Hiển thị các bài đăng có nhãn Kỹ năng sống. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kỹ năng sống. Hiển thị tất cả bài đăng

Out of Africa (rời khỏi Châu Phi)

 Mình theo dõi nhóm chuyên viết lịch sử về phụ nữ, âm thầm thay đổi xã hội, văn hoá, chính trị nên lâu lâu thấy họ đăng lịch sử những bà nhà văn, nhân vật nào đó… mà mình có dịp đọc khi xưa. Thật ra từ một thế kỷ qua, nhiều nhân vật nữ trên thế giới đã thay đổi rất nhiều xã hội về văn hoá, khoa học,… 

Mình có một sự kính nể các phụ nữ qua hình ảnh bà cụ mình, dù chưa bao giờ được đến lớp học nhưng vẫn thành công trong cuộc đời, không để sự nghèo hèn của ông bà mình, vẫn vươn lên trong xã hội tại Việt Nam. Do đó mình có đam mê tìm kiếm các nhân vật phụ nữ trong lịch sử để xem họ đã thay đổi xã hội, chế độ phụ hệ ra sao. Hôm nay có một bà, nói cho ngay không biết tên, chỉ nhớ dạo đi làm ở Luân Đôn thì có xem phim “Out Of Africa” có Robert Redford và Meryl Streep đóng với những phong cảnh đẹp nức nở. Sau này mình có dịp đi leo núi Kilimanjaro thì mới cảm nhận được hình ảnh trong phim. Hình như đạo diễn là Sydney Pollack. Đi xem vì bà thư ký trong công ty, người gốc Ấn Độ nhưng được sinh tại Kenya, rồi lấy chồng Anh quốc, di dân qua Luân Đôn, kêu mình đi xem. Đọc báo dạo đó nói là sau khi phim này trình chiếu thì dân Anh quốc đi nghỉ hè ở Phi châu đông còn hơn người Anh quốc.

Câu chuyện về một phụ nữ chôn người mình yêu tại Phi Châu, rồi chứng kiến đồn điền cà phê của bà ta banh ta lông sau bao nhiêu năm công sức xây dựng vì nói gì thì nói chớ trong một văn hoá như Phi châu, một phụ nữ khó mà sai khiến các nông dân ngu lâu dốt bền như mình nên khó mà thành công. Bà ta trở về âu châu, đói, hết tiền, bệnh và đơn côi. Bà ta mất hết những gì sỡ hữu tại phi châu, tình yêu, tài sản và kể lại hồi ức của thời gian tại phi châu, và cuốn sách này trở thành hồi ký được yêu thích nhất thế giới tây phương.


Karen Dinesen sinh năm 1885 trong một gia đình quý tộc, thông minh, tài hoa và cảm thấy ngột ngạt trong một nền văn hoá, đào tạo phụ nữ thành một hình thức trang trí và tuân lời đàn ông. Năm 28 tuổi, thời đó được xem là ế nguyên thuỷ, bà ta quyết định lấy bá tước Bror von Blixen-Finecke không vì tình yêu và muốn tìm con đường thoát ly. Lý do là bà ta yêu người em sinh đôi của chồng nhưng tên này từ khước, tiếp thu mối tình hữu nghị sông không liền sông núi không liền núi của bà nên chơi sang, lấy thằng anh để tên phụ bạc gọi bà ta bằng chị.


Ông chồng thích giang hồ, khó tin tưởng nhưng ông ta đem đến cho bà một lối thoát ra khỏi Đan Mạch, và họ rời Đan MẠch di dân sang Kenya, Phi Châu. Hai vợ chồng mua độ 450 mẫu đất dưới chân đôi Ngong, gần Nairobi. Và trồng cà phê, được xem là “kim thuỷ”, sẽ làm cho họ giàu có, khi đem cà phê về âu châu bán như Starbuck. Như bao nhiêu kẻ phiêu lưu, họ không biết gì về trồng trọt nhất là cà phê nơi xứ lạ. Đất của họ mua nằm trên đồi, cao độ quá cao để trồng cà phê. Đêm đêm trời lạnh nên cây cà phê chới với. Vụ này thì mình hiểu vì vườn bơ của mình ở vùng Riverside, nằm trên đồi cao, không nằm trong khu vực bị lạnh cứng chớ vùng Temecula thì có vấn đề này hay cách vườn mình độ 5 dặm, nằm dưới thấp là ngọng. Mùa đông lạnh dưới 30 độ F thì chủ nông trại phải đốt lửa rồi dùng quạt gió để thổi hơi ấm nếu không thì trái bị đông cứng thì bị hư ngay. Khu vực vườn mình thì nằm trên cao nên có gió thổi nên không bị lạnh lắm nên không vướng vụ này. Hú vía.


Ông chồng thì thuộc giống quý tộc nên tối ngày đi săn thú Safari như tây đồn điền khi xưa ở Đà Lạt. Nên bà ta từ một gia đình quý tộc phải làm lo lắng mọi thứ cho nông trại. Tiền bạc, nông dân,… rồi một ngày đẹp trời, ông chồng đi săn về và truyền cho bà ta bệnh hoa liễu vì gái gú trong các chuyến đi săn.

Thời ấy thì chưa có thuốc chữa như ngày nay. Họ chỉ hạn chế bằng cách sử dụng thạch tín và thuỷ ngân nên huỷ hoại từ từ thân thể của bà ta. Bà ta phải trở về Đan Mạch nhiều lần để chữa trị, thuỷ ngân làm hư răng của bà ta, hệ thống tiêu hoá cũng như thần kinh. Bà ta đau ốm cả đời đến khi qua đời. Có một ông gốc Đà Lạt kể cho mình là ông bố đi chơi gái bị bệnh hoa liễu về làm một phát bà mẹ bị bệnh này luôn nên hết sinh con đẻ cái. May là thời đó tây đã tìm được thuốc chữa trị.


Bà ta ly dị ông chồng năm 1925 sau 12 năm chung sống sơ sơ nhưng vẫn ở lại giữ cái trại cà phê. Bà ta cương quyết phải thành công. Trong phim họ quay Meryl Streep đẹp như bà mỹ chả thấy hư răng hư cỏ gì cả. 


Buồn đời bà ta có duyên gặp ông Denys Finch Hatton, người Anh quốc, tốt nghiệp đại học Oxford, có văn hoá, trí thức khác với ông chồng bá tước vớ vẩn. Ông thần này thì sang phi châu cũng để đi săn bắn thú và làm phi công. Ông ta yêu bà này nhưng không muốn đám cưới, bị ràng buộc. Trong khi bà ta thì muốn có một cuộc sống an bình. Nên hai người sống với nhau vài tuần rồi ông ta đi săn cả tháng, trở lại.


Trong phim thấy họ quay cảnh nghe nhạc Mozart, đọc thơ, hay xem mặt trời lặn, đủ thứ khiến mình muốn đi phi châu. Khi sang đây thì khám phá trong phim họ không có quay cảnh mấy con muỗi chích hay ruồi bu như ruồi bu. Cho nên khi xem phim là một chuyện còn thực tế là một chuyện. Khỏi phải đưa đồng chí gái sang đây vì mụ vợ không thích bị muỗi chích.


Bà ta có viết là chàng không có nhà ngoài cái lều che nắng che mưa. Thật sự đàn ông không thích bị ràng buộc lắm. Bà này bị bệnh hoa liễu nên mình không biết ra sao, thêm bệnh hoạn, răng cỏ bú xấu la mua. Gần 40 chắc cũng hết khả năng làm mẹ.


Đang bơi lội trong vòng hạnh phúc vô biên, âm nhạc của Mozart, thi ca nên bà ta quên lo vụ cà phê nên nợ nần chồng chất nên cuối cùng đành phải bán nông trại. Hoạ vô đơn chí, ông bồ buồn đời hay sao lái máy bay rồi đâm vào núi. Bà ta chôn người tình không bao giờ cưới ở đồi Ngong, nơi ông bồ yêu thích nhất rồi rời Châu Phi trở về Đan Mạch. Sạch túi, sạch tình. Chỉ còn lại mới ký ức vì cuộc tình không trọn vẹn và sự trống vắng dung dịch vô biên của đời người.


Thông thường ai lâm vào tình trạng của bà ta chắc lâm vào bệnh trầm cảm này nọ. Bà ta thì không, bà ta bắt đầu viết kể lại cuộc đời bà ta từ khi rời Đan Mạch. Bà ta lấy bút hiệu Isak Dinesen (Isak theo tiếng do thái, có nghĩa là “người thích cười” và Dinesen là họ của bà ta). Và bà ta bắt đầu viết về cuộc đời ở Phi châu. Bà ta viết cuốn “Out of Africa” (rời khỏi Phi Châu) và được xuất bản năm 1937. 


Bà ta viết về thiên đàng đánh mất tại pHi châu, một thời trẻ đầy nhiệt huyết, muốn tạo dựng cơ ngơi tại một đất nước khác, không gò bó như những người di dân đến Hoa Kỳ hay một nước nào khác. Đau khổ vì tình yêu, như TTKH đi bên cạnh ái ân của chồng tôi vì bị bệnh hoa liễu. Rồi phát hiện ra mối tình hữu nghị sông liền sông núi liền núi để rồi tình yêu vỗ cánh bay theo chiếc máy bay bà già rớt đâu đó trên ngọn đồi Châu Phi. Nông trại bà ta cố công phát triển cũng tan theo mây khói. Như các gia đình pháp sang Việt Nam như ở Đà Lạt, gia đình La Farrault, O’neil ,…muốn biến Đà Lạt thành khu nông nghiệp trồng trà, nuôi bò này nọ. Mình người Việt thì kêu là thực dân này nọ nhưng thật ra họ đem sự hiểu biết văn mình đến cho các thuộc địa. Ngày nay thực dân đã ra đi, rời khỏi CHâu Phi nhưng người sở tại vẫn không khá gì mấy trước kia. Khi xưa, thằng thực dân bốc lột, nay thằng đánh đuổi thực dân học nghề lại bốc lột dân bản địa nên thấy tương lai mịt mù. Nay người Tàu đến thì lại thấy hình ảnh mấy người sở tại đi tìm các ông ba tàu chém giết vì bốc lột họ.


Sau cuốn Out of Africa, bà có viết thêm nhiều cuốn nữa nhưng không được độc giả ưa thích lắm. Bà ta được đề cử văn chương Nobel mấy lần nhưng không được. Nhà văn Ernest Hemingway cho rằng bà ta xứng đáng là khôi nguyên văn chương Nobel hơn ông ta nhưng có lẻ thời đó xã hội còn kỳ thị phụ nữ.

Nhờ qua tác phẩm của bà ta mà người ta biết đến Safari , thú vật ở phi châu khiến du khách tò mò muốn khám phá. Mình nhờ đọc Hemingway mới muốn bò lên đỉnh núi cao nhất Châu Phi, Kilimanjaro.


Đọc cuốn sách thì hay hơn xem phim. Khi xem phim thì thấy hình ảnh này nọ chuyện tình thì chả hiểu gì nhiều lắm nhưng khi đọc cuốn sách, mới hiểu thêm về chủ nghĩa thực dân, sự xung đột hay đối xử với người bản địa ra sao.


Nay về già mới nhận ra là bà ta như mình, rời Đà Lạt ra hải ngoại, tạo dựng cuộc đời mới, lập gia đình, có con cái. May mắn không gãy cánh giữa đường như nhiều người bạn quen. Cuộc đời qua bao nhiêu chông gai, vợ chồng vẫn đồng hành vượt qua. Trong khi bà Karen, cảm thấy tù túng tại Đan Mạch. Ai chưa đi Đan Mạch chớ xứ này ít người, chán như con gián. Bà ta muốn thoát ra khỏi không gian tù túng, không muốn an phận cuộc đời nên chấp nhận lấy ông chồng không yêu thương gì để thoát khỏi không gian của xã hội cổ xưa.


Hồi ký của bà ta rất sống động, kể về cuộc sống tại phi châu, các toan tính, lo lắng khi làm nông dân, văn hoá phong tục của người bản địa, tình yêu vợ chồng như người tình hờ. Để rồi gặp ông thần phi công. Ông này cũng vậy, muốn thoát khỏi xứ sương mù, lái máy bay chở khánh khách, đi săn bắn. Ông ta cũng như bao đàn ông khác, không muốn bị kềm kẹp vào một tình yêu, bị trói buộc vào trách nhiệm người chồng, người cha. Chỉ muốn yêu như làm thơ, trong khi bà Karen thì muốn biến tình yêu thành công cụ, làm ô sin cho mình.


Bỏ cả tuổi thanh xuân để kiến tạo một tương lai vững vàn về tài chánh, tình yêu để rồi mất tất cả cho nên văn hoá của tây phương không có câu: “đỏ tình đen bạc” hay ngược lại. Đỏ tình thì đỏ tiền còn đen tình thì đen bạc. Anh hay chị có tiền thì gái hay trai đẹp bu lại đen còn hơn ruồi còn không có thì chả có thằng nào hay cô nào bu lại. Chán Mớ Đời 


Nhưng nhờ bà ta can đảm nhìn lại đời thấy rong rêu nên viết lại hồi ký một đời người đầy thất bại, vừa tiền bạc vừa tình yêu bằng anh ngữ. Có lẻ tại phi châu bà ta sử dụng anh ngữ nhiều hơn nhất là khi cặp bồ với ông phi công người anh. Cuối cùng bà ta thành công qua văn chương thay vì qua nghề trồng cà phê. Nhưng phải trải nghiệm mới có chất sống để viết thay vì ngồi bựa ra hay kêu Ây Ai viết dùm. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Vị nữ y sĩ đầu tiên tại Hoa Kỳ

 Vị nữ y sĩ đầu tiên tại Hoa Kỳ 


Hôm trước thấy bên Tây mấy cô đầm buồn đời cởi áo phanh ngực vẽ viết gì đó trên ngực bài chống công ty Shein gì đó, bán cái gì mà xúc phạm đến mấy cô đầm khiến mấy cô phải tụ nhau phanh ngực. Gây ấn tượng công xúc tu sĩ ở bên tây. Thiên hạ nhảy vào ném đá, kêu họ khùng này nọ. Thật ra mình không phải phụ nữ nên khó có thể hiểu được sự việc manh động của họ. Phải có gì áp bức lắm mới khiến họ phanh ngực khơi khơi vẽ viết gì trên thân thể họ, để nói lên ngôn từ chính trị.


Biết đâu cả trăm năm nữa người ta lại nhắc đến mấy cô đầm này, đã tiên phong tạo dựng một phong trào cải cách văn hoá, chính trị tại âu châu như vị bác sĩ đầu tiên của Hoa Kỳ. Đã tiên phong đấu tranh cho sự bình đẳng cho phụ nữ tại Hoa Kỳ.

Trong một nền văn hóa được đàn ông nắm quyền từ bao nhiêu thế kỷ, có thể từ thời xa xưa đưa đến một văn hóa xem thường hay cấm cảm sự phát triển của phụ nữ trong xã hội. Họ chỉ để mấy cô mấy bà lo việc trong nhà nội trợ còn học hành này nọ thì để đàn ông chủ sự. Nếu chúng ta nhìn lại xã hội âu châu trước đây một thế kỷ thì phụ nữ không có quyền gì nhiều cả ngoài xã hội tương tự ngày nay tại nhiều xã hội chậm tiến, cổ hủ.


Ngày nay với sự giải phóng của phụ nữ đã giúp xã hội tiến nhanh hơn xưa nhưng bù lại thì gia đình bị đỗ vỡ rất nhiều. Gia đình được định nghĩa trước đây là nền móng của xã hội mà ngày nay gia đình có nhiều vấn nạn cần được khắc phục. Mỗi người phối ngẫu đều tự cho mình có quyền tự do tuyệt đối đưa đến sự tan vỡ.

Hôm nay tình cờ đọc một bài báo kể về một nữ bác sĩ đầu tiên tại Hoa Kỳ, có cuộc đời khá lạ lùng, vượt qua nhiều chống đối của xã hội để thực hành được nghề y sĩ của mình trong một môi trường gần khi xưa chỉ có sự hiện diện của đàn ông.


Mình có xem khúc video có cảnh một phụ nữ chạy đua với đàn ông khiến mấy ông nổi điên chạy lại xô đẩy bà ta ra khỏi lộ trình. Cho thấy sự đòi hỏi về quyền bình đẳng của xã hội giữa hai phái nam nữ mất khá nhiều thời gian để có như ngày hôm nay. Ngày nay thì mấy bà không chấp nhận mấy ông chuyển giới tính thi đua với mình. Cho thấy cuộc đời quái lạ. Ngày cả quan toàn tối cao pháp viện Hoa Kỳ cũng không thể định nghĩa đàn bà ra sao.

Áo quần cải cách khi xưa, nên nhớ trước đây phụ nữ không được bận quần tây.

Mình muốn xem 100 năm tới hệ quả của các vụ đồng Tính đồng giới hay chuyển giới sẽ đưa xã hội loài người ra sao. Nhưng chắc lúc đó chắc tiêu diêu miền cực lạc.


Bác  sĩ Mary Edwards Walker là người phụ nữ duy nhất từng được trao tặng Huân chương Danh dự. (Medal of honor) sau này Chính phủ Hoa Kỳ đã cố gắng thu hồi lại nó. Họ hủy bỏ huân chương đã trao tặng cho bà vào năm 1917 và kêu bà ta trả lại nhưng bà từ chối và bận áo quần nam phục hàng ngày đến khi qua đời vào năm 1919. 58 năm sau chính phủ lại trả lại huân chương cho bà. 

Bà ta sinh ngày 26 tháng 11 năm 1832 tại một nông trại, thuộc tiểu bang New York. Bố mẹ bà thuộc dạng chống chế độ nô lệ và nghĩ con gái có quyền như con trai về học vấn. Vào thời gian ấy là một ý tưởng khá xa lạ. Bố bà dạy bà ta sửa máy móc, nghề mộc và cứu thương. Ở quê thì ai cũng phải học cách sửa chửa máy móc và đóng gỗ. Trong khi bà mẹ kêu corset là một vũ khí tra tấn phụ nữ nhằm hạ thấp phẩm giá của phụ nữ. Cả ngày phải bận bó sát người như đòn chả lụa thì khổ chớ chẳng sướng nhưng nếu vì đẹp và hấp dẫn khác phái thì phải chịu. 


Thế là bà ta không bận corset từ tuổi 15. Thay vào bà ta bận áo quần cải cách "reform dress” một loại váy ngoài cái quần, lấy ý từ các y phục của phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ. Thế là xã hội cười chê lên án nhưng bà ta cóc cần. Bà ta cho rằng thời trang khiến phụ nữ không được cử động thoải mái nhằm hạn chế vai trò của họ trong xã hội. Thật ra đối với đàn ông cũng vậy, mình xem hình ảnh khi xưa, đàn ông ra đường cũng phải ăn bận chỉnh tề, quần áo phải ủi cho có plis. Nay thì chúng bận quần tụt xuống dưới đầu gối hay lấy kéo cắt  làm lỗ này nọ, để thấy mình thuộc giai cấp nghèo.


Năm 21 tuổi bà ta vào đại học y khoa syracuse (Syracuse Medical College.) được xem là phụ nữ đầu tiên theo học y khoa tại Hoa Kỳ. Tưởng tượng cả đám nam sinh viên mà chỉ có mình bà ta thì cuộc sống rất khó không bị chọc ghẹo hay tán tỉnh. Giáo sư thì với tư duy cổ thắc mắc về khả năng tiếp thu của phụ nữ này nọ. Năm 1855 bà ta tốt nghiệp y khoa và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Hoa Kỳ. 

Khi ra trường thì hồ hởi nhưng khi chạm thực tế thì khám phá ra đó là bằng thừa, chả có ai muốn mướn một nữ bác sĩ. Thế là đói. 


Bà ta lấy chồng cũng là bác sĩ và mở phòng mạch chung. Bệnh nhân không muốn được bà ta chữa bệnh. Thế là phòng mạch đóng cửa và cuộc hôn nhân cũng cuốn theo chiều gió vì ông chồng, chắc chắn ngấy với tư tưởng bình đẳng hay vợ là tất cả nên chạy theo bà khác. Thế là bà ta ra tòa đâm đơn ly dị. Thời đó được xem là một điều không phải. Chồng có vợ bé thì cắn răng như con cọp cái của Thế Lữ trong chuồng cọp. Năm bà ta 28 tuổi ly dị thời đó chưa có vụ cấp dưỡng nên đói và cuộc nội chiến bắt đầu. 



Thế là bà ta đi chuyển đến Washington D.C. và xin làm thiện nguyện như bác sĩ trong quân đội. Quân đội kêu về nhà nuôi heo đi nhưng phụ nữ có thể làm y tá, giặt áo quần này nọ nên được chấp nhận. Bà ta ra mặt trận không Được trả lương, không chính thức và làm lều ngoài mặt trận để băng bó cho lính bị thương. Rồi từ từ họ cần người nên được cho vào làm việc trong nhà thương để điều trị, băng bó cho quân nhân bị thương tích. 


Thấy bà ta có năng khiếu nên cấp chỉ huy quân đội phải mướn bà ta dưới danh nghĩa y tá. Bà ta không làm bổn phận y tá mà chẩn bệnh cho toa thuốc và giải phẫu. Lúc đầu mấy ông bác sĩ không ưa lắm nhưng dần dần thấy bà ta làm việc giỏi nên kêu trợ giúp họ giải phẫu. Bà ta bận quân phục được bà ta chế lại khiến các sĩ quan than phiền nhưng bà ta kêu tôi không bận đồ đàn ông, tôi bận đồ do tui làm.


Bà ta ra ngoài mặt trận suốt hai năm liền, phụ giúp giải phẫu các thương binh trong tiếng gầm thét vì không có thuốc giảm đau và ngã bệnh suýt chết. Khi bình phục bà ta lại ra mặt trận. 


Năm 1863, bà ra được phong chức bác sĩ quân đội, được công nhận chính thức. Bà ta được xem là phụ nữ đầu tiên U.S. Army surgeon. Chả biết dịch tiếng Việt ra sao Surgeon là bác sĩ giải phẫu. 

Bà ta buồn đời ra sao băng qua chiến hào của phe miền nam để chữa trị cho dân quân miền nam và bị bắt vì bận bộ đồ của dân quân miền Bắc.  Họ kêu bà ta là gián điệp thế là đi tù tại Castle Thunder in Richmond, Virginia được xem Guantánamo thời đó. Tháng 8 năm 1864, bà ta được trao trả tù binh và trở lại bàn mỗ. 


11 tháng 11 năm 1865, tổng thống Andrew Johnson tuyên dương công trạng cho sự nghiệp trong chiến tranh và trao huy chương danh dự cho bà Mary Edwards Walker (Medal of Honor ). Bà ta là phụ nữ đầu tiên được trao huy chương này và đeo mỗi ngày đến khi qua đời. 


Sau nội chiến bà ta vẫn không được chấp nhận như vị y sĩ nên không mở phòng mạch nên viết văn, diễn thuyết về phụ nữ được quyền bỏ phiếu mãi đến sau đệ nhị thế chiến năm 1920, phụ nữ Hoa Kỳ mới có quyền bầu. Hay thời trang khiến phụ nữ bị ràng buộc mất tự do nên ngày nay bên pháp có sáu bà buồn đời cởi trần vẽ bừa xua lên ngực. Đứng cho thiên hạ xem ngực xẹp lép. Quyền lợi cho phụ nữ được sở hữu tài sản vì có nhiều tiểu bang có luật cấm phụ nữ sở hữu nhà cửa đất đai.

 

Lên tiếng chống rượu vì rượu làm tăng gia bại sản, phá hoại hạnh phúc gia đình nền tảng của xã hội. 

Bà bị bắt nhiều lần vì bận áo quần đàn ông vì dạo đó phụ nữ bị cấm không được bận quần tây. Mình có kể trên bờ lốc. Ra toà bà ta đeo huân chương danh dự được tổng thống Hoa Kỳ trao tặng, lợi dụng đám đông để nói lên quyền phụ nữ trong chế độ phụ hệ.


Năm nào đó quên rồi, quốc hội Hoa Kỳ xem lại các tiêu chuẩn để trao huân chương danh dự. Họ muốn dành riêng cho những chiến sĩ tham chiến, có công đánh giặc tạo mẫu hình ảnh anh hùng và phế bỏ 911 huân chương đã được trao trước đây. Đa số các huy chương bị huỷ bỏ được trao tặng trong thời gian nội chiến và bà Mary nằm trong số này. 


Quân đội Hoa Kỳ gửi cho bà lá thư kêu hoàn trả lại huy chương bà ta kêu Không. Bà ta đeo huy chương mỗi ngày khi ra đường diễn thuyết như thách thức xã hội do đàn ông nắm quyền hành.


Bà ta qua đời ngày 21 tháng 2 năm 1919 thọ 86 tuổi.  Khi đám tang họ gắn hủy chương trước ngực bà ta. 1 năm sau phụ nữ Hoa Kỳ được đi bầu lần đầu tiên tại Hoa Kỳ.


Năm 1977, một phong trào bởi hậu duệ và người hâm mộ kêu gọi tổng thống Jimmy Carter và ông ta sau khi xem xét quá trình làm việc của bà và ký đạo luật trả lại cho bà ta huy chương danh dự 58 năm sau khi bà ta qua đời.  Bà ta là phụ nữ Hoa Kỳ độc nhất nhận được huy chương này. Bới tiêu chuẩn mới thì phải xông pha chiến trận dưới làn mưa đạn của quân thù để cứu đồng đội hay sao đó mới đủ tiêu chuẩn cho danh hiệu này nên chả có bà nào đi lính xung trận cả hay bận váy hay lính woke. 


Bà ta đi trước thời đại nên bị chỉ trích cả nam lẫn nữ nhưng dần dần xã hội tiến hóa thấy tư tưởng của bà ta khi xưa bình thường. 


Cho thấy tự do mà chúng ta được hưởng ngày nay là nhờ những người đi trước, hy sinh, bị xã hội nguyền rủa vì họ đi trước thời đại. Lên mạng thấy thiên hạ chửi nhau ngu dốt khiến mình nghĩ đến bà bác sĩ này, khi xưa cũng bị đàn ông ngay cả phụ nữ kêu ngu dốt này nọ. 


Người thông minh không bao giờ kêu người khác, không nhất trí với mình là như dốt cả. Có thể họ chưa nghĩ được như người khác và trong tương lai thế hệ tiếp theo sẽ hiểu. 

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 


Nguyễn Hoàng Sơn 

Các con đường đầy nước mắt

 Chủ nghĩa đặc biệt của Hoa Kỳ

Đi Âu châu kỳ này thì mình rất ngạc nhiên khi đến thành phố lớn thứ 3 của Pháp quốc, thấy hàng quán với thương hiệu Mỹ rất nhiều. Như MacDonalds, 5 guys, Starbucks, PizzaHut thậm chí ngay cả tại Ý Đại Lợi, các thương hiệu thời trang như Michael Kors,…đầy còn dân tình thì bận áo quần cứ thấy các thành phố của Hoa Kỳ trên áo của họ thậm chí ngày nay dân địa phương đội mũ cap của Hoa Kỳ với các đội banh bầu dục hay bóng chuỳ của Hoa Kỳ.

Cho thấy văn hoá của Mỹ đang dần xâm chiếm Âu châu qua thực phẩm, thời trang và nhất là văn hoá như các phim bộ Mỹ trên đài truyền hình, người Pháp nói chuyện chêm từ tiếng anh khá nhiều. Khi xưa thời mình còn sinh viên ông bộ trưởng văn hoá của pháp Jacques Lang đả kích văn hoá đế quốc Hoa Kỳ đủ trò, người Pháp chê người Mỹ không có văn hoá. Nay mình thấy người Pháp uống CoCa cola khá nhiều trong mấy quán cà phê. Hình ảnh “ballon rouge với jambon beurre” trên viã hè là du khách Mỹ sang Âu châu, đi tìm hình ảnh trong phim truyện về Pháp quốc, còn dân sở tại thì chạy theo văn hoá Hoa Kỳ. Cho nên du khách thì chụp Hình, ăn bánh sừng trâu, uống cà phê trong khi người Pháp lại uống Starbucks  ăn hamburger, CoCa cola. Thấy trái ngược hình ảnh.

Khi xưa ở Pháp quốc, tuần nào người Pháp đều hóng xem phim bộ của Mỹ như Charlie’s Angels, Dallas, Bay Watch ,…. Nay vẫn tiếp tục với những phim bộ như Friends,…


Hoa Kỳ được thành lập như một “quốc gia mới” dựa trên các lý tưởng cách mạng, thay vì truyền thống quân chủ phong kiến hoặc bộ lạc như các quốc gia Âu châu. 



Chủ nghĩa Ngoại lệ Mỹ đã định hình nhiều khía cạnh trong lịch sử Hoa Kỳ, bao gồm cả các vấn đề liên quan đến người bản địa và việc mở rộng lãnh thổ rộng lớn như ngày nay. 



Chủ nghĩa Ngoại lệ Mỹ cung cấp nền tảng tư tưởng cho Sứ mệnh Thiên định, lý thuyết biện minh cho việc mở rộng lãnh thổ Hoa Kỳ từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương, “go West” với sự phát triển của kỹ nghệ với các tuyến đường xe lửa. Thường thông qua việc chiếm đoạt đất đai của người bản địa và các quốc gia láng giềng như Mexico cũng như mua lại đất đai từ Pháp quốc và Nga hoàng. 


Điển hình việc chiếm đoạt Black Hills (1877) từ người Lakota Sioux được thúc đẩy bởi niềm tin rằng người Mỹ da trắng có quyền thần thánh để khai thác tài nguyên và “văn minh hóa” vùng đất này, bất chấp Hiệp ước Fort Laramie (1868). 


Niềm tin vào sự ưu việt của văn hóa Mỹ đã dẫn đến các chính sách diệt chủng và đồng hóa, như Con đường nước mắt (Trail of Tears) vào những năm 1830, nơi hàng ngàn người Cherokee và các bộ tộc khác bị buộc di dời, dẫn đến hàng ngàn cái chết. Các trường nội trú bản địa (Indian boarding schools) từ cuối thế kỷ 19 đến thế kỷ 20 cũng nhằm xóa bỏ văn hóa bản địa, buộc trẻ em bản địa học tiếng Anh và từ bỏ truyền thống, dựa trên quan niệm rằng văn hóa Anglo-Saxon là “văn minh” hơn. Đi du lịch các tiểu bang có dân bản địa còn sống sót, có xem các vũ điệu của họ do một vài cá nhân trình diễn có hình thức kiếm tiền như người ta đánh đàn hát trên vỉa hè các thành phố du lịch lớn hơn là bảo vệ văn hoá.


Dạo này mình thấy trên mạng xã hội có nhiều luồng tin tức không kiểm chứng được lên tiếng về sử dụng một ngôn ngữ chính là anh ngữ, đề cao ki tô giáo, đả kích hồi giáo nhất là những vụ hiếp dâm các phụ nữ da trắng bởi các băng đảng hồi giáo tại Anh quốc và Đức quốc. Như một phong trào bài trừ người hồi giáo hay di dân. Nhiều khi họ ghép các video hay cắt dán. Hôm trước ở Paris đọc báo thấy video được cắt dán chế diễu ông tổng thống pháp bị ông Trump chế nhạo, được cái là có người Pháp lên tiếng kêu tác giả không thành thật, cắt dán video để thu hút người xem nhiều để ăn tiền.  Như tạo dựng một nền tảng để loại trừ các văn hóa cũng như tôn giáo khác với ki tô giáo. 


Ở Lyon mình tình cờ thấy một nhà thờ tin lành và thổ công Lyon chỉ cho mình các hình tượng điêu khắc trước nhà thờ bị ngắt cái đầu. Lý do là phong trào cải cách, chống đối lại nhà thờ thiên chúa giáo Vatican của người theo đạo tin lành đã đốt nhà thờ hai bên. Cuối cùng họ thấy tốn hao của cải nên chỉ ngắt đầu mấy ông thánh. 


Người Anh quốc sử dụng chiến lược này trước khi trao trả độc lập cho Ấn Độ, bằng cách chia rẻ người bản địa qua chính sách tôn giáo khiến người Ấn Độ hôm qua là anh em với láng giềng hồi giáo.  Bổng nhiên trở thành kẻ thù vì tôn thờ tôn giáo của mình hơn anh bạn láng giềng hôm qua. Anh quốc rất hãnh diện đã xây dựng một quốc gia mang tên Pakistan với máu của người bản địa chảy như sông. 


Ngày nay chúng ta thấy chủ trương tiếng Mỹ là tiếng độc nhất được sử dụng trong hành chính và từ từ sẽ không còn  ngân sách chi tiêu để dạy tiếng của các chủng tộc khác tại Hoa Kỳ. Nếu có thì chúng ta phải bỏ tiền túi hay tự đứng ra dạy như trước đây. Sẽ không còn thấy hai ngôn ngữ như tiếng Tây Ban Nha tại Cali dù trên thực tế người gốc la tinh đông hơn các sắc tộc khác. 


Việc xây dựng Mount Rushmore (1927-1941) trong Black Hills, một vùng đất thiêng của người Lakota, là biểu hiện của Ngoại lệ Mỹ. Đài tưởng niệm này, khắc họa các tổng thống Hoa Kỳ, được xem là biểu tượng của sự chinh phục và sự ưu việt của văn hóa Mỹ, nhưng đối với người Lakota, nó là một sự xúc phạm trực tiếp đến văn hóa và lịch sử của họ. 


Chủ nghĩa Ngoại lệ Mỹ góp phần tạo ra một “lịch sử tưởng tượng” (mythologized history), nơi các sự việc như diệt chủng người bản địa, nô lệ, và chiếm đoạt đất đai bị che giấu hoặc giảm nhẹ để tôn vinh các anh hùng như George Washington. Các nhà sử học và nhà hoạt động bản địa lập luận rằng khái niệm này che đậy thực tế về việc thành lập Hoa Kỳ dựa trên sự tước đoạt và bạo lực.


Đúng hơn là các nước Âu châu đổ bộ sang châu Mỹ để tìm vàng, rồi từ từ chiếm lĩnh luôn đất đai. Các người dân của họ làm việc quần quật và bị các vua chúa ở Âu châu đánh thuế, không khác gì khi xưa khi họ còn ở quê nhà, nên tuổi dậy chống lại quân đội của vua chúa Âu châu, thành lập ra Hoa Kỳ, Mễ Tây cơ,….


Chúng ta nên nhớ là nhà dòng Tên tại Hoa Kỳ cũng từng có nô lệ. Trường đại học danh tiếng do dòng tên này thành lập trong quá khứ đã có nô lệ làm việc không công cho nhà thờ.  Mình có kể vụ này có một ông làm việc tại đại học khám phá ra tài liệu khi xưa đưa đến sự việc Đại học này phải bồi thường mấy trăm triệu cho các hậu duệ da đen. Các nhà sáng lập quốc Hoa Kỳ khi xưa đều có nô lệ. Thậm chí có người có con với nô lệ của mình. 


Khi xưa ở trung học, học lịch sử Hoa Kỳ về cuộc nội chiến cho thấy dân miền Bắc muốn bỏ chế độ nô lệ đưa đến cuộc nội chiến. Qua Mỹ đọc tài liệu thì khám phá ra miền Bắc đang canh tân kỹ nghệ nên cần nhân công trong khi miền Nam các đại địa chủ có cả ngàn nô lệ làm việc không công trong các cánh đồng trồng bông gòn, do đó muốn giúp người da đen nô lệ trốn lên miền bắc lao động cho người Mỹ da trắng trong các xưởng máy là nguyên nhân chính đưa đến cuộc nội chiến chớ chả phải người miền Bắc muốn bãi bỏ chế độ nô lệ vì lòng thương người mà để có nhân công trong các xưởng và hầm mỏ. Ngay nhà dòng tên vẫn còn có nô lệ sau cuộc nội chiến. 


Bạn trai của con gái mình gốc Ái Nhỉ Lan nên mình nói hắn nên tìm tài liệu về các người di dân Ái Nhỉ Lan ở thế kỷ trước. Lý do là khi họ đào các con kênh, hay xây đập ở Louisiana, họ mướn người di dân Ái NHỉ Lan thay vì mướn nô lệ. Lý do là nếu chết một người nô lệ, họ phải trả $300 cho chủ nô lệ. Còn nếu một nhân công gốc Ái Nhỉ Lan chết thì chôn, mướn tên khác. Rẻ như bèo ái nhỉ lan. Ai sống ở Anh quốc thì mới hiểu người Anh quốc xem dân đến từ thuộc địa cũ của họ là công dân hạng hai.


Mình đọc một tài liệu cho thấy miền nam Hoa Kỳ, ngày nay là các công ty xe hơi được thành lập tại miền nam, lý do là luật lao động chưa bị các liên đoàn lao động kiềm chế lại lôi kéo thợ thuyền miền Bắc di cư xuống miền nam. Vật đổi sao dời. 


Tương tự giới trẻ tại Việt Nam  ngày nay, chưa bao giờ nghe hay biết trại cải tạo, có trên 1 triệu người quân nhân cán chánh của miền nam bị đày vào các trại tập trung sau 75. Họ chỉ biết ngọn đuốc cách mạng, Cô Sáu giúp các Đảng viên lên chức và vào tù. Cứ ra côn đảo và viếng mộ cô sáu khấn tên nào đang nắm chức vụ mình mong muốn là sẽ được toại nguyện. Lịch sử Việt Nam chỉ khởi đầu từ khi ông Trần Phú thành lập Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh.


Ngày nay dân miền Bắc hát Bolero mệt thở hay tìm đọc sách báo cũ miền nam trước 1975. Nghe kể ông nào có tên “Lộc vàng”, đi tù 10 năm về tội nghe hay hát nhạc vàng, nhạc của ngụy quân ngụy quyền. Khi ra tù về Hà Nội, thì nghe thiên hạ hát và nghe nhạc vàng khắp nơi.


Chủ nghĩa Ngoại lệ Mỹ thường gắn liền với niềm tin vào sự ưu việt của người da trắng, dẫn đến các chính sách phân biệt chủng tộc, như chế độ nô lệ và luật Jim Crow, cũng như các cuộc chiến tranh đế quốc, như Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha (1898) và sự chiếm đóng Philippines. 


Chúng ta thấy sự phân biệt màu da nhất là ở miền nam trước khi quyền Dân Sự được tranh đấu đòi hỏi bởi thế hệ của mục sư Martin Luther King Jr. Người da đen bị cấm lấy phụ nữ da trắng. Không được ngồi chung hay học chung với nhau. Ai ở Hoa Kỳ xem quảng cáo đều thấy một ông Mỹ da đen thành công đều có một bà Mỹ trắng đóng chung. Có lẽ ý nói là thành công thì thích ở với Mỹ trắng, không muốn dính dáng gì với người cùng màu da. 


Mặc dù chủ nghĩa Ngoại lệ Mỹ gắn liền với “Giấc mơ Mỹ” , ý tưởng về cơ hội bình đẳng nhưng người bản địa, người Mỹ gốc Phi, và các nhóm thiểu số khác thường bị loại khỏi giấc mơ này. Chúng ta nên nhớ là luật loại trừ người Tàu Chinese Exclusion chỉ được dẹp bỏ khi trung hoa là đồng minh của Hoa Kỳ trong cuộc thế chiến thứ hai. Trước đó người Tàu được cho vào đất Mỹ không có quyền lợi gì cả, không được bảo lãnh thân nhân sang Hoa Kỳ cũng như không được lấy người da trắng. Hồi nhỏ đọc sách truyện Lucky Luke, người Tàu được giải thích qua các người giặt áo quần cho người da trắng hay làm đường rầy xe lửa. 


Đạo luật Dawes (1887) chia nhỏ đất đai bản địa, dẫn đến mất 90 triệu mẫu đất vào tay người định cư da trắng, làm suy yếu khả năng kinh tế của người bản địa. Chính phủ Hoa Kỳ dành cho các bộ lạc bản địa các vùng độc lập nhưng rất khó  để trồng trọt và phát triển. 


Mình xem bản đồ của vùng đất đắt nhất nam Cali thì khám phá ra phần đất Palo Verde trước 1945 thuộc các gia đình nông dân Nhật Bản, bị nhốt vào các trại tập trung khi Nhật Bản đánh úp Trân Châu Cảng. Khi họ được thả ra thì người Mỹ da trắng vớt hết. Anh vừa ở tù 4 năm ra nên không muốn bị bỏ tù lại nên ngậm miệng. 


Ngoại lệ Mỹ và khẩu hiệu “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” (Make America Great Again - MAGA) của tổng thống Donald Trump, được sử dụng lần đầu bởi Ronald Reagan vào năm 1980, phản ánh tư tưởng Ngoại lệ Mỹ. Khẩu hiệu này gợi lên một quá khứ lý tưởng hóa, nơi Hoa Kỳ được xem là đỉnh cao của văn minh, nhưng bỏ qua các bất công lịch sử như diệt chủng bản địa và nô lệ. Nó củng cố câu chuyện về sự vĩ đại của Mỹ mà không thừa nhận cái giá của việc xây dựng quốc gia, như việc chiếm đoạt Black Hills hoặc các chính sách tàn bạo khác. 


Hồi đầu năm có đi Úc Đại Lợi, mình tính ghé miền nơi người bản địa sinh sống để xem tình hình vì chính phủ Úc Đại Lợi có lên tiếng xin lỗi người Arborigen tương tự chính phủ Gia-nã-đại có lên tiếng xin lỗi người bản địa.


Ngược lại mình khi xưa đọc truyện hay xem phim cao bồi lại được kể là người da đỏ tàn ác, lột da đầu của người Mỹ để lấy tóc vàng này nọ. Đó là sự tuyên truyền có hệ thống. Mình là con nít ở Việt Nam mà xem phim cao bồi còn có ác cảm huống chi trẻ em Mỹ. 


Ngoại lệ Mỹ là cốt lõi của “Giấc mơ Mỹ”, nhưng cái giá của việc “thức tỉnh” , thừa nhận những bất công như việc chiếm đoạt Black Hills hay các chính sách diệt chủng sẽ thách thức nền tảng của bản sắc quốc gia Mỹ. Vấn đề ngay Chính trị Hoa Kỳ chỉ vũ khí hoá nạn nô lệ người da đen vì có số lượng khá đông cử tri còn người bản địa thì chả ai thèm để ý đến. 


Có nhiều chính trị gia tự xưng có phân nữa di sản bản địa như thượng nghị sĩ Elizabeth Warren ở Massachussetts, chỉ sử dụng để được đi học có học bổng này nọ còn chả thấy bà ta lên tiếng bênh vực cộng đồng người bản địa gì cả. 


Các chính trị gia da đen sử dụng lá bài người da đen để làm giàu cho họ chớ trình độ người da đen vẫn thua xa người Mỹ da trắng về mọi mặt. Điển hình chỉ có 5% cựu chiến binh người da đen được hưởng chương trình GI bills sau khi trở về từ thế chiến thứ hai. Người Mỹ da đen khó mượn được tiền để mua nhà. Lý do đưa ra là ở tại các khu vực nhậy cảm. Trong khi đó người Mỹ trắng sử dụng đạo luật này đi học đại học rồi mua nhà khiến một thế hệ sau thay đổi hoàn toàn vì lương bổng cao, con cái được đi học cao thêm nữa nhà lên giá nhà gia tăng qua lạm phát để chuyển cho thế hệ tới giúp sự xa cách về tài chính rất nhanh. Một người ra đời có cha mẹ chuyển căn nhà thay vì đi thuê thì cuộc sống khác biệt ngay. 


Cho nên mình buồn cười là có một số người Mỹ gốc việt cứ tưởng mình là Mỹ trắng lên tiếng, bắt chước mỹ trắng kêu gọi tống cổ người di dân bất hợp pháp này nọ. Họ quên là trong đại dịch COVID bao nhiêu người căm ghét da vàng thậm chí còn tấn công đánh đập vì nghi là COVID do người Tàu đưa sang Hoa Kỳ. Lên Bắc Cali hỏi ông tàu hay bà tàu bị đánh ngoài đường . Thằng cháu mình sinh ra ở Tây mà còn bị Tây chửi đòi đánh, kêu cút về xứ mày. 


lý giải tại sao chỉ có Mỹ có một “giấc mơ” được thần thoại hóa, vì câu chuyện này phụ thuộc vào việc lãng quên quá khứ đau thương. Biến đau thương thành hành động cách mạng tạo dựng giấc mơ Mỹ, the American dream. 


Vấn đề là người di dân đến Hoa Kỳ nhất là di dân lậu. Họ sống không khác gì người nô lệ khi xưa vì sống trong những căn hộ chật chội, đi làm ngày đêm để có tiền gửi về cho gia đình tiêu dùng. Họ muốn xây dựng một căn nhà ước mơ ở quê nhà trong khi đó anh em họ hàng sử dụng vui vẻ qua giấc mơ đang được tạo dựng của người di dân lậu để rồi sau này già đau yếu, tai nạn lao động không thụ hưởng được thành quả mà họ cố làm việc bị bốc lột tại Hoa Kỳ vì phải làm chui. Ai vào tiệm ăn Việt Nam tại Bôn sa đều do người di dân Mễ nấu. Mình có ông Mễ mướn nhà làm cho nhà hàng lớn nhất bôn sa, ông ta nói là bổn phận hàng ngày nấu bún bò, một bà Mễ làm đầu bếp cho tiệm ăn đại hàn.


Mình có người anh vợ là bác sĩ kể là từ 30 năm qua, văn phòng của anh ta ở bolsa không có một bệnh Nhân Mỹ trắng dù có trong tổ hợp y tế này nọ. Con anh ta cứ Đinh ninh là có quyền lợi như da trắng. Do đó người Việt quay sang chặt chém người Việt trong cộng đồng người Việt. 


Đọc tài liệu về vụ bắt bớ nhóm bác sĩ gốc việt gian lận y tế bao nhiêu năm trước. Chúng ta lên án các bác sĩ người Mỹ gốc việt đã làm xấu đi hình ảnh người Việt tỵ nạn. Nhưng đọc kỹ tài liệu thì được biết các bác sĩ của các cộng đồng khác như do Thái, Mỹ đen, mễ này nọ đều ăn gian và có khi nhiều hơn cả người Việt. Nhưng họ không dám bắt mà còng tay các y sĩ gốc việt vì cộng đồng người Việt nhỏ, không có tiếng nói chính trị. Chúng ta chỉ giỏi xuống đường ở Phước Lộc thọ, hô hào này nọ chống Việt Cộng.  



Trên thực tế chúng ta cần có quyền lực chính trị tại Hoa Kỳ và tiểu bang của mình để có tiếng nói trong quốc hội Hoa Kỳ và tiểu bang để bảo vệ quyền lợi người Mỹ gốc việt và xa hơn có thể giúp thay đổi thể chế tại Việt Nam. Và có thể gây ảnh hưởng đến chính sách ngoại thương của Hoa Kỳ đối với Hà Nội. Hoa Kỳ bang giao lâu với Hà Nội vì chuyện hài cốc lính Mỹ chớ chả vì nhân quyền gì ở Việt Nam. Một khi các hài cốc được tìm ra và đưa về Mỹ thì họ ký bang gia buôn bán ngay chớ không phải những cuộc biểu tình ở Phước Lộc thọ vì chỉ có một vài người Mỹ quen Việt Nam hay đã từng tham chiến Việt Nam chả có ảnh hưởng gì cả. Mình đoán Hà Nội có trả tiền cho mấy nhóm lobby để giúp về thương mại, đầu tư này nọ. Nghe kể ông chủ tịch nước sang New York có nhờ đám lobby cho xin gặp tổng thống Trump nhưng không được chắc không chịu chi nhiều. Đàng này chúng ta cứ quay nhau chửi nhau thì chả bao giờ chịu lớn trên xứ Mỹ này cả. 


Ngày nay chính trị gia dân chủ kêu đòi trả nợ cho việc người Mỹ khi xưa hành xử không tốt các nô lệ gốc đa phi châu, đánh đỗ các tàn tích của chế độ cũ như tượng của tướng miền nam hay đốt cờ miền nam biểu tượng của chế độ nô lệ. Trong khi cử tri cộng hòa thì kêu gọi quên bỏ quá khứ, hợp hòa giải dân tộc. Chiêu bài này được sử dụng để lấy lòng cử tri chớ không thực dụng và là khí giới để họ tranh dành quyền lợi cho chính họ chớ chả đếm xỉa đến căn bản của một gia đình người Mỹ da màu. 


Con đường nước mắt (Trail of Tears) là tên gọi của một loạt các cuộc di cư cưỡng bức của các bộ tộc bản địa Mỹ, đặc biệt là người Cherokee, Creek, Choctaw, Chickasaw, và Seminole, từ vùng đất tổ tiên của họ ở miền Đông Nam Hoa Kỳ đến các khu bảo tồn reservation ở phía Tây, chủ yếu là khu vực ngày nay là Oklahoma, trong những năm 1830. Sự kiện này là một trong những chương đen tối nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, minh chứng cho các chính sách diệt chủng và chiếm đoạt đất đai, gắn liền với tư tưởng Sứ mệnh Thiên định (Manifest Destiny) và Ngoại lệ Mỹ (American exceptionalism), như đã nêu trên. 

Điện Capitol du Michelangelo thiết kế


Khi đọc tài liệu về các cuộc di cư cưỡng bức người bản địa như thể Việt Cộng làm sau 75, đưa dân miền nam đến các vùng rừng thiêng nước độc được gọi là kinh tế mới. Hay đuổi người Việt gốc tàu về nước, khai thác vượt biển bán chính thức, để tịch thu tài sản của người dân. Chiếm nhà cửa trong thành phố của người miền nam, họ gọi con đường đầy nước mắt. Hay đuổi các người Việt gốc tàu khi tổ tiên họ đến Việt Nam bao nhiều đời, về Trung Cộng.


Con đường đầy nước mắt diễn ra từ năm 1831 đến cuối những năm thập niên 1830, với các bộ tộc bị buộc phải di chuyển hàng ngàn dặm trong điều kiện khắc nghiệt mà họ gọi là bảo tồn văn hóa các sắc tộc bản địa. 


Mình thấy lạ là người Mỹ dùng cụm từ afro-American cho người Mỹ gốc Phi châu, asian-American cho các người có người gốc Á châu, native-American cho người bản địa có tổ tiên sống bao nhiêu đời ở xứ này còn người Mỹ da trắng thì họ gọi nhẹ nhàng American. 


Người Choctaw: Là bộ tộc đầu tiên bị di dời (1831-1833), khoảng 15.000 người bị buộc rời Mississippi đến Oklahoma. Khoảng 2.500-4.000 người chết do bệnh tật, đói khát, và thời tiết khắc nghiệt. Xem như 1/3 dân số. 


Người Cherokee: Cuộc di cư chính của người Cherokee diễn ra vào năm 1838-1839, khi khoảng 16.000 người bị quân đội Hoa Kỳ ép buộc rời Georgia, Alabama, và Tennessee. Họ bị giam trong các trại tập trung trước khi hành trình, nơi bệnh tật như dịch tả và sốt phát triển. Hành trình dài khoảng 1.200 dặm qua mùa đông lạnh giá dẫn đến cái chết của khoảng 4.000-5.000 người (1/4 đến 1/3 dân số Cherokee).


Các bộ tộc khác: Người Creek (1836-1837), Chickasaw (1837), và Seminole (1830-1840s) cũng bị di dời trong các điều kiện tương tự, với hàng ngàn người chết. Người Seminole đặc biệt kháng cự mạnh mẽ trong các cuộc Chiến tranh Seminole, nhưng cuối cùng phần lớn bị buộc phải rời Florida. 


Tổng cộng, khoảng 60.000 người bản địa từ năm bộ tộc chính (được gọi là “Năm Bộ tộc Văn minh”) bị di dời, với ước tính 10.000-15.000 người chết trên đường đi do đói khát, bệnh tật, và kiệt sức. 


Ở tiểu bang Washington mình có đi viếng khu tự trị của người bản địa thấy cũng buồn vì chả có gì được xem là phát triển ngoài cái trung tâm văn hóa của bản tộc. Họ làm lại căn lều, cách nấu ăn sưởi ấm vào mùa đông hay đi săn cá này nọ. Tuyệt nhiên không nói gì đến các cuộc di cư đưa họ đến vùng tự trị này mà ông bà họ khi xưa chịu đựng, gọi là con đường đầy nước mắt đẩm lệ. 


Các bộ tộc mất hàng triệu mẫu đất màu mỡ, nơi họ đã xây dựng các cộng đồng nông nghiệp và văn hóa phong phú. Đất đai ở khu bảo tồn Oklahoma thường cằn cỗi, không phù hợp cho canh tác, dẫn đến nghèo đói và mất tự chủ kinh tế. 


 Cái chết của hàng ngàn người, cùng với sự chia cắt gia đình và cộng đồng, để lại vết thương tâm lý sâu sắc. Các chính sách đồng hóa tiếp theo, như trường nội trú bản địa, tiếp tục xóa bỏ văn hóa và ngôn ngữ bản địa.  Có dịp mình sẽ đi Gia-nã-đại để tìm hiểu thêm chính sách của xứ này đối với người bản địa ra sao mà cách đây không lâu thủ tướng xứ này lên tiếng xin lỗi người bản địa về sự đối xử không tốt. 


Các bộ tộc như Cherokee, với hệ thống chính trị và pháp lý riêng, bị tước quyền tự trị. Việc di dời làm suy yếu các cấu trúc xã hội truyền thống, khiến họ dễ bị thao túng bởi chính phủ Hoa Kỳ. Điển hình họ không phải đóng thuế nên mấy tên tài phiệt kêu hùn, họ bỏ vốn Xây sòng bài, cả hai đều có lợi. Không đóng thuế nhưng có kẻ chỉ có một thiểu số người bản địa được hưởng lợi còn tất cả sống lẻ phe. 


Gần đây chúng ta nghe nói đến việc mua đất Greenland khi dân bản địa bầu độc lập với xứ Đan Mạch và người Mỹ đang thương lượng trong bóng tối nên chưa biết kết quả ra sao. Mua vùng đất xanh là ý tưởng của chủ nghĩa ngoài lệ Hoa Kỳ.  Ai buồn đời thì nên kiếm bài viết của chương trình 2025. 


Nói chung là lịch sử của nước nào cũng có những vùng đen tối mà sách giáo khoa đều che dấu. Chúng ta có thể hiểu chủ nghĩa thức tỉnh lên tiếng báo động về các sử kiện lịch sử được dấu kín. Các chính trị gia dân chủ dùng sự việc để làm lợi cho họ nhưng không dám nói thẳng sự việc. Trong khi đó phe cực hữu cố tình không nhắc đến và đưa ra chủ nghĩa Hoa Kỳ trên hết để người Mỹ quên đi việc đào sâu vào quá khứ của mình. 


Khi khám phá ra sự thật về lịch sử cha ông để lại chúng ta có thể làm ngơ, cũng có thể lên án hay phớt lờ xem như không có trách nhiệm về những gì xảy ra trong quá khứ. Mình chọn cách đi viếng Rushmore năm tới để tìm thêm sự thật thay vì qua sách vở. Nên nhớ lịch sử được viết bởi kẻ thắng cuộc. 


Vẫn có nhiều sự bất công nhưng tương đối Hoa Kỳ là xứ mình thấy khá nhất trong 67 quốc gia mà mình đã đặt chân đến. Đi Âu châu thăm bạn bè nghe kể tình hình kinh tế cũng như chính trị thì mình nghĩ đã quyết định đúng khi sang Hoa Kỳ lập nghiệp sau khi sinh sống và làm việc tại 4 quốc gia Âu châu. 


Có thể khi lập quốc tình hình kinh tế và chính trị thời đó khác hiện nay. Dần dần người Mỹ da màu đấu tranh đòi quyền tự do bình đẳng cũng như phụ nữ được quyền đi bầu, có quyền ly dị, độc lập kinh tế để tránh khỏi áp bức và bạo lực trong gia đỉnh. Có thể đó là hình ảnh giấc mơ Hoa Kỳ về chính trị còn về kinh tế thì đó là sự chịu khó của từng cá nhân.  Không ai đến Hoa Kỳ đều thực hiện được giấc mơ của họ. Nhiều khi họ chỉ là bước đầu tiên để cho các thế hệ con cháu thực hiện giấc mơ Hoa Kỳ. người Việt di cư có một người làm đến chức thứ trưởng bộ tư pháp và nay có ông làm thứ trưởng bộ hải quân, dù phải mất mấy tháng trời mới được phê chuẩn.


Giấc mơ Hoa Kỳ của người di dân, ai chịu khó đều thực hiện được. Ngay âu châu, mấy người bạn hay em của mình cũng chịu khó nên ngày nay ai cũng có một căn nhà, một chiếc xe. Cái tốt nữa là họ đã trả hết nợ ngân hàng trong khi giấc mơ Hoa Kỳ của mình vẫn còn nợ bù đầu. Đó là sự khác biệt giữa giấc mơ Hoa Kỳ và giấc mơ Âu châu. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen

Nguyễn Hoàng Sơn