Hiển thị các bài đăng có nhãn love. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn love. Hiển thị tất cả bài đăng

Trà Hoa Nữ là ai


 Trà hoa nữ


Nhớ hồi nhỏ hóng chuyện người lớn, nghe họ nói về Trà Hoa Nữ chi đó, một cô gái đẹp được nhà văn Alexandre Dumas con hay cha không nhớ viết về cuộc đời của cô này chết trẻ vì bệnh chi đó. Họ kêu là gần chết cô ta kêu mua hoa chất đầy phòng rồi đóng cửa lại và chết như bà đầm trong hương thơm của hoa. Lớn lớn một chút thì được biết là cuốn tiểu thuyết “La dame aux Camélias “ nên khi sang Paris buồn đời mình đi viếng mộ cô nàng ở nghĩa trang Montmartre. 

Trà hoa nữ không biết là ảnh chụp thời đó hay ây Ai làm

Cuộc đời cô này được các nhạc sĩ dựa theo sáng tác nhiều màn kịch opera nổi tiếng. Nếu để ý chúng ta thấy các màn kịch opera của Tây phương nổi tiếng đều nói về cuộc đời cá bà đầm gian truân như Thúy Kiều của ông Nguyễn Du. Đi chơi với đồng chí gái, ngồi phi trường buồn đời Cô Lựu nên tóm tắt cuộc đời Trà Hoa Nữ cho mấy chị tưởng tượng mình là Trà Hoa NỮ đã đì chồng ra sao đến chết yểu. 


Trà Hoa Nữ xuất thân tại vùng Normandie, phía Bắc Paris, đoán là tóc vàng nên mấy ông tây mê giống Viking. Mẹ cô ta chết sau khi bỏ nhà ra đi lên Paris làm ô sin khi cô ta lên 6 tuổi vì không chịu đựng được người chồng nghiện rượu và vũ phu. Cần tiền cha cô cho cô đi làm ohsin năm 12 tuổi cho một gia đình điền chủ. Cho thấy cách mạng 1789 nhưng phụ nữ vẫn chưa được bình đẳng, luật pháp che chở. 


Cô sinh ra với tên Alphonsine Rose Plessis vào ngày 15 tháng 1 năm 1824, tại một ngôi làng nhỏ ở Normandie, Pháp. Năm 12 tuổi, đi làm ô-sin, cô bị một tá điền cưỡng hiếp. Gia đình địa chủ cường hào ác bá mà cô đang làm ô sin cùng đổ lỗi cho cô vì tắm ở truồng ngoài trời khiến tá điền nổi máu dê và gửi cô trở về với cha. Mình đoán là giữ tên tá điền lợi hơn cô bé 12 tuổi giúp việc nhẹ nhàng trong nông trại. 


Năm 13 tuổi, cha cô bán cô cho một người đàn ông lớn tuổi tên Plantier, sống ở một nơi hẻo lánh khỉ ho cò gáy đúng hơn là chó ho bò rống. Buồn đời vì xung quanh chỉ nghe tiếng bò rống nên buồn đời cô ta cũng bỏ trốn như mẹ mình khi xưa. Cô chạy đến các ngôi làng gần đó, tìm việc ở tiệm giặt ủi hay cửa hàng để sống sót. Nhưng cha cô cứ tìm ra cô, cứ kéo cô về, bán sức lao động của cô cho bất kỳ ai chịu trả tiền mua rượu. Năm 15 tuổi, cô khôn hơn trốn đến được Paris. Thế là ông bố hết tìm ra vì quá rộng lớn. 


 Lúc ấy cô là trẻ, không có thân nhân ở Paris, đói khát, mặc quần áo rách rưới, ngủ bất cứ nơi nào tìm được chỗ kiểu văn hào Victor Hugo kể trong cuốn Những Kẻ Khốn Cùng. Một đạo diễn nhà hát sau này nhớ lại đã thấy cô trên cầu mới Pont-Neuf, đang nhìn chăm chú vào một quầy khoai tây chiên với vẻ thèm thuồng. Ông mua cho cô một hộp khoai tây chiên vì thương hại. Chưa đầy một năm sau, ông thấy chính cô gái đói khát ấy đang khoác tay một đại gia quý tộc tại vườn Ranelagh như cô bé lọ lem được lột xác. Alphonsine đã biến mình thành Marie Duplessis. Cô chọn tên “Marie” theo Đức Trinh Nữ Maria dành cho một cô gái đã bị cướp mất sự ngây thơ trước khi hiểu ngây thơ là gì. Cô thêm “Du” vào họ để nghe quý tộc hơn. Mình đoán Tú Bà ở Paris trùng tu, nâng cấp lại chớ một cô gái quê mùa biết gì. Thật ra tên alphonsine do bố đặt ra rất quê mùa nên ra thủ đô phải đổi tên cho có vẻ sang trọng. Như mình khi sang Paris tây đầm gọi Son (âm thanh) thay vì Sơn vì họ không đọc Sơn được. 


Cô tự học đọc, học nói tiếng Pháp mà không còn giọng Normandy, mình đoán cô ta chỉ nói phương ngữ của vùng Normandie, vì khi xưa các vùng Pháp quốc đều nói “patois” phương ngữ. Dạo mình ở pháp có quen mấy tên gốc vùng Bretagne, chúng gặp nhau xổ toàn phương ngữ breton không như khi mình lên Alsace cũng như ngỗng ị khi nghe dân vùng này xổ phương ngữ của họ. 


Cô ta học tiếng pháp để mỗi sáng nghiên cứu báo chí để có thể thảo luận sự kiện thời sự với những người đàn ông giàu có mà khi xưa học Les femmes savantes “ của Moliere . Tương tự ngày nay sáng nào chúng ta đọc Fake news rồi lên mạng chửi bới thiên hạ cho vơi đi nổi sầu, hận đàn bà. Cô ta giác ngộ cách mạng một điều: nếu thế giới cho rằng cô chẳng có giá trị nào ngoài nhan sắc, thì cô sẽ biến nhan sắc ấy đắt giá hơn bất kỳ ai có thể trả sẽ bắt họ phải trả nên ngày nay có nhiều trà hoa nữ hay trà hoa nam trên mạng cứ câu like nhắn tin để dụ đàn ông và phụ nữ cần bị dụ. Chán Mớ Đời. Đến năm 16 tuổi, cô đã học được điều mà những cô gái xinh đẹp khác ở vị trí cô đều học tập đạo đức cách mạng: những đại gia sẽ cho cô tiền, căn hộ, trang sức, xe ngựa bất cứ thứ gì để đổi lấy sự đồng hành trên giường của cô. Cô bỏ việc ở các tiệm may với đồng lương ít ỏi và trở thành một kỹ nữ cao cấp. 


Nhưng trà hoa nữ không giống những kỹ nữ khác. Cô thanh lịch, duyên dáng, Cô tổ chức salon văn học tại căn hộ của mình, như ngày nay họ tổ chức karaoke tại gia, nơi các chính trị gia, nhà văn và nghệ sĩ tụ họp không chỉ để lên giường với cô, mà để trò chuyện với cô. Văn hào Honoré de Balzac từng tham dự. Cô có ghế riêng cho đêm khai mạc tại mọi nhà hát lớn. Cô sưu tầm nghệ thuật. Cô sở hữu 200 cuốn sách, thời đó sách rất đắt tiền. Cô đeo hoa trà màu trắng khi cô rảnh rỗi, màu đỏ khi không, trở thành dấu ấn của cô. Tương tự khi mấy bà có kinh thì cắm cờ đỏ còn không thì cắm đờ trắng để chồng con biết mà liệu đối xử. 

Nhạc sĩ Frank Lízt ngừi tình của cô khi làm việc tại Paris


 Loài hoa ấy không có mùi hương, cho một người phụ nữ mà cuộc đời chỉ là để được nhìn thấy, chứ không phải được biết đến. Franz Liszt, siêu sao âm nhạc quốc tế đầu tiên, người gây ra “cơn sốt Liszt” khắp châu Âu đã yêu cô. Ông muốn đưa cô đến Coóntantinople, Istanbul ngày nay và hứa sẽ quay lại đón cô nhưng Ông hát bài Nghìn Trùng xa cách và nhắn tin cho cô nghe vì có các trà hoa nữ khác ở Istanbul vì nghe bài hát của ông Nguyễn Ánh Chín “Không tôi không còn yêu em nữa”. 


Alexandre Dumas con, con trai của nhà tiểu thuyết nổi tiếng 3 chàng ngự lâm pháo thủ, cũng yêu cô. Họ có mối tình 11 tháng bắt đầu từ tháng 9 năm 1844. Anh ta trẻ tuổi, nghèo khó, và ghen tuông điên cuồng với những người đàn ông thực sự có khả năng bao nuôi cô. Đến tháng 8 năm 1845, cô kết hôn với Bá tước Édouard de Perregaux ở Anh, một cuộc hôn nhân tiện lợi không được công nhận hợp pháp ở Pháp, điều hoàn toàn phù hợp với cô. Ông kia về Anh quốc làm ăn rồi lâu lâu qua Paris thăm người vợ bé bỏng chiều sim. Kiểu Việt kiều về Việt Nam có trà hoa nữ mazde  in Việt Nam 


Cô muốn tiền bạc và danh hiệu của ông mà không phải từ bỏ tự do của mình. Marie Duplessis: cô tiêu xài hoang phí, đánh bạc. Cô mặc những bộ đồ đắt tiền nhất, cưỡi ngựa nhập từ Anh, sống trong những căn hộ xa hoa đầy đồ nội thất kiểu Louis XV và rèm lụa. Nhưng cô cũng cho đi. Cô giúp đỡ những gái mại dâm khác để chuẩn bị ngày nào lên chức Madame Claude. Cô quyên góp cho từ thiện. Khi cô qua đời, những người phụ nữ cô đã giúp xuất hiện tại tang lễ, khóc nức nở, khóc như chưa bao giờ khóc thật tình,  không phải vì cô tử tế theo kiểu trừu tượng, ban ơn mà vì cô hiểu nổi buồn gác trọ. 


Marie sống như thể biết thời gian của mình không còn nhiều. Có lẽ cô biết Bệnh lao, căn bệnh “lãng mạn” của thời đại, căn bệnh khiến ho ra máu và tiều tụy một cách đẹp đẽ liêu trai khiến đàn ông hay nông dân như mình phải mê,  tuberculose đã đang từ từ giết chết cô. Năm 1847, cô dành nhiều thời gian hơn ở các suối nước nóng chữa bệnh thay vì ở Paris, tuyệt vọng cố mua thêm thời gian cho mình. Mấy bà đọc tới đây chắc chắn sẽ kêu đáng kiếp, biết đâu ông chồng đem vi khuẩn về nhà lại lây mấy bác gái.  


Ngày 3 tháng 2 năm 1847, Marie Duplessis qua đời về thiên quốc trong căn hộ của mình trên Đại lộ Madeleine. Ai đến Paris, viếng nhà hát opera thì sẽ thấy đại lộ này. Sang lắm. Cô mới 23 tuổi. Xem như thua Thúy Kiều vì chỉ thực hiện được cuộc đời dụ đàn ông có 7 năm trong khi Thúy Kiều sau khi trả hết nợ cho Tú Bà khi mượn tiền trả 2 phân tiền lời là 24%/ năm rồi mới nhảy xuống xuống sông Hậu Giang nhưng may thay cán bộ giao liên đi ngang qua thấy Thúy Kiều đang chết chìm, nhảy xuống cứu và đi theo cách mạng vào Sàigòn chiêu thêm mấy đại gia Sài thành trước 75.


  Các tay giang hồ xã hội đen đã lục soát căn hộ xa hoa của cô để thu nợ ngay khi cô trút hơi thở cuối cùng. Tang lễ của cô tại nhà thờ Madeleine thu hút đám đông. Charles Dickens tham dự và sau này viết rằng Paris thương tiếc “như thể Marie là Jeanne d’Arc hay một nữ anh hùng dân tộc nào đó, nỗi buồn chung sâu sắc đến vậy.” Chỉ vài tuần sau, toàn bộ tài sản của cô bị bán đấu giá, đồ nội thất, trang sức, sách vở, thậm chí cả con vẹt cưng. Giới thượng lưu Paris kéo đến, không phải để đấu giá, mà để nhìn ngắm. 


Alexandre Dumas con, bị dằn vặt bởi tội lỗi vì đã tránh mặt cô trong những tuần cuối đời, tự nhốt mình và viết một tiểu thuyết trong bảy ngày. Ông đặt tên nó là La Dame aux Camélias—“Người Đàn Bà của Những Hoa Trà.”  Việt Nam mình dịch là Trà Hoa Nữ thì phải.  Ông đổi tên cô thành Marguerite Gautier và viết lại câu chuyện của họ theo cách ông mong muốn: bi kịch, lãng mạn, cứu rỗi. 


Trong phiên bản của ông, cô từ bỏ tất cả vì tình yêu. Cô chết một cách cao thượng, đẹp đẽ, được cứu rỗi bởi đau khổ. Cuốn sách trở thành bestseller. Rồi thành vở kịch. Sau đó năm 1853, Giuseppe Verdi xem vở kịch và xúc động đến mức sáng tác một trong những vở opera nổi tiếng nhất lịch sử: La Traviata (Người Phụ Nữ Sa Ngã) mình có xem ở Luân Đôn. Tiểu thuyết chưa bao giờ hết in. Vở opera vẫn được biểu diễn khắp thế giới. Có ba vở ballet, hơn chục bộ phim (nổi tiếng nhất là Camille với Greta Garbo), và vô số bản chuyển thể. 


Marie Duplessis trở thành bất tử nhưng dưới hình dạng sáng tạo của người khác. Đây là điều Dumas không bao giờ viết: Marie không chết vì tan vỡ và bị bỏ rơi. Bá tước Perregaux đã vội vã đến bên giường bệnh của cô trong những ngày cuối. Ông trả tiền cho tang lễ. Ông đi theo quan tài cô đến Nghĩa trang Montmartre, công khai khóc thương. Đây là điều ông không bao giờ viết: Marie từng tâm sự với một người bạn, “Tôi đã yêu chân thành, nhưng không ai từng đáp lại tình yêu của tôi. Đó mới là nỗi kinh hoàng thực sự của cuộc đời tôi.” Vụ này thì mình nhất trí vì khi xưa cũng rất chân thành với mấy cô quen rồi khi họ khám phá ra mình là nông dân thì đá cái vèo bay lên ngọn cây bơ. Chán Mớ Đời 


 ông Dumas con không bao giờ viết: Marie không nhu mì. Cô không thụ động. Cô không dành cả đời chờ đợi được cứu bởi tình yêu của một người đàn ông. Như mình đã kể xã hội xưa thuộc phụ hệ nên đàn ông họ vẽ vời tư thế địa vị phụ nữ, chờ đợi tình yêu vớ vẫn. Khi xưa mình cũng tin lời mấy cô sái cỗ đến khi họ phát hiện ra đồng chí giai khác là đá mình liền. 


Cô sống sót bằng cách từ chối bị sở hữu bởi đàn ông. Cô lấy một thế giới đã ban cho cô nghèo đói, bạo lực, cưỡng hiếp và bị bỏ rơi và biến nó thành một triều đại ngắn ngủi nhưng phi thường lên chính những người đàn ông tự xưng là kiểm soát cô. Cô khiến họ cạnh tranh vì cô. Cô khiến họ trả giá rất đắt. Cô khiến họ nhớ mãi về cô. Và khi bệnh lao cuối cùng cướp đi cô, Paris khóc không phải cho vị thánh hư cấu mà Dumas sẽ tạo ra, mà cho người phụ nữ thực sự đã từ chối xin lỗi vì đã sống sót theo cách duy nhất cô có thể. Cô được chôn cất dưới tên thật: Alphonsine Plessis. Mộ cô vẫn ở Nghĩa trang Montmartre, thường được phủ đầy hoa trà do những người lạ để lại những người chỉ biết cô qua tiểu thuyết. 


Nhưng Marie thực sự người đã bò ra khỏi nghèo đói và lạm dụng, người đã xây dựng một salon nơi trí thức tụ họp, người đã giúp đỡ phụ nữ khác ngay cả khi chính mình đang đấu tranh sinh tồn, người đã yêu mà không được đáp lại cũng xứng đáng được nhớ đến. Không phải như một nạn nhân bi kịch cần được cứu rỗi. Mà là con người thật của cô: một người phụ nữ từ chối bị thế giới quyết tâm hủy diệt bẻ gãy. Nhất là cô cố gắng bẻ gãy tàn phá gia cang thiên hạ để được có tiền mua ví xịn Hermès hay áo lông cừu, qua các chương trình đầu tư Bitcoin giả. 


Thời nay chúng ta có rất nhiều trà hoa nữ trên mạng và xuất hiện rất nhiều trà hoa nam để đi lừa tình lừa tiền để ăn chơi. Chán Mớ Đời lý do họ đọc Trà Hoa Nữ của Alexandre Dumas con, một tên nghèo mê cô ta nhưng không được đáp lại vì cái tội Chí Phèo nên sau khi cô ta chết anh ta bựa ra chuyện tình lâm ly bị đát hốt được mới tiên thoải mái. Mình đọc cuốn này mướn ở tiệm sách Minh Thu đường Phan Đình Phùng Đà Lạt xưa nên khi qua tây cứ tưởng thật về mối tình hữu nghị sông liền sông núi liền núi của ông Thần Alexandre Dumas con (có tên bạn học gốc Huế lên là A lệc xăn đu ma) nên khi qua Paris buồn đời mình nhớ đến cuốn sách nên bò đến viếng mộ nàng kỹ nữ. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Cuộc chiến tranh lạnh thế kỷ 21 Hoa Kỳ-Trung Cộng

 Tóm tắc cuốn sách  “Bienvenue en économie de guerre” của David Baverez

Hôm qua tình cờ xem cuộc phỏng vấn trên đài Le Figaro với ông David Baverez, một nhà đầu tư Pháp ở Hương Cảng, tốt nghiệp luật tại Pháp. Thấy ông ta nói sơ sơ về hiện tình của âu châu giúp mình giác ngộ phần nào khi về âu châu 1 tháng, nói chuyện bạn bè và xem truyền hình của pháp và Ý Đại Lợi. Các nước này như đang trong tình trạng lấn cấn chưa biết đi đường nào thêm người già về hưu quá đông khiến ngân sách quốc gia quá eo hẹp. Pháp quốc có đến 5 chính phủ trong vòng 2 năm qua, hôm trước thấy quốc hội pháp không thông qua ngân sách vì tiền đánh thuế tối đa được 18 tỷ mà tiền chi ra lên trên 30 tỷ. Thế là ngọng.


Ông ta phang một câu là Đức quốc sẽ cướp tiền (pillera) của người Pháp qua công khố phiếu. Bà thủ tướng Nhật Bản mới lên đã phá vụ công khố phiếu nên tiền Yen xuống như diều phải mưa. Chắc năm sau ráng đi Nhật Bản thêm một lần nữa vì giá rẻ. Buồn đời mình kiếm cuốn sách của ông ta đọc “Bienvenue en économie de guerre”. Em xin tóm tắc lại đây để hiểu chút tình hình thay vì bắt chước thiên hạ chửi loạn cào cào.


Trong cuốn sách xuất bản tháng 5 năm 2024, ông David Baverez cho rằng thế giới đã bước vào một kỷ nguyên mới mà ông ta gọi nền kinh tế thời chiến “économie de guerre”. Theo ông, năm 2022 đánh dấu một bước ngoặt lịch sử quan trọng, giống như các năm 1914, 1945 hay 1989. Sự chuyển đổi này chấm dứt hơn ba thập kỷ của nền kinh tế thời bình dựa trên toàn cầu hoá và hợp tác mà ông ta gọi “trente ans glorieux” mà người Mỹ cũng như người âu châu ăn trên xương máu của người Tàu và các xứ khác khi họ chuyển đổi nơi sản xuất qua các xứ này để tránh sự tàn phá môi trường tại Quốc gia họ. Người Mỹ cũng như người âu châu như bị nghiện sống vui vẻ, đi chơi, nghỉ hè, làm 35 tiếng một tuần nhờ mua sắm hàng hóa rẻ từ Trung Cộng. Ai buồn đời thì đọc bài về an ninh quốc phòng số November 2025 của Hoa Kỳ do toà Bạch Cung mới cho lên trang nhà của toà Bạch Ốc đọc. Đời tổng thống nào em cũng bò lên đây đọc thay vì nghe lời truyền thông.


https://www.whitehouse.gov/


Đùng một cái, Covid xảy ra khiến các chuỗi cung ứng bị gián đoạn, người Mỹ và âu châu tĩnh mộng, than trời trong khi đó các anh ba tàu cười há há, không có tụi tao chúng mày chết. Các nước âu châu và Hoa Kỳ chới với đang tìm cách làm chủ lại tình hình kinh tế nhưng có lẻ đã quá muộn. Chỉ trong vòng 30 năm, quen ăn sung mặc sướng nên nay kêu đi làm thì ai nấy đều oải. Mình có chị quen cho mướn nhà, người mướn được housing, hổ trợ của chính phủ, từ khi mấy đứa con còn bé nay chúng thành đôi có von, lại ăn theo diện cháu, kêu là con chúng nó bỏ con lại cho mình nuôi. Thế là được tiền nuôi cháu thêm housing, đủ trò trên 30 năm nay. Foods stamp đủ thứ.


Sự kết thúc của nền kinh tế thời bình (1989–2022): Trong hơn 30 năm sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, phương Tây sống trong một môi trường kinh tế lý tưởng: tự do thương mại, chuỗi cung ứng toàn cầu trơn tru, niềm tin giữa các quốc gia, thị trường giữ vai trò quan trọng hơn địa chính trị. Nền tảng của thời kỳ này là sự phụ thuộc lẫn nhau: càng thương mại, càng ít xung đột. Theo ông tây Baverez, mô hình này giờ đã sụp đổ.


Xin mở ngoặc, khi mình theo học cao học về phát triển đệ tam thế giới tại trường Bách Khoa Lausanne. Có ông thầy giải thích như sau: xưa kia vùng kinh tế chính trị của âu châu nằm xung quanh biển Địa Trung Hải, ta thấy thời La mà vùng bắc Phi châu, Hy Lạp và các nước âu châu thuộc vùng này. Sau khi Kha Luân Bố tìm ra Châu Mỹ thì bắt đầu giao thương với các vùng Đại Tây Dương là chính, các nước ven biển Đại Tây Dương phát triển mạnh đến đầu thế kỷ 19 thì xem như hoàn toàn. Và thế kỷ 20 đánh dấu vùng kinh tế cũng như văn hoá của Thái Bình Dương được nổi bật lên. Các tiểu bang Hoa Kỳ ở miền Tây như Cali, Oregon, Seattle  cùng như Vancouver của Gia-nã-đại và miền nam Mễ Tây Cơ phát triển mau lẹ  song song với Nhật Bản, Trung Cộng, Nam Hàn và các vùng Đông Nam Á. Nếu nhìn xuống miền Nam Nam Mỹ thì các nước nằm dọc theo bờ Thái Bình Dương cũng sẽ ảnh hưởng. Xem như kỷ nguyên của nền văn hoá, kinh tế Thái Bình Dương.


Ông ta còn phán thêm là đi Silicon Valley về, thấy bên đó năng nổ phát triển còn về âu châu thấy thiên hạ chưa ngủ dậy nên từ đó mình muốn sang Hoa Kỳ một chuyến, ai ngờ lại dính chấu bên mỹ luôn.


Năm 2022: khởi đầu của sự bất ổn toàn cầu. Hai sự kiện lớn đã chấm dứt nền kinh tế thời bình: Chiến tranh Nga–Ukraine. Cuộc chiến đưa xung đột trở lại châu Âu, gây khủng hoảng năng lượng, lạm phát và bất ổn chiến lược. Ngày nay chúng ta khám phá ra các nước âu châu đều mua khí đốt và dầu hoả của Nga cho nên lên tiếng cấm vận bú xua la mua nhưng anh Puchin vẫn vui vẻ lên đài truyền hình kêu gọi mấy anh tây ăn caviar, uống vodska.


Thêm Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình củng cố quyền lực tuyệt đối và đẩy Trung cộng theo hướng kiểm soát chặt chẽ, ít cởi mở hơn. Mình xin mở dấu ngoặc ở đây vì mình có theo dõi vài nhân vật người Tàu chống Trung Cộng ở Hoa Kỳ và đài Loan. Mấy người này thì mạnh miệng kêu Tập thị hết thời này nọ. Có thể họ chỉ là công cụ tuyên truyền của Hoa Kỳ hay Trung Cộng để ru ngủ lòng dân Hoa Kỳ.


Ông họ Tập này khơi khơi kêu sẽ đánh chiếm Đài Loan này nọ, rồi bà thủ tướng Nhật Bản mới lên ngôi đã đe doạ Trung Cộng không được đụng tới người em gái sầu mộng Đài Loan của mình. Đài Loan xưa kia là thuộc địa của Nhật Bản, chỉ mất sau khi đầu hàng năm 1945, rồi năm 1949 Tưởng Giới Thạch đem tàn quân của ông ta đổ bộ lên đó. Cho nên đối với Nhật Bản vẫn xem Đài Loan là đất của họ. Mình có quen một giáo sư đại học gốc Đài Loan, ông ta cho biết là khi ở Đài Loan, ông ta không xem đài truyền hình của Tưởng gIới Thạch mà xem đài truyền hình Nhật Bản. Sau này du học rồi ở lại Hoa Kỳ. Ông vẫn xem Nhật Bản là mẫu quốc. Kết quả: ngày nay địa chính trị quay lại làm yếu tố quyết định trong kinh tế. Trung Cộng với chương trình Vành Đai và Con Đường mà mình có dịp hiển thị tại các xứ Liên Xô cũ như Tajikistan, Uzbekistan, Kazakhstan , Kyrgyzstan , Georgia,… hay ở Phi CHâu như Tanzania, Ai Cập, Jordan,… gần đây ta thấy Kazakhstan ngã về phía Hoa Kỳ, có thể làm gián đoạn con đường và vành đai của Trung Cộng. Có dịp mình kể thêm về vụ này vì đã đến các nước của vùng Trung Á và đọc thêm tài liệu,


Bây giờ mình mới hiểu lý do bộ quốc phòng Hoa Kỳ được cải danh thành bộ chiến tranh. Cho thấy thời đại chiến tranh kinh tế đã đến rồi. Hoa Kỳ tìm cách chận Venezuala bán dầu cho Trung Cộng nhân danh đánh chìm các tàu chở ma tuý. Xin nhắc lại là mấy ông ba tàu sản xuất fentanyl để đưa vào Hoa Kỳ. Cũng như trước đây khi Hoa Kỳ chiếm đông Á Phủ Hãn đã kêu người dân sở tại bỏ trồng rau cãi, trồng thuốc phiện để đưa các nước như Nga và Trung Cộng. Mình có kể một cự nhân viên CIA bị tù 5 năm vì đã lên tiếng báo động CIA tra khảo tù binh và giải thích như trên. Tương tự khi xưa, Hà Nội đem ma tuý vào miền nam để đầu độc thanh niên miền nam và lính mỹ. Có dịp mình kể vụ này.


Nền kinh tế thời chiến: trong kỷ nguyên mới này, bốn cơ chế thay thế các quy tắc trước đây: Ngờ vực thay thế sự tin tưởng: các quốc gia bảo vệ chuỗi cung ứng sống còn. Pháp lý trở nên bất ổn: trừng phạt, hạn chế công nghệ, kiểm soát xuất khẩu. Cứ thấy ông Trump ký sắc lệnh trừng phạt hay thu lại luật lệ trước đây. Xung đột trở thành cách điều chỉnh quan hệ quốc tế: cạnh tranh Mỹ–Trung, chiến tranh năng lượng, cạnh tranh công nghệ. Và sự phụ thuộc trở thành vũ khí: khí đốt Nga, đất hiếm Trung Quốc, chip Đài Loan. Trung Cộng vừa ra lệnh cấm bán đất hiếm là thấy ông Trump xuống nước ngay. Nhưng chỉ để câu giờ trước khi có thể khai thác đất hiếm ở Hoa Kỳ cũng như các xứ khác. Nguy hiểm nhất là ngày nay thế giới không còn được điều hành bởi thị trường, mà bởi sức mạnh. Trên thực tế thì nước nào cũng có đất hiếm nhưng họ mua từ Trung Cộng vì khai thác đất hiếm rất nguy hiểm cho môi trường. Có lần tình cờ gặp ông mỹ có tham chiến tại Việt Nam, ông ta kể về bầu-xít mà người Mỹ đã tìm thấy ở nơi ngày nay có dạo lên báo tùm lum Formosa.


Ông Baverez đề nghị diễn giải lại ESG (Énergie – Sécurité – Guerre) năng lượng-an ninh-chiến tranh. Theo ông, ưu tiên thật sự của các quốc gia phải là: Năng lượng: nền tảng của chủ quyền. An ninh: hạ tầng, dữ liệu, lương thực, vận tải. Chiến tranh: chuẩn bị cho xung đột quân sự, mạng và công nghiệp. Đây là khung phân tích realist nhất theo ông. Mình nhắc lại là cuộc chiến Ukraina rất quái đản là một mặt âu châu kêu gọi chống trả, cấm vận Puchin nhưng một mặt họ vẫn tiếp tục mua dầu khí của Puchin. Nay anh Trump lên kêu không được mua của Puchin , mua của Hoa Kỳ.


Ngày nay, Hoa Kỳ tuyên bố sẽ không can thiệp vào nội bộ các quốc gia khác về dân chủ bú xua la mua, nhân quyền vì 30 năm qua chả đưa đến đâu, lại tốn tiền. Nay chỉ lo kiếm tiền, chúng bay bị đàn áp thì ráng chịu. Đóng cửa biên giới, không cho tỵ nạn tỵ niết gì cả. Có tiền hay cực giỏi thì cho vào mỹ còn thì giác mơ Hoa Kỳ gì thì dẹp lại. Hoa Kỳ nợ như chúa chổm.


Trước đây trong vòng 3 thập kỷ, Hoa Kỳ và âu châu chơi đường như sau: kêu Trung Cộng sản xuất xuất cảng cho họ xài nên đời sống rẻ sung sướng. Người Mỹ và Âu châu chỉ việc in trái phiếu trả cho Trung Cộng. Tương tự Nhật Bản khi xưa sản xuất bán cho tây phương rồi lấy trái phiếu đến khi thế hệ lao động về già, ít người đẻ vì lo sản xuất nên quên thả gà ra đá. Mình xem một phim tài liệu về Nhật Bản, có bà trẻ độ 50 kêu là từ 10 năm nay hai vợ chồng không đá gà. Kinh. Trung Cộng ngày nay cũng lâm vào tình trạng tương tự, sản xuất nên chỉ cho đẻ một con, nay dân số lão hoá thế là ngọng. Hoa Kỳ và âu châu rút khỏi Trung Cộng, đầu tư vào chỗ khác như trường hợp Nhật Bản 30 năm về trước.


Đây là phần được tác giả cảnh báo mạnh mẽ nhất. Châu Âu đang phụ thuộc vào ba yếu tố:

•Năng lượng: khí Nga, dầu Trung Đông. Ngày nay về âu châu thấy thiên hạ cứ chống đi xe hơi này nọ trong khi đó không có dầu hoả, thậm chí cũng chống sử dụng năng lượng nguyên tử. Mình đọc báo đức thì thấy họ phỏng vấn thanh niên đức, mấy người này trả lời thà bị Nga xâm chiếm, đô hộ còn hơn đánh nhau ra mặt trận. Tư tưởng của người Pháp mà có dịp nói chuyện, toàn là écolo. Người già thì không cần đi xe hơi nhưng kinh tế cần năng lượng. Ở Cali mình để ý, dưới thời tổng thống Biden, kêu năm 2035 sẽ cũng cấm sản xuất xe hơi chạy bằng xăng nhưng các cây xăng cứ đua nhau xây cái mới nên mình không hiểu. Một cây xăng hay trạm rửa xe có thể thu vào mỗi năm trên nữa triệu nên gái bán ngày nay trên 2 triệu tối thiểu.

•Công nghiệp: sản xuất tại Trung Quốc. Cái gì cũng made in China, trước đây anh cứ để mấy anh ba tàu sản xuất bán rẻ cho anh tây bà đầm xài. Bây giờ thì tá hoả tam tinh vì khơi khơi anh ba tàu có thể ngưng bán cung cấp đồ phụ tùng này nọ là ngọng. Họ nói đưa qua Việt Nam hay các nước khác nhưng quá trễ thêm qua Việt Nam thì cũng như ở Trung Cộng vì đa số công xưởng ở Việt Nam được làm việc đàng hoàng là có cái dù che của Trung Cộng nên không bị công an hỏi han.

•Quân sự: bảo vệ chủ yếu dựa vào Hoa Kỳ. Cứ dựa vào NATO canh gác cho mình ngủ như CUba và Việt Nam canh gác cho thế giới đại đồng ngủ bình yên. Bao nhiêu lính mỹ đóng tại âu châu. Nay anh mỹ ngang xương kêu không trả tiền nữa. Thế là ngọng.


Ông Baverez thậm chí dùng khái niệm “Yemen hoá châu Âu”: châu Âu có nguy cơ trở thành chiến trường giữa các siêu cường. Chúng ta thấy qua vụ tiếp tế cho Ukraina, có sự sức mẻ khi Hung Gia Lợi, và vài nước khác vì lợi ích của xứ họ nên không muốn tiếp tục đóng góp.


Lạm phát kéo dài và sự kết thúc của “just-in-time”. Từ covid đến giờ lạm phát Hoa Kỳ lên như điên, ăn tô phở bây giờ hết dám ăn vì gần $20. Theo ông Baverez, lạm phát hiện nay mang tính cơ cấu, không còn tạm thời: lý do là tài nguyên khan hiếm, chuỗi cung ứng phân mảnh, chi phí an ninh năng lượng tăng, xu hướng tái công nghiệp hoá. Do đó, mô hình “just-in-time” phải nhường chỗ cho “just-in-case”, dự trữ và bảo đảm an toàn chiến lược.


Châu Âu cần làm gì? Ông Baverez đưa ra nhiều giải pháp:

Tái công nghiệp hoá các lĩnh vực then chốt: năng lượng, quốc phòng, chip, dược phẩm.

Xây dựng chiến lược chung giữa 27 nước.

Tạo liên minh giữa địa chính trị – kinh tế – doanh nghiệp.

Đầu tư mạnh vào quốc phòng và an ninh mạng.

Điều quan trọng nhất là xây dựng chiến lược tự chủ.


Đọc cuốn sách của ông tây này giúp em hiểu rõ thêm lý do họ muốn chiến tranh Ukraina kéo dài. Để âu châu có thời gian tái cấu trúc lại kỹ nghệ hoá của họ vì nhân danh bảo vệ môi trường này nọ. Cũng như Hoa Kỳ dẹp qua một bên. Thật ra đọc tài liệu của Trung Cộng thì thấy họ tiến mạnh về trí tuệ nhân tạo. Thấy mấy ông thần ả rập đầu tư vào Hoa Kỳ rất nhiều tiền, nay mình mới bắt đầu hiểu sự việc cho cuộc chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ-Trung Cộng.


Sang năm mình sẽ đi Trung Cộng lại để xem sau 18 năm xứ này tiến xa như thế nào vì nghe thân hữu đi về kể chuyện thấy hấp dẫn. Mình có đọc báo Trung Cộng nhưng muốn xem tận mắt thay vì ngồi đọc tin tức tuyên truyền của mỹ và âu châu rồi kết luận theo sự tuyên truyền. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn

Tướng George Marshall khôi phục lại âu châu

 Chiến Tranh và Hoà Bình

Dạo này dân cư mạng ồn ào trên các mạng xã hội. Người nguyền rủa Hoa Kỳ bán đứng Ukraine như Việt Nam Cộng Hoà, Á-Phú-Hãn, các đồng minh. Người thì hoan hô, kêu cuộc chiến không phải của người Mỹ hay người Pháp. Trong khi đó Hoa Kỳ đang quần Venezuela thì các đồng minh như Puchin, Tập Cận Bình, Cuba chả thấy lên tiếng. 


Bên pháp số chống đối tổng thống Macron thì kêu ông Macron hân hoan tuyên bố sẽ cung cấp 100 chiến đấu cơ Rafale cho Ukraina trong vòng 10 năm nữa, khiến cổ phiếu công ty chế tạo máy bay này tăng vọt lên 10% trong khi ngân quỹ không được quốc hội duyệt phê. Họ kêu thu thuế được 18 tỷ mà phải xài đâu 30 tỷ (không nhớ số chính xác, chỉ lướt qua). Dân tình kêu tiền đâu, bán cho Ukraine, họ hết tiền, hết người để đánh. Chết rất nhiều. Mình theo dõi bên ủng hộ Ukraina, bên ủng hô Puchin thì cả hai bên chết rất nhiều và đào ngủ cả hai bên cũng nhiều. Mình thích đọc tài liệu của hai bên để có một nhận định riêng ít bị tuyên truyền.


Khi xưa, còn bé mình nghe đài Sàigòn buổi chiều kêu Việt Cộng bỏ lại mặt trận 120 xác chết, và bao nhiêu bị thương, phe ta vô sự rồi buồn đời tối mình mở đài Hà Nội ra nghe thì cũng cùng trận đánh, phe ta diệt 400 tên lính nguỵ,… cho nên mình thất kinh từ đó, không bao giờ tin vào một tin tức. Sau này đọc tin tức cả hai bên thì được biết Mùa Hè Đỏ Lửa, hai bên chết kinh hoàng. Mình hỏi ông chú họ ở quê, chú kể là hãi hùng, đại đội của chú chỉ sống sót vài người, chú bị thương nhẹ nên may được trở về quê quán. Đọc hồi ký các sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà cũng nghe kể tan thương lắm.

Trên tờ Foreign Affairs, có đăng vụ phụ nữ Nga hối hả lấy chồng, đối tượng là những chàng trai sắp sửa được đưa ra mặt trận, vào lò nghiến thịt. Lý do là những người tử trận được tiền tử đền bù khá nhiều và có thể được trả lương cả đời nhằm khuyến khích họ ra đi. Họ sẽ hát ngày thành hôn tôi bận đồ hành quân và vợ tôi chỉ mong cho tôi sớm hy sinh cho Puchin …. Cho thấy người Nga vẫn vui khi có chiến tranh vì được lãnh tiền vì chiến tranh.


Mình thích sự trào phúng của người Pháp vì có nhiều người đưa thí dụ Pháp quốc ký giấy “letter of intent” bán cho Ukraina 100 phi cơ chiến đấu Rafale như: hội phụ huynh muốn gây quỹ nên mua bột mì, đường bú xua la mua rồi bỏ công làm bánh này nọ, sau đó đem bán rồi cúng hết tiền cho chương trình của trường. Chính phủ Macron nói bán 100 chiến đấu cơ Rafale nhưng Ukraine không có tiền thì xem như cho không. Tạo công ăn việc làm và làm giàu cho công ty chế tạo Rafale, đã giúp ông ta lên ngôi tổng thống. Cũng có thể chỉ nói cho vui làm trò để lấy tinh thần cho lính Ukraina tiếp tục đánh. Nghe phía bên Puchin thì cũng muốn đàm phán. Cần giữ đất đã chiếm vì nếu không thì dân nga sẽ thịt ông ta. Mà ông Zelensky cũng lâm vào tình trạng nếu mất đất thì dân chúng Ukraina cũng thịt ông ta. Có lẻ ông Zelensky sẽ bị ám sát trước khi ký kết ngưng bắn. Rồi vài năm sau, Puchin lại cho quân xua qua Ukraina nữa như Hà Nội đã làm sau khi bị đánh tơi bời hoa lá năm Mậu Thân. Dân chúng miền nam không nổi dậy chạy theo họ mà bỏ chạy nên họ dẹp vụ giải phóng miền nam và ra mặt đưa bộ đội vào Nam bất kể ký kết hiệp đình Paris.


Sáng nay, lại nghe Hung Gia Lợi kêu được Hoa Kỳ cho phép mua dầu khí rẻ của Nga và sẽ chia cho Serbia. Mấy ông tây bà đầm ở Âu Châu hô hào đánh cho Puchin bay đầu nhưng lại mua dầu khí rẻ của Puchin thì làm sao cấm vận được. Họ được mua dầu khí rẻ thì càng tốt. Chiến tranh càng kéo dài dân âu châu càng lợi. Họ chỉ hô hào đạo đức giả.


Nhớ khi xưa, học lịch sử Hoa Kỳ, sau khi Hitler tự tử, nay lại nghe tin tức ở Á Căn Đình cho rằng ông này đã chạy sang Á Căn Đình sống đến chết. Quân đội đồng minh chiến thắng thì có chương trình MArshall nhằm tái thiết Tây Âu lại. Cứ tưởng tượng đang đứng giữa trung tâm một thành phố châu Âu năm 1945. Không có tiếng xe cộ. Không có tiếng rao buôn bán. Chỉ có mùi khói, những bức tường cháy xém, và tiếng bước chân nặng nhọc của những con người đang cố gắng sống sót sau một cơn ác mộng kéo dài sáu năm. Những cây cầu gãy đôi, những trường học chỉ còn là đống gạch. Những nhà máy không còn máy móc và tệ hơn tất cả: không còn hy vọng. Có thể nói là tuyệt vọng.


Hình ảnh này mình đã nhìn thấy năm Mậu Thân, khi lên Cây Số 4, phụ gia đình dì Ba Ca, xây lại căn nhà, dấu vết bom napalm vẫn đầy , nghẹt mùi cháy của bom phosphore. Hình ảnh dượng Ba Ca đứng nhìn căn nhà gỗ đã tương, chỉ còn nền xi-măng. Dượng và mấy người con trai mỗi ngày làm hắc-lô để xây lại. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã tài trợ một số tiền. Hình ảnh hoang tàn của chiến tranh khiến mình hoảng sợ, chả muốn đánh nhau, tham dự cuộc chiến.

Hình ảnh mình đã thấy ở Số 4 sau khi Việt Cộng rút lui và trận mưa bom napalm mà từ khu vực nhà mình đứng thấy rõ các cuộc oanh tạc. Lúc đầu thấy máy bay bà già bay vòng vòng rồi nghe cái tạch, rồi thấy đạn khói bay xuống đất khói bay lên rồi vài phút sau là khu trục cơ bay đến thả bom. Dạo đó chưa học hyperbol nhưng sau này lớn lên học là hiểu liền nhờ chứng kiến thật khi xưa. Có ai biết lý do Việt Cộng lại cắm quân lại Số 4? Vì dân số 4 có nhiều người nằm vùng?


Trong bối cảnh Tây Âu thời hậu chiến, xuất hiện một nhân vật, dáng khắc khổ, ít khi cười, nói chuyện thẳng thắn nhưng rất chậm rãi, không ồn ào phô trương. Tên của ông là George Catlett Marshall. Trong chiến tranh, ông từng chỉ huy hơn tám triệu binh sĩ, nhiều hơn cả lực lượng của Mỹ ngày nay. Ông góp phần định hình chiến lược đánh bại phe Trục. Tướng Eisenhower, cựu tổng thống Hoa Kỳ từng nói:“Marshall là người đàn ông vĩ đại nhất tôi từng gặp.”


Nhưng điều khiến ông Marshall trở nên một tướng lãnh độc nhất, không phải là khả năng chỉ huy chiến tranh mà là khả năng nhìn thấy hòa bình khi thế giới chỉ thấy tro tàn. Tương tự ngày nay, dân cư mạng cứ hô hào Ukraine phải đánh tới người dân cuối cùng. Mình xem biểu đồ ngân sách của âu châu và Hoa Kỳ viện trợ cho Ukraine từ khi cuộc chiến khởi đầu thì thất kinh, người Mỹ đóng góp rất nhiều mà nay âu châu kêu gọi đóng góp thêm khiến người Pháp kêu trời. Tiền đâu ra. Lúc đầu mình tưởng chỉ có Hoa Kỳ nay khám phá ra âu châu cũng banh ta lông về kinh tế. Chúng ta cần chuẩn bị cho cuộc khủng hoảng kinh tế sắp tới.

Ông Trump lên kêu không cung cấp viện trợ nữa thế là ngọng. Mình nghe nói nhưng chưa có tin chính thức là chính quyền Ukraina cũng tham nhũng lắm. Đồ viện trợ qua tay chính phủ Ukraina rồi trở lại các tay khác ở Âu châu và Hoa Kỳ. 


Trong một buổi điều trần tại thượng viện, tướng George C. Marshall ngồi im lặng trong khi các thượng nghị sĩ tranh luận, giọng nói của họ vang lên khi họ cố gắng biến chiến thắng khó nhọc của Thế chiến II thành sự trả thù. Đó là năm 1947, và châu Âu đã tan vỡ. Các thành phố nằm trong đống đổ nát, người dân chết đói, và trật tự chính trị từng gắn kết lục địa này đang sụp đổ. Toàn bộ các quốc gia đứng bên bờ vực hỗn loạn. Các người dân địa phương trả thù nhau vì tội làm pháp gian, đức gian, ý gian,… các phụ nữ có sinh hoạt với đức quốc xã trong thời chiến tranh, bị cạo đầu, bôi nhọ, chửi bới. Thêm Stalin cắt đất, khiến nhiều dân tộc phải rời bỏ chốn chôn nhau cắt rốn đi về một xứ nào đó họ chưa bao giờ biết. Như trường hợp bà Inge, sinh ra trong vùng đất ở Ba Lan, sau đệ nhị thế chiến bị tống cổ về Đức quốc. Phải học tiếng đức vì được xem là người đức thay vì Ba Lan như xưa.


Hoa Kỳ đã có thể quay lưng. Họ có thể tuyên bố chiến thắng của mình và bỏ mặc châu Âu chịu đau khổ. Nhiều người trong Quốc hội mong muốn điều đó. George Catlett Marshall, hiện là Ngoại trưởng, lại có một tầm nhìn khác. Ông đề nghị một điều mà ít ai có thể tưởng tượng được: tái thiết chính những quốc gia mà nước Mỹ đã chiến đấu chỉ hai năm trước đó như Đức quốc và Nhật Bản thêm Ý Đại Lợi. Nhờ đó có thể giúp Hoa Kỳ khôi phục các xưởng sản xuất, tái thiết sau thế chiến thứ 2. Giúp người giúp ta 100 lần 100 giàu có.


Ngày 5 tháng 6 năm 1947, ông đứng trên bục giảng tại Đại học Harvard, đọc bài diễn văn tốt nghiệp chỉ kéo dài chưa đầy mười phút. Không có những khoảng lặng kịch tính như mình học ở hội Toastmasters hay những lời kêu gọi cảm xúc, không có những lời hoa mỹ để nhận được tràng pháo tay. Thay vào đó, ngoại trưởng Marshall nói một cách thẳng thắn, thực tế về sự tàn phá ở châu Âu và trách nhiệm của những người đã thoát khỏi nó. “Chính sách của chúng ta không nhằm vào bất kỳ quốc gia hay học thuyết nào,” ông nói, “mà là chống lại nạn đói, nghèo đói, tuyệt vọng và hỗn loạn.” Ai buồn đời thì nghe bài diễn văn của ông ta:

https://youtu.be/dg9_GqXa770?si=Xc6IxauqhZcY-PX3


Mấy ông tàu cũng bắt chước ý định này với chương trình “Vòng đại và Con Đường”, giúp họ phát triển, có công ăn việc làm cho người Tàu lại thêm có ảnh hưởng ở các các xứ mà họ thực hiện chương trình này như ở Phi Châu và các nước thuộc Liên Xô cũ mà mình đã từng ghé. Puchin thay vì đem quân đi đánh thiên hạ, cứ dùng tiền bán dầu hoả rồi thành lập các chương trình như Trung Cộng là được lòng dân thế giới, giúp đất nước giàu có.


Đằng sau những lời lẽ bình tĩnh ấy là một người đàn ông đã chứng kiến ​​chiến tranh sâu sắc hơn bất kỳ ai. Với tư cách là Tổng Tham mưu trưởng Lục quân, Marshall đã chỉ huy lực lượng quân sự lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, hơn tám triệu quân dưới quyền. Ông đã giám sát mọi hoạt động, mọi kế hoạch, mọi cuộc di chuyển từ Bắc Phi đến Normandy. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ tìm kiếm sự chú ý của đám đông. Nếu ai có dịp đi viếng vùng Normandie, nên ghé lại các nghĩa địa chôn lính mỹ chết khi được gửi sang âu châu. Nghĩa trang Biên Hoà của lính Việt Nam Cộng Hoà không bằng những nghĩa trang quân đội Hoa Kỳ tại vùng này. Lính chết nhiều khi đổ bộ xuống bờ biển Normandie. Khi viếng những nghĩa trang này, thì không ai có khả năng hô hào chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, toàn là lính trẻ không. Mình ghé lại nghĩa trang quân đội Việt Nam Cộng Hoà, ở Biên Hoà, thấy toàn là lính chết ở tuổi 19, 20. Ukraina hay Nga, đều có những người mẹ, hay vợ khóc khi được tin con hay chồng hy sinh cho cuộc chiến vô nghĩa.


Như ông thượng tá mình gặp, chủ một tiệm ăn ở Vịnh Hạ Long. Ông ta than bỏ cả tuổi trẻ vào nam đánh mỹ cút nguỵ nhào, nay về quê mở tiệm ăn, phải phục vụ bọn đế quốc du khách mỹ và nguỵ quân nguỵ quyền như anh. Chán Mớ Đời. Sau 10 năm say men chiến thắng khiến dân từ có cơm để ăn phải ăn bo bo mà Liên Xô cho ngựa ăn để sống. Phải quay đầu lại năn nỉ Hoa Kỳ xin bang giao. Cho thấy cuộc chiến vo nghĩa, thêm ông Lê Duẫn cuối đời như giác ngộ cách mạng kêu “chúng ta đánh cho Nga, cho Tàu”.  


Khi Tổng thống Roosevelt đề nghị ông cơ hội lãnh đạo cuộc đổ bộ của quân Đồng minh vào châu Âu, Marshall đã từ chối, chỉ nói: “Tổng thống phải quyết định nơi nào tôi hữu ích nhất.” Ông hiểu tầm quan trọng của sự lãnh đạo, nhưng ông cũng biết khi nào nên để người khác chỉ huy. Roosevelt đã chọn Eisenhower cho Ngày D, và Marshall ủng hộ quyết định này mà không hề phàn nàn. 


Giờ đây, khi sự tàn phá của chiến tranh lan rộng từ chiến trường đến sinh mạng của hàng triệu thường dân, ông Marshall nhận thấy rằng việc giành lại hòa bình sẽ đòi hỏi cùng một kỷ luật và sự hy sinh đã giúp giành chiến thắng trong chiến tranh. Ông đề nghị một chương trình mà sau này được gọi là Kế hoạch Marshall là một nỗ lực to lớn để tái thiết Tây Âu, không phải thông qua chiếm đóng hay trừng phạt, mà thông qua viện trợ. Kế hoạch này sẽ tiêu tốn 13 tỷ đô la, một số tiền tương đương hơn 170 tỷ đô la theo giá trị hiện đại.


Kế hoạch này kêu gọi thực phẩm, máy móc và chuyên môn của Mỹ đổ vào các nền kinh tế đang bị tàn phá của châu Âu. Kế hoạch này sẽ giúp xây dựng lại các nhà máy, khôi phục nông trại và ổn định chính phủ. Nó cũng sẽ gắn kết tương lai của châu Âu với Hoa Kỳ, tạo ra mối liên kết tin tưởng thay vì oán giận. Nhờ đó mà kinh tế và kỹ thuật Hoa Kỳ phát triển rất nhanh sau cuộc chiến khiến khắp nơi thế giới, ai nấy đều có nhà và xe hơi. Một nhân công mỹ có thể nuôi một vợ và con, có chiếc xe hơi.


Trong nước, ý tưởng này đã vấp phải sự phản đối dữ dội. Những người chỉ trích cáo buộc Marshall lãng phí tiền của Mỹ, "nuôi dưỡng người nước ngoài" khi các cựu chiến binh Mỹ vẫn cần sự giúp đỡ. Tương tự ngày nay, người ta hô hào ủng hộ Ukraine đánh Puchin nhưng chả thấy ai tự nguyện lên đường sang Ukraine đánh Puchin. Một số người thậm chí còn gọi kế hoạch này là phản quốc, cho rằng nó sẽ củng cố sức mạnh cho những kẻ thù cũ như Đức và Ý. Tại Thượng viện, cuộc tranh luận trở nên gay gắt. Tuy nhiên, Marshall vẫn giữ bình tĩnh. Ông không tranh luận hay biện hộ. Ông chỉ đơn giản nêu ra sự thật và để logic của lòng trắc ẩn tự lên tiếng.


“Hoa Kỳ sẽ giúp tái thiết toàn bộ châu Âu.” Không chỉ giúp một nước, không chỉ giúp đồng minh, mà là toàn bộ lục địa chìm trong bóng tối. Ông không hứa cứu trợ nhân đạo đơn thuần mà đề nghị một phương thuốc chữa tận gốc: giúp các quốc gia tự đứng vững. Một phóng viên đã viết “Marshall không nói bằng lửa, mà bằng sự tỉnh thức.” Và chính sự tỉnh thức ấy đã thay đổi thế giới.


Trong vòng bốn năm, kết quả là không thể phủ nhận. Sản lượng công nghiệp của châu Âu đã tăng hơn 35%. Nạn đói giảm, chính phủ ổn định, và những kẻ thù cũ trở thành đồng minh. Kế hoạch này không chỉ tái thiết các thành phố mà còn xây dựng lại niềm tin vào nền dân chủ, vào sự hợp tác, và vào chính nước Mỹ. Như chúng ta thấy Tây Đức và Nhật Bản, phát triển thậm chí ngày nay người Nhật và người Nam Hàn làm cái tượng của tướng McArthur.


Công nghiệp Tây Âu vượt mức trước chiến tranh. Người dân có việc làm trở lại. Nhà cửa được xây mới. Hệ thống dân chủ được củng cố. Các quốc gia kề vai hợp tác thay vì nghi ngờ. Ngay cả những nước từng là đối thủ trong chiến tranh cũng nhận viện trợ. Marshall hiểu rằng: Hòa bình bền vững không thể xây trên lòng thù hận. Chỉ có thể xây trên thịnh vượng chung.


Do đó khi nghe thiên hạ chửi nhau này nọ. Quá dễ vì họ không phải hy sinh nhân mạng, tài chính nên tha hồ hét bú xua la mua đến tên cuối cùng cũng đánh. 


Kế hoạch Marshall trở thành nền tảng cho Cộng đồng Kinh tế châu Âu, rồi Liên minh châu Âu sau này. Kế hoạch Marshall cung cấp 13 tỷ đô la, một con số khổng lồ thời bấy giờ. Nhưng số tiền ấy vẫn chưa phải là điều đặc biệt nhất. Lần đầu tiên trong lịch sử, một cường quốc chiến thắng chọn xây dựng thay vì trừng phạt. Có lẻ ông ta học được bài học thế chiến thứ nhất, khi quân chiến thắng trừng phạt Đức quốc khiến phòng trào Đức quốc Xã lên ngôi và tìm cách trả thù tạo nên thế chiến thứ 2.


Họ gửi lúa mì đến nuôi dân đói, gửi than để sưởi ấm mùa đông, máy móc để dựng lại nhà máy. Gửi vốn để mở lại thương cảng và gửi cả niềm tin rằng tương lai có thể tốt hơn. Một nhà sử học viết: “Kế hoạch Marshall không chỉ mang hàng hóa đến châu Âu. Nó mang lại hy vọng.”


Khi George Marshall nhận giải Nobel Hòa bình năm 1953, ông trở thành người lính chuyên nghiệp đầu tiên làm được điều này. Đứng trước khán giả ở Oslo, ông đã nhận giải thưởng với cùng một sự khiêm nhường lặng lẽ đã định hình cuộc đời ông. "Hòa bình", ông nói, Tôi là một người lính. Tôi hiểu chiến tranh tàn phá thế nào và tôi biết hòa bình đáng giá ra sao.” Ông không nói về chiến thắng, không nói về vinh quang. Ông nói về điều duy nhất khiến chiến thắng có ý nghĩa: khôi phục lại cuộc sống của con người.


Không lâu sau đó, ông từ giã sự nghiệp chính trị. Không giống như nhiều người cùng thời, ông không viết hồi ký, không có bài phát biểu nào để tôn vinh thành tích của mình, và cũng không tìm kiếm chức vụ chính trị nào. Ông chưa bao giờ đấu tranh để được công nhận, mà chỉ đấu tranh vì kết quả. Khi ông qua đời vào năm 1959, không có tượng đài cá nhân hay lời tri ân nào được viết ra. Chỉ có một di sản được khắc trên những con phố được xây dựng lại của châu Âu và sự ổn định của một thế giới mà ông đã góp phần cứu vãn.


George C. Marshall đã dành cả cuộc đời để làm chủ nghệ thuật chỉ huy, nhưng hành động lãnh đạo vĩ đại nhất của ông không đến trong chiến tranh mà là trong hòa bình. Vào thời điểm thế giới sẵn sàng trừng phạt, ông đã chọn tái thiết. Vào thời điểm cơn giận dễ dàng đến, ông đã chọn lòng nhân từ.


Ông đã chứng minh rằng sức mạnh thực sự không phải là sức mạnh hủy diệt, mà là lòng can đảm để khôi phục lại những gì sự hủy diệt đã lấy đi. Một nhà ngoại giao châu Âu từng nói: “Nếu không có Marshall, có lẽ châu Âu vẫn còn chia rẽ, đói nghèo và sợ hãi.”


Khi mình ở Pháp quốc, có viếng vùng Normandie, nơi có mấy nghĩa trang quân đội Hoa Kỳ, đã nằm xuống để “giải phóng” nước pháp. Ngược lại người Pháp rất ghét người Mỹ kêu “les amerloques” này nọ, chửi Hoa Kỳ không thương tiếc. Nếu không có người Mỹ nhảy vào cuộc chiến thì có lẻ ngày nay người Pháp nói tiếng đức. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn