Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Tinh hoa cổ truyền bị thất truyền


Tin tức hôm qua cho hay có 5 du khách đi viếng vùng Patagonia, phía Nam Mỹ mà mình và đồng chí gái có ghé ngang xem khi đi Antarctica và Nam Cực. Rất đẹp! Tính sang năm bò đi nguyên cả khu vực này thì được tin có mấy người bị bão tuyết nên chết trên đường đi. Mùa này là mùa gần mùa hè vì Nam Tây Bán Cầu. Ở Yosemite hôm kia cũng có mấy người leo núi gặp vấn đề. Phải đợi 6 tiếng đồng hồ để nha kiểm lâm phái người đến cứu. Nên chắc hết muốn đi nữa.

Đồng chí gái ở Nam Cực vào mùa hè


Khi đi Nam Cực, dù là mùa hè ở khu vực đó nhưng lạnh ná thở, bận mấy lớp áo quần, vẫn còn lạnh. Trên tàu ấm nhưng khi đổ bộ lên bờ thì phải bận đồ ấm, lúc đầu có thể nóng nhưng có lúc thừoi tiết có tuyết rơi hơi lạnh. Nên hai vợ chồng phải trùm toàn thân.


Cứ tưởng tượng Bắc Cực hay Nam Cực, nơi chỉ cần một lỗi trang phục cũng có thể khiến chúng ta chết cóng chỉ trong vài phút, không như Tiểu Long Nữ, nằm ngủ trong hang lạnh. Nơi mà hơi nước biển ở nhiệt độ -40°F (-4°C) có thể giết chết chúng ta trước khi trở vào bờ. Nam Cực không có người ở ngoại trừ những khoa học gia. Tháng vừa rồi khi mình đi bộ ở Ý Đại Lợi, băng rừng vượt suối thì ông trời cắt cớ, mưa rơi nên phải bận áo mưa. Loại này mình phải mua ở REI cho chắc ăn. Lý do là khi leo Kilimanjaro, mình cần loại Gore-Tex. Để nước không thấm và hơi trong người có thể toát ra ngoài nếu không là ngọng.


Nghe nói người dân bản địa Bắc Cực đã phải đối mặt với một thách thức kỹ thuật bất khả thi: tạo ra loại vải có khả năng ngăn nước đóng băng RA NGOÀI trong khi mồ hôi cơ thể THOÁT RA. Bởi vì ở Bắc Cực, mồ hôi bị giữ lại cũng nguy hiểm như nước biển. Cả hai đều gây hạ thân nhiệt, đều gây tử vong. Theo mình hiểu là khi người nóng thì các lỗ chân lông nở ra mà nếu để lâu thì khí lạnh có thể theo các lỗ chân lông bị hở, chui vào cơ thể của mình khiến bị đau, cơ thể lộn xộn. Do đó ở Bắc Âu, ai chơi sauna xong là chạy ra ngoài nhảy xuống hồ ngay để cơ thể tự bảo vệ, khép các lỗ chân lông ngay. 


Hồi còn sinh viên, mình hay bị đau sau khi đá banh vào chủ nhật. Lý do là phòng mình không có phòng tắm nên không tắm được mà mùa đông thì lạnh. Còn khi đá banh cho trường đại học thì đá xong vào phòng tắm ngay nên không bị lạnh, nói như người Việt là trúng gió.


Khoa học hiện đại đã "giải quyết" vấn đề này vào năm 1969 khi ông Bob Gore phát minh ra Gore-Tex, một loại màng tổng hợp mang tính chất rất cách mạng với các lỗ chân lông siêu nhỏ. Quá nhỏ để các giọt nước có thể lọt vào. Đủ lớn để hơi mồ hôi thoát ra. Như trườn thợ mình bận khi trời mưa, không nóng lắm để chảy mồ hôi như loại mình thường dùng. Nó đã thay đổi y phục ra ngoài trời.

Áo Parka khi xưa được may bởi ruột cá, gấu,…


Đọc tài liệu thì khám phá ra những người thợ may bản địa đã mặc chính công nghệ này trong 4.000 năm qua. Người Inupiat ở Alaska. Người Yupik ở Siberia. Người Inuit ở Greenland. Vượt qua hàng ngàn dặm, họ đã tự mình khám phá ra cùng một giải pháp: ruột hải cẩu, ruột hải mã, ruột cá voi. Thậm chí cả ruột gấu.


Đây không phải là những công cụ sinh tồn thô sơ. Chúng là những kiệt tác của kỹ thuật dệt may. Ruột động vật có vú có cấu trúc màng tự nhiên hoạt động giống như Gore-Tex của tự nhiên. Bề mặt ngoài đủ dày để ngăn mưa và hơi nước biển. Bề mặt bên trong có các lỗ chân lông siêu nhỏ giúp hơi nước thoát từ mồ hôi của chúng ta.

Giọt nước không thấm vào. Mồ hôi thoát ra ngoài. Khả năng chống thấm nước thoáng khí hoàn hảo.


Nhưng sự xuất sắc trong kỹ thuật không chỉ nằm ở vật liệu mà còn ở kết cấu. Những người thợ may (hầu hết là phụ nữ, được kính trọng sâu sắc vì chuyên môn của họ) sẽ lấy ruột từ những con vật mới bị giết. Làm sạch chúng thật kỹ lưỡng vì bất kỳ mô nào còn sót lại sẽ làm mục vải. Giặt chúng nhiều lần trong nước biển Bắc Cực. Sau đó, thổi phồng chúng như những quả bóng bay trong suốt và treo chúng lên để khô trong điều kiện nhiệt độ dưới 0 độ C.


Khi khô, ruột trở nên mỏng, như giấy, một vật liệu cực kỳ bền. Một chiếc ruột có thể dài tới 1,8-3 mét. Sau đó là sự thành thạo thực sự: khâu chống thấm nước. Các đường may thông thường bị rò rỉ. Vì vậy, những người phụ nữ này đã phát minh ra các kỹ thuật chuyên biệt - khâu các dải chồng lên nhau một cách chính xác, sử dụng chỉ gân, phủ dầu bảo vệ đường may. Mỗi mũi khâu đủ chặt để chống rò rỉ, đủ giúp người bận có thể cử động.


Một chiếc áo parka đơn lẻ sử dụng ruột của hàng chục con vật. Hàng ngàn mũi khâu riêng lẻ. Hàng tháng trời làm việc. Những bộ quần áo chỉ nặng 85 gram , nhẹ hơn cả điện thoại thông minh và  có thể giúp thợ săn khô ráo qua nhiều giờ đồng hồ dưới những cơn bão Bắc Cực và hơi nước biển. Ánh sáng chiếu qua chúng như kính mờ. Một số thợ may đã thêm các dải nhuộm, tạo ra các họa tiết biến đồ dùng sinh tồn thành tác phẩm nghệ thuật có thể bận được.


Đối với một thợ săn kayak, những chiếc áo parka này thiết yếu như chính mái chèo. Một con sóng vỗ vào mũi thuyền với trang phục thông thường đồng nghĩa với cái chết trong vài phút. Chiếc áo parka ruột chính là sự khác biệt giữa sự sống và chết đuối trong nước băng giá.


Trong 4.000 năm, kiến ​​thức này được truyền từ mẹ sang con gái. Từ thợ may bậc thầy sang thợ học việc. Các kỹ năng được lưu giữ thông qua thực hành, nhu cầu thiết yếu và sự thật đơn giản rằng sự sống còn của gia đình bản địa, phụ thuộc vào khả năng may quần áo phù hợp.


Rồi thế kỷ 20 đến. Vải tổng hợp được phát minh, rồi Áo mưa cao su, Nylon, Gore-Tex. Vật liệu chúng ta có thể mua thay vì tự làm. Vật liệu không đòi hỏi nhiều tháng lao động lành nghề. Ngành sản xuất áo parka ruột gấu truyền thống sụp đổ. 


Vào cuối những năm 1900, những người lớn tuổi còn nhớ các kỹ thuật này đang dần mai một. Thay vào đó, những người trẻ tuổi học các phương pháp phương Tây. Các kỹ thuật đường may chống thấm nước, các mẫu khâu đặc trưng, ​​bí quyết chuẩn bị ruột gấu tất cả gần như đã thất truyền.


Ngày nay, các cộng đồng bản địa trên khắp Bắc Cực đang đấu tranh để khôi phục lại kiến ​​thức này. Những người lớn tuổi dạy cho thế hệ trẻ. Các bảo tàng lưu giữ tư liệu về trang phục lịch sử. Các nghệ sĩ thử nghiệm để tái tạo các phương pháp đã thất truyền.


Năm 2022, một người lớn tuổi Sugpiaq ở Cordova, Alaska, đã dẫn dắt các nghệ sĩ tạo ra một chiếc áo parka ruột gấu, một trong những chiếc áo đầu tiên được sản xuất sau nhiều thế hệ. Họ đã dành nhiều tháng để học lại các kỹ thuật chuẩn bị, giải quyết vấn đề khi kim hiện đại không hoạt động như kim xương truyền thống.


Đây không chỉ là việc lưu giữ lịch sử. Điều này thừa nhận rằng những người "nguyên thủy" là những kỹ sư tài giỏi đã hiểu được các nguyên tắc chống thấm nước thoáng khí hàng nghìn năm trước khi các phòng thí nghiệm của chúng ta "phát hiện" ra chúng.


Tương tự y khoa cổ xưa bao nhiêu ngàn năm đến thế kỷ 20, thiên hạ ùa theo tây y và quên hết các kiến thúc được lưu truyền từ thầy qua học trò hay từ cha mẹ qua con cái. Nay người Mỹ bắt đầu tìm lại các phương thuốc để giúp họ vượt khỏi vấn nạn, nuôi bệnh của nhà thương, bác sĩ cũng như các công ty dược phẩm. Tuần trước, có ông than là bà vợ bác sĩ quyết định bỏ nghề y sĩ vì cứ bị nhà thương bắt làm theo quota, cho bệnh nhân uống đủ trò để công ty kiếm tiền. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

ÁO DÀI NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU

 CUỘC CÁCH MẠNG THẦM LẶNG CỦA MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM


Hôm trước, tình cờ xem hình ảnh cũ đám tang của bà Nam Phương Hoàng Hậu bên tây thì khám phá ra cái áo dài của bà ta mặc khi đám cưới với vua Bảo Đại. Tò mò vì có tin tức cho rằng bà ta đã hợp tác với nhà thiết kế Cát Tường (Le Mur) để cải cách áo dài Việt Nam từ tứ thân thành như áo dài cách tân ngày nay. Họ cho biết bà Hoàng hậu cuối cùng của Việt Nam, chính là người tạo ra “cuộc cách mạng áo dài” lớn nhất thế kỷ 20, và gần như toàn bộ áo dài hiện đại ngày nay đều mang dấu ấn của bà.

Năm 1934, tại Đại nội Huế, trong buổi lễ tấn phong Hoàng hậu duy nhất còn diễn ra dưới triều Nguyễn, một người phụ nữ 20 tuổi bước ra từ điện Kiến Trung trong chiếc áo dài lụa vàng thêu rồng phượng. Chiếc áo ấy không còn bốn tà rộng thùng thình, không còn cổ cao cứng nhắc, mà chỉ có hai tà, cổ tròn thấp, tay raglan ôm sát, eo chiết nhẹ nhàng.

Chỉ một lần xuất hiện, chiếc áo dài ấy đã thay đổi hoàn toàn lịch sử quốc phục Việt Nam suốt gần một thế kỷ sau. Người phụ nữ ấy chính là Nam Phương Hoàng hậu, tên cúng cơm Nguyễn Hữu Thị Lan. Bố tên là Nguyễn Hữu Hào, Đà Lạt có cái lăng của ông ta, gần Cam Ly. Mình có đến đây 1 hay 2 lần khi còn bé.


Áo dài Nam Phương không chỉ là một kiểu trang phục, mà là một cuộc cách mạng thẩm mỹ, một tuyên ngôn về người phụ nữ Việt Nam hiện đại, và trên hết, là câu chuyện về sức mạnh mềm của một người phụ nữ đã dùng chính vẻ đẹp và vị thế của mình để định hình lại linh hồn dân tộc. Nếu mình không lầm thời đó phụ nữ ở miền bẮc bận váy. Nói như Hà Nội, quần thủng đáy. Khi còn bé, mình có thấy vài người di cư ở Đà Lạt như bà Bắc, giúp việc cho gia đình chú Ký, bận váy, đội khăn nên khi bà đi tè, chỉ đứng một chỗ rồi khi bà ta xong, bước đi chỗ khác thì thấy đất ướt . Bà Bắc này tội lắm, sau khi hết giúp việc cho nhà chú Ký, thấy bà đi bán buôn ngoài chợ, lâu lâu gặp mình kêu lại cho một đồng ăn quà. Sau 75, chú Ký đi tù với ông cụ mình thì bà ta đi thăm nuôi còn gia đình chú Ký thì không. Hình như có 1, 2 lần gì đó.


Trước năm 1930, áo dài Việt Nam vẫn là áo dài tứ thân hoặc ngũ thân biến thể: năm tà, bốn tà, cổ cao đứng, tay rộng, thân rộng thùng thình, màu sắc u tối. Mình nhớ ông thầy dạy sử khi xưa kể lý do áo tứ thân là vì người xưa dệt vải, cái khung dệt rất nhỏ do đó may áo thường là họ nối phía sau 2 thân, phía trước 2 thân nên gọi là áo tứ thân. Sau này về Việt Nam, tính đi về các làng dệt lụa để hỏi thêm lịch sử nhưng không có thì giờ. Thêm nghe nói nay họ mua lụa của Trung Cộng rồi đề made in Việt Nam. Trang phục ấy phù hợp với người phụ nữ sống trong khuôn phép cũ, nhưng hoàn toàn lạc lõng với thế hệ phụ nữ tân đại, đi học, đi làm, đạp xe đạp trên phố phường Hà Nội, Huế và Sài Gòn.

Năm 1930–1932, họa sĩ Cát Tường (Le Mur) đã vẽ kiểu “áo tân thời” với hai tà, tay phồng, cổ lá sen, váy ngắn – nhưng lập tức bị xã hội bảo thủ ném đá kịch liệt, bị gọi là “đồ Tây hóa hở hang”. Kiểu áo Le Mur dù tiên phong vẫn chỉ tồn tại trong một nhóm nhỏ trí thức và nhanh chóng bị lãng quên. Nghe nói bà Nguyễn Thị Hậu, nữ thị trưởng đầu tiên của Đà Lạt, là người mẫu bận chiếc áo dài đầu tiên của nhà thiết kế Cát Tường.


Khi Nam Phương bước lên ngai vàng, bà không chọn mặc áo dài tứ thân truyền thống của các bậc Hoàng hậu tiền nhiệm. Bà chọn một chiếc áo dài đã được cải tiến triệt để từ ý tưởng của Cát Tường nhưng được chỉnh sửa lại theo tinh thần Việt Nam:

•  Bỏ cổ lá sen Tây hóa → thay bằng cổ tròn thấp kín đáo

•  Bỏ tay phồng, váy ngắn → thay bằng tay raglan ôm sát và tà áo dài chấm gót

•  Bỏ eo chiết quá gắt → thay bằng đường eo vừa phải, tôn dáng nhưng vẫn thanh lịch

•  Dùng chất liệu cao cấp nhất: lụa Hà Đông, voan Pháp, nhung Ý

•  Dùng màu sắc hoàng gia: vàng, hồng phấn, tím Huế, xanh ngọc

Chỉ trong vòng một năm (1934–1935), mọi trường nữ trung học lớn ở Sài Gòn, Huế, Hà Nội đều bỏ áo dài cũ, chuyển sang mặc đồng phục kiểu Nam Phương. Báo chí thời đó gọi hiện tượng này là “cơn bão áo dài Hoàng hậu”.



Khi học về Tự Lực Văn đoàn, nghe nói nhóm này muốn giúp người Việt bỏ các hủ tục, để chạy theo nền văn minh của tây phương. Bà Nam Phương dân tây vì Nam Kỳ thuộc Pháp quốc, du học tại pháp. Mình đoán bà ta chỉ học xong trung học hay chưa xong vì về nước khi 18 tuổi. Ngay ông Bảo Đại chắc khá lắm là đậu tú tài, và bằng nhảy đầm ở bên tây. Vì vê nước năm lên 19 tuổi.


Có lẻ cuộc cách mạng về trang phục thời chế độ phong kiến, được thực hiện, không bị ném đá vì uy tín tuyệt đối của Hoàng hậu, biểu tượng cao nhất của đất nước. Không ai dám chỉ trích “hở hang” khi chính Hoàng hậu mặc. Tương tự khi bà Ngô Đình Nhu may áo dài décolleté, cổ tròn chi đó, cũng bị thiên hạ ném đá nhưng mấy bà dựa vào uy tín của bà Nhu nên bận áo dài hở cổ ở Sàigòn. Chớ trời nóng, đổ mồ hôi và cứ cổ cao như vịt.

Bà hoàng hậu giữ được sự hiện đại nhưng không đánh mất vẻ kín đáo, duyên dáng Á Đông. Mỗi lần bà xuất hiện (lễ tấn phong 1934, tiếp khách Pháp 1939, chụp ảnh hoàng gia 1942), hàng triệu phụ nữ Việt Nam đều nhìn thấy và muốn mặc giống bà. Mình thấy bà Nam Phương này rất đẹp nhưng hình bà ta về già sau 50 tuổi thì hơi mệt. Nhà may cho rằng kiểu áo của bà dễ may, dễ mặc, dễ vận động, phù hợp với nữ sinh, giáo viên, nhân viên ngân hàng, thư ký… người ta cho biết từ 1935 đến nay, gần như 100% áo dài Việt Nam đều mang 5 đặc điểm gốc do Nam Phương định hình: 2 tà – cổ tròn thấp – tay raglan – chiết eo nhẹ – màu sắc thanh lịch. Mình chỉ nhớ hồi nhỏ có bà dì làm thợ may áo dài, thấy mấy cô đến may áo dài raglan, rồi sau này có vụ áo dài mini, đạp xe đạp mini rồi mất nước. Nay thì áo bú xía la mua.


 Năm 1941, trường Nữ trung học Nam Phương (Đà Lạt) lấy chính kiểu áo dài trắng của bà làm đồng phục,  trở thành hình mẫu áo dài nữ sinh toàn miền Nam, rồi cả nước. 

Từ 1954–1975, áo dài trắng Nam Phương là biểu tượng của nữ sinh Sài Gòn – Huế – Đà Lạt.

Sau 1975, dù có nhiều biến thể cách tân thời, cổ cao, cổ V, tay bồng… thì kiểu dáng cơ bản của Nam Phương vẫn là chuẩn mực khi nói đến “áo dài truyền thống”.


Năm 2023, khi UNESCO công nhận áo dài là di sản văn hóa phi vật thể, hình ảnh đại diện chính là kiểu 2 tà, cổ tròn thấp, tay raglan, tức kiểu của Nam Phương Hoàng hậu năm xưa. Nghe kể khi xưa, lính mỹ qua Việt Nam, may áo dài gửi về cho vợ mà quên vợ viết thư kêu ai cũng khen áo dài nhưng thấy sexy quá vì quên gửi cái quần.

Chắc lúc này chưa lấy ông Bảo Đại. Biết đâu hình chụp hôm gặp ông vua Bảo Đại vì nghe bà ta kể hôm ấy không muốn đi dự nhưng ông cậu kêu đi nên bận đồ sơ sài màu đen. Gặp ở khách sạn Palace. Khiến ông Bảo Đại thích.

Bà thị trưởng Đà Lạt Nguyễn Thị Hậu, nghe nói là người mẫu đầu tiên bận áo dài của của thiết kế gia Cát Tường

Nam Phương Hoàng hậu không bao giờ tự nhận mình là nhà thiết kế. Bà chỉ lặng lẽ mặc những chiếc áo dài đẹp nhất, thanh lịch nhất, hiện đại nhất mà vẫn rất Việt Nam. Nhưng chính sự lặng lẽ ấy đã tạo ra một cuộc cách mạng lớn lao: biến áo dài từ trang phục cũ kỹ của quá khứ thành biểu tượng vĩnh cửu của người phụ nữ Việt Nam hiện đại.


Hơn 60 năm sau ngày bà qua đời, mỗi lần một cô dâu Việt Nam khoác lên mình chiếc áo dài trắng hay màu pastel, mỗi lần hàng triệu nữ sinh mặc áo dài trắng đến trường, mỗi lần áo dài Việt Nam xuất hiện trên các sàn diễn quốc tế, đó chính là lúc di sản của Nam Phương Hoàng hậu vẫn đang sống, vẫn đang bay, đang tỏa hương như chính ý nghĩa cái tên mà vua Bảo Đại đã ban tặng cho bà: “Hương thơm phương Nam”.


Hôm trước, thấy tấm ảnh phục dựng có hai cô gái đẹp nức nở nhưng mình đoán chắc AI cũng giải phẫu thẩm mỹ họ luôn vì quá đẹp.


Mụ vợ mình khi đám cưới thì cũng bận áo dài của dòng Cát Mệ để lại tương tự như chiếc áo trên, đội khăn vành to đùng như trên. Mỗi khi cô nào trong đại gia đình đi lấy chồng là bận bộ áo dài này. Không biết gia đình nào giữ, không biết đến đời con gái mình lấy chồng có chịu bận hay không.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Bánh mì và cách mạng

 Bánh mì và cách mạng


Mình có kể về bánh mì và baguette của tây được sử dụng để kiến tạo một văn hoá nhằm buôn bán sản phẩm xa-xỉ, sang trọng của Pháp. Nhớ hồi ở Pháp, tây đầm kể là bà hoàng hậu Marie-Antoinette, nghe người dân đói, không có bánh mì ăn, bà ta nói sao họ không ăn Brioche “S’ils n’ont pas de pain, qu’ils mangent de la brioche !” khiến thiên hạ buồn điên với bà cành vàng lá ngu này, sau này, dân tây đầm làm cách mạng, kéo bà ta pháp trường chém đầu giúp bà ta ăn Brioche. Cho thấy thời nào, giới nắm quyền hành đều không rõ dân tình như ở Việt Nam có bà cán bộ nào kêu mỗi nhà mua 3 cái lu chứa nước mưa là chết ngập lụt.

Bánh mì, nhìn bề ngoài, chỉ là một loại thực phẩm phổ biến. Nhưng trong lịch sử nhân loại, đặc biệt tại châu Âu, bánh mì chứa đựng ý nghĩa sâu xa về sinh tồn, kinh tế và chính trị. Cuốn Pain et liberté đã cho thấy bánh mì là một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến trật tự xã hội Pháp trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, khi bánh mì du nhập sang Việt Nam trong thời Pháp thuộc, vai trò của nó hoàn toàn khác. Thay vì trở thành một nguồn sống gắn liền với sự sống còn vật chất của người dân như tại Pháp, bánh mì lại trở thành một biểu tượng văn hoá. Ăn chơi cho vui.


Thật ra người Pháp hay nói muốn hiểu lịch sử của Pháp quốc thì cần hiểu về lịch sử bánh mì xứ họ. Như vua Gia Long từng nói “có đói nói mới nghe”. Người Pháp họ ăn bánh mì hàng ngày như người Việt ăn cơm nên thiếu bánh mì là có vấn đề. Từ thời Trung Cổ, bánh mì chiếm 50–70% khẩu phần của dân nghèo. Do đó khi bánh mì khan hiếm thì dân nổi dậy. Các chính quyền luôn theo đuổi “ổn định giá bánh mì” để chi phối xã hội. Nghe kể trước khi người Pháp sử dụng đĩa nĩa, họ cắt bánh mì thành lát để làm đĩa để hứng thức ăn. 


Dưới thời kỳ quân chủ, mà tây đầm gọi Ancien régime, chế độ cũ, nhà vua triều đình kiểm soát bánh mì đưa đến cuộc cách mạng long trời lỡ đất mà người Pháp xuống đường chém đầu vua chúa và gọi “pain et liberté”, bánh mì và tự do. Có mấy ông đi làm cách mạng mới sửa lại là “liberté, égalité, fraternité” ớ ẩm. Dân ngu khu đen như mình, nông dân chỉ biết có cơm hay bánh mì mà ăn thôi, còn tự do, bình đẳng và bác ái thì chỉ để cho mấy ai tự xưng là trí thức kêu gào, chửi thiên hạ ngu lâu dốt bền.


Khi xưa, học lịch sử, ông tây cứ nói về cuộc cách mạng 14 tháng 7, thời đó Pháp quốc có đâu 28 triệu dân, 80% người Pháp ăn bánh mì trừ cơm, trung bình 3 ký lô thực phẩm mỗi ngày. Bánh mì thời đó cứng như đá. Vì bánh mì trấu, khác với giới quý tộc ăn bánh mì với bột mì trắng được xay bỏ trấu đi. Nên nhớ là thời trung cổ,… âu châu mà thất mùa là chết đói nhiều, các vua chúa đàn áp nông dân , tá điền bị thu tô. May sau này, ông Kha luân Bố tìm ra châu Mỹ, mới đem về giống ngô, khoai tây, giúp người âu châu bớt nạn đói vì lúa thất mùa thì ăn ngô, ăn khoai tây. Mấy loại thực phẩm này đã giúp người âu châu bớt đói, chiến tranh ít lại vì khi xưa, đói là họ đi ăn cướp thằng bên cạnh. Đi Georgia, mới khám phá ra các nhà được xây như các tháp để tránh bị ăn cướp của làng bên cạnh. Chúng đói thì đến ăn cướp.

Vua chúa kiểm soát giá ngũ cốc, hạn chế các thương lái “đầu cơ” lúa mì. Nhớ đọc đâu đó, sau khi ông Diệm bị lật đỗ thì người Tàu Chợ Lớn đầu cơ tích trữ gạo miền nam, khiến ông Kỳ đem bắt một người Tàu đầu cơ tên là Tạ Vinh, đem ra bắn khiến giá cả gạo đều xuống ngày hôm sau. Nghe bà Kỳ kể là người Tàu đem tiền tới cúng nhưng ông Kỳ đuổi về, cứ bắn làm gương. Ngày nay khi chúng ta đi Cao Miên, Thái Lan, Nam dương ,…đều thấy người gốc Tàu nắm hết ngành kinh tế.


Chính quyền lo sợ nhất bánh mì thiếu đưa đến bạo loạn như vụ tăng giá 1775 dẫn đến “La Guerre des Farines” (Chiến tranh Bột Mì). Các cơ quan như “police du grain” được lập để giám sát kho lúa. Chính quyền coi lương thực là ưu tiên chiến lược, giống như an ninh quốc gia.


Năm 1788, sau cuộc cách mạng, Pháp quốc giúp người Mỹ đánh lại thực dân Anh quốc, dành độc lập, thuế má đủ trò. Trước cách mạng ai cũng kêu bọn vua chúa tàn ác này nọ, nhưng khi cách mạng lên thì cứ đánh thuế còn bạo hơn nhóm quân chủ. Giá cả thực phẩm gia tăng như hiện nay, sau covid lên cái vù như rồng gặp mưa. Khi xưa đi tây ăn uống thấy đắt như tây nay đi tây thấy thức ăn rẻ gấp đôi ở Hoa Kỳ. Ở Paris thì khác chớ về tỉnh nhỏ hay qua Ý Đại Lợi, cho dù khu du khách thức ăn vẫn rẻ gấp đôi bên mỹ.


Bánh mì như ngọn lửa cách mạng như mình đã kể vụ “La Commune” nổi loạn được mấy tháng rồi bị dẹp tắt một cách tàn bạo, đưa lên máy chém hơn 20,000 tên nổi loạn. Tây gọi « émeutes de subsistance » . Mấy bà phụ nữ khi xưa xuống đường đòi hỏi bánh mì, cướp các tiệm bánh mì và các chợ lúa mì như tây gọi Journée des Poêles à frire (27 avril 1789), họ cướp bóc chợ búa, khách sạn như một truyền thống Công Lý Nhân dân, khi bánh mì được xem là quyền tự nhiên của con người. Ngày nay, ở các siêu thị ở Cali, thiên hạ vô tiệm chiếm lấy thức ăn, quần áo dưới $900, đi ra như chơi. Cho nên mình rất phục các bác Dân Chủ, xem đó là quyền tự nhiên, lấy đồ trong tiệm hay siêu thì khi thiếu. Khiến nay có nhiều tiệm đóng cửa, dân tình phải đi xa để chôm chỉa.


Hôm qua đọc đâu đó có người kể là sau 75, người chủ nhà đến đòi tiền nhà, người mướn nhà kêu chủ nhà có nợ mấu nhân dân, đòi viết báo cáo tội danh, chịu cực chịu khó để dành tiền bao nhiêu năm mới xây được căn nhà cho thuê. Để dành tiền, là phản cách mạng. Sợ quá nên mất trắng căn nhà với bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Hôm qua xem truyền hình của pháp. Họ kêu muốn người Pháp đầu tư xây nhà cửa cho thuê thì phải huỷ bỏ luật Squat đi. Thiên hạ ở lì không được đuổi đi thì bố ai dám cho thuê. Mình có lần xem video, một tên di dân lậu ở Tây Ban Nha, cầm búa đồi đập đầu ông chủ nhà và kêu nà này là nhà của tao. Ông ta sợ bị phang cái búa nên bỏ chạy. Chính phủ không có tiền xây nhà cho dân ở, khuyến khích người có tiền xây nhà cho dân ở miễn phí. Hoan hô Dân Chủ.

Ai buồn đời thì xem trên YouTube chương trình bằng pháp ngữ

Sự chiếm đóng nhà lao Bastille và bánh mì như một biểu hiện nền cộng hòa. Theo tin tức mình học khi xưa do ông Tây giảng dạy là người dân Paris đói quá lại nghe nói giới quý tộc sa đọa ở điện Versailles nên nổi máu cách mạng lên, xuống đừng chém giết. Thật ra cuộc cách mạng 1789 được dấy lên bởi nhưng tin tức hay tin đồn cho hay giới quý tộc muốn bỏ đói người vì có đói nói mới nghe. Các vệ binh Thụy sĩ được mướn để đàn áp và phá các lò bánh mì. Dạo đó đám trí thức đã biết sử dụng Fake News. Khi người dân paris chiếm đóng ngục bastille thì giải thoát tù nhân nhưng thật ra ít có tù nhân, lấy súng và đồng thời bánh mì trở thành biểu tượng của tự do. Tự do không đói. Ai muốn mở tiệm bán bánh mì lấy tên Bánh Mì Tự Do. Bảo đảm sạt nghiệp ngay.


Khi xưa học sau cuộc cách mạng là cuộc thanh trừng (terreur) tàn khốc đưa người Pháp của chế độ cũ lên máy chém. Hôm qua là nhà cách mạng anh hùng hôm nay cho lên máy chém. Sau này qua tây đọc thêm tài liệu thì người ta nói đến terreur alimentaire, khủng bố thực phẩm khi nhóm Jacobin ( cấp tiến) thực thi giá biểu tối đa của bánh mì , đưa đến các vụ hành quyết mấy chủ lò bánh mì, được đấu tố là phá hoại nền cộng hòa. Ngày xưa học lịch sử tây điên khùng với tên các nhóm, phe phái sau cuộc cách mạng. Việt Nam bắt chước đấu tố địa chủ cường hào ác bá. 


Vào thế kỷ 19: kỹ nghệ hoá được khởi đầu tại Pháp quốc, lúa mì được cơ giới hóa nhờ máy xay và vận chuyển bằng đường sắt. Nhờ đó bánh mì “trắng” trở nên phổ biến hơn vì khi xưa chỉ nhà giàu, giới quý tộc mới ăn bột mì trắng. Nhưng khủng hoảng kinh tế 1846–1848 khiến giá bánh mì lại tăng dẫn đến Cách mạng 1848. Công nhân trong các hầm mõ và hãng xưởng bắt đầu xem bánh mì là quyền tối thiểu của người lao động. Biến Bánh mì trở thành vũ khí tranh đấu giai cấp.


Viết tới đây mình mới nhớ thời ông Gorbachov lên ngôi. Ông ta cho đệ tử đi viếng Tây Âu để tìm hiểu tại sao họ khá hơn mình. đến luân đôn, mấy tên đệ tử hỏi muốn đi thăm nhà máy làm bánh mì khiến mấy tên đối tác Anh quốc mặt như ngỗng ị, nói chúng tôi không có nhà máy làm bánh mì. Bọn sô viết không tin kêu dẹp hết chương trình viếng thăm ngày mai dẫn chúng tôi đi xem chỗ nào họ làm bánh mì. 


Hôm sau họ dẫn đến các lò bánh mì, dạo ấy còn người Anh quốc làm chủ thức khuya dậy sớm làm bánh mì khiến mấy tên sô viết chưng hửng mới hiểu kinh tế thị trường. Không cần tem phiếu hay ông Yeltsin sang Mỹ cũng kêu dừng xe lại chạy vô siêu thị thấy toàn là thịt và thịt, thức ăn chất hàng núi. 


Mình nhớ xem Vietecetra phỏng vấn ông Bùi Kiến Thành, con bác sĩ Tín, dầu khuynh diệp khi xưa, Việt kiều yêu nước tại pHáp kể là sau 75, ông Phạm Hùng cho người sang pháp hỏi ông ta cách giúp Việt Nam thoát khỏi sự nghèo đói, xuống cấp hơn Sàigòn khi xưa. Ông ta trả lời trong lịch sử loài người, chưa có một quốc gia nào do người nghèo mà giúp đất nước giàu sang. Anh nghèo vì anh không biết cách làm giàu. Ông Thành hình như về Việt Nam sinh sống và làm cố vấn cho Hà Nội.


Từ dạo đó bánh mì của pháp được xuất cảng qua các nước khác dưới màu cờ chính trị bánh mì. Như ở Anh quốc được gọi Du pain ou du sang ! Bánh mì hay máu. Ở Ái Nhĩ Lan tương tự nạn đói xảy ra khi họ bị bắt buộc xuất cảng lúa mì qua Anh quốc, tạo dựng nạn đói kinh khiếp khiến hàng triệu người bỏ nước ra đi qua Hoa Kỳ. Tương tự Ý Đại Lợi cũng có đến 4 triệu người bỏ nước ra đi.


Thời kỳ Phục Hưng và Chế độ Quân chủ Tháng Bảy: Dưới thời Louis-Philippe, cuộc khủng hoảng 1846–1847 (mùa màng thất bát và công nghiệp hóa) đã châm ngòi cho cuộc bạo loạn Buzançais (1847), trong đó nông dân đã hành hình một chủ cối xay đầu cơ. Đỉnh điểm là cuộc Cách mạng năm 1848, với khẩu hiệu "Bánh mì hay chì (plomb có nghĩa đạn chì)!" (hoặc "Bánh mì hay là chết!"), được hô vang trong các cuộc biểu tình. Có những điểm mơ hồ: bánh mì giải phóng người Pháp, nhưng cũng chia rẽ họ. 


Dưới thời thanh trừng khủng bố sau cách mạng, ông Robespierre cho việc phân phối khẩu phần là một "đức tính cộng hòa",(vertu république) trong khi phe Thermidorian lại tự do hóa thị trường, khiến giá cả tăng vọt. Trong khi đó bánh mì là nhu cầu chính ở 40% ở các giáo xứ. Paris dạo đó có đến 1,200 lò bánh mì, với ý thức hệ Bánh Mì như quyền làm người trong bản tuyên ngôn của cách mạng 1789.  Các cuộc cách mạng bên Pháp quốc, nơi bánh mì được chuyển giao từ đặc ân của hoàng gia qua một bổn phận của nền cộng hoà. Nói cho ngay, các cuộc cải cách từ cách mạng 1789 đến 1850 với La Commune, cho thấy các cải cách điền địa chủ giúp các địa chủ, và các sự bất bình đẳng vẫn kéo dài đến ngày nay.


Cho thấy suốt lịch sử của pháp cho thấy cách các cuộc cách mạng đã biến bánh mì thành một vấn đề dân chủ. Người Pháp muốn biến thành "Xứ sở không tưởng dân chủ: Bánh mì cho tất cả". Ai cũng no ấm, đưa đến chủ nghĩa cộng sản, xây dựng thế giới đại đồng mà người cộng sản sau 75 năm tìm cách xây dựng tại Liên Sô, đã thất bại. Liên sô có thể đưa con người lên không gian, xây dựng hoả tiễn bắn xa, với đầu đạn nguyên tử nhưng vẫn thất bại trong việc cung cấp bánh mì cho người dân của họ hàng ngày, mà chúng ta thấy dân tình của xứ Liên Xô phải xếp hàng cả ngày để mua bánh mì hay thực phẩm.


Một chế độ không thể nuôi dân họ, cung cấp điểu căn bản nhất là bánh mì hay gạo cơm thì không sớm thì chày sẽ bị xoá bỏ trong lịch sử. Năm nay chúng ta thấy các nhà cầm quyền bị dân chúng nhất là giới trẻ, không có tương lai đứng dậy đập phá như ở Nepal, phi Châu và mấy hôm nay ở Mễ Tây Cơ.


Ngày nay, ở Hoa Kỳ cũng như Pháp quốc, mình thấy nhiều nhà hàng không những do người Việt làm chủ mà ngay người bản địa cũng treo bảng bán bánh mì thịt. Bánh mì xuất hiện tại Việt Nam do người Pháp đem sang từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, bánh mì nhanh chóng trở thành biểu tượng của đô thị hóa, của văn minh phương Tây, của quyền lực văn hóa và kinh tế của thực dân. Tương tự mình đã kể về nhạc cải cách mượn từ người Pháp.


Nhân tố quan trọng nhất để hiểu sự khác biệt là Việt Nam sống bằng lúa gạo, không phải lúa mì. Trong suốt hàng ngàn năm, cơm là nền tảng của văn hóa, ổn định xã hội và an ninh lương thực. Điều này có nghĩa là bánh mì, dù có phổ biến ở thành thị, không bao giờ trở thành món ăn gắn liền với sự sống còn của đại bộ phận dân cư. Nhớ khi xưa, sáng ở nhà có người đưa bánh mì của lò bánh mì từ đường Phan Đình PHùng, rồi mấy anh em pha sữa đặc hên thì có ovaltine rồi lấy bánh mì chấm ăn, hay sang hơn thì bà cụ mua bơ mỹ về từng cục bực tổ chảng khác với bơ lon Bretel. Trét ăn nhất là khi mua bánh mì Vĩnh CHấn còn nóng hổi, trét bơ vào ăn cực ngon.


Khi người Pháp xây dựng nhà máy xay bột, lò bánh và quán cà phê kiểu Tây tại Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, bánh mì trở thành dấu ấn của văn minh châu Âu. Người Việt lần đầu biết đến ruột bánh trắng mềm, phô mai, bơ, pa tê, jambon, những thứ hoàn toàn xa lạ với khẩu vị truyền thống. Bánh mì, vì thế, mang tính văn hóa nhiều hơn tính kinh tế. Không như bên tây trở thành nhu yếu phẩm mà con người có thể chết sống với. Nói cho ngay chỉ có thành phố lớn mới có bánh mì, lúc đầu làm cho tây ăn nhưng rồi các vị theo tầng lớp tân học, bắt chước ông tây bà đầm để ăn như quan thầy của họ.


Người Việt không thụ động tiếp nhận bánh mì. Ngược lại, họ tái tạo nó theo cách rất riêng: thay đổi bột để bánh nhẹ hơn, vỏ mỏng giòn hơn; thêm đồ chua, rau thơm, nước mắm, thịt nướng. Tất cả mang đậm phong cách ẩm thực bản địa. Sự lai hoá này tạo nên bánh mì Việt Nam, khác hẳn bánh mì Pháp truyền thống. Tương tự phở, lúc đầu họ nấu Pot-au-feu của người Pháp rồi từ từ biến chế qua cách ăn của người Việt.


Quá trình này xảy ra ngay trong thời thuộc địa. Điều đó cho thấy người Việt đã dùng văn hóa ẩm thực như một cách chiếm lĩnh lại không gian của thực dân, bằng việc biến sản phẩm của “mẫu quốc” thành món ăn mang bản sắc Việt. Đây chính là hình thức kháng cự văn hóa mềm. Nói như các nhà cách mạng chống tây nhưng thích nhảy đầm uống rượu nho. 


Bánh mì, tưởng chừng chỉ là một món ăn bình thường, lại đóng những vai trò lịch sử khác nhau tùy vào bối cảnh xã hội. Tại Pháp, bánh mì gắn với mạng sống, với quyền lực và với cách mạng. Nó là biểu tượng của sự sụp đổ của chế độ cũ và của sự ra đời của một xã hội mới dựa trên quyền của con người. Ngược lại, trong Việt Nam thời thuộc địa, bánh mì không mang chức năng sinh tồn mà chủ yếu là biểu tượng văn hoá thực dân. Qua quá trình bản địa hóa, bánh mì trở thành một phần của bản sắc Việt Nam hiện đại, minh chứng cho khả năng tiếp thu và sáng tạo của người Việt trước sự áp đặt của văn hóa ngoại lai. Đi tây ăn được mấy lát bánh mì, về mỹ kể chuyện vớ vẩn. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn