Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Nữ quyền và Tương lai của Quyền lực

 


 Nữ quyền và Tương lai của Quyền lực


Thấy video các cô cá bà femen bên Pháp, chạy ra đừng phanh ngực, vẽ và viết gì trên thân thể của họ khiến mình thất kinh. Khởi đầu có thể người ta kêu mấy bà khùng nhưng theo mình những hành động này có thể đưa đến sự xáo trộn, thay đổi trật tự xã hội trong tương lai như rung động một cánh bướm nhỏ mà có thể gây bão ở xa. Điển hình bà Rosa Park thời trẻ từ chối nhường ghế trên xe buýt cho người da trắng gây bạo loạn, xuống đường đưa đến luật Dân Sự, bãi bỏ sự kỳ thị chủng tộc tại miền nam Hoa Kỳ. 


Sức mạnh lớn nhất trong lịch sử loài người không phải vũ khí, không phải tiền, không phải quân đội mà là những câu chuyện. Những câu chuyện định hình cách ta nhìn thế giới như những bài báo hay bài học sử địa khi xưa ở trường học đã cấy trong não bộ của những đứa bé về một nhân vật trong lịch sử hạ những chuyện thần tiên hay cổ tích. Những câu chuyện quyết định ai được đứng trên bục cao… và ai bị buộc phải im lặng. Những câu chuyện quyết định tiếng nói nào được lắng nghe và tiếng nói nào bị xoá đi.


Khi nhỏ mình nghe những câu như “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” rồi nhìn xung quanh hàng xóm, con gái thì chăm em, đi học về nấu ăn, giặt đồ,… trong khi con trai thì được miễn. Với nền văn hoá việt, mình đi du học bên tây thì bị cú sốc về văn hoá vì văn hoá của pháp đối xử phụ nữ khá hơn ở Việt Nam. Cho thấy câu chuyện kể ở một xứ nào đó có thể khác với một câu chuyện kể ở một xứ khác.


Nữ quyền chỉ mới được thành hình từ một thế kỷ qua và đã thay đổi lối sống của con người trên thế giới, giữa người phụ nữ được thoát khỏi vòng kim cô từ ngàn xưa, trói buột họ trong những không gian văn hóa làm vợ, làm mẹ sinh con để cái, nấu ăn giặt giũ một ô sin cho ngừi chồng với khẩu hiệu đàn ông xây nhà phụ nữ xây tổ ấm. 


Nghe nói Trung Cộng mới ra luật mới là khi ly dị người vợ không có thể lấy hết tài sản của người chồng. Luật lệ bảo vệ đàn ông như xưa thấy vì bảo vệ người phụ nữ. Khi xưa người vợ lúc nào cũng tuân lệnh chồng vì nếu bị ông chồng bỏ thì không có tòa sản, lấy gì sống. Các luật lệ từ xưa đến này đều được ban hành nhằm bảo vệ tài sản cho người đàn ông. Có nhiều xã hội mà đến ngày nay như ở các xứ theo đạo hồi giáo. Nếu người chồng qua đời, người vợ không được thừa hưởng gai tài của người chồng như ở âu châu mà thuộc về người con trai, và người vợ phải theo người em chồng hay anh chồng để nâng khăn sửa túi để được bảo đảm cuộc sống đến khi mãn đời.

Giới trẻ ngày nay đặt ra một câu hỏi đơn giản: “Nếu đàn ông và phụ nữ gần như giống nhau về mặt sinh học, tại sao đàn ông thống trị hầu hết các xã hội?” Học đường đã chứng minh không phải vì đàn ông thông minh hơn, không phải vì phụ nữ yếu hơn. Không phải vì “tự nhiên” sắp đặt như vậy.


Chế độ phụ hệ là một câu chuyện mà nhân loại đã kể cho nhau cho đến khi tất cả tin rằng nó đúng. Trong hàng ngàn năm chúng ta học ở trường lớp; Sức mạnh cơ bắp quan trọng hơn trí tuệ, chiến tranh được coi trọng hơn chăm sóc, tài sản được đề cao hơn cảm xúc. Và thế giới được thiết kế bởi những người có cơ bắp, không phải bởi những người có khả năng tạo ra sự sống. Cho thấy không có bằng chứng sinh học nào biện minh cho bất bình đẳng giới. Chỉ có thói quen lịch sử cha truyền con nối. Mình nghe kể khi xưa ở làng, mỗi lần có việc ở làng thì phụ nữ bỏ công ra nấu nướng cho đàn ông ăn. Nhà nào có con trai nhiều thì đem thúng đi lãnh thức ăn đem về, còn phụ nữ thì “viết vô”. Chán Mớ Đời 


Rồi một điều phi thường đã xảy ra. Một câu chuyện tồn tại hàng thiên niên kỷ bắt đầu nứt vỡ. Máy móc thay thế sức mạnh cơ bắp, giáo dục thay thế bạo lực và có lẽ phát minh mang tính cách mạng nhất không phải là động cơ hơi nước… mà là viên thuốc tránh thai nhỏ bé. Sinh sống tại Đà Lạt suốt 18 năm mình thấy bà cụ mình mang bầu 13 lần, sinh 9 lần, xẩy thai 3 lần. Lần đầu tiên trong lịch sử, phụ nữ có thể tự kiểm soát thời điểm sinh con. Và khi phụ nữ có thể quyết định khi nào sinh con, họ có thể quyết định họ muốn trở thành ai.


Theo mình đây là bước ngoặt quan trọng ngang với Cuộc Cách mạng Nông nghiệp. Thế giới hiện đại không chỉ khiến bình đẳng trở nên khả thi  mà trở nên hợp lý. Nói cách khác khi thế giới thay đổi, chế độ phụ hệ trở nên vô lý. Cho nên đàn ông vẫn khơi khơi giữ những gì nghe ông bà tư duy gia trưởng sẽ bị lộn xộn trong cuộc sống lứa đôi. Đưa đến nạn ly dị rất nhiều.


Nhưng phụ nữ khoan vổ ngực kêu đàn ông là ô sin muôn đời cho họ vì công nghệ mới cũng có thể tạo ra bất bình đẳng mới. Chúng ta hoan nghênh sự tiến bộ của nữ quyền, nhưng chúng ta nên cẩn thận vì cuộc cách mạng tiếp theo, cách mạng AI và công nghệ sinh học có thể tạo ra những bất bình đẳng chưa từng có.


Thuật toán có thể củng cố thành kiến giới tính, mạng xã hội có thể thao túng cảm xúc phụ nữ nhiều hơn. Tự động hóa có thể thay thế các ngành nghề chủ yếu do phụ nữ đảm nhiệm cũng có thể giới tinh hoa công nghệ, phần lớn là nam, có thể thiết kế tương lai theo hình ảnh của chính họ vì thể kỷ vừa qua cha ông họ bị nữ quyền lấn áp quá. Mối đe doạ lớn nhất đối với phụ nữ ngày nay không phải là “phụ hệ truyền thống”… mà là phụ hệ thuật toán, một thế giới nơi các hệ thống vô hình định đoạt cơ hội của chúng ta trước khi chúng ta có cơ hội lựa chọn. Và trong thế giới đó, bất bình đẳng giới có thể trở nên khó nhìn thấy hơn và khó chống lại hơn.


Nếu phụ hệ là một câu chuyện, được kể từ mấy ngàn năm qua thì nữ quyền là một phản-câu-chuyện. Không chỉ là phong trào chính trị, mà là một hành động tưởng tượng. Con người thống trị trái đất vì chúng ta có thể hợp tác quanh những câu chuyện chung. Mình nghe kể trong trại cải tạo, một quản giáo dạy các sĩ quan, giáo sư của Việt Nam Cộng Hoà về lịch sử Việt Nam như sau: “ông Lạc Long Quân lấy bà Triệu Ẩu, sinh ra 100 người con, sau đó hai vợ chồng ly dị, chia mỗi người 50 người con. 50 người đi xuống miền Nam, đói quá nên đi lính đánh thuê cho đế quốc mỹ,…” có một ông sĩ quan đưa tay lên kêu dã sử không thể nào lấy sử thiệt thế là ông ta bị quản giáo kêu chống phá cách mạng nhốt ca-sô một tháng, không biết sống chết ra sao.


Đây chính là sức mạnh lớn nhất của nữ quyền. Nó đang viết lại câu chuyện chung của nhân loại. Trong hàng ngàn năm, câu chuyện là: Đàn ông lãnh đạo, Phụ nữ đi theo như bài hát khi xưa đi trại hè: “anh em chứng mình đi trước, đàn bà theo sau.” Ngày nay, câu chuyện đang đổi khác: Phụ nữ lãnh đạo, Đàn ông hợp tác, Nhân loại cùng tiến lên. Nhưng câu chuyện không tự thay đổi. Nó thay đổi vì có người dám kể một câu chuyện mới.


Điển hình là Karl Marx và Hegel kể một câu chuyện mới, xây dựng thế giới đại đồng, con người không bốc lột nhau. Ông ta dám kể câu chuyện mới nên phải chạy sang Anh quốc tỵ nạn tương tự các thành phần chống đối các chính quyền độc tài trên thế giới. Họ can đảm kể cho mọi người khác một câu chuyện khác. Như trường hợp mấy ông cố đạo qua Việt Nam, họ gặp người Việt và kể một câu chuyện mới, bất chấp bị quân lính nhà Nguyễn bắt giam hay sát hại. Ở Việt Nam, họ kêu vua là thiên tử, dân chúng phải tuân lời, dù vua bảo chết cũng phải trung thành và chết. Đây có mấy ông cố đạo bạch quỷ đến kêu ai cũng bình đẳng trước thiên chúa và mấy trăm ngàn người Việt trở về đạo. Bị nhà Nguyễn sát hại.


Khi xưa đi kiếm vợ, mình kể chuyện về một tương lai mà mình mơ. Ai nghe đến cũng lắc đầu bỏ chạy mất dép như cô bạn đầm kể khi ghé thăm Cali vợ chồng mình tháng qua. Cô ta kể khi xưa, toa nghe mày nói sau này muốn mua nhà cho thuê, nên ta nghĩ mày điên, nay gặp lại thì phải công nhận đồng chí gái mày điên thật nên mới lấy mày. Chán Mớ Đời 


Thật ra câu chuyện đó mình nghe thiên hạ kể lại khi còn ở Đà Lạt. Họ nói ông Võ Quang Tiềm, dượng của mẹ mình, khi xưa từ Huế vào Đà Lạt, làm nghề thơ may. May áo quần cho mấy người được pháp tuyển mộ làm đường rầy cho xe lửa. Ông ta phải gánh đồ đi 3 ngày ba đêm mới xuống vùng đèo Ngoạn Mục để bán cho thợ. Sau này có tiên ông ta bán rượu, rồi khi người Việt chạy tản cư, ông ta ở lại Đà Lạt, mua rẻ mấy nhà thiên hạ bỏ chạy tản cư. Khi người Đà Lạt hồi cư thì họ phải mướn nhà của ông để ở nên từ đó ông có nhiều nhà. Tương tự câu chuyện về ông Võ Đình Dung nên mình chỉ lập lại thôi chứ chả biết sẽ làm gì, chỉ muốn có nhà cho thuê như ông Tiềm hay ông Dung.


Có thể con người trong tương lai 50 năm tới khác biệt với người hôm nay. Có thể người đồng tính muốn có con, cứ lấy tinh trùng rồi kiếm trứng của cô nào rồi cho phòng thí nghiệm tạo ra người con của mình. Có thể chọn tinh trùng người da đen, người á châu, thông minh hay khoẻ mạnh từ các lực sĩ,… đưa đến câu hỏi là“Ai sẽ kiểm soát tương lai — con người hay thuật toán?”


Ai sẽ viết tương lai chỉ đàn ông, hay tất cả chúng ta? Nếu chương tiếp theo của lịch sử được viết trong những phòng họp công nghệ, bởi những người giống nhau, nghĩ giống nhau, sống giống nhau…thì chúng ta không nên ngạc nhiên nếu tương lai chỉ thuộc về một nhóm nhỏ. Nhưng nếu phụ nữ, nhà hoạt động, nhà đạo đức học, và những tiếng nói đa dạng cùng ngồi vào bàn nếu họ định hình AI, sinh học, chính trị và kinh tế thì tương lai có thể hoàn toàn khác.


Qua lịch sử loài người, chúng ta nhận thấy quyền lực được tạo ra từ câu chuyện. Nữ quyền khởi đầu từ thế kỷ 20, dạy chúng ta rằng câu chuyện có thể được viết lại. Và hôm nay, khi chúng ta đứng trên ngưỡng cửa của thế kỷ biến đổi nhất lịch sử, câu hỏi quan trọng nhất không phải là công nghệ, mà là đạo đức: “Câu chuyện nào sẽ định hình 100 năm tới?”


Câu trả lời phụ thuộc vào việc chúng ta có đủ can đảm cùng nhau để tưởng tượng một thế giới, nơi bình đẳng không còn là câu chuyện ta mơ ước, mà là câu chuyện ta sống mỗi ngày.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Đơn côi tình già

 Đơn côi khi về già


Có lần đồng chí gái kêu mình chở đi ăn sinh nhật ai mà mụ vợ không biết, vì chị bạn rủ đi để được hát. Đồng chí gái muốn làm nữ hoàng Bolero của viện dưỡng lão nên có cơ hội được cầm micro là nhận lời. Mình nghe nói phải trả tiền lại ăn đêm thì tìm cách ở nhà nhưng có lẻ họ cần cho đủ người vì đặt bàn nên mụ vợ ra lệnh phải đi nghe các thân hữu muốn làm ca sĩ viện dưỡng lão. Thật ra âm nhạc giúp con người trì hoãn được bệnh mất trí nhớ khi về già. Tối tối nghe mụ vợ đánh đàn hát ru Chồng trong phòng ngủ khiến mình nhận thức bên em đang có ta.

Đang ngồi, thì đồng chí gái nói có chị ngồi bên cạnh, hỏi anh có quen ai đơn côi giới thiệu cho chị. Chị ta tự giới thiệu là sinh viên du học bên Bỉ sau chạy qua tây. Mình có quen một chị trong tình trạng này. Du học trước 72 ở Bỉ quốc rồi sau đó chuồn qua Pháp học. Sinh hoạt với Tổng Hội SInh Viên Paris. Đám đông thì mình ít khi xen vào, thích sống xa xa thiên hạ. Lý do là thời gian làm thủ tướng (uỷ ban hành pháp trung ương), ông NGuyễn Cao Kỳ có đi công du ở âu châu. Ông ta tuyên bố ra sao khiến báo chí thế giới nhất là pHáp đánh ông ta te tua.


Có lần mình vào trang nhà của người Mỹ loại theo chủ nghĩa da trắng độc tôn thì họ có nói đến ông Kỳ. Có mấy tờ báo thời đó được tải lên. Ông Kỳ tuyên bố ra sao mà nhà báo bẻ lái thành ông ta hăm mộ tên đồ tể Hitler. Mình đoán ông ta nói anh ngữ không rành nên diễn đạt không chuẩn, có nói ông Hitler là một người lãnh đạo giỏi chi đó. Sau vụ này, ông ta về nước, ra lệnh dẹp trường Tây, bỏ chương trình pháp văn. Lớp mình năm đó được xem là năm cuối của chương trình pháp và trường tiểu học petit Yersin được đổi thành trung tâm giáo dục Hùng Vương. Ngoài ra ông ta cấm sinh viên du học ở tây. Kêu toàn là Việt kiều yêu nước theo Việt Cộng hết. 


Nên từ đó Việt Nam Cộng Hoà chỉ cho du học tại các nước như Bỉ quốc, tây đức, Ý Đại Lợi. Du học sinh Việt Nam Cộng Hoà xin đi Bỉ quốc, hay Ý Đại Lợi hoặc Đức quốc. Sau đó buồn đời trốn qua Pháp. Có ai đó kể cho mình vụ họ trốn qua pháp từ bỉ, quên chi tiết. Đà Lạt mình có quen một anh chàng lớn tuổi hơn mình, ở đường Phù Đổng Thiên Vương, học trường Lasan Adran đi du học ở Bỉ rồi ra trường, qua Hoa Kỳ làm luận án tiến sĩ rồi lấy vợ ở lại luôn.


Trở lại chị ngồi cạnh mụ vợ hỏi giới thiệu người quen đơn côi. Vụ này thì mình không biết. Lý do là mình thuộc dạng ăn theo diện đồng chí gái. Từ ngày lấy vợ thì mình chả quen thân với ai, ngoại trừ đám Mỹ đầu tư mua nhà cho thuê. Còn người Việt thì đa số là từ mụ vợ. Nghe mụ vợ hỏi thì mình đoán chị ta phải lớn hơn mình ít nhất đến 2 tuổi. Vì đến năm 1973, Việt Nam Cộng Hoà mới cho phép du học ở Pháp lại. Đà Lạt có Nguyễn Đăng Sơn, tiệm Bắc Hương, khi xưa học Adran với mình rồi nhảy qua trường việt, đậu tú tài đi du học ở Pháp. Khi mình sang Pháp có viết thư và hắn hồi âm cho biết đang học ở thành phố Troyes. Sau đó thì biệt tích đến khi gặp bà chị họ của hắn, con tiệm Mỹ Hương thì chị ta có hỏi hắn nhưng sau mấy chục năm, không nhớ mình. Có anh chàng quen leo núi với mình, cựu hướng đạo sinh Lâm Viên, có đi hành hương với hắn ở bên Tây Ban Nha đến Santiago di Compostella.


Mình nghĩ thầm là trên 7 bó rồi, sống đơn thân cho khoẻ chớ vớt một tên nào tuổi trên 7 bó, về lại hầu hắn cho uống thuốc, thay tả mệt đời Cô Lựu, bỏ biết bao nhiêu năm làm cách mạng để đánh đuổi tên chồng ô-sin phản động rồi đeo gông vào cổ. Người phụ nữ lúc nào cũng kêu là tìm một bờ vai để tựa nhưng trên thực tế là tìm một tên ô-sin để sai khiến. Tò mò nên mình tìm tài liệu để đọc thì thất kinh.


có ông mỹ tài tử Van Dyke sống đến hôm nay là 99 tuổi, mới ra cuốn sách cho rằng điều quan trọng là có bà vợ thua ông ta đến 45 tuổi (54 tuổi) nên giúp ông ta trẻ mãi chớ tưởng tượng lấy 99 tuổi mà lấy bà vợ thứ mấy 99 tuổi chắc chết sớm. em nghĩ mấy bác nào muốn đi thêm bước nữa thì nên kiếm chồng trẻ hơn 20 tuổi còn vợ thì nên lấy độ 20-30 cho trẻ thêm. :)


Lý do là tại Hoa Kỳ có trên 16 triệu người Mỹ cao niên sống đơn côi trên tổng số 61 triệu và tạo ra nhiều vấn đề tâm lý cũng như tài chánh. Chúng ta thường định nghĩa tuổi già là một con số 70 hay 80 tuổi nhưng ít ai nhắc đến khi tấm cửa khép lại, khi khách khứa, thân hữu ra về. Sống đơn côi sau 60 tuổi người ta có thể cảm nhận những giây phút không gì quý hơn độc lập, tự do và “không có” hạnh phúc vì những điều bất định không chắc chắn cho mai sau. Khi có vợ có chồng, người ta có thể chia sẻ cho nhau những lo toan, lo âu còn khi đơn côi thì nên lên bờ lốc Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen đọc vớ vẩn. Có chị quen, mỗi lần gặp chị ta nói là sáng nào cũng đọc bờ lốc của mình khiến cảm động.


Thống kê Census Hoa Kỳ cho biết có 16 triệu người Mỹ cao tuổi trên 65 sống đơn côi, nghĩa là không chung đụng với ai như con cháu và có đến 61 triệu người Mỹ trên 65 tuổi. Xem như 25%. Đó là con số cao nhất từ xưa đến nay. Và con số này càng nhà gia tăng. 


Có một điểm đáng chú ý là ngày nay, các người Mỹ cao tuổi đơn côi không còn nghĩ là sự đơn độc là một điều cần vượt qua để sống còn như xưa. Họ đang tự tạo dựng, thiết kế một lối sống khác, các hoạt động thường nhật khác để giúp họ thấy ngày tháng qua mau. Cách đây 100 năm, người Mỹ có tuổi thọ là 63.5 tuổi, nghĩa là họ chết 18 tháng trước khi nhận lãnh tấm ngân phiếu đầu tiên khi hưu trí. 


Ngày nay thì họ sống thêm trung bình 20 năm sau khi hưu trí thế là ngọng. Thiên hạ cứ khen Nhật Bản có người sống lâu nhưng chính phủ thì chỉ biết khóc cho vơi đi những lo toan phải nuôi người già không lao động 35-40 năm sau khi về hưu. Các chính phủ trên thế giới đang điều nghiên cách trừ khử thế hệ già vô dụng. Đọc trên báo tuần rồi thấy bên tây có người kêu trên 90 tuổi thì vô nhà thương không nên cứu cấp nữa, tốn tiền nhân dân và lại vô dụng.


Người Mỹ cao tuổi nhận ra là sự độc lập không có nghĩa phải làm những gì một mình nhưng là học cách sống sao cho cuộc đời có thêm ý nghĩa, kiếm soát sự im lặng trong căn nhà. Họ lấy thí dụ bà Evelyn, chồng chết cách đay 4 năm, thay vì xem sự cô độc là chấm dứt của cuộc đời như người Mỹ thế hệ trước. Thay vì chạy theo niếu kéo tuổi trẻ, như đa số phụ nữ tại Hoa Kỳ về già, đơn độc. Bà ta tạo ra các thói quen mới khi thức giấc, uống trà trước cửa số, viết thư bằng giấy cho thân hữu hay con cháu,…


Theo viện quốc gia về cao niên (National Institute on Aging), cho biết là khi tạo được thói quen mới sẽ giúp chúng ta bớt lo âu. Người ta khuyên thay vì đợi người khác thăm hỏi, chúng ta tự chăm sóc, hỏi han mỗi ngày về sức khoẻ của mình qua các sinh hoạt thường nhật. Như đi bộ hay làm vườn, đọc sách. Ngoài ra bà Evelyn tạo dựng một môi trường sinh sống khác. Thay vì để bàn ghế, giường nệm như cũ khi chồng còn sống, bà ta xếp đặt lại cho khác để khỏi phải nhìn các góc cạnh trong nhà đầy ắp những kỷ niệm với tên Ô-sin đã bỏ bà ta đi trước. Bà ta từ từ thay đổi, chuyển đổi mọi bàn ghế trong nhà, thay màn, sơn phết màu khác.


Bà ta cho biết là từ khi bà ta thay đổi mọi thứ trong nhà thì tinh thần của bà ta cũng thay đổi. Vui vẻ hơn, phấn chấn hơn đầy năng lượng mỗi ngày. Bà ta bắt đầu học vẽ, sơn màu này nọ giúp bà ta. Thay vì thức giấc vào mỗi sáng với sự vô định, nay thì có ý định làm việc này việc nọ. Viện quốc gia về tuổi cao niên khuyên người cao tuổi cố giữ những sinh hoạt tuy chậm hàng ngày sẽ giúp họ bớt trầm cảm. 


Bà Evelyn cho biết mối nguy hiểm của sự sống một mình là sự tĩnh lặng về tinh thần từ đó bà ta tự hứa mỗi tuần phải học một thứ như vẽ, sử dụng điện thoại này nọ, hay chụp hình. Bà Inge đi học về thi ca đức thế 18. Các sinh hoạt như vậy sẽ giúp bà ta nối kết với cái mới, khám phá giúp tinh thần bình an. Có ông mỹ sống đến 100 tuổi, viết cuốn sách kể là sau khi về hưu thì ông ta cứ bỏ ra 5 năm để học một môn mới. Như học vẽ, rồi học đàn, học nói chuyện trước công chúng. Có chị quen trên 8 bó, kêu ngày nào cũng vào bờ lốc mình xem có bài mới để đọc. Chị ta kêu đọc rất nhiều bài trên bờ lốc.


Bà Evelyn cho biết mỗi ngày bà tìm cách nối kết với 3 người, bạn hay láng giềng, hay làm thiện nguyện,…để tạo ra cảm xúc là mình thuộc về một cộng đồng nào đó, chứng tỏ mình hiện hữu. Có bà mẹ chồng của cô cháu, chồng chết, rồi sau này mình phát hiện ra bà ta quen với một ông. Không biết có sống chung hay không nhưng họ đi nhảy đầm múa kép múa đôi mỗi tuần, đi du lịch. Cho thấy chúng ta về già cần một người bạn để vượt qua những ngày cô đơn.


Mình moi trong óc nhưng không tìm ra ai còn độc thân để giới thiệu cho chị ta. Bác nào đọc thân muốn em giới thiệu thì cho em biết. Chị này tầm 72 tuổi, mặt mũi còn ok, nhờ phấn son còn khi trút hết make-up và tóc giả thì em không biết. Đồng chí gái kêu chị ta đẹp. Trong nhờ đục chịu nhé.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Cuộc chiến tranh lạnh thế kỷ 21 Hoa Kỳ-Trung Cộng

 Tóm tắc cuốn sách  “Bienvenue en économie de guerre” của David Baverez

Hôm qua tình cờ xem cuộc phỏng vấn trên đài Le Figaro với ông David Baverez, một nhà đầu tư Pháp ở Hương Cảng, tốt nghiệp luật tại Pháp. Thấy ông ta nói sơ sơ về hiện tình của âu châu giúp mình giác ngộ phần nào khi về âu châu 1 tháng, nói chuyện bạn bè và xem truyền hình của pháp và Ý Đại Lợi. Các nước này như đang trong tình trạng lấn cấn chưa biết đi đường nào thêm người già về hưu quá đông khiến ngân sách quốc gia quá eo hẹp. Pháp quốc có đến 5 chính phủ trong vòng 2 năm qua, hôm trước thấy quốc hội pháp không thông qua ngân sách vì tiền đánh thuế tối đa được 18 tỷ mà tiền chi ra lên trên 30 tỷ. Thế là ngọng.


Ông ta phang một câu là Đức quốc sẽ cướp tiền (pillera) của người Pháp qua công khố phiếu. Bà thủ tướng Nhật Bản mới lên đã phá vụ công khố phiếu nên tiền Yen xuống như diều phải mưa. Chắc năm sau ráng đi Nhật Bản thêm một lần nữa vì giá rẻ. Buồn đời mình kiếm cuốn sách của ông ta đọc “Bienvenue en économie de guerre”. Em xin tóm tắc lại đây để hiểu chút tình hình thay vì bắt chước thiên hạ chửi loạn cào cào.


Trong cuốn sách xuất bản tháng 5 năm 2024, ông David Baverez cho rằng thế giới đã bước vào một kỷ nguyên mới mà ông ta gọi nền kinh tế thời chiến “économie de guerre”. Theo ông, năm 2022 đánh dấu một bước ngoặt lịch sử quan trọng, giống như các năm 1914, 1945 hay 1989. Sự chuyển đổi này chấm dứt hơn ba thập kỷ của nền kinh tế thời bình dựa trên toàn cầu hoá và hợp tác mà ông ta gọi “trente ans glorieux” mà người Mỹ cũng như người âu châu ăn trên xương máu của người Tàu và các xứ khác khi họ chuyển đổi nơi sản xuất qua các xứ này để tránh sự tàn phá môi trường tại Quốc gia họ. Người Mỹ cũng như người âu châu như bị nghiện sống vui vẻ, đi chơi, nghỉ hè, làm 35 tiếng một tuần nhờ mua sắm hàng hóa rẻ từ Trung Cộng. 


Đùng một cái, Covid xảy ra khiến các chuỗi cung ứng bị gián đoạn, người Mỹ và âu châu tĩnh mộng, than trời trong khi đó các anh ba tàu cười há há, không có tụi tao chúng mày chết. Các nước âu châu và Hoa Kỳ chới với đang tìm cách làm chủ lại tình hình kinh tế nhưng có lẻ đã quá muộn.


Sự kết thúc của nền kinh tế thời bình (1989–2022): Trong hơn 30 năm sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, phương Tây sống trong một môi trường kinh tế lý tưởng: tự do thương mại, chuỗi cung ứng toàn cầu trơn tru, niềm tin giữa các quốc gia, thị trường giữ vai trò quan trọng hơn địa chính trị. Nền tảng của thời kỳ này là sự phụ thuộc lẫn nhau: càng thương mại, càng ít xung đột. Theo ông tây Baverez, mô hình này giờ đã sụp đổ.


Xin mở ngoặc, khi mình theo học cao học về phát triển đệ tam thế giới tại trường Bách Khoa Lausanne. Có ông thầy giải thích như sau: xưa kia vùng kinh tế chính trị của âu châu nằm xung quanh biển Địa Trung Hải, ta thấy thời La mà vùng bắc Phi châu, Hy Lạp và các nước âu châu thuộc vùng này. Sau khi Kha Luân Bố tìm ra Châu Mỹ thì bắt đầu giao thương với các vùng Đại Tây Dương là chính, các nước ven biển Đại Tây Dương phát triển mạnh đến đầu thế kỷ 19 thì xem như hoàn toàn. Và thế kỷ 20 đánh dấu vùng kinh tế cũng như văn hoá của Thái Bình Dương được nổi bật lên. Các tiểu bang Hoa Kỳ ở miền Tây như Cali, Oregon, Seattle  cùng như Vancouver của Gia-nã-đại và miền nam Mễ Tây Cơ phát triển mau lẹ  song song với Nhật Bản, Trung Cộng, Nam Hàn và các vùng Đông Nam Á. Xem như kỷ nguyên của nền văn hoá, kinh tế Thái Bình Dương.


Năm 2022: khởi đầu của sự bất ổn toàn cầu. Hai sự kiện lớn đã chấm dứt nền kinh tế thời bình: Chiến tranh Nga–Ukraine. Cuộc chiến đưa xung đột trở lại châu Âu, gây khủng hoảng năng lượng, lạm phát và bất ổn chiến lược. Ngày nay chúng ta khám phá ra các nước âu châu đều mua khí đốt và dầu hoả của Nga cho nên lên tiếng cấm vận bú xua la mua nhưng anh Puchin vẫn vui vẻ lên đài truyền hình kêu gọi mấy anh tây ăn caviar, uống vodska.


Thêm Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình củng cố quyền lực tuyệt đối và đẩy Trung cộng theo hướng kiểm soát chặt chẽ, ít cởi mở hơn. Mình xin mở dấu ngoặc ở đây vì mình có theo dõi vài nhân vật người Tàu chống Trung Cộng ở Hoa Kỳ và đài Loan. Mấy người này thì mạnh miệng kêu Tập thị hết thời này nọ. Có thể họ chỉ là công cụ tuyên truyền của Hoa Kỳ hay Trung Cộng để ru ngủ lòng dân Hoa Kỳ.


Ông họ Tập này khơi khơi kêu sẽ đánh chiếm Đài Loan này nọ, rồi bà thủ tướng Nhật Bản mới lên ngôi đã đe doạ Trung Cộng không được đụng tới người em gái sầu mộng Đài Loan của mình. Đài Loan xưa kia là thuộc địa của Nhật Bản, chỉ mất sau khi Tưởng Giới Thạch đem tàn quân của ông ta đổ bộ lên đó. Cho nên đối với Nhật Bản vẫn xem Đài Loan là đất của họ. Mình có quen một giáo sư đại học gốc Đài Loan, ông ta cho biết là khi ở Đài Loan, ông ta không xem đài truyền hình của Tưởng gIới Thạch mà xem đài truyền hình Nhật Bản. Sau này du học rồi ở lại Hoa Kỳ. Ông vẫn xem Nhật Bản là mẫu quốc. Kết quả: ngày nay địa chính trị quay lại làm yếu tố quyết định trong kinh tế. Trung Cộng với chương trình Vành Đai và Con Đường mà mình có dịp hiển thị tại các xứ Liên Xô cũ như Tajikistan, Uzbekistan, Kazakhstan , Kyrgyzstan , Georgia,… hay ở Phi CHâu như Tanzania, Ai Cập, Jordan,…


Bây giờ mình mới hiểu lý do bộ quốc phòng Hoa Kỳ được cải danh thành bộ chiến tranh. Cho thấy thời đại chiến tranh kinh tế đã đến rồi. Hoa Kỳ tìm cách chận Venezuala bán dầu cho Trung Cộng nhân danh đánh chìm các tàu chở ma tuý. Xin nhắc lại là mấy ông ba tàu sản xuất fentanyl để đưa vào Hoa Kỳ. Cũng như trước đây khi Hoa Kỳ chiếm đông Á Phủ Hãn đã kêu người dân sở tại bỏ trồng rau cãi trồng thuốc phiện để đưa các nước như Nga và Trung Cộng. Mình có kể một cự nhân viên CIA bị tù 5 năm vì đã lên tiếng báo động CIA tra khảo tù binh và giải thích như trên. Tương tự khi xưa, Hà Nội đem ma tuý vào miền nam để đầu độc thanh niên miền nam và lính mỹ. Có dịp mình kể vụ này.


Nền kinh tế thời chiến: trong kỷ nguyên mới này, bốn cơ chế thay thế các quy tắc trước đây: Ngờ vực thay thế sự tin tưởng: các quốc gia bảo vệ chuỗi cung ứng sống còn. Pháp lý trở nên bất ổn: trừng phạt, hạn chế công nghệ, kiểm soát xuất khẩu. Cứ thấy ông Trump ký sắc lệnh trừng phạt hay thu lại luật lệ trước đây. Xung đột trở thành cách điều chỉnh quan hệ quốc tế: cạnh tranh Mỹ–Trung, chiến tranh năng lượng, cạnh tranh công nghệ. Và sự phụ thuộc trở thành vũ khí: khí đốt Nga, đất hiếm Trung Quốc, chip Đài Loan. Trung Cộng vừa ra lệnh cấm bán đất hiếm là thấy ông Trump xuống nước ngay. Nhưng chỉ để câu giờ trước khi có thể khai thác đất hiếm ở Hoa Kỳ cũng như các xứ khác. Nguy hiểm nhất là ngày nay thế giới không còn được điều hành bởi thị trường, mà bởi sức mạnh. Trên thực tế thì nước nào cũng có đất hiếm nhưng họ mua từ Trung Cộng vì khai thác đất hiếm rất nguy hiểm cho môi trường. Có lần tình cờ gặp ông mỹ có tham chiến tại Việt Nam, ông ta kể về bầu-xít mà người Mỹ đã tìm thấy ở nơi ngày nay có dạo lên báo tùm lum Formosa.


Ông Baverez đề nghị diễn giải lại ESG (Énergie – Sécurité – Guerre) năng lượng-an ninh-chiến tranh. Theo ông, ưu tiên thật sự của các quốc gia phải là: Năng lượng: nền tảng của chủ quyền. An ninh: hạ tầng, dữ liệu, lương thực, vận tải. Chiến tranh: chuẩn bị cho xung đột quân sự, mạng và công nghiệp. Đây là khung phân tích realist nhất theo ông. Mình nhắc lại là cuộc chiến Ukraina rất quái đản là một mặt âu châu kêu gọi chống trả, cấm vận Puchin nhưng một mặt họ vẫn tiếp tục mua dầu khí của Puchin. Nay anh Trump lên kêu không được mua của Puchin , mua của Hoa Kỳ.


Trước đây trong vòng 3 thập kỷ, Hoa Kỳ và âu châu chơi đường như sau: kêu Trung Cộng sản xuất xuất cảng cho họ xài nên đời sống rẻ sung sướng. người Mỹ và Âu châu chỏ việc in trái phiếu trả cho Trung Cộng. Tương tự Nhật Bản khi xưa sản xuất bán cho tây phương rồi lấy trái phiếu đến khi thế hệ lao động về già, ít người để vì lo sản xuất nên quên thả gà ra đá. Mình xem một phim tài liệu về Nhật Bản, có bà trẻ độ 50 kêu là từ 10 năm nay hai vợ chồng không đá gà. Kinh. Trung Cộng ngày nay cũng lâm vào tình trạng tương tự, sản xuất nên chỉ cho đẻ một con, nay dân số lão hoá thế là ngọng. Hoa Kỳ và âu châu rút khỏi ngược, đầu tư vào chỗ khác như tường hợp Nhật Bản 30 năm về trước.


Đây là phần được tác giả cảnh báo mạnh mẽ nhất. Châu Âu đang phụ thuộc vào ba yếu tố:

•Năng lượng: khí Nga, dầu Trung Đông. Ngày nay về âu châu thấy thiên hạ cứ chống đi xe hơi này nọ trong khi đó không có dầu hoả, thậm chí cũng chống sử dụng năng lượng nguyên tử. Mình đọc báo đức thì thấy họ phỏng vấn thanh niên đức, mấy người này trả lời thà bị Nga xâm chiếm, đô hộ còn hơn đánh nhau ra mặt trận. Tư tưởng của người Pháp mà có dịp nói chuyện, toàn là écolo. Người già thì không cần đi xe hơi nhưng kinh tế cần năng lượng.

•Công nghiệp: sản xuất tại Trung Quốc. Cái gì cũng made in China, trước đây anh cứ để mấy anh ba tàu sản xuất bán rẻ cho anh tây bà đầm xài. Bây giờ thì tá hoả tam tinh vì khơi khơi anh ba tàu có thể ngưng bán cung cấp đồ phụ tùng này nọ là ngọng. Họ nói đưa qua Việt Nam hay các nước khác nhưng quá trễ thêm qua Việt Nam thì cũng như ở Trung Cộng vì đa số công xưởng ở Việt Nam được làm việc đàng hoàng là có cái dù che của Trung Cộng nên không bị công an hỏi han.

Quân sự: bảo vệ chủ yếu dựa vào Hoa Kỳ. Cứ dựa vào NATO canh gác cho mình ngủ như CUba và Việt Nam canh gác cho thế giới đại đồng ngủ bình yên. Bao nhiêu lính mỹ đóng tại âu châu. Nay anh mỹ ngang xương kêu không trả tiền nữa. Thế là ngọng.


Ông Baverez thậm chí dùng khái niệm “Yemen hoá châu Âu”: châu Âu có nguy cơ trở thành chiến trường giữa các siêu cường. Chúng ta thấy qua vụ tiếp tế cho Ukraina, có sự sức mẻ khi Hung Gia Lợi, và vài nước khác vì lợi ích của xứ họ nên không muốn tiếp tục đóng góp.


Lạm phát kéo dài và sự kết thúc của “just-in-time”. Từ covid đến giờ lạm phát Hoa Kỳ lên như điên, ăn tô phở bây giờ hết dám ăn vì gần $20. Theo ông Baverez, lạm phát hiện nay mang tính cơ cấu, không còn tạm thời: lý do là tài nguyên khan hiếm, chuỗi cung ứng phân mảnh, chi phí an ninh năng lượng tăng, xu hướng tái công nghiệp hoá. Do đó, mô hình “just-in-time” phải nhường chỗ cho “just-in-case”, dự trữ và bảo đảm an toàn chiến lược.


Châu Âu cần làm gì? Ông Baverez đưa ra nhiều giải pháp:

Tái công nghiệp hoá các lĩnh vực then chốt: năng lượng, quốc phòng, chip, dược phẩm.

Xây dựng chiến lược chung giữa 27 nước.

Tạo liên minh giữa địa chính trị – kinh tế – doanh nghiệp.

Đầu tư mạnh vào quốc phòng và an ninh mạng.

Điều quan trọng nhất là xây dựng chiến lược tự chủ.


Đọc cuốn sách của ông tây này giúp em hiểu rõ thêm lý do họ muốn chiến tranh Ukraina kéo dài. Để âu châu có thời gian tái cấu trúc lại kỹ nghệ hoá của họ vì nhân danh bảo vệ môi trường này nọ. Cũng như Hoa Kỳ dẹp qua một bên. Thật ra đọc tài liệu của Trung Cộng thì thấy họ tiến mạnh về trí tuệ nhân tạo. Thấy mấy ông thần ả rập đầu tư vào Hoa Kỳ rất nhiều tiền, nay mình mới bắt đầu hiểu sự việc cho cuộc chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ-Trung Cộng.


Sang năm mình sẽ đi Trung Cộng lại để xem sau 18 năm xứ này tiến xa như thế nào vì nghe thân hữu đi về kể chuyện thấy hấp dẫn. Mình có đọc báo Trung Cộng nhưng muốn xem tận mắt thay vì ngồi đọc tin tức tuyên truyền của mỹ và âu châu rồi kết luận theo sự tuyên truyền. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn

Tướng George Marshall khôi phục lại âu châu

 Chiến Tranh và Hoà Bình

Dạo này dân cư mạng ồn ào trên các mạng xã hội. Người nguyền rủa Hoa Kỳ bán đứng Ukraine như Việt Nam Cộng Hoà, Á-Phú-Hãn, các đồng minh. Người thì hoan hô, kêu cuộc chiến không phải của người Mỹ hay người Pháp. Trong khi đó Hoa Kỳ đang quần Venezuela thì các đồng minh như Puchin, Tập Cận Bình, Cuba chả thấy lên tiếng. 


Bên pháp số chống đối tổng thống Macron thì kêu ông Macron hân hoan tuyên bố sẽ cung cấp 100 chiến đấu cơ Rafale cho Ukraina trong vòng 10 năm nữa, khiến cổ phiếu công ty chế tạo máy bay này tăng vọt lên 10% trong khi ngân quỹ không được quốc hội duyệt phê. Họ kêu thu thuế được 18 tỷ mà phải xài đâu 30 tỷ (không nhớ số chính xác, chỉ lướt qua). Dân tình kêu tiền đâu, bán cho Ukraine, họ hết tiền, hết người để đánh. Chết rất nhiều. Mình theo dõi bên ủng hộ Ukraina, bên ủng hô Puchin thì cả hai bên chết rất nhiều và đào ngủ cả hai bên cũng nhiều. Mình thích đọc tài liệu của hai bên để có một nhận định riêng ít bị tuyên truyền.


Khi xưa, còn bé mình nghe đài Sàigòn buổi chiều kêu Việt Cộng bỏ lại mặt trận 120 xác chết, và bao nhiêu bị thương, phe ta vô sự rồi buồn đời tối mình mở đài Hà Nội ra nghe thì cũng cùng trận đánh, phe ta diệt 400 tên lính nguỵ,… cho nên mình thất kinh từ đó, không bao giờ tin vào một tin tức. Sau này đọc tin tức cả hai bên thì được biết Mùa Hè Đỏ Lửa, hai bên chết kinh hoàng. Mình hỏi ông chú họ ở quê, chú kể là hãi hùng, đại đội của chú chỉ sống sót vài người, chú bị thương nhẹ nên may được trở về quê quán. Đọc hồi ký các sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà cũng nghe kể tan thương lắm.

Trên tờ Foreign Affairs, có đăng vụ phụ nữ Nga hối hả lấy chồng, đối tượng là những chàng trai sắp sửa được đưa ra mặt trận, vào lò nghiến thịt. Lý do là những người tử trận được tiền tử đền bù khá nhiều và có thể được trả lương cả đời nhằm khuyến khích họ ra đi. Họ sẽ hát ngày thành hôn tôi bận đồ hành quân và vợ tôi chỉ mong cho tôi sớm hy sinh cho Puchin …. Cho thấy người Nga vẫn vui khi có chiến tranh vì được lãnh tiền vì chiến tranh.


Mình thích sự trào phúng của người Pháp vì có nhiều người đưa thí dụ Pháp quốc ký giấy “letter of intent” bán cho Ukraina 100 phi cơ chiến đấu Rafale như: hội phụ huynh muốn gây quỹ nên mua bột mì, đường bú xua la mua rồi bỏ công làm bánh này nọ, sau đó đem bán rồi cúng hết tiền cho chương trình của trường. Chính phủ Macron nói bán 100 chiến đấu cơ Rafale nhưng Ukraine không có tiền thì xem như cho không. Tạo công ăn việc làm và làm giàu cho công ty chế tạo Rafale, đã giúp ông ta lên ngôi tổng thống. Cũng có thể chỉ nói cho vui làm trò để lấy tinh thần cho lính Ukraina tiếp tục đánh. Nghe phía bên Puchin thì cũng muốn đàm phán. Cần giữ đất đã chiếm vì nếu không thì dân nga sẽ thịt ông ta. Mà ông Zelensky cũng lâm vào tình trạng nếu mất đất thì dân chúng Ukraina cũng thịt ông ta. Có lẻ ông Zelensky sẽ bị ám sát trước khi ký kết ngưng bắn. Rồi vài năm sau, Puchin lại cho quân xua qua Ukraina nữa như Hà Nội đã làm sau khi bị đánh tơi bời hoa lá năm Mậu Thân. Dân chúng miền nam không nổi dậy chạy theo họ mà bỏ chạy nên họ dẹp vụ giải phóng miền nam và ra mặt đưa bộ đội vào Nam bất kể ký kết hiệp đình Paris.


Sáng nay, lại nghe Hung Gia Lợi kêu được Hoa Kỳ cho phép mua dầu khí rẻ của Nga và sẽ chia cho Serbia. Mấy ông tây bà đầm ở Âu Châu hô hào đánh cho Puchin bay đầu nhưng lại mua dầu khí rẻ của Puchin thì làm sao cấm vận được. Họ được mua dầu khí rẻ thì càng tốt. Chiến tranh càng kéo dài dân âu châu càng lợi. Họ chỉ hô hào đạo đức giả.


Nhớ khi xưa, học lịch sử Hoa Kỳ, sau khi Hitler tự tử, nay lại nghe tin tức ở Á Căn Đình cho rằng ông này đã chạy sang Á Căn Đình sống đến chết. Quân đội đồng minh chiến thắng thì có chương trình MArshall nhằm tái thiết Tây Âu lại. Cứ tưởng tượng đang đứng giữa trung tâm một thành phố châu Âu năm 1945. Không có tiếng xe cộ. Không có tiếng rao buôn bán. Chỉ có mùi khói, những bức tường cháy xém, và tiếng bước chân nặng nhọc của những con người đang cố gắng sống sót sau một cơn ác mộng kéo dài sáu năm. Những cây cầu gãy đôi, những trường học chỉ còn là đống gạch. Những nhà máy không còn máy móc và tệ hơn tất cả: không còn hy vọng. Có thể nói là tuyệt vọng.


Hình ảnh này mình đã nhìn thấy năm Mậu Thân, khi lên Cây Số 4, phụ gia đình dì Ba Ca, xây lại căn nhà, dấu vết bom napalm vẫn đầy , nghẹt mùi cháy của bom phosphore. Hình ảnh dượng Ba Ca đứng nhìn căn nhà gỗ đã tương, chỉ còn nền xi-măng. Dượng và mấy người con trai mỗi ngày làm hắc-lô để xây lại. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã tài trợ một số tiền. Hình ảnh hoang tàn của chiến tranh khiến mình hoảng sợ, chả muốn đánh nhau, tham dự cuộc chiến.

Hình ảnh mình đã thấy ở Số 4 sau khi Việt Cộng rút lui và trận mưa bom napalm mà từ khu vực nhà mình đứng thấy rõ các cuộc oanh tạc. Lúc đầu thấy máy bay bà già bay vòng vòng rồi nghe cái tạch, rồi thấy đạn khói bay xuống đất khói bay lên rồi vài phút sau là khu trục cơ bay đến thả bom. Dạo đó chưa học hyperbol nhưng sau này lớn lên học là hiểu liền nhờ chứng kiến thật khi xưa. Có ai biết lý do Việt Cộng lại cắm quân lại Số 4? Vì dân số 4 có nhiều người nằm vùng?


Trong bối cảnh Tây Âu thời hậu chiến, xuất hiện một nhân vật, dáng khắc khổ, ít khi cười, nói chuyện thẳng thắn nhưng rất chậm rãi, không ồn ào phô trương. Tên của ông là George Catlett Marshall. Trong chiến tranh, ông từng chỉ huy hơn tám triệu binh sĩ, nhiều hơn cả lực lượng của Mỹ ngày nay. Ông góp phần định hình chiến lược đánh bại phe Trục. Tướng Eisenhower, cựu tổng thống Hoa Kỳ từng nói:“Marshall là người đàn ông vĩ đại nhất tôi từng gặp.”


Nhưng điều khiến ông Marshall trở nên một tướng lãnh độc nhất, không phải là khả năng chỉ huy chiến tranh mà là khả năng nhìn thấy hòa bình khi thế giới chỉ thấy tro tàn. Tương tự ngày nay, dân cư mạng cứ hô hào Ukraine phải đánh tới người dân cuối cùng. Mình xem biểu đồ ngân sách của âu châu và Hoa Kỳ viện trợ cho Ukraine từ khi cuộc chiến khởi đầu thì thất kinh, người Mỹ đóng góp rất nhiều mà nay âu châu kêu gọi đóng góp thêm khiến người Pháp kêu trời. Tiền đâu ra. Lúc đầu mình tưởng chỉ có Hoa Kỳ nay khám phá ra âu châu cũng banh ta lông về kinh tế. Chúng ta cần chuẩn bị cho cuộc khủng hoảng kinh tế sắp tới.

Ông Trump lên kêu không cung cấp viện trợ nữa thế là ngọng. Mình nghe nói nhưng chưa có tin chính thức là chính quyền Ukraina cũng tham nhũng lắm. Đồ viện trợ qua tay chính phủ Ukraina rồi trở lại các tay khác ở Âu châu và Hoa Kỳ. 


Trong một buổi điều trần tại thượng viện, tướng George C. Marshall ngồi im lặng trong khi các thượng nghị sĩ tranh luận, giọng nói của họ vang lên khi họ cố gắng biến chiến thắng khó nhọc của Thế chiến II thành sự trả thù. Đó là năm 1947, và châu Âu đã tan vỡ. Các thành phố nằm trong đống đổ nát, người dân chết đói, và trật tự chính trị từng gắn kết lục địa này đang sụp đổ. Toàn bộ các quốc gia đứng bên bờ vực hỗn loạn. Các người dân địa phương trả thù nhau vì tội làm pháp gian, đức gian, ý gian,… các phụ nữ có sinh hoạt với đức quốc xã trong thời chiến tranh, bị cạo đầu, bôi nhọ, chửi bới. Thêm Stalin cắt đất, khiến nhiều dân tộc phải rời bỏ chốn chôn nhau cắt rốn đi về một xứ nào đó họ chưa bao giờ biết. Như trường hợp bà Inge, sinh ra trong vùng đất ở Ba Lan, sau đệ nhị thế chiến bị tống cổ về Đức quốc. Phải học tiếng đức vì được xem là người đức thay vì Ba Lan như xưa.


Hoa Kỳ đã có thể quay lưng. Họ có thể tuyên bố chiến thắng của mình và bỏ mặc châu Âu chịu đau khổ. Nhiều người trong Quốc hội mong muốn điều đó. George Catlett Marshall, hiện là Ngoại trưởng, lại có một tầm nhìn khác. Ông đề nghị một điều mà ít ai có thể tưởng tượng được: tái thiết chính những quốc gia mà nước Mỹ đã chiến đấu chỉ hai năm trước đó như Đức quốc và Nhật Bản thêm Ý Đại Lợi. Nhờ đó có thể giúp Hoa Kỳ khôi phục các xưởng sản xuất, tái thiết sau thế chiến thứ 2. Giúp người giúp ta 100 lần 100 giàu có.


Ngày 5 tháng 6 năm 1947, ông đứng trên bục giảng tại Đại học Harvard, đọc bài diễn văn tốt nghiệp chỉ kéo dài chưa đầy mười phút. Không có những khoảng lặng kịch tính như mình học ở hội Toastmasters hay những lời kêu gọi cảm xúc, không có những lời hoa mỹ để nhận được tràng pháo tay. Thay vào đó, ngoại trưởng Marshall nói một cách thẳng thắn, thực tế về sự tàn phá ở châu Âu và trách nhiệm của những người đã thoát khỏi nó. “Chính sách của chúng ta không nhằm vào bất kỳ quốc gia hay học thuyết nào,” ông nói, “mà là chống lại nạn đói, nghèo đói, tuyệt vọng và hỗn loạn.” Ai buồn đời thì nghe bài diễn văn của ông ta:

https://youtu.be/dg9_GqXa770?si=Xc6IxauqhZcY-PX3


Mấy ông tàu cũng bắt chước ý định này với chương trình “Vòng đại và Con Đường”, giúp họ phát triển, có công ăn việc làm cho người Tàu lại thêm có ảnh hưởng ở các các xứ mà họ thực hiện chương trình này như ở Phi Châu và các nước thuộc Liên Xô cũ mà mình đã từng ghé. Puchin thay vì đem quân đi đánh thiên hạ, cứ dùng tiền bán dầu hoả rồi thành lập các chương trình như Trung Cộng là được lòng dân thế giới, giúp đất nước giàu có.


Đằng sau những lời lẽ bình tĩnh ấy là một người đàn ông đã chứng kiến ​​chiến tranh sâu sắc hơn bất kỳ ai. Với tư cách là Tổng Tham mưu trưởng Lục quân, Marshall đã chỉ huy lực lượng quân sự lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, hơn tám triệu quân dưới quyền. Ông đã giám sát mọi hoạt động, mọi kế hoạch, mọi cuộc di chuyển từ Bắc Phi đến Normandy. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ tìm kiếm sự chú ý của đám đông. Nếu ai có dịp đi viếng vùng Normandie, nên ghé lại các nghĩa địa chôn lính mỹ chết khi được gửi sang âu châu. Nghĩa trang Biên Hoà của lính Việt Nam Cộng Hoà không bằng những nghĩa trang quân đội Hoa Kỳ tại vùng này. Lính chết nhiều khi đổ bộ xuống bờ biển Normandie. Khi viếng những nghĩa trang này, thì không ai có khả năng hô hào chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, toàn là lính trẻ không. Mình ghé lại nghĩa trang quân đội Việt Nam Cộng Hoà, ở Biên Hoà, thấy toàn là lính chết ở tuổi 19, 20. Ukraina hay Nga, đều có những người mẹ, hay vợ khóc khi được tin con hay chồng hy sinh cho cuộc chiến vô nghĩa.


Như ông thượng tá mình gặp, chủ một tiệm ăn ở Vịnh Hạ Long. Ông ta than bỏ cả tuổi trẻ vào nam đánh mỹ cút nguỵ nhào, nay về quê mở tiệm ăn, phải phục vụ bọn đế quốc du khách mỹ và nguỵ quân nguỵ quyền như anh. Chán Mớ Đời. Sau 10 năm say men chiến thắng khiến dân từ có cơm để ăn phải ăn bo bo mà Liên Xô cho ngựa ăn để sống. Phải quay đầu lại năn nỉ Hoa Kỳ xin bang giao. Cho thấy cuộc chiến vo nghĩa, thêm ông Lê Duẫn cuối đời như giác ngộ cách mạng kêu “chúng ta đánh cho Nga, cho Tàu”.  


Khi Tổng thống Roosevelt đề nghị ông cơ hội lãnh đạo cuộc đổ bộ của quân Đồng minh vào châu Âu, Marshall đã từ chối, chỉ nói: “Tổng thống phải quyết định nơi nào tôi hữu ích nhất.” Ông hiểu tầm quan trọng của sự lãnh đạo, nhưng ông cũng biết khi nào nên để người khác chỉ huy. Roosevelt đã chọn Eisenhower cho Ngày D, và Marshall ủng hộ quyết định này mà không hề phàn nàn. 


Giờ đây, khi sự tàn phá của chiến tranh lan rộng từ chiến trường đến sinh mạng của hàng triệu thường dân, ông Marshall nhận thấy rằng việc giành lại hòa bình sẽ đòi hỏi cùng một kỷ luật và sự hy sinh đã giúp giành chiến thắng trong chiến tranh. Ông đề nghị một chương trình mà sau này được gọi là Kế hoạch Marshall là một nỗ lực to lớn để tái thiết Tây Âu, không phải thông qua chiếm đóng hay trừng phạt, mà thông qua viện trợ. Kế hoạch này sẽ tiêu tốn 13 tỷ đô la, một số tiền tương đương hơn 170 tỷ đô la theo giá trị hiện đại.


Kế hoạch này kêu gọi thực phẩm, máy móc và chuyên môn của Mỹ đổ vào các nền kinh tế đang bị tàn phá của châu Âu. Kế hoạch này sẽ giúp xây dựng lại các nhà máy, khôi phục nông trại và ổn định chính phủ. Nó cũng sẽ gắn kết tương lai của châu Âu với Hoa Kỳ, tạo ra mối liên kết tin tưởng thay vì oán giận. Nhờ đó mà kinh tế và kỹ thuật Hoa Kỳ phát triển rất nhanh sau cuộc chiến khiến khắp nơi thế giới, ai nấy đều có nhà và xe hơi. Một nhân công mỹ có thể nuôi một vợ và con, có chiếc xe hơi.


Trong nước, ý tưởng này đã vấp phải sự phản đối dữ dội. Những người chỉ trích cáo buộc Marshall lãng phí tiền của Mỹ, "nuôi dưỡng người nước ngoài" khi các cựu chiến binh Mỹ vẫn cần sự giúp đỡ. Tương tự ngày nay, người ta hô hào ủng hộ Ukraine đánh Puchin nhưng chả thấy ai tự nguyện lên đường sang Ukraine đánh Puchin. Một số người thậm chí còn gọi kế hoạch này là phản quốc, cho rằng nó sẽ củng cố sức mạnh cho những kẻ thù cũ như Đức và Ý. Tại Thượng viện, cuộc tranh luận trở nên gay gắt. Tuy nhiên, Marshall vẫn giữ bình tĩnh. Ông không tranh luận hay biện hộ. Ông chỉ đơn giản nêu ra sự thật và để logic của lòng trắc ẩn tự lên tiếng.


“Hoa Kỳ sẽ giúp tái thiết toàn bộ châu Âu.” Không chỉ giúp một nước, không chỉ giúp đồng minh, mà là toàn bộ lục địa chìm trong bóng tối. Ông không hứa cứu trợ nhân đạo đơn thuần mà đề nghị một phương thuốc chữa tận gốc: giúp các quốc gia tự đứng vững. Một phóng viên đã viết “Marshall không nói bằng lửa, mà bằng sự tỉnh thức.” Và chính sự tỉnh thức ấy đã thay đổi thế giới.


Trong vòng bốn năm, kết quả là không thể phủ nhận. Sản lượng công nghiệp của châu Âu đã tăng hơn 35%. Nạn đói giảm, chính phủ ổn định, và những kẻ thù cũ trở thành đồng minh. Kế hoạch này không chỉ tái thiết các thành phố mà còn xây dựng lại niềm tin vào nền dân chủ, vào sự hợp tác, và vào chính nước Mỹ. Như chúng ta thấy Tây Đức và Nhật Bản, phát triển thậm chí ngày nay người Nhật và người Nam Hàn làm cái tượng của tướng McArthur.


Công nghiệp Tây Âu vượt mức trước chiến tranh. Người dân có việc làm trở lại. Nhà cửa được xây mới. Hệ thống dân chủ được củng cố. Các quốc gia kề vai hợp tác thay vì nghi ngờ. Ngay cả những nước từng là đối thủ trong chiến tranh cũng nhận viện trợ. Marshall hiểu rằng: Hòa bình bền vững không thể xây trên lòng thù hận. Chỉ có thể xây trên thịnh vượng chung.


Do đó khi nghe thiên hạ chửi nhau này nọ. Quá dễ vì họ không phải hy sinh nhân mạng, tài chính nên tha hồ hét bú xua la mua đến tên cuối cùng cũng đánh. 


Kế hoạch Marshall trở thành nền tảng cho Cộng đồng Kinh tế châu Âu, rồi Liên minh châu Âu sau này. Kế hoạch Marshall cung cấp 13 tỷ đô la, một con số khổng lồ thời bấy giờ. Nhưng số tiền ấy vẫn chưa phải là điều đặc biệt nhất. Lần đầu tiên trong lịch sử, một cường quốc chiến thắng chọn xây dựng thay vì trừng phạt. Có lẻ ông ta học được bài học thế chiến thứ nhất, khi quân chiến thắng trừng phạt Đức quốc khiến phòng trào Đức quốc Xã lên ngôi và tìm cách trả thù tạo nên thế chiến thứ 2.


Họ gửi lúa mì đến nuôi dân đói, gửi than để sưởi ấm mùa đông, máy móc để dựng lại nhà máy. Gửi vốn để mở lại thương cảng và gửi cả niềm tin rằng tương lai có thể tốt hơn. Một nhà sử học viết: “Kế hoạch Marshall không chỉ mang hàng hóa đến châu Âu. Nó mang lại hy vọng.”


Khi George Marshall nhận giải Nobel Hòa bình năm 1953, ông trở thành người lính chuyên nghiệp đầu tiên làm được điều này. Đứng trước khán giả ở Oslo, ông đã nhận giải thưởng với cùng một sự khiêm nhường lặng lẽ đã định hình cuộc đời ông. "Hòa bình", ông nói, Tôi là một người lính. Tôi hiểu chiến tranh tàn phá thế nào và tôi biết hòa bình đáng giá ra sao.” Ông không nói về chiến thắng, không nói về vinh quang. Ông nói về điều duy nhất khiến chiến thắng có ý nghĩa: khôi phục lại cuộc sống của con người.


Không lâu sau đó, ông từ giã sự nghiệp chính trị. Không giống như nhiều người cùng thời, ông không viết hồi ký, không có bài phát biểu nào để tôn vinh thành tích của mình, và cũng không tìm kiếm chức vụ chính trị nào. Ông chưa bao giờ đấu tranh để được công nhận, mà chỉ đấu tranh vì kết quả. Khi ông qua đời vào năm 1959, không có tượng đài cá nhân hay lời tri ân nào được viết ra. Chỉ có một di sản được khắc trên những con phố được xây dựng lại của châu Âu và sự ổn định của một thế giới mà ông đã góp phần cứu vãn.


George C. Marshall đã dành cả cuộc đời để làm chủ nghệ thuật chỉ huy, nhưng hành động lãnh đạo vĩ đại nhất của ông không đến trong chiến tranh mà là trong hòa bình. Vào thời điểm thế giới sẵn sàng trừng phạt, ông đã chọn tái thiết. Vào thời điểm cơn giận dễ dàng đến, ông đã chọn lòng nhân từ.


Ông đã chứng minh rằng sức mạnh thực sự không phải là sức mạnh hủy diệt, mà là lòng can đảm để khôi phục lại những gì sự hủy diệt đã lấy đi. Một nhà ngoại giao châu Âu từng nói: “Nếu không có Marshall, có lẽ châu Âu vẫn còn chia rẽ, đói nghèo và sợ hãi.”


Khi mình ở Pháp quốc, có viếng vùng Normandie, nơi có mấy nghĩa trang quân đội Hoa Kỳ, đã nằm xuống để “giải phóng” nước pháp. Ngược lại người Pháp rất ghét người Mỹ kêu “les amerloques” này nọ, chửi Hoa Kỳ không thương tiếc. Nếu không có người Mỹ nhảy vào cuộc chiến thì có lẻ ngày nay người Pháp nói tiếng đức. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn