Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Cuộc chiến tranh lạnh thế kỷ 21 Hoa Kỳ-Trung Cộng

 Tóm tắc cuốn sách  “Bienvenue en économie de guerre” của David Baverez

Hôm qua tình cờ xem cuộc phỏng vấn trên đài Lệ Figaro với ông David Baverez, một nhà đầu tư Pháp ở Hương Cảng, tốt nghiệp luật tại Pháp. Thấy ông ta nói sơ sơ về hiện tình của âu châu giúp mình giác ngộ phần nào khi về âu châu 1 tháng, nói chuyện bạn bè và xem truyền hình của pháp và Ý Đại Lợi. Các nước này như đang trong tình trạng lấn cấn chưa biết đi đường nào thêm người già về hưu quá đông khiến ngân sách quốc gia quá eo hẹp. Pháp quốc có đến 5 chính phủ trong vòng 2 năm qua, hôm trước thấy quốc hội pháp không thông qua ngân sách vì tiền đánh thuế tối đa được 18 tỷ mà tiền chi ra lên trên 30 tỷ. Thế là ngọng.


Ông ta phang một câu là Đức quốc sẽ cướp tiền (pillera) của người Pháp qua công khố phiếu. Bà thủ tướng Nhật Bản mới lên đã phá vụ công khố phiếu nên tiền Yen xuống như diều phải mưa. Chắc năm sau ráng đi Nhật Bản thêm một lần nữa vì giá rẻ. Buồn đời mình kiếm cuốn sách của ông ta đọc “Bienvenue en économie de guerre”. Em xin tóm tắc lại đây để hiểu chút tình hình thay vì bắt chước thiên hạ chửi loạn cào cào.


Trong cuốn sách xuất bản tháng 5 năm 2024, ông David Baverez khẳng định rằng thế giới đã bước vào một kỷ nguyên mới mà ông ta gọi nền kinh tế thời chiến. “économie de guerre”. Theo ông, năm 2022 đánh dấu một bước ngoặt lịch sử quan trọng, giống như các năm 1914, 1945 hay 1989. Sự chuyển đổi này chấm dứt hơn ba thập kỷ của nền kinh tế thời bình dựa trên toàn cầu hoá và hợp tác mà ông ta gọi “trente ans glorieux” mà người Mỹ cũng như người âu châu ăn trên xương máu của người Tàu và các xứ khác khi họ chuyển đổi nơi sản xuất qua các xứ này để tránh sự tàn phá môi trường. người Mỹ cũng như người âu châu như bị nghiện sống vui vẻ, đi chơi, nghỉ hè, làm 35 tiếng một tuần.


Đùng một cái, Covid xảy ra khiến các chuỗi cung ứng bị gián đoạn, người Mỹ và âu châu tĩnh mộng, than trời tỏng khi đó các anh ba tàu cười há há, không có tụi tao chúng mày chết. Các nước âu châu và Hoa Kỳ chới với đang tìm cách làm chủ lại tình hình kinh tế nhưng có lẻ đã quá muộn.


Sự kết thúc của nền kinh tế thời bình (1989–2022): Trong hơn 30 năm sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, phương Tây sống trong một môi trường kinh tế lý tưởng: tự do thương mại, chuỗi cung ứng toàn cầu trơn tru, niềm tin giữa các quốc gia, thị trường giữ vai trò quan trọng hơn địa chính trị.

Nền tảng của thời kỳ này là sự phụ thuộc lẫn nhau: càng thương mại, càng ít xung đột. Theo ông tây Baverez, mô hình này giờ đã sụp đổ.


Năm 2022: khởi đầu của sự bất ổn toàn cầu. Hai sự kiện lớn đã chấm dứt nền kinh tế thời bình: Chiến tranh Nga–Ukraine. Cuộc chiến đưa xung đột trở lại châu Âu, gây khủng hoảng năng lượng, lạm phát và bất ổn chiến lược. Ngày nay  chúng ta khám phá ra các nước âu châu đều mua khí đốt và dầu hoả của Nga cho nên cấm vận bú xua la mua nhưng anh Puchin vẫn vui vẻ lên đài truyền kêu gọi mấy anh tây ăn caviar, uống vodska.


Thêm Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình củng cố quyền lực tuyệt đối và đẩy Trung Quốc theo hướng kiểm soát chặt chẽ, ít cởi mở hơn. Mình xin mở dấu ngoặc ở đây vì mình có theo dõi vài nhân vật người Tàu chống Trung Cộng ở Hoa Kỳ và đài Loan. Mấy người này thì mạnh miệng kêu Tập thị hết thời này nọ. Có thể họ chỉ là công cụ tuyên truyền của Hoa Kỳ hay Trung Cộng để ru ngủ lòng dân Hoa Kỳ.


Ông họ Tập này khơi khơi kêu sẽ đánh chiếm Đài Loan này nọ, rồi bà thủ tướng Nhật Bản mới lên ngôi đã đe doạ Trung Cộng không được đụng tới người em gái sầu mộng Đài Loan của mình.Kết quả: ngày nay địa chính trị quay lại làm yếu tố quyết định trong kinh tế. Trung Cộng với chương trình Vành Đai và Con Đường mà mình có dịp hiển thị tại các xứ Liên Xô cũ như Tajikistan, Uzbekistan, Kazakhstan , Kyrgyzstan , Georgia,… hay ở Phi CHâu như Tanzania, Ai Cập, Jordan,…


Bây giờ mình mới hiểu lý do bộ quốc phòng Hoa Kỳ được cải danh thành bộ chiến tranh. Cho thấy thời đại chiến tranh kinh tế đã đến rồi. Hoa Kỳ tìm cách chận Venezuala bán dầu cho Trung Cộng nhân danh đánh chìm các tàu chở ma tuý. Xin nhắc lại là mấy ông ba tàu san xuất fentanyl để đưa vào Hoa Kỳ. Cũng như trước đây khi Hoa Kỳ chiếm đông Á Phủ Hãn đã kêu người dân sở tại bỏ rau cãi trồng thuốc phiện để đưa các nước như Nga và Trung Cộng. 


Nền kinh tế thời chiến: khung vận hành mới: Trong kỷ nguyên mới này, bốn cơ chế thay thế các quy tắc trước đây: Ngờ vực thay thế sự tin tưởng: các quốc gia bảo vệ chuỗi cung ứng sống còn. Pháp lý trở nên bất ổn: trừng phạt, hạn chế công nghệ, kiểm soát xuất khẩu. Cứ thấy ông Trump ký sắc lệnh trừng phạt hay thu lại luật lệ trước đây. Xung đột trở thành cách điều chỉnh quan hệ quốc tế: cạnh tranh Mỹ–Trung, chiến tranh năng lượng, cạnh tranh công nghệ. Và sự phụ thuộc trở thành vũ khí: khí đốt Nga, đất hiếm Trung Quốc, chip Đài Loan. Trung Cộng vừa ra lệnh cấm bán đất hiếm là thấy ông Trump xuống nước ngay. Nhưng chỉ để câu giờ trước khi có thể khai thác đất hiếm ở Hoa Kỳ cũng như các xứ khác. Nguy hiểm nhất là ngày nay thế giới không còn được điều hành bởi thị trường, mà bởi sức mạnh.


Ông Baverez đề nghị diễn giải lại ESG (Énergie – Sécurité – Guerre). Theo ông, ưu tiên thật sự của các quốc gia phải là: Năng lượng: nền tảng của chủ quyền. An ninh: hạ tầng, dữ liệu, lương thực, vận tải. Chiến tranh: chuẩn bị cho xung đột quân sự, mạng và công nghiệp. Đây là khung phân tích realist nhất theo ông.


Đây là phần được tác giả cảnh báo mạnh mẽ nhất. Châu Âu đang phụ thuộc vào ba yếu tố:

Năng lượng: khí Nga, dầu Trung Đông. Ngày nay về âu châu thấy thiên hạ cứ chống đi xe hơi này nọ trong khi đó không có dầu hoả, thậm chí cũng chống sử dụng năng lượng nguyên tử. Mình đọc báo đức thì thấy họ phỏng vấn thanh niên đức, mấy người này trả lời thà bị Nga xâm chiếm, đô hộ còn hơn đánh nhau ra mặt trận. 

Công nghiệp: sản xuất tại Trung Quốc. Cái gì cũng made in China, tước đây anh cứ để mấy anh ba tàu sản xuất bán rẻ cho anh tây bà đầm xài. Bây giờ thì tá hoả tam tinh vì khơi khơi anh ba tàu có thể ngưng bán cung cấp đồ phụ tùng này nọ là ngọng. Họ nói đưa qua Việt Nam hay các nước khác nhưng quá trễ thêm qua Việt Nam thì cũng như ở Trung Cộng vì đa số công xưởng ở Việt Nam được làm việc đàng hoàng là có cái dù che của Trung Cộng nên không bị công an hỏi han.

Quân sự: bảo vệ chủ yếu dựa vào Hoa Kỳ. Cứ dựa vào NATO canh gác cho mình ngủ như CUba và Việt Nam canh gác cho thế giới đại đồng ngủ bình yên. Bao nhiêu lính mỹ đóng tại âu châu. Nay anh mỹ ngang xương kêu không trả tiền nữa. Thế là ngọng.


Ông Baverez thậm chí dùng khái niệm “Yemen hoá châu Âu”: châu Âu có nguy cơ trở thành chiến trường giữa các siêu cường. Chúng ta thấy qua vụ tiếp tế cho Ukraina, có sự sức mẻ khi Hung Gia Lợi, và vài nước khác vì lợi ích của xứ họ nên không muốn tiếp tục đóng góp.


Lạm phát kéo dài và sự kết thúc của “just-in-time”. Từ covid đến giờ lạm phát Hoa Kỳ lên như điên, ăn tô phở bây giờ hết dám ăn vì gần $20. Theo ông Baverez, lạm phát hiện nay mang tính cơ cấu, không còn tạm thời: lý do là tài nguyên khan hiếm, chuỗi cung ứng phân mảnh, chi phí an ninh năng lượng tăng, xu hướng tái công nghiệp hoá. Do đó, mô hình “just-in-time” phải nhường chỗ cho “just-in-case”, dự trữ và bảo đảm an toàn chiến lược.


Châu Âu cần làm gì? Ông Baverez đưa ra nhiều giải pháp:

Tái công nghiệp hoá các lĩnh vực then chốt: năng lượng, quốc phòng, chip, dược phẩm.

Xây dựng chiến lược chung giữa 27 nước.

Tạo liên minh giữa địa chính trị – kinh tế – doanh nghiệp.

Đầu tư mạnh vào quốc phòng và an ninh mạng.

Điều quan trọng nhất là xây dựng tự chủ chiến lược.


Đọc cuốn sách của ông tây này giúp em hiểu rõ thêm lý do họ muốn chiến tranh Ukraina kéo dài. Để âu châu có thời gian tái cấu trúc lại kỹ nghệ hoá của họ vì nhân danh bảo vệ môi trường này nọ. Cũng như Hoa Kỳ dẹp qua một bên. Thật ra đọc tài liệu của Trung Cộng thì thấy họ tiến mạnh về trí tuệ nhân tạo. Thấy mấy ông thần ả rập đầu tư vào Hoa Kỳ rất nhiều tiền, nay mình mới bắt đầu hiểu sự việc cho cuộc chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ-Trung Cộng.


Sang năm mình sẽ đi Trung Cộng lại để xem sau 18 năm xứ này tiến xa như thế nào vì nghe thân hữu đi về kể chuyện thấy hấp dẫn. Mình có đọc báo Trung Cộng nhưng muốn xem tận mắt thay vì ngồi đọc tin tức tuyên trườn của mỹ và âu châu rồi kết luận theo sự tuyên truyền. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn

khôi phục lại cuộc sống của con người

 Chiến Tranh và Hoà Bình


Dạo này dân cư mạng ồn ào trên các mạng xã hội. Người nguyền rủa Hoa Kỳ bán đứng Ukraine như Việt Nam Cộng Hoà, Á-Phú-Hãn, các đồng minh. Người thì hoan hô, kêu cuộc chiến không phải của người Mỹ hay người Pháp. Bên pháp số chống đối tổng thống Macron thì kêu ông Macron hân hoan tuyên bố sẽ cung cấp 100 chiến đấu cơ Rafale cho Ukraina trong vòng 10 năm nữa, khiến cổ phiếu công ty chế tạo máy bay này tăng vọt lên 10% trong khi ngân quỹ không được quốc hội duyệt phê. Họ kêu thu thuế được 18 tỷ mà phải xài đâu 30 tỷ (không nhớ số chính xác, chỉ lướt qua). Dân tình kêu tiền đâu, bán cho Ukraine, họ hết tiền, hết người để đánh. Chết rất nhiều. Mình theo dõi bên ủng hộ Ukraina, bên ủng hô Puchin thì cả hai bên chết rất nhiều và đào ngủ cả hai bên cũng nhiều. Mình thích đọc tài liệu của hai bên để có một nhận định ít bị tuyên truyền.


Khi xưa, còn bé mình nghe đài Sàigòn buổi chiều kêu Việt Cộng bỏ lại mặt trận 120 xác chết, và bao nhiêu bị thương rồi buồn đời tối mình mở đài Hà Nội ra nghe thì cũng cùng trận đánh, phe ta diệt 400 tên lính nguỵ,… cho nên mình thất kinh từ đó, không bao giờ tin vào một tin tức.

Trên tờ Foreign Affairs, có đăng vụ phụ nữ Nga hối hả lấy chồng, đối tượng là những chàng trai sắp sửa được đưa ra lò nghiến thịt. Lý do là những người tử trận được tiền đền bù khá nhiều và có thể được trả lương cả đời nhằm khuyến khích họ ra đi. Họ sẽ hát ngày thành hôn tôi bận đồ hành quân …. Cho thấy người Nga vẫn vui khi có chiến tranh vì được lãnh tiền vì chiến tranh.


Mình thích sự trào phúng của người Pháp vì có nhiều người đưa thí dụ như: hội phụ huynh muốn gây quỹ nên mua bột mì, đường bú xua la mua rồi bỏ công làm bánh này nọ, sau đó đem bán rồi cúng hết tiền cho chương trình. Chính phủ Macron nói bán 100 chiến đấu cơ Rafale nhưng Ukraine không có tiền thì xem như cho không. Tạo công ăn việc làm và làm giàu cho công ty chế tạo Rafale, đã giúp ông ta lên ngôi tổng thống.


Nhớ khi xưa, học lịch sử Hoa Kỳ, sau khi Hitler tự tử, nay lại nghe tin tức ở Á Căn Đình cho rằng ông này đã chạy sang Á Căn Đình sống đến chết. Quân đội đồng minh chiến thắng thì có chương trình MArshall nhằm tái thiết Tây Âu lại. Cứ tưởng tượng đang đứng giữa trung tâm một thành phố châu Âu năm 1945. Không có tiếng xe cộ. Không có tiếng rao buôn bán. Chỉ có mùi khói, những bức tường cháy xém, và tiếng bước chân nặng nhọc của những con người đang cố gắng sống sót sau một cơn ác mộng kéo dài sáu năm. Những cây cầu gãy đôi, những trường học chỉ còn là đống gạch. Những nhà máy không còn máy móc và tệ hơn tất cả: không còn hy vọng. Có thể nói là tuyệt vọng.



Hình ảnh này mình đã nhìn thấy năm Mậu Thân, khi lên phụ gia đình dì Ba Ca, xây lại căn nhà, dấu vết bom napalm vẫn đầy , nghẹt mùi cháy của bom phosphore. Hình ảnh dượng Ba Ca đứng nhìn căn nhà gỗ đã tương. Dượng và mấy người con trai mỗi ngày làm hắc-lô để xây lại. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã tài trợ một số tiền. Hình ảnh hoang tàn của chiến tranh khiến mình hoảng sợ, chả muốn đánh nhau, tham dự cuộc chiến.


Hình ảnh mình đã thấy ở Số 4 sau khi Việt Cộng rút lui và trận mưa bom napalm mà ngã từ khu vực nhà mình đứng thấy rõ các cuộc oanh tạc. Lúc đầu thấy máy bay bà già này vòng vòng rồi nghe cái tạch, rồi thấy đạn khói bay xuống đất khói bay lên rồi vài phút sau là khu trục cơ bay đến thả bom. Dạo đó chưa học hyperbol nhưng sau này lượn lên học là hiểu liền nhờ chứng kiến thật khi xưa. 


Trong bối cảnh Tây Âu thời ấy, xuất hiện một nhân vật, dáng khắc khổ, ít khi cười, nói chuyện thẳng nhưng rất chậm rãi, không ồn ào phô trương. Tên của ông là George Catlett Marshall. Trong chiến tranh, ông từng quản lý hơn tám triệu binh sĩ, nhiều hơn cả lực lượng của Mỹ ngày nay.

Ông góp phần định hình chiến lược đánh bại phe Trục. Tướng Eisenhower, cựu tổng thống Hoa Kỳ  từng nói:“Marshall là người đàn ông vĩ đại nhất tôi từng gặp.”


Nhưng điều khiến ông Marshall trở nên độc nhất không phải là khả năng chỉ huy chiến tranh mà là khả năng nhìn thấy hòa bình khi thế giới chỉ thấy tro tàn. Tương tự ngày nay, dân cư mạng cứ hô hào Ukraine phải đánh tới người dân cuối cùng. Mình xem biểu đồ ngân sách của âu châu và Hoa Kỳ viện trợ cho Ukraine từ khi cuộc chiến khởi đầu thì thất kinh, người Mỹ đóng góp rất nhiều mà nay âu châu kêu gọi đóng góp thêm khiến người Pháp kêu trời. Tiền đâu ra.


Ông Trump lên kêu không cung cấp viện trợ nữa thế là ngọng. Mình nghe nói nhưng chưa có tin chính thức là chính quyền Ukraina cũng tham nhũng lắm. Đồ viện trợ qua tay chính phủ Ukraina rồi trở lại các tay khác ở Âu châu và Hoa Kỳ. 


Trong một buổi điều trần tại thượng viện, tướng George C. Marshall ngồi im lặng trong khi các thượng nghị sĩ tranh luận, giọng nói của họ vang lên khi họ cố gắng biến chiến thắng khó nhọc của Thế chiến II thành sự trả thù. Đó là năm 1947, và châu Âu đã tan vỡ. Các thành phố nằm trong đống đổ nát, người dân chết đói, và trật tự chính trị từng gắn kết lục địa này đang sụp đổ. Toàn bộ các quốc gia đứng bên bờ vực hỗn loạn. Các người dân địa phương trả thù nhau vì tội làm pháp gian, đức gian, ý gian,… thêm Stalin cắt đất, khiến nhiều dân tộc phải rời bỏ chốn chôn nhau cắt rốn đi về một xứ nào đó họ chưa bao giờ biết. Như trường hợp bà Inge, sinh ra trong vùng đất ở Ba Lan, sau đệ nhị thế chiến bị tống cổ về Đức quốc.


Hoa Kỳ đã có thể quay lưng. Họ có thể tuyên bố chiến thắng của mình và bỏ mặc châu Âu chịu đau khổ. Nhiều người trong Quốc hội mong muốn điều đó. Nhưng George Catlett Marshall, hiện là Ngoại trưởng, lại có một tầm nhìn khác. Ông đề nghị một điều mà ít ai có thể tưởng tượng được: tái thiết chính những quốc gia mà nước Mỹ đã chiến đấu chỉ hai năm trước đó như Đức quốc và Nhật Bản thêm Ý Đại Lợi.


Ngày 5 tháng 6 năm 1947, ông đứng trên bục giảng tại Đại học Harvard, đọc bài diễn văn tốt nghiệp chỉ kéo dài chưa đầy mười phút. Không có những khoảng lặng kịch tính như mình học ở hội Toastmasters hay những lời kêu gọi cảm xúc, không có những lời hoa mỹ để nhận được tràng pháo tay. Thay vào đó, Marshall nói một cách thẳng thắn, thực tế về sự tàn phá ở châu Âu và trách nhiệm của những người đã thoát khỏi nó. “Chính sách của chúng ta không nhằm vào bất kỳ quốc gia hay học thuyết nào,” ông nói, “mà là chống lại nạn đói, nghèo đói, tuyệt vọng và hỗn loạn.” Ai buồn đời thì nghe bài diễn văn của ông ta:


https://youtu.be/dg9_GqXa770?si=Xc6IxauqhZcY-PX3


Đằng sau những lời lẽ bình tĩnh ấy là một người đàn ông đã chứng kiến ​​chiến tranh sâu sắc hơn bất kỳ ai. Với tư cách là Tổng Tham mưu trưởng Lục quân, Marshall đã chỉ huy lực lượng quân sự lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, hơn tám triệu quân dưới quyền. Ông đã giám sát mọi hoạt động, mọi kế hoạch, mọi cuộc di chuyển từ Bắc Phi đến Normandy. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ tìm kiếm sự chú ý.


Khi Tổng thống Roosevelt đề nghị ông cơ hội lãnh đạo cuộc đổ bộ của quân Đồng minh vào châu Âu, Marshall đã từ chối, chỉ nói: “Tổng thống phải quyết định nơi nào tôi hữu ích nhất.” Ông hiểu tầm quan trọng của sự lãnh đạo, nhưng ông cũng biết khi nào nên để người khác chỉ huy. Roosevelt đã chọn Eisenhower cho Ngày D, và Marshall ủng hộ quyết định này mà không hề phàn nàn. 


Giờ đây, khi sự tàn phá của chiến tranh lan rộng từ chiến trường đến sinh mạng của hàng triệu thường dân, ông Marshall nhận thấy rằng việc giành lại hòa bình sẽ đòi hỏi cùng một kỷ luật và sự hy sinh đã giúp giành chiến thắng trong chiến tranh. Ông đề xuất cái mà sau này được gọi là Kế hoạch Marshall là một nỗ lực to lớn để tái thiết Tây Âu, không phải thông qua chiếm đóng hay trừng phạt, mà thông qua viện trợ. Kế hoạch này sẽ tiêu tốn 13 tỷ đô la, một số tiền tương đương hơn 170 tỷ đô la theo giá trị hiện đại.


Kế hoạch này kêu gọi thực phẩm, máy móc và chuyên môn của Mỹ đổ vào các nền kinh tế đang bị tàn phá của châu Âu. Kế hoạch này sẽ giúp xây dựng lại các nhà máy, khôi phục nông trại và ổn định chính phủ. Nó cũng sẽ gắn kết tương lai của châu Âu với Hoa Kỳ, tạo ra mối liên kết tin tưởng thay vì oán giận. Nhờ đó mà kinh tế và kỹ thuật Hoa Kỳ phát triển rất nhanh sau cuộc chiến khiến khắp nơi thế giới, ai nấy đều có nhà và xe hơi. Một nhân công mỹ có thể nuôi một vợ và con, có chiếc xe hơi.


Trong nước, ý tưởng này đã vấp phải sự phản đối dữ dội. Những người chỉ trích cáo buộc Marshall lãng phí tiền của Mỹ, "nuôi dưỡng người nước ngoài" khi các cựu chiến binh Mỹ vẫn cần sự giúp đỡ. Tương tự ngày nay, người ta hô hào ủng hộ Ukraine đánh Puchin nhưng chả thấy ai tự nguyện lên đường sang Ukraine đánh Puchin. Một số người thậm chí còn gọi kế hoạch này là phản quốc, cho rằng nó sẽ củng cố sức mạnh cho những kẻ thù cũ như Đức và Ý. Tại Thượng viện, cuộc tranh luận trở nên gay gắt. Tuy nhiên, Marshall vẫn giữ bình tĩnh. Ông không tranh luận hay biện hộ. Ông chỉ đơn giản nêu ra sự thật và để logic của lòng trắc ẩn tự lên tiếng.


“Hoa Kỳ sẽ giúp tái thiết toàn bộ châu Âu.” Không chỉ giúp một nước, không chỉ giúp đồng minh, mà là toàn bộ lục địa chìm trong bóng tối. Ông không hứa cứu trợ nhân đạo đơn thuần mà đề nghị một phương thuốc chữa tận gốc: giúp các quốc gia tự đứng vững. Một phóng viên đã viết “Marshall không nói bằng lửa, mà bằng sự tỉnh thức.” Và chính sự tỉnh thức ấy đã thay đổi thế giới.


Trong vòng bốn năm, kết quả là không thể phủ nhận. Sản lượng công nghiệp của châu Âu đã tăng hơn 35%. Nạn đói giảm, chính phủ ổn định, và những kẻ thù cũ trở thành đồng minh. Kế hoạch này không chỉ tái thiết các thành phố mà còn xây dựng lại niềm tin vào nền dân chủ, vào sự hợp tác, và vào chính nước Mỹ. Như chúng ta thấy Tây Đức và Nhật Bản, phát triển thậm chí ngày nay người Nhật và người Nam Hàn làm cái tượng của tướng McArthur.


Công nghiệp Tây Âu vượt mức trước chiến tranh. Người dân có việc làm trở lại. Nhà cửa được xây mới. Hệ thống dân chủ được củng cố. Các quốc gia kề vai hợp tác thay vì nghi ngờ. Ngay cả những nước từng là đối thủ trong chiến tranh cũng nhận viện trợ. Marshall hiểu rằng: Hòa bình bền vững không thể xây trên lòng thù hận. Chỉ có thể xây trên thịnh vượng chung.


Do đó khi nghe thiên hạ chửi nhau này nọ. Quá dễ vì họ không phải hy sinh nhân mạng, tài chính nên tha hồ hét bus xua la mua đến tên cuối cùng cũng đánh. 


Kế hoạch Marshall trở thành nền tảng cho Cộng đồng Kinh tế châu Âu, rồi Liên minh châu Âu sau này. Kế hoạch Marshall cung cấp 13 tỷ đô la, một con số khổng lồ thời bấy giờ. Nhưng số tiền ấy vẫn chưa phải là điều đặc biệt nhất. Lần đầu tiên trong lịch sử, một cường quốc chiến thắng chọn xây dựng thay vì trừng phạt. Có lẻ ông ta học được bài học thế chiến thứ nhất, khi quân chiến thắng trừng phạt Đức quốc khiến phòng trào Đức quốc Xã lên ngôi và tìm cách trả thù.


Họ gửi lúa mì đến nuôi dân đói, gửi than để sưởi ấm mùa đông, máy móc để dựng lại nhà máy. Gửi vốn để mở lại thương cảng và gửi cả niềm tin rằng tương lai có thểtốt hơn. Một nhà sử học viết: “Kế hoạch Marshall không chỉ mang hàng hóa đến châu Âu. Nó mang lại hy vọng.”


Khi George Marshall nhận giải Nobel Hòa bình năm 1953, ông trở thành người lính chuyên nghiệp đầu tiên làm được điều này. Đứng trước khán giả ở Oslo, ông đã nhận giải thưởng với cùng một sự khiêm nhường lặng lẽ đã định hình cuộc đời ông. "Hòa bình", ông nói, “Tôi là một người lính. Tôi hiểu chiến tranh tàn phá thế nào và tôi biết hòa bình đáng giá ra sao.” Ông không nói về chiến thắng, không nói về vinh quang. Ông nói về điều duy nhất khiến chiến thắng có ý nghĩa: khôi phục lại cuộc sống của con người.


Không lâu sau đó, ông từ giã sự nghiệp chính trị. Không giống như nhiều người cùng thời, ông không viết hồi ký, không có bài phát biểu nào để tôn vinh thành tích của mình, và cũng không tìm kiếm chức vụ chính trị nào. Ông chưa bao giờ đấu tranh để được công nhận, mà chỉ đấu tranh vì kết quả. Khi ông qua đời vào năm 1959, không có tượng đài cá nhân hay lời tri ân nào được viết ra - chỉ có một di sản được khắc trên những con phố được xây dựng lại của châu Âu và sự ổn định của một thế giới mà ông đã góp phần cứu vãn.


George C. Marshall đã dành cả cuộc đời để làm chủ nghệ thuật chỉ huy, nhưng hành động lãnh đạo vĩ đại nhất của ông không đến trong chiến tranh mà là trong hòa bình. Vào thời điểm thế giới sẵn sàng trừng phạt, ông đã chọn tái thiết. Vào thời điểm cơn giận dễ dàng đến, ông đã chọn lòng nhân từ.


Ông đã chứng minh rằng sức mạnh thực sự không phải là sức mạnh hủy diệt, mà là lòng can đảm để khôi phục lại những gì sự hủy diệt đã lấy đi. Một nhà ngoại giao châu Âu từng nói: “Nếu không có Marshall, có lẽ châu Âu vẫn còn chia rẽ, đói nghèo và sợ hãi.”

Khi mình ở Pháp quốc, có viếng vùng Normandie, nơi có mấy nghĩa trang quân đội Hoa Kỳ, đã nằm xuống để “giải phóng” nước pháp. Ngược lại người Pháp rất ghét người Mỹ kêu “les amerloques” này nọ, chửi Hoa Kỳ không thương tiếc. Nếu không có người Mỹ nhảy vào cuộc chiến thì có lẻ ngày nay người Pháp nói tiếng đức. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn

Tinh hoa cổ truyền bị thất truyền-4000 năm


Tin tức hôm qua cho hay có 5 du khách đi viếng vùng Patagonia, phía Nam Mỹ mà mình và đồng chí gái có ghé ngang xem khi đi Antarctica và Nam Cực. Rất đẹp! Tính sang năm bò đi nguyên cả khu vực này thì được tin có mấy người bị bão tuyết nên chết trên đường đi. Mùa này là mùa gần mùa hè vì Nam Tây Bán Cầu. Ở Yosemite hôm kia cũng có mấy người leo núi gặp vấn đề. Phải đợi 6 tiếng đồng hồ để nha kiểm lâm phái người đến cứu. Nên chắc hết muốn đi nữa.

Đồng chí gái ở Nam Cực vào mùa hè, tuyết rơi như nước mắt thêm lạnh nhưng là một trong những điểm đến để lại nhiều kỷ niệm.

Khi đi Nam Cực, dù là mùa hè ở khu vực đó nhưng lạnh ná thở, bận mấy lớp áo quần, vẫn còn lạnh. Trên tàu ấm nhưng khi đổ bộ lên bờ thì phải bận đồ ấm, lúc đầu có thể nóng nhưng có lúc thời tiết có tuyết rơi hơi lạnh. Nên hai vợ chồng phải trùm toàn thân.


Cứ tưởng tượng Bắc Cực hay Nam Cực, nơi chỉ cần một lỗi trang phục cũng có thể khiến chúng ta chết cóng chỉ trong vài phút, không như Tiểu Long Nữ, nằm ngủ trong hang lạnh. Nơi mà hơi nước biển ở nhiệt độ -40°F (-4°C) có thể giết chết chúng ta trước khi trở vào bờ. Hôm qua mình xem phim tài liệu ở thành phố lạnh nhất thế giới. Người dân lấy đá nấu nước sôi để uống trong ngày hay tắm rữa. Nam Cực không có người ở ngoại trừ những khoa học gia. Có anh chàng người Việt mình quen khi xưa học cao học ở Princeton, đi làm ở vùng này mấy năm trời. 


Tháng vừa rồi khi mình đi bộ ở Ý Đại Lợi, băng rừng vượt suối thì ông trời cắt cớ, mưa rơi nên phải bận áo mưa. Loại này mình phải mua ở REI cho chắc ăn. Lý do là khi leo Kilimanjaro, mình cần loại Gore-Tex. Để nước không thấm và hơi trong người có thể toát ra ngoài nếu không là ngọng.


Nghe nói người dân bản địa Bắc Cực đã phải đối diện với một thách thức kỹ thuật bất khả thi để tồn tại: tạo ra loại vải có khả năng ngăn nước đóng băng RA NGOÀI trong khi mồ hôi cơ thể THOÁT RA. Bởi vì ở Bắc Cực, mồ hôi bị giữ lại cũng nguy hiểm như nước biển. Cả hai đều gây hạ thân nhiệt, đều gây tử vong. Theo mình hiểu là khi người nóng thì các lỗ chân lông nở ra mà nếu để lâu thì khí lạnh có thể theo các lỗ chân lông bị hở, chui vào cơ thể của mình khiến bị đau, cơ thể lộn xộn. Do đó ở Bắc Âu, ai chơi sauna xong là chạy ra ngoài nhảy xuống hồ ngay để cơ thể tự bảo vệ, khép các lỗ chân lông ngay. 


Hồi còn sinh viên, mình hay bị đau sau khi đá banh vào chủ nhật. Lý do là phòng mình không có phòng tắm nên không tắm được mà mùa đông thì lạnh. Còn khi đá banh cho trường đại học thì đá xong vào phòng tắm ngay nên không bị lạnh, nói như người Việt là trúng gió. Nay mỗi sáng sau khi tập ở Đông Phương Hội mình phải tắm để tránh bị cảm cúm.


Khoa học hiện đại đã "giải quyết" vấn đề này vào năm 1969 khi ông Bob Gore phát minh ra Gore-Tex, một loại màng tổng hợp mang tính chất rất cách mạng với các lỗ chân lông siêu nhỏ. Quá nhỏ để các giọt nước có thể lọt vào. Đủ lớn để hơi mồ hôi thoát ra. Như trườn thợ mình bận khi trời mưa, không nóng lắm để chảy mồ hôi như loại mình thường dùng. Nó đã thay đổi y phục ra ngoài trời.

Áo Parka khi xưa được may bởi ruột cá, gấu,…


Đọc tài liệu thì khám phá ra những người thợ may bản địa đã mặc chính công nghệ này trong 4.000 năm qua. Người Inupiat ở Alaska. Người Yupik ở Siberia. Người Inuit ở Greenland. Vượt qua hàng ngàn dặm, họ đã tự mình khám phá ra cùng một giải pháp: ruột hải cẩu, ruột hải mã, ruột cá voi. Thậm chí cả ruột gấu.


Đây không phải là những công cụ sinh tồn thô sơ. Chúng là những kiệt tác của kỹ thuật dệt may. Ruột động vật có vú có cấu trúc màng tự nhiên hoạt động giống như Gore-Tex của tự nhiên. Bề mặt ngoài đủ dày để ngăn mưa và hơi nước biển. Bề mặt bên trong có các lỗ chân lông siêu nhỏ giúp hơi nước thoát từ mồ hôi của chúng ta.

Giọt nước không thấm vào. Mồ hôi thoát ra ngoài. Khả năng chống thấm nước thoáng khí hoàn hảo.


Nhưng sự xuất sắc trong kỹ thuật không chỉ nằm ở vật liệu mà còn ở kết cấu. Những người thợ may (hầu hết là phụ nữ, được kính trọng sâu sắc vì chuyên môn của họ) sẽ lấy ruột từ những con vật mới bị giết. Làm sạch chúng thật kỹ lưỡng vì bất kỳ mô nào còn sót lại sẽ làm mục vải. Giặt chúng nhiều lần trong nước biển Bắc Cực. Sau đó, thổi phồng chúng như những quả bóng bay trong suốt và treo chúng lên để khô trong điều kiện nhiệt độ dưới 0 độ C.


Khi khô, ruột trở nên mỏng, như giấy, một vật liệu cực kỳ bền. Một chiếc ruột có thể dài tới 1,8-3 mét. Sau đó là sự thành thạo thực sự: khâu chống thấm nước. Các đường may thông thường bị rò rỉ. Vì vậy, những người phụ nữ này đã phát minh ra các kỹ thuật chuyên biệt - khâu các dải chồng lên nhau một cách chính xác, sử dụng chỉ gân, phủ dầu bảo vệ đường may. Mỗi mũi khâu đủ chặt để chống rò rỉ, đủ giúp người bận có thể cử động.


Một chiếc áo parka đơn lẻ sử dụng ruột của hàng chục con vật. Hàng ngàn mũi khâu riêng lẻ. Hàng tháng trời làm việc. Những bộ quần áo chỉ nặng 85 gram , nhẹ hơn cả điện thoại thông minh và  có thể giúp thợ săn khô ráo qua nhiều giờ đồng hồ dưới những cơn bão Bắc Cực và hơi nước biển. Ánh sáng chiếu qua chúng như kính mờ. Một số thợ may đã thêm các dải nhuộm, tạo ra các họa tiết biến đồ dùng sinh tồn thành tác phẩm nghệ thuật có thể bận được.


Đối với một thợ săn kayak, những chiếc áo parka này thiết yếu như chính mái chèo. Một con sóng vỗ vào mũi thuyền với trang phục thông thường đồng nghĩa với cái chết trong vài phút. Chiếc áo parka ruột chính là sự khác biệt giữa sự sống và chết đuối trong nước băng giá.


Trong 4.000 năm, kiến ​​thức này được truyền từ mẹ sang con gái. Từ thợ may bậc thầy sang thợ học việc. Các kỹ năng được lưu giữ thông qua thực hành, nhu cầu thiết yếu và sự thật đơn giản rằng sự sống còn của gia đình bản địa, phụ thuộc vào khả năng may quần áo phù hợp.


Rồi thế kỷ 20 đến. Vải tổng hợp được phát minh, rồi Áo mưa cao su, Nylon, Gore-Tex. Vật liệu chúng ta có thể mua thay vì tự làm. Vật liệu không đòi hỏi nhiều tháng lao động lành nghề. Ngành sản xuất áo parka ruột gấu truyền thống sụp đổ. 


Vào cuối những năm 1900, những người lớn tuổi còn nhớ các kỹ thuật này đang dần mai một. Thay vào đó, những người trẻ tuổi học các phương pháp phương Tây. Các kỹ thuật đường may chống thấm nước, các mẫu khâu đặc trưng, ​​bí quyết chuẩn bị ruột gấu tất cả gần như đã thất truyền.


Ngày nay, các cộng đồng bản địa trên khắp Bắc Cực đang đấu tranh để khôi phục lại kiến ​​thức này. Những người lớn tuổi dạy cho thế hệ trẻ. Các bảo tàng lưu giữ tư liệu về trang phục lịch sử. Các nghệ sĩ thử nghiệm để tái tạo các phương pháp đã thất truyền.


Năm 2022, một người lớn tuổi Sugpiaq ở Cordova, Alaska, đã dẫn dắt các nghệ sĩ tạo ra một chiếc áo parka ruột gấu, một trong những chiếc áo đầu tiên được sản xuất sau nhiều thế hệ. Họ đã dành nhiều tháng để học lại các kỹ thuật chuẩn bị, giải quyết vấn đề khi kim hiện đại không hoạt động như kim xương truyền thống.


Đây không chỉ là việc lưu giữ lịch sử. Điều này thừa nhận rằng những người "nguyên thủy" là những kỹ sư tài giỏi đã hiểu được các nguyên tắc chống thấm nước thoáng khí hàng nghìn năm trước khi các phòng thí nghiệm của chúng ta "phát hiện" ra chúng.


Tương tự y khoa cổ xưa bao nhiêu ngàn năm đến thế kỷ 20, thiên hạ ùa theo tây y và quên hết các kiến thúc được lưu truyền từ thầy qua học trò hay từ cha mẹ qua con cái. Nay người Mỹ bắt đầu tìm lại các phương thuốc để giúp họ vượt khỏi vấn nạn, nuôi bệnh của nhà thương, bác sĩ cũng như các công ty dược phẩm. Tuần trước, có ông than là bà vợ bác sĩ quyết định bỏ nghề y sĩ vì cứ bị nhà thương bắt làm theo quota, cho bệnh nhân uống đủ trò để công ty kiếm tiền. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn