bà mẹ, cùng lúc khuyến khích mấy bà đầm đẻ thêm vì Pháp nướng bao nhiêu triệu người trong thế chiến thứ 1. Hình như 1.4 triệu lính.

Ngày Mother’s Day (Ngày của Mẹ), mình dịch Ngày Từ Mẫu tại Hoa Kỳ là một ngày lễ quan trọng để tôn vinh và tri ân các bà mẹ, được tổ chức hàng năm vào Chủ nhật thứ hai của tháng Năm. Sự khởi sinh của ngày này có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử và gắn liền với những nỗ lực của nhiều cá nhân, đặc biệt là phụ nữ, nhằm ghi nhận vai trò của các bà mẹ trong gia đình và xã hội.


Ý tưởng về một ngày dành riêng để tôn vinh các bà mẹ có thể được truy nguyên từ các truyền thống cổ xưa, như lễ hội tôn vinh các nữ thần mẹ trong văn hóa Hy Lạp và La Mã, hoặc “Mothering Sunday” ở Anh vào thế kỷ 17, khi mọi người trở về thăm mẹ và nhà thờ chính của họ vào Chủ nhật thứ tư của Mùa Chay. Tuy nhiên, Mother’s Day hiện đại tại Hoa Kỳ có nguồn gốc cụ thể từ thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, gắn liền với các phong trào xã hội và cá nhân tại Mỹ. Và từ đó lây lan khắp thế giới. Cho thấy văn hoá Mỹ diễn biến hoà bình khắp nơi.


Trong thời nội chiến Hoa Kỳ, bà Julia Ward Howe, một nhà hoạt động vì hòa bình, ngày nay người ta gọi phản chiến và tác giả của bài hát “Battle Hymn of the Republic”, là một trong những người đầu tiên đề nghị một ngày dành cho các bà mẹ tại Hoa Kỳ. Năm 1870, sau khi chứng kiến sự tàn phá của Nội chiến Hoa Kỳ và Chiến tranh Pháp-Phổ, bà Howe viết bản tuyên ngôn Ngày Từ Mẫu “Mother’s Day Proclamation”, kêu gọi các bà mẹ trên thế giới đoàn kết vì hòa bình. Ngày nay các tín đồ Trump và Kamala nên hợp tác, đoàn kết vì hòa bình thay chửi nhau. Có bà Mỹ được tổng thống Biden đề nghị cho quan toà tối cao pháp viện, kêu không thể định nghĩa được phụ nữ là gì. Nay có chuyển giới tính, đồng tính đủ trò nên có thể vài năm nữa họ sẽ không cho gọi ngày từ mẫu. Gọi ngày từ mẹ.


 Bà đề nghị một ngày cho người mẹ Hoà Bình “Mother’s Day for Peace” được tổ chức vào ngày 2 tháng 6 hàng năm, nhấn mạnh vai trò của các bà mẹ trong việc ngăn chặn chiến tranh và thúc đẩy hòa bình. Mặc dù ý tưởng của bà Howe không được áp dụng rộng rãi, nó đã truyền cảm hứng cho các phong trào sau này và đặt nền móng cho việc tôn vinh các bà mẹ sau này.


 Ann Reeves Jarvis, một nhà hoạt động xã hội ở tiểu bang Tây Virginia, đóng vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho Mother’s Day tại Hoa Kỳ. Trong và sau Nội chiến Hoa Kỳ (1861–1865), bà tổ chức các “Mothers’ Day Work Clubs” để cải thiện điều kiện y tế và vệ sinh, hỗ trợ các bà mẹ chăm sóc con cái trong bối cảnh chiến tranh. Có nhiều bà mẹ, con trở về bại tướng cụt chân, hay vĩnh viễn ra đi trên chiến trường. Nên cần có sự hổ trợ về mặt tinh thần.


Sau chiến tranh, Jarvis tổ chức “Mothers’ Friendship Day” để hòa giải các gia đình và cộng đồng bị chia rẽ giữa phe Liên bang (Bắc) và Liên minh (Nam). Nói như ngày nay là hòa hợp hoà giải bên thắng cuộc và bên thua cuộc. Những hoạt động này nhấn mạnh vai trò của các bà mẹ trong việc hàn gắn xã hội Hoa Kỳ sau cuộc nội chiến. Tinh thần cộng đồng và sự cống hiến của bà Jarvis đã truyền cảm hứng cho con gái bà, Anna Jarvis, người sau này biến Mother’s Day thành một ngày lễ quốc gia. Sau 30/4/75 nếu Việt Nam có mấy bà kêu gọi đoàn kết nam Bắc thay vì mấy tượng người mẹ anh hùng tốn tiền người dân. 


Bà Ann Jarvis (1864–1948) được công nhận là người sáng lập Mother’s Day hiện đại tại Hoa Kỳ. Sau cái chết của mẹ mình, bà Ann Reeves Jarvis, vào năm 1905, Anna quyết tâm thực hiện ước mơ của mẹ về một ngày đặc biệt để tri ân các bà mẹ.


Năm 1907, Anna Jarvis bắt đầu chiến dịch vận động cho một ngày lễ quốc gia dành cho các bà mẹ. Bà tổ chức một buổi lễ tưởng niệm mẹ mình tại Nhà thờ Giám lý Andrews ở Grafton, Tây Virginia, vào ngày 10 tháng 5 năm 1908. Đây được coi là lễ Mother’s Day chính thức đầu tiên tại Hoa Kỳ. Trong buổi lễ, Ann tặng 500 bông hoa cẩm chướng trắng, loài hoa yêu thích của mẹ bà, cho những người tham dự, tượng trưng cho tình yêu và sự tinh khiết của tình mẫu tử. Hoa cẩm chướng trắng sau này trở thành biểu tượng của Mother’s Day. 

Hình như màu trắng dành cho ai đã mất mẹ, và màu đỏ dành cho ai còn mẹ.


 Anna Jarvis không ngừng vận động để Mother’s Day được công nhận trên toàn quốc. Bà viết thư cho các chính trị gia, tổ chức tôn giáo, và các nhà lãnh đạo cộng đồng, nhấn mạnh rằng các bà mẹ xứng đáng được tôn vinh vì những hy sinh thầm lặng. Xin nhắc lại dạo ấy phụ nữ chưa được phép đi bầu hay đi làm, đa số ở nhà lo nấu ăn cho chồng con, làm việc nội trợ, nên ý tưởng tôn vinh sự hy sinh của người mẹ được nhìn nhận. Năm 1910, Tây Virginia trở thành bang đầu tiên công nhận Mother’s Day là ngày lễ chính thức. Các bang khác nhanh chóng theo sau.


 Năm 1914, sau nhiều năm vận động, Tổng thống Woodrow Wilson ký tuyên bố chính thức công nhận Mother’s Day là ngày lễ quốc gia, được tổ chức vào Chủ nhật thứ hai của tháng Năm hàng năm. Tuyên bố này kêu gọi người dân treo cờ để bày tỏ tình yêu và sự kính trọng đối với các bà mẹ trên toàn quốc. Ngày nay chả thấy ai treo cờ cả.


Vấn đề là chúng ta ở xứ Mỹ, trung tâm của xứ tư bản nên mọi thứ đều được diễn biến hoà bình để làm tiền. Ngày Từ Mẫu cũng được thương mại hoá để thiên hạ chi tiêu và bán hàng. Trái với ý tưởng ban đầu, là ngày người Mỹ đi thăm viếng mộ mẹ đã qua đời, hay ngồi nhớ lại, ôn lại kỷ niệm về mẹ. 


 Sau năm 1914, Mother’s Day nhanh chóng trở thành một ngày lễ phổ biến tại Hoa Kỳ. Người dân tổ chức bằng cách tặng hoa, thiệp, quà, hoặc dành thời gian bên mẹ. Hoa cẩm chướng trắng (tượng trưng cho mẹ đã qua đời) và đỏ/hồng (cho mẹ còn sống) trở thành biểu tượng phổ biến.


 Anna Jarvis ban đầu hình dung Mother’s Day như một ngày để bày tỏ tình cảm cá nhân, không phải cơ hội thương mại. Tuy nhiên, vào những năm 1920, các công ty hoa, thiệp chúc mừng, và quà tặng bắt đầu khai thác ngày lễ để kiếm lợi nhuận. Điều này khiến Anna Jarvis phẫn nộ. Bà dành phần đời còn lại để đấu tranh chống lại sự thương mại hóa, thậm chí kiện các công ty và tổ chức sử dụng tên “Mother’s Day” vì mục đích lợi nhuận. Bà ta cho rằng gửi mấy thiệp mua ở chợ cho mẹ là vô nghĩa. Tố thơn là viết những gì mình nói với mẹ thay vì mua những sáo ngữ qua các thiệp. Mình nhớ hồi mới lấy vợ cũng hay mua mấy cái thiệp này cho mụ vợ khi có sinh nhật, hay Tết nhất. Mấy lời rất hay nhưng khi có con rồi thì hết. Để dành tiền mua tả cho con. Mất hết lãng mạn tính, nên đồng chí gái kêu mình thuộc dạng lãng xẹt. Năm 1948, khi qua đời, Anna Jarvis sống trong nghèo khó và không hài lòng với cách ngày lễ mà bà sáng lập đã bị biến đổi.


Mình nghĩ tại sao phải đợi đến ngày chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mẹ mình. Mấy ngày khác mình không nhớ mẹ. Người già họ rất cô đơn, chỉ mong con cháu gọi điện thoại hỏi thăm, có dịp ghé thăm là họ mừng lắm. Lâu lâu, có mấy người bạn học xưa, ghé thăm bà cụ mình, khiến bà cụ cảm động. Không ngờ 50 năm qua mà còn nhiều người bạn vẫn nhớ đến mình.


Hình như Việt Nam cũng tổ chức ngày Từ Mẫu cùng ngày với Hoa Kỳ. Sáng nay chạy lên vườn mình thấy ngay góc đường hai bên lề mấy người Mễ đứng bán mấy bó hoa. 

Đúng ra thì ý nghĩa của ngày từ mẫu vẫn còn đó. Ngày này không phải vì tiền bạc mà là ngày để nhớ đến công sinh thành của người mẹ. Nói theo từ của Hà Nội là ngày tưởng nhớ đến người mẹ anh hùng trên toàn thế giới. Một ngày để chúng ta nhớ đến sự hy sinh của mẹ, công sức, sự bình tĩnh, vững chãi nuôi chúng ta khôn lớn, những khi đau ốm phải thức khuya dậy sớm. 


Một ngày không vì các món quà mà một ngày để cảm ơn sự hy sinh của mẹ. 

Muốn ăn mừng ngày này, làm những điều giản dị. Gọi điện thoại mẹ, viết cho mẹ lá thư hay viếng mộ của mẹ để thắp nén hương. Quan trọng nhất là khi mẹ còn sống nên viếng thăm thường xuyên. Đừng để mẹ mất rồi tuyên bố đổi thiên thu lấy nụ cười của mẹ. Xong om


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 


Nguyễn Hoàng Sơn 



30 năm gặp lại O du kích nhỏ

 

Hôm nay đọc trên nhóm cựu chiến binh Hoa Kỳ tại Việt Nam, thấy họ đăng tải hình ảnh được Hà Nội đăng khi xưa, hình ảnh một nữ dân quân “anh hùng”, cao 1.47 mét, áp giải một tên Mỹ cao 2 mét, to cao. Tấm ảnh này mình có thấy trên báo chí khi xưa. Kèm theo đó là hình ảnh 2 người này gặp lại nhau 30 năm sau.

Hình ảnh nữ dân quân Nguyễn thị Kim Lai, cầm súng chụp hình bên cạnh tù binh Mỹ Robinson năm 1965 được Hà Nội sử dụng để tuyên truyền. 30 năm sau ông Robinson về lại Việt Nam vì đài truyền hình Nhật Bản muốn quay và có chụp hình với bà Nguyễn thị Kim Lai vào năm 1995. Hình ảnh của hai người này gần đây.

Đại úy (chức vụ khi về hưu) William A. “Bill” Robinson được xem là tù binh chiến tranh (POW) bị giam giữ lâu nhất trong lịch sử quân đội Hoa Kỳ, chịu đựng 2.703 ngày (hơn bảy năm rưỡi, phân nữa ngày tù so với ông cụ mình) trong các trại tù của Bắc Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam.


Ông Robinson sinh năm 1943 tại Roanoke Rapids, tiểu bang Bắc Carolina, nhập ngũ vào Không quân Hoa Kỳ năm 1961. Ông được đào tạo để trở thành chuyên viên bảo trì trực thăng và làm trưởng phi hành đoàn trên nhiều loại trực thăng, bao gồm H-19 Chickasaw và HH-43 Huskie. Đến năm 1965, ông được điều động đến Phi đội Cứu Cấp tại Căn cứ Không quân Hoàng gia Thái Lan Nakhon Phanom, Thái Lan.

Tấm ảnh chụp do một nhà báo tại Hà Tĩnh tên Phan Thoan. Ông ta kể phải đạp 10 cây số để chụp tấm ảnh 

Ngày 20 tháng 9 năm 1965: Robinson là một thợ máy bay trên một chiếc trực thăng cứu cấp, mật danh “Dutchy 41”, được giao nhiệm vụ cứu một phi công F-105D bị bắn rơi, Đại úy Willis E. Forby, tại tỉnh Hà Tĩnh, miền Bắc Việt Nam. Trong khi thi hành nhiệm vụ, chiếc trực thăng đã bị hỏa lực phòng không của Bắc Việt bắn trúng, bị rơi xuống rừng, và cả bốn thành viên phi hành đoàn đều sống sót. Không may mắn họ đã bị bắt trước khi máy bay khác có dịp đến cứu. Phi hành đoàn bao gồm Đại úy Thomas Curtis (phi công chính), Đại úy Duane Martin (phi công), binh sĩ hạng nhất William Robinson và binh sĩ hạng ba Arthur Black. Mình không rành hệ thống cấp bật của không quân Hoa Kỳ. (Airman 1st class và airman 2nd class). Không lẻ dịch là Giặc Lái hạng nhất và hàng nhì. Chán Mớ Đời 

Sau đó, Robinson và phi hành đoàn bị lực lượng Bắc Việt bao vây. Ông đã bị chụp ảnh tuyên truyền, trong đó có một tấm ảnh một nữ dân quân áp giải ông, đánh ông để buộc ông cúi đầu xuống. Robinson đã tuân theo khóa huấn luyện tù binh chiến tranh để nhìn thẳng vào máy ảnh như một chiến thuật sinh tồn, hy vọng hình ảnh của ông sẽ đến được với các tù binh đồng cảnh ngộ. Ông này xui là được chụp hình, và tấm ảnh được sử dụng tuyên truyền nên bị ở tù lâu nhất.

Ông Robinson đã trải qua thời gian bị giam cầm tại nhiều trại tù của Bắc Việt, bao gồm: "Hanoi Hilton" khét tiếng (Nhà tù Hỏa Lò). Hình như họ đã đập phá nhà tù xây thời thực dân. Trại Briarpatch khét tiếng và nhiều khu nhà khác nhau tại Cu Lộc, được các tù nhân gọi là "Vườn thú" (zoo). ông Robinson phải chịu đựng những điều kiện khắc nghiệt, như các phòng giam nhỏ so với thể xác của ông ta, nơi ông có thể chạm vào cả hai bức tường bằng cánh tay dang rộng, có một tấm ván giường gỗ hẹp và một cái xô để vệ sinh. Cao 2 mét thì ở với tiêu chuẩn tù Việt Nam thì khó khăn.


 ăn uống chủ yếu là "cỏ" (được những quản giáo gọi là rau), dẫn đến việc sụt cân đáng kể (trung bình 40–60 pound đối với tù nhân chiến tranh). Ai muốn ốm cứ vào trại giam cải tạo 1 tháng là hết bệnh ngay. Xuống mấy chục cân. Khỏi phải tập tạ, ăn uống chế độ dinh dưỡng cai mập này nọ.

Bị tra tấn, quấy rối và đe dọa hàng ngày, khi Bắc Việt khai thác tin tức và sự hợp tác để tuyên truyền. Robinson đã chống cự, noi gương cho những người bạn tù. Ai muốn biết thêm về sự khai thác của Hà Nội, thì đọc cuốn Thép Đen của Đặng Chí Bình. Rất có hệ thống.


Đại úy Duane Martin, phi công phụ, ban đầu đã trốn thoát nhưng sau đó đã bị lực lượng Pathet Lào bắt giữ tại Lào. Các báo cáo cho rằng ông đã bị giết trong một nỗ lực trốn thoát và thi thể của ông không bao giờ được tìm thấy, khiến ông trở thành một trong số gần 600 người Mỹ mất tích tại Lào. Vấn đề là trên nguyên tắc Hoa Kỳ không có quân tại Lào và Cam Bốt nên khó tìm mộ xác của lính Mỹ qua đường ngoại giao tại đây. Chỉ đi qua đường dây tư nhân thay vì chính phủ. Mình nghe thiếu tá Phong kể ở tù vùng Điện Biên Phủ, trốn trại chạy qua Lào, mệt đói quá, không muốn đi nữa, tưởng thoát, bị dân Lào đi báo cho bộ đội , đến khệnh cho một trận, đem về Việt Nam nhốt lại.

Đại uý Duane Martin, trốn thoát qua Lào nhưng bị bắt, rồi đào tẩu với một thiếu uý hải quân tên Dieter Dengler ngày 30 tháng 6, năm 1966 và bị bắn chết.

Ông Robinson được thả vào ngày 12 tháng 2 năm 1973: Robinson, Curtis và Black đã được hồi hương sau hơn bảy năm bị giam cầm, theo Hiệp định hòa bình Paris. Họ được chào đón như những người hùng, trái ngược với cách đối xử của những cựu chiến binh Việt Nam trước đó. Các cựu chiến Mỹ hay kể là khi họ trở về nước, thường được xem là kẻ giết trẻ em, phụ nữ vô tội.

Hình chụp khi họ quay phim hai nhân vật của bức hình lịch sử, hội ngộ để chiếu cho người Mỹ xem, chuẩn bị tinh thần ủng hộ bỏ cấm vận Việt Nam, lập bang giao.

Chuyện hy hữu là ông Robinson có trở lại Việt Nam vào năm 1995, và gặp lại nữ dân quân Nguyễn thị Kim Lai. Đọc báo Hà Nội cho hay cuộc gặp gỡ đã được dàn dựng do một đài truyền hình Nhật Bản yêu cầu, Mỹ không dám đứng ra nên mượn anh Nhật Bản làm hộ để cho người Mỹ xem, đến lúc lập lại bang giao. Xin trích lại đây:

Cựu nữ du kích cho hay, năm 1995, qua bức ảnh, cố đạo diễn Lê Mạnh Thích của Xưởng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương đến gặp, ngỏ ý muốn bà hợp tác làm bộ phim "Cuộc hội ngộ sau 30 năm", do hãng truyền hình NHK (Nhật Bản) tài trợ. Phim sẽ có phân cảnh bà và Robinson gặp lại nhau. Bà Lai nhận lời.


Vài tháng sau khi bấm máy, sáng một ngày tháng 9.1995, đang bế cháu ngồi chơi bên nhà hàng xóm, bà nghe tiếng gọi: "Bà Lai ơi, về đi, có người nước ngoài tới hỏi thăm". Tất tả đi về, bà thấy người đàn ông cao lớn đứng ở cổng, sau phút định thần, bà thốt lên: "Anh Andrew Robinson".

Sau những cái ôm mừng gặp mặt, cả bà Lai và Robinson chia sẻ, từ giây phút giáp mặt năm 1965, họ đã nghĩ sẽ không bao giờ gặp lại. Trong câu chào hỏi đầu tiên, Robinson cười nói: "Cô cũng không lớn hơn hồi đó bao nhiêu". Bà Lai đáp: "Này, vẫn trẻ khỏe như xưa nhỉ".

Bà Lai tâm sự với Robinson, từ khi "nổi tiếng bất đắc dĩ", cuộc sống ít nhiều thay đổi. Ngày chồng đem lòng thầm thương trộm nhớ bà, sau này khi đã kết hôn, ông thường nói "ngày xưa tán cho hay, không nghĩ bà sẽ đồng ý, bởi bà quá nổi tiếng sợ không thích tôi". Hai người sống hạnh phúc, con cái trưởng thành, có nghề nghiệp ổn định. Năm 2008, chồng bà Lai mất.” (Hết trích)


Nguyễn Kim Lai, người xuất hiện trong bức ảnh tuyên truyền nổi tiếng liên quan đến việc bắt giữ phi công William A. “Bill” Robinson trong Chiến tranh Việt Nam. Bà Nguyễn Kim Lai được ghi nhận là một nữ dân quân Bắc Việt, người đã xuất hiện trong bức ảnh chụp ngày 20 tháng 9 năm 1965, tại Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam. Trong ảnh, bà đang áp giải William A. Robinson, một binh sĩ không quân Mỹ to đùng, bị bắn rơi, với một khẩu súng trường. Bức ảnh này được sử dụng làm công cụ tuyên truyền của Bắc Việt, nói lên sự kiên cường của người dân Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ, trước quân đội Mỹ. Khiến ông Tố Hữu đột phá tư duy làm bài thơ:


"O du kích nhỏ giương cao súng
Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế! To gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải mày râu!".


Hình ảnh sau đó được in trên tem bưu điện Bắc Việt năm 1967, tuyên bố về việc bắn hạ khoảng 2.000 máy bay Mỹ. Phòng không của Liên Xô rất mạnh trong cuộc chiến này.


Vào thời điểm chụp bức ảnh (1965), bà Nguyễn Kim Lai mới 17 tuổi. Bà có chiều cao 1,47 mét và nặng 37 kg, tương phản với Robinson, người được mô tả cao hơn 2 mét và nặng 125 kg. Sự tương phản này được nhấn mạnh để làm nổi bật tinh thần chiến đấu của một nữ dân quân nhỏ bé trước một tù binh Mỹ cao lớn.


Bức ảnh chụp Nguyễn Kim Lai áp giải Robinson là một phần của chiến dịch tuyên truyền rộng lớn hơn của Bắc Việt, nhằm nâng cao tinh thần chiến đấu của người dân và thể hiện sức mạnh của lực lượng dân quân trước quân đội Mỹ. Các hình ảnh như vậy thường được sử dụng để minh họa sự đoàn kết và quyết tâm của toàn dân Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ, trong cuộc chiến.


Các áp phích và hình ảnh tuyên truyền của Bắc Việt, bao gồm cả bức ảnh có Nguyễn thị Kim Lai, được thiết kế để tuyên truyền và củng cố ý chí chiến đấu. Những hình ảnh này thường miêu tả phụ nữ trong vai trò chiến sĩ, như được thấy trong các triển lãm nghệ thuật tuyên truyền, nơi phụ nữ được khắc họa là “những chiến binh quả cảm” hoặc “sẵn sàng trên đường chiến đấu”. Có thể bà Dương Thu Hương xem được bức ảnh này nên xung phong vào Nam, đánh Mỹ cứu nước để rồi kêu chính miền nam giải phóng bà ta ra khỏi thiên đường mù. Chán Mớ Đời 


Có nhiều tấm ảnh nổi tiếng về chiến tranh Việt Nam, trong đó là tấm O Du Kích, và tấm tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn 7 Lốp, người vừa xử tử một gia đình người Việt chỉ có một đứa bé bị bắn nhưng sống sót, sau này sang Hoa Kỳ và trở thành tướng của quân đội Hoa Kỳ.

Người Mỹ rất hay, chuyện qua rồi, họ sẵn sàng gặp là kẻ cựu thù, như ông McCain, đã trở lại Việt Nam, đến Hà Nội, hồ Trúc Bạch nơi ông ta bị bắt. Họ bắt tay giúp đỡ Đức quốc và Nhật Bản vực dậy, giàu có như ngày nay. Hay ông Robinson gặp lại bà Kim Lai, người được truyền thông bêu xấu ông ta, vui vẻ chụp hình, không diễn biến hoà bình. Hôm nay là kỷ niệm 80 năm chiến thắng Đức quốc Xã nhưng chả thấy người Mỹ diễu binh hay gì cả. Họ sống nhắm tới tương lai hơn là các thành tích cũ của quá khứ. Quá khứ đã sang trang, họ nhắm vào tương lai, giúp thế hệ con cháu sống khá hơn đời họ. Xong om

Hình ảnh ông thượng Nghị sĩ John McCain khi nhảy dù xuống hồ Trúc Bạch bị dân quân Hà Nội bắt. Nghe ông ta kể là bị đám người bắt ông ta đâm và đánh đập. Sau có một bà y tá kêu la họ mới thôi 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn