Hiển thị các bài đăng có nhãn Những mảnhnhớ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Những mảnhnhớ. Hiển thị tất cả bài đăng

ngày cựu chiến binh có ai nhớ

 ngày  cựu chiến binh

Tuần tới ngày 11/11 là ngày lễ cựu chiến binh Hoa Kỳ khiến mình nhớ đến mấy người lính Việt Nam Cộng Hoà vì mấy ngày này mình đọc tin tức về thương phế binh khi xưa cắm dùi, mới nghe nhắc đến thân phận của họ sau ngày 30/4/75.

Tại Hoa Kỳ thì mình hay tham dự các lễ họp mặt các cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hoà xưa do thân hữu rủ đi gây quỹ. Tuần này đọc tài liệu về thương phế binh Việt Nam Cộng Hoà thì mình không biết các người lính còn lại Việt Nam nghĩ gì về ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, hay như các con thú bị thương tìm một nơi an lành để chữa lành vết thương một đời người. Đọc đâu đó nói có trên 1 triệu quân công cán chính của miền Nam bị đi tù cải tạo. Ông Phạm Văn Đồng trả lời tờ Paris Match, cho rằng có trên 3 triệu người miền Nam bị đưa đi cải tạo. Cho nên cũng không biết ai đúng.


Mình không nghĩ là số người thuộc chế độ cũ, được đi định cư hết tại nước ngoài. Một số sĩ quan ở tù trên 3 năm mới được đi theo diện H.O., nhưng cũng có nhiều người hội điều kiện nhưng lại không đi. Mình có gặp tại Việt Nam mấy người lính Việt Nam Cộng Hoà xưa, nay an phận làm rẩy rồi truyền cơ ngơi lại cho con cháu trên các vùng kinh tế mới khi xưa.


Có lần mình gặp một thượng tá bộ đội bác hồ, ở gần vịnh Hạ Long. Ông ta làm chủ một nhà hàng, kêu khi xưa vào nam đánh cho mỹ cút nguỵ nhào, nay về hưu mở quán lại phải phục vụ du khách, bọn đế quốc mỹ và con cháu nguỵ quân nguỵ quyền như anh, mà phải phục vụ tốt nếu không thì không được tiền boa. Đời quái thật. Nếu biết trước đánh cho mỹ cút rồi lại phải xin mỹ trở lại, bỏ cấm vận, mở công ty bán coca cola, giày Nike ,..cho có công ăn việc làm cho người Việt , không phải cầm cố nhà cửa đi lao động quốc tế.


Theo mình hiểu thì khi Sàigòn mất thì có độ trên 120,000 người miền nam, cả gia đình được di tản qua mỹ. Đa số là các người có địa vị trong xã hội, làm lớn hay giàu có,… sợ Việt Cộng tắm máu nên bỏ chạy trước qua chiến dịch Operation Frequent Wind. Có nhiều người không muốn đi nhưng lại bị di tản. Như chồng của một chị hàng xóm khi xưa. Anh ta kể là đưa gia đình ông anh ra toà đại sứ Hoa Kỳ, anh ta ôm đứa cháu rồi thiên hạ xô anh ta ra sao lại lọt vào cổng toà đại sứ, đúng lúc đó thuỷ quân lục chiến mỹ đóng cửa cổng, anh ta ra dấu muốn đi ra nhưng lính mỹ không cho, trong khi ngoài cổng thiên hạ gầm thét, muốn vào. Anh ta chỉ biết ôm mặt khóc nhớ vợ con ở nhà. 10 năm sau mới đoàn tụ.


Phần còn lại độ 1 triệu người lính và công chức phải đối mặt với những biến cố lịch sử đầy bi kịch. Họ được chính quyền mới mời đi học tập chính trị để cải tạo tư tưởng từ 10 ngày đến 1 tháng nhưng có người kéo dài đến 17 năm trời.

Hạ sĩ quan thì vài tuần rồi cho về. Ông cụ mình công chức thường nên đi học tập mấy tuần được về sau bị bắt lại lên án 18 năm, ở trại cải tạo mất 15 năm đến khi hết học viên mới được thả ra.

Sĩ quan cấp trung tá trở xuống thì 2-5 năm. Ông cậu mình thì bị 6 năm, anh vợ mình thì 3 năm, đủ điều kiện sau này đi H.O.

Cấp đại tá trở lên thì 10-17 năm như tướng Nguyễn Hữu Có bị tù đến năm 1991. Kinh


Còn cậu ruột của vợ mình đi tập kết, sau 75 về, cho biết là sĩ quan tuỳ viên của võ đại tướng, kêu cháu , gia đình đi vượt biển hết đi. Nên cả dòng họ thay phiên nhau vượt biên, nay xem như đại gia đình đều ở Hoa Kỳ, ngoại trừ gia đình ông cậu. Thật ra phân nữa gia đình ông cậu từ Hà Nội cũng bỏ nước ra đi. Đi du học rồi lấy vợ lấy chồng ở Hoa Kỳ để ở lại luôn.


Vấn đề là sau khi được thả như ông cụ mình thì mỗi tuần phải lên làm việc với công an khu vực, cho biết trong ngày gặp ai này nọ,… lâu lâu con cháu dúi cho chút tiền, mời công an ăn phở, uống cà phê. Tìm kiếm công ăn việc làm cũng khó. Gia đình lính Việt Nam Cộng Hoà bị tịch thu tài sản, đuổi đi kinh tế mới. Gia đình mình suýt bị đuổi đi kinh tế mới nhưng nhờ mấy bà khi xưa gia nhập việt minh với mẹ mình, sau 75 làm lớn đỡ đòn dùm nên vẫn tồn tại tại Đà Lạt. Ngoài ra còn vượt biển mà theo uỷ ban tỵ nạn quốc tế thì chỉ có 50% thuyền đến bờ.


Không biết giấy ra trại của ca sĩ nào đây. Mình nghe kể là giấy ra trại của ông cụ, đề phản động. Lần đầu ông cụ đi xin , làm sổ thông hành, thì đụng ngay tên quản giáo trong trại nên không làm được nên phải đời cả năm sau, tên này bị đổi đi đâu mới lên làm sổ thông hành đi mỹ chơi một năm rồi về.

Trong chiến tranh, Việt Nam Cộng Hoà có từ 250,000-315,000 lính tử trận. Mình có viếng nghĩa trang quân đội Biên Hoà, nghe đâu có 16,000 lính được chôn tại đây. Còn lính chết mất tích thì khỏi tìm. Tới đây thấy ớn, vì nhìn mộ bia toàn là lính nhảy dù , chết rất trẻ, 19 hay 20 tuổi. Mình muốn lần sau sẽ đi đến đồi Charlie để thắp hương vì lính hai bên chết tại đây nhiều lắm. Cách đây mấy năm có chương trình tưởng niệm mấy quân nhân nhảy dù bị rớt máy bay. Sau họ tìm được hài cốt và Hoa Kỳ điều đình với Hà Nội được mang hài cốt họ sang Hoa Kỳ. Mình có đi dự buổi lễ hôm đó rất cảm động. Có một chị có chồng chết trong số đó, kêu mình dắt chị ta đi vì lớn tuổi từ bãi đậu xe.

Nghĩa trang quân đội Việt Nam Cộng Hoà tại Biên Hoà

Chính sách lý lịch khiến đa số con cháu thuộc gia đình đi lính hay công chức miền nam không được đi học đại học như mấy người em của mình. Có anh bạn đậu thủ khoa Huế, được giấy tờ cho du học Liên Xô, không có nợ máu nhân dân gì cả, được đưa về Võ Văn Tần học tiếng nga một năm chuẩn bị đi Liên Xô nhưng cuối cùng thì mấy cán bộ lớn từ bắc vào đá đít ra khỏi danh sách để con họ đi, nuôi các hạt mầm giống đỏ. Anh ta phải vượt biển trong khi một thủ khoa miền nam tự tử.


Mình về quê, nói chuyện với mấy chú họ bà con vì chú mình thì bị B52 dập chết trên đường mòn Hochiminh, một ông thì bị tây bắn chết. Có một chú bị thương, thoát chết tại miền Nam, kể tình hình khiến mình thất kinh.


Lâu lâu mình xem chương trình “bạn muốn hẹn hò” thì ngạc nhiên vì có nhiều người tự kêu là quê quán ở Gia Lai, Lâm Đồng, Đắc Nông này nọ mà nói giọng bắc, giọng sơ tán. Đọc tài liệu mới khám phá ra là 1 triệu bộ đội bác hồ vào nam đánh mỹ cút ngụy nhào như chú mình. Sau chiến tranh, họ không phải đối mặt với sự kỳ thị như lính miền Nam, họ được xem là anh hùng nhân dân, và được tái hoà nhập vào đời sống dân sự. Tuy nhiên họ vẫn phải đối mặt với cái chết, cảnh chiến tranh khi xưa như ông chú họ mình kể như muốn khóc. Đại đội chết gần hết, còn vài người. Mấy người con của chú vào Lâm Đồng làm ăn từ bé.


  Sau chiến thắng Mùa Xuân, hầu hết binh sĩ được giải ngũ dần dần và trở về quê nhà ở miền Bắc hoặc được cử vào miền Nam để tham gia “xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Nhiều người được phân công vào các hợp tác xã nông nghiệp, công trường xây dựng, hoặc lực lượng công an địa phương. Chính quyền ưu tiên họ với khẩu hiệu “tự nguyện” di cư, nhưng thực tế là một phần của chương trình “kinh tế mới”, khoảng 800.000-1 triệu người (bao gồm dân thường và cựu binh) được đưa từ Bắc vào Nam để khai hoang, trồng lúa, cà phê ở Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Do đó ngày nay, mình thấy mấy người lên chương trình bạn muốn hẹn hò, nói giọng nam mà khi hỏi bố mẹ thì ai nấy đều nói giọng bắc sơ tán.


Thiếu lương thực, bệnh sốt rét, và xung đột với dân địa phương (nhiều người miền Nam coi họ là “người Bắc xâm lược”). Một cựu binh kể: “Chúng tôi thắng trận nhưng đói meo, phải ăn cả… lá cây.”  Theo hồi ức của cựu binh miền Bắc sau 42 năm (RFA, 2017), nhiều người cảm thấy “triệu người vui, triệu người buồn”. chiến thắng mang lại niềm tự hào, nhưng thực tế là nghèo khó triền miên. Họ nhận trợ cấp nhỏ, ưu tiên việc làm nhà nước, và được tuyên dương. Tuy nhiên, với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhiều người phải lao động nặng nhọc mà không có kỹ năng dân sự, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp ngầm cao.


Ngoài ra họ tham gia các cuộc chiến mới: Biên giới và Campuchia (1979-1989). Đây là giai đoạn bi kịch nhất đối với thế hệ lính miền Bắc. Sau 1975 chỉ vỏn vẹn 4 năm, họ bị huy động trở lại chiến trường:


Chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979): Khoảng 200.000-600.000 lính QĐNDVN được điều động để chống lại cuộc xâm lược của Trung Quốc. Địa hình miền núi phía Bắc phức tạp, với sốt rét và bom đạn, dẫn đến 20.000-60.000 lính Việt Nam thiệt mạng theo ước tính của quốc tế chớ Hà Nội thì không cho biết.   Nhiều cựu binh từ chiến tranh chống Mỹ nay phải cầm súng bảo vệ biên giới quê nhà, với khẩu hiệu “bảo vệ Tổ quốc”.


Ngoài ra lại có vụ anh em thế giới đại đồng choảng nhau. Việt Nam được Khờ Me đỏ giúp trong thời gian chiến tranh với Việt Nam Cộng Hoà, nay lại choảng nhau. Hơn 200.000 lính Việt Nam (chủ yếu từ miền Bắc) được gửi sang để lật đổ Khmer Đỏ và duy trì chính quyền thân Hà Nội. Cuộc chiến kéo dài 10 năm, với địa hình rừng núi, mìn và du kích, gây ra khoảng 25.000-30.000 lính Việt thiệt mạng. Theo Atlantic (2015), nhiều lính miền Bắc coi đây là “cuộc chiến không mong muốn”, nhưng họ vẫn tuân thủ lệnh. 


Đồng chí gái có cô bạn học ở đại học tổng hợp Sàigòn, hô hào tham gia, làm đối tượng đoàn này nọ, đi công trường thuỷ lợi rồi khi được lệnh đi sang Campuchia làm nghĩa vụ quốc tế thì gia đình cho vượt biển và mất xác trên biển. Từ 1975-1989, QĐNDVN mất thêm khoảng 50.000-100.000 lính, chủ yếu từ lực lượng cốt cán miền Bắc. Những người sống sót thường mang thương tật vĩnh viễn, như mất chi hoặc PTSD, nhưng ít được hỗ trợ y tế đầy đủ do kinh tế khó khăn.


Được cái là khoảng 300.000-400.000 thương binh miền Bắc nhận trợ cấp từ Nhà nước, nhưng mức sống thấp, chỉ vài trăm nghìn đồng/tháng vào những năm 1980. Nhiều người sống ở nông thôn, buôn bán nhỏ lẻ sau Đổi Mới (1986). Con cái họ được ưu tiên học hành, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng từ nghèo đói hậu chiến.

Vết thương tâm lý: Hồi ký cựu binh thường kể về “giấc mơ chiến tranh” – cô đơn, hối hận vì mất bạn bè. Một bài trên RFA (2017) trích lời cựu binh: “Chiến thắng 1975 là đỉnh cao, nhưng sau đó là những năm tháng dài đằng đẵng của đói nghèo và mất mát.” 


Kỳ thị và hòa hợp: Không bị kỳ thị như lính miền Nam, nhưng một số cựu binh Campuchia bị xã hội xa lánh vì “đi xâm lược”. Trên mạng xã hội, các bài đăng gần đây (2025) vẫn tranh cãi về vai trò của họ, với một số gọi là “anh hùng”, số khác chỉ trích là “nạn nhân của chế độ”. Mình có gặp một anh chàng ở Sàigòn, từng sang Cam Bốt làm nghĩa vụ quốc tế. Không muốn nhắc đến sự việc.


Hầu hết cựu binh miền Bắc nay trên 70-80 tuổi, khoảng 200.000-300.000 người còn sống, sống rải rác ở Hà Nội, các tỉnh miền núi, và một số ở miền Nam. Họ tham gia các hội cựu chiến binh, nhận lương hưu (khoảng 5-10 triệu VND/tháng), và được mời trong các lễ kỷ niệm 30/4. Đổi Mới đã cải thiện cuộc sống, nhưng nhiều người vẫn nghèo, với các chiến dịch tìm hài cốt (hơn 200.000 liệt sĩ chưa tìm thấy) do Nhà nước hỗ trợ.


Họ là biểu tượng của “thống nhất dân tộc”, nhưng các nguồn tin độc lập (như Al Jazeera, 2025) nhấn mạnh bi kịch cá nhân: “Chiến thắng lớn, nhưng cái giá là cả một thế hệ.”  Nghĩa trang liệt sĩ Bắc Việt Nam được chăm sóc tốt hơn so với Biên Hòa, nhưng vấn đề Agent Orange vẫn ảnh hưởng hàng nghìn gia đình. Hàng ngày, mình đọc tin tức từ các nhóm cựu chiến binh mỹ tại Việt Nam, đa số có nói đến vấn đề thuốc khai quang, ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ đến bây giờ. Ảnh hưởng thuốc khai quang là có thật. Có lần Hà Nội đi kiện Hoa Kỳ về thuốc khai quang nhưng bị thất bại vì mướn luật sư không giỏi nên ra toà các chứng nhân nói ú ớ, toà dẹp tiệm luôn.

Số phận của lính miền Bắc sau 1975 là sự pha trộn giữa vinh quang chính trị và bi kịch cá nhân – họ xây dựng đất nước nhưng cũng gánh chịu hậu quả của các cuộc chiến liên miên. Còn lính Việt Nam Cộng Hoà thì miễn bàn còn te tua hơn nữa. Đà Lạt có một anh đi lính 302, tên Ngà thì phải. Nghe kể khi xưa, lúc nào cũng xung phong đi hành quân. Sau 75, không vâng lời ông Dương Văn Minh đầu hàng, thêm vài người lính 302, trốn trong rừng. Sau hết lương thực, bị Việt Cộng bắt nhốt đâu 17 năm. Ra tù, chỉ sống bám với vợ con qua ngày. Hình như anh ta qua đời rồi.


Ngày cựu quân nhân của Hoa Kỳ thường rất cảm động với hình ảnh con cháu thăm viếng mộ cha ông cũng như cựu quân nhân ra trước đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam để đọc tên những đồng đội đã nằm xuống tại chiến trường Việt Nam. Mỗi lần đi dự các buổi gây quỹ cho cựu quân nhân còn tại Việt Nam hay thương phế binh thì mình sợ nhất là giây phút mật niệm, chiến sĩ trận vong, đưa mình về miền ký ức của chiến tranh ngày xưa.


Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn

The sound of silence

 The sound of silence

Nhớ thời trung học, một hôm Hùng Con Cua cho mượn cuốn băng nhạc có bản nhạc “the sound of Silence” do cặp bài trùng Paul Simon và Art Garfunkel hát và đánh đàn thùng. Cùng dạo ấy ở rạp xi-nê Ngọc-Lan có chiếu phim “the Graduate” do Dustin Hoffman và Katherine Ross đóng, có màn cô dâu trong nhà thờ, sắp sửa được ông mục sư tuyên phán làm vợ ông nào thì Dustin Hoffman, gõ cửa nhà thờ là hét rồi kéo cô dâu bỏ chạy khiến đám con nít như mình thấy quá hay. Sau này nghe tin tổng thống Pháp lấy bà mẹ của người bạn học khiến mình nhớ đến bà Robinson mà cặp bài trùng có làm nhạc cho cuốn phim này đã đưa họ lên đài danh vọng. Sang Tây thì mới được nghe mấy bản nhạc khác của họ nhưng bản nhạc “The Sound Of the Silence” vẫn theo mình đến nay.


Hai ông thần Simon & Garfunkel, gốc do thái, học chung trường và hát chung ở các buổi trình diễn văn nghệ của trường từ năm 11 tuổi. Sau này thành danh rồi xù nhau vì cảm thấy một người được tỏa nắng và ca tụng trong khi người kia sáng tác nhạc và hoà âm nhưng không được công chúng yêu mến tương tự hai ông thần Paul McCartney và John Lennon.


Sau này qua các cuộc phỏng vấn thì người ta mới hiểu sự cạnh tranh của hai người, không phải vì tài năng mà vì những chi tiết cá nhân khiến họ phải xa nhau, rồi hát chung với nhau nhưng chỉ vì làm ăn, chớ không vì nghệ thuật.


Người ta được biết là ông Paul Simon có hình dạng thấp nên ganh tỵ với ông Garfunkel, cao ráo và đẹp trai. Khán giả mê giọng hát của ông này trong khi Paul Simon là tác giả tất cả các bài hát đưa họ lên đài danh vọng.


Quen nhau tại nhà trường và có cùng sở thích về âm nhạc nên họ bắt đầu hát với nhau và thành lập một ban nhạc với mấy người bạn khác mang tên Pepton. Năm 1957, họ lên 15 tuổi, Paul Simon làm được bản nhạc mang tên “ hey school girl” và vét hết tiền để dành được $25, rồi cùng nhau đi qua Manhattan để thâu bản nhạc ở phòng ghi âm. Số hên được một ông sản xuất nhạc để ý và đề nghị với bố mẹ hai ông thần này để ông ta sản xuất nhạc của họ. Bản nhạc này được bán 100,000 đĩa nhưng mấy bản nhạc sau này không được ưa chuộng lắm.


Sau đó hai ông thần tốt nghiệp trung học, vào đại học vì không biết cuộc đời ca nhạc sĩ sẽ ra sao. Ông Simon thì học về Anh ngữ trong khi ông Garfunkel học kiến trúc. Buồn đời ông Simon làm nhạc và không cho ông Garfunkel biết khi tự thâu mấy bản nhạc này và tình bạn của họ bị sức mẻ từ đó.

Nữ tài tử đóng vai Mrs. Robinson

5 năm sau, họ hợp tác với nhau lại và bắt đầu hát ở Greenwich Village ở Manhattan thì có một ông thần nhạc sĩ da đen nghe được. Ông này là người giới thiệu và đưa Bob Dylan lên đài danh vọng. Họ hát bản nhạc “the sound of silence” mà Paul Simon đột phá tư duy và sáng tác trong nhà vệ sinh. Xui cái là bản nhạc này chỉ bán được 3,000 đĩa nhạc. Có lẻ thời chưa đến. Chán Mớ Đời nên ông Simon qua Anh quốc hát hò để tìm nguồn hứng âm nhạc trong khi ông Garfunkel trở lại đại học.


Một năm sau, hình như thời cơ chín muồi, có một đài phát thanh sinh viên ở Boston, và Florida phát thanh lại bản nhạc. Ông nhạc sĩ da đen nghe được và phối trí hoà âm lại với guita điện, trống,… cho hợp với sự ưa chuộng của quần chúng, ông Simon dạo ấy đang đi hát rong ở Đan Mạch, có nghe phiên bản này thì kêu họ giết nhạc của tôi nhưng thính giả lại mê. Và năm sau bản nhạc nầy đứng hàng đầu tại Hoa Kỳ. Và hai ông thần này bổng nhiên nổi tiếng, bán trên 3 triệu đĩa nhạc. Giàu to nên bỏ nghiệp sinh viên đại học. 


Mike Nichols, đang đạo diễn phim The Graduate, đột phá tư duy, thay vì chơi nhạc đệm như giới điện ảnh làm, ông ta ký hợp đồng với hai ông thần S và G để làm 3 bản nhạc cho cuốn phim. Hai ông này nhất trí nhưng phải đi tour hốt bạc khi quần chúng đang nóng ủng hộ nên không thực hiện được và sử dụng mấy bài đã làm. Chỉ có làm bản nhạc Mrs. Robinson là mới.


Thật ra bản nhạc này lúc đầu tác giả làm với tựa đề “mrs. Roosevelt”, để tưởng nhớ bà đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ nhưng ông Đạo diễn thấy tựa tựa nên để nghị đặt tên Mrs. Robinson như trong phim the Graduate dù các ca từ chả ăn nhập gì với câu truyện của cuốn phim. 


 Cuốn phim nổi tiếng hốt bạc khiến tên tuổi hai ông thần lên như diều gặp gió nhưng lại khiến sự quan hệ của họ trở nên bi thảm hơn vì lòng đố kỵ với nhau. Ông Simon tự nói là mình là tác giả tất cả các bài hát nổi tiếng trong khi tên bạn chỉ đứng hát mà lại được người ta yêu thích hơn nên Chán Mớ Đời.


Năm 1969, hai ông thần này được đạo diễn phim The Graduate mời đóng phim “Catch 22” nhưng vào giờ chót thì ông Simon bị loại, có thể vì thấp người không ăn ảnh. Chỉ có ông Garfunkel đi đóng phim trong khi ông Simon ở nhà với con tim rướm máu và từ đó họ tan rã sau cuốn album cuối cùng. Ông ta làm bản nhạc “the only living boy in New York” trong hoàn cảnh đó. 


Ngược lại ông Garfunkel trả lời trong các cuộc phỏng vấn là ông ta cũng muốn sáng tác nhạc nhưng cảm thấy sẽ không có chất lượng và hồn như ông Simon. Nên cũng có chút ganh tị tài năng.


Sau cuộc chia tay thì ông Paul Simon như được thoát lồng nên hát solo và ra nhiều album nổi tiếng trong khi ông Art Garfunkel thì không khá lắm, ít thành công hơn dù có giọng hát cực hay. Bù lại ông ta đóng phim khá thành công. Thật ra vào thập 70, thế giới đã thay đổi, người Mỹ giới trẻ chống chiến tranh Việt Nam, nên âm nhạc của họ không còn ăn khách như trước đây.


Đến năm 1981, người ta tụ họp hai ông thần này để hát 21 bản nhạc tại công viên Central của new York có trên 500,000 khán giả tham dự nhưng sự cạnh tranh, ganh tị vẫn còn nên khó hàn gắn với nhau được. Sau này họ đi tour với nhau nhưng chỉ vì làm ăn , thậm chí ít khi nói chuyện với nhau. Rồi năm 2010, họ huỷ tour khắp thế giới vì ông Garfunkel có vấn đề giọng hát. 


Ở pháp mình chỉ nghe được một hay hai album của họ nhưng chỉ thích nghe bài the sound of the silence vì có lẻ đưa mình về khung trời học sinh ngày xưa dù khi xưa.


Hello darkness, my old friend

I've come to talk with you again

Because a vision softly creeping

Left its seeds while I was sleeping

And the vision that was planted in my brain

Still remains

Within the sound of silence

In restless dreams I walked alone

Narrow streets of cobblestone

'Neath the halo of a street lamp

I turned my collar to the cold and damp

When my eyes were stabbed by the flash of a neon light

That split the night

And touched the sound of silence

And in the naked light I saw

Ten thousand people, maybe more

People talking without speaking

People hearing without listening

People writing songs that voices never share

No one dared

Disturb the sound of silence

"Fools" said I, "You do not know

Silence like a cancer grows

Hear my words that I might teach you

Take my arms that I might reach you"

But my words like silent raindrops fell

And echoed in the wells of silence

And the people bowed and prayed

To the neon god they made

And the sign flashed out its warning

In the words that it was forming

And the sign said, "The words of the prophets

Are written on the subway walls

And tenement halls

And whispered in the sounds of silence"


Songwriters: Paul Simon



Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Tiệm cơm Việt Nam tại Paris

Hôm trước có ông thần từng du học tại Paris đăng tấm ảnh về tiệm ăn tàu rẻ nhất thủ đô Pháp quốc khiến mình như bò đội nón vì chưa bao giờ nghe đến khi còn sinh viên. Có nghe một tiệm gần nhà ga Lyon đèn vàng của ông Cung Trầm Tưởng nhưng chưa bao giờ có dịp đến ăn.

Nói đúng hơn ở Paris mình ít quen người Việt vì học kiến trúc ít có người Việt theo học. Mình quen 2 tên sinh viên Việt Nam ở Paris trong suốt 8 năm trời ở Paris. 1 tên cho mượn thẻ căn cước để đi Ý Đại Lợi với trường vì dạo ấy mình chưa vào tỵ nạn, chưa có giấy tờ ra khỏi nước pháp và một tên đi pháp qua ngõ Cao Miên. Hắn kể là năm 1970 khi quân đội Việt Nam Cộng Hoà đánh qua Miên, thì có một đại uý được mẹ hắn trả tiền chở hắn từ Sàigòn qua Miên, rồi từ đó lên máy bay qua Pháp. Gia đình tên này thuộc dạng giàu có, mua nhà ở Paris này nọ. Sau 75 thì gia đình hắn cũng bay qua Tây hết. Sau này hai người em mình vượt biển sang pháp thì có quen vài người việt như ông nhà văn Hồ Trường An, ở Troyes với bà nào tên Châu nghe nói cũng viết nhiều nhưng mình đã qua Thuỵ Sĩ làm việc. Chỉ gặp vài lần khi về Paris thăm hai người em.

Mình trù trì ăn cơm đại học hai buổi trưa chiều. Chỉ có tối thứ 7 và ngày chủ nhật, các tiệm ăn đại học đóng cửa, chỉ có ở đại học xá Cité universitaire là mở cửa nhưng đi xa quá. Đến nơi cũng phải xếp hàng khá lâu, vì bao nhiêu sinh viên và dân ở ký túc xá đến ăn, mất thì giờ học hành. Nên nấu cơm ở nhà. Phòng ô-sin đâu có bếp núc gì đâu. Mình mua cái lò gas cắm trại, có cái nồi nhỏ để nấu cơm, sau đó khui hộp cá mòi Sumaco của Ma-rốc ăn với cơm. Bữa nào bận học thi thì chạy xuống đường mua ổ baguette và thỏi sô-cô-la ăn thôi. Nhớ dạo mới sang, chưa có thẻ sinh viên, gặp một tên Việt Nam ở nhà thằng Tây dạy Alliance francaise ở Huế thì phải, gốc bên Lào hay sao đó, nói đến tiệm ăn đại học Jussieu, nhờ mấy tên sinh viên gốc mít mua dùm vé ăn rồi xếp hàng vào ăn vì rẻ. Dạo ấy hình như chỉ có 2.5 quan pháp, mua một carnet giá 25 quan cho 10 vé. Sau này họ kiểm tra thẻ sinh viên nên hết vào được. Khi vào học thì có thể ăn mọi nơi tại Paris. Lúc mình ra trường vé ăn mỗi suất là 6 quan. Kinh


Tính ra mình chỉ ăn cơm Việt Nam trả tiền ở tiệm đâu 4 lần trong suốt 8 năm trời ở Paris. Nhớ lần đầu tiên đến Paris thì đâu 4 tuần lễ sau khi ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc Sài lang, thèm cơm Việt Nam quá nên đi lơi bơi trên đường Montparnasse, thấy có tiệm ăn Việt Nam bèn bò lại xem. Nhìn menu để ngoài đường là rùng mình. Lý do là ai mà ra ngoại quốc lần đầu cứ phải đổi giá tiền qua tiền việt. Một tô bún bò giá bằng 25 tô bún bò ở Đà Lạt. Thèm đồ ăn Việt Nam quá đành bấm bụng đi vào. Ngược lại ngày nay về Việt Nam thì thấy thức ăn rẻ hơn ở Mỹ.


Gặp anh bồi đến có vẻ không thân thiện lắm. Bàn bên cạnh có Tây đầm ngồi thì anh ta kêu oui Monsieur oui madame còn mình thì anh ta quăng cái thực đơn trên bàn rồi bỏ đi. Một lát sau anh ta quay lại. Mình nói cho tô bún bò vì giá rẻ nhất. Mình kiểm tra cái thực đơn để xem giá tiền như người ta tính toán nằm mơ con gì tối qua để đánh lô đề. Mình mơ một ngày nào đó vào tiệm ăn, không phải xem giá tiền trước khi gọi món ăn. Anh ta nhìn mình như bò đội nón rồi hỏi bằng tiếng Tây: “c’est tout “ , mình rặn thêm được câu Tây bồi. “Oui.” Mình ngạc nhiên là người Việt tại Paris lại hỏi tiếng Tây với mình. Chán Mớ Đời  


Khi anh bồi đem tô bún bò ra thì mới hiểu lý do anh ta trợn mắt. Đâu phải tô bún bò như ở Đà Lạt mà là một cái chén bún bò. Bên Mỹ gọi là “cup”. Mình làm một hớp là xong. Rất dỡ rồi trả tiền mà xót của đi ra mà vẫn đói. Chả thấy cay như bún bò Đà Lạt khi xưa. Nhưng giá 25 tô bún bò Đà Lạt. Ngày đó hết ăn cơm nhịn luôn tới hôm sau. Sau này đi rửa chén cho một nhà hàng Tây vào buổi trưa nên được ăn cơm Tây còn dư. Ngon kể gì. Có lần ông chủ trúng mánh vì hôm đó thực khách đến đông như Tây đầm, vui đời nên làm cho 3 thằng phụ một miếng steak, ăn ngon nức nở. Một thằng phụ bếp, 1 thằng bồi bàn và mình là thằng rửa chén đĩa.


Nói đến anh bồi người Việt thì nhớ lúc qua Tây có gặp một anh gốc Đà Lạt, tại nhà cậu Miên, con ông bà Võ Quang Tiềm. Nghe nói anh ta là sĩ quan, lo trả tiền cho lính, biển thủ tiền lương của lính rồi trốn qua Miên, bay qua pháp, làm bồi sống, cặp với một bà đầm. Con của ông bà người Huế, có quán bán bánh xèo ở đường Trương Vĩnh Ký, đối diện khách sạn Thuỷ Tiên. Sau lưng tiệm của ông bà Tiềm. Ông bà cụ có dẫn mình ra đây ăn một lần.


Lần thứ nhì đi ăn cơm Việt Nam với hai chị em Marie-Christine và Marie-Helene. Số là gia đình hai chị em này hay mời mình đến nhà ăn cơm như giáng sinh, này nọ nên hè làm ngân hàng, có lương nên bấm bụng mời đi ăn cơm Việt Nam trong khu La-tinh. Lần thứ 3 là ăn với bọn Tây đầm học chung và lần thứ 4 được gia đình cô bạn mời đi ăn. 

Sau này đi làm thêm cho ông giáo sư dạy ở văn phòng ông ta nên mình có tiền nên lâu lâu cũng bò đi kiếm tiệm ăn rẻ tiền. Trong Khu La-tinh có một con đường nhỏ, có rạp xi-nê chuyên chiếu phim của Paolo Pasolini, đối diện là một tiệm ăn Việt Nam do một bà người nam vừa làm bếp vừa làm bồi. Sau này quen mới nghe bà ta kể là khi xưa là người làm trong gia đình tướng Dương Văn Minh. Cũng chả hiểu sao bà ta lại lọt qua pháp với thằng con đâu cở tuổi mình.


Hôm đó, sau khi trường đóng cửa vào 3 giờ chiều thứ 7, mình lang thang thấy phim Salò, or the 120 Days of Sodom của Pasolini nên bò vào xem, đến khi ra về thì thấy tiệm ăn Việt Nam đối diện, giá bình dân nên bò vào. Ai mà có đầu óc đàng hoàng thì không nên xem phim này. Mình thấy Tây đầm, đứng dậy ra về trước khi hết phim. Mình tiếc tiền nên ráng ngồi lại xem đến hết phim. Chả thấy hay gì cả nhưng đám Tây đầm học chung khen nức nở nên tò mò đi xem. Mình vào tiệm nhỏ xíu thì thấy bà chủ lăn lội trong bếp. Tiệm nhỏ có đâu 5 bàn, độ 12 người là tối đa. Đói quá, thấy bà ta có một mình mà khách đầy hết nên mình đứng dậy, phụ dọn dẹp bàn để bà ta làm tô bún thịt nướng cho mình ăn rồi về. Khách vô ào ào nên mình phải làm bồi bất đắc dĩ đến khuya mới được ăn. Ăn xong bà không lấy tiền và nhờ mình lại chiều cuối tuần thứ 7 và chủ nhật phụ bà ta. Trong tuần thì có thằng con lo. Nó đi chơi cuối tuần, đánh bài hay nhảy đầm chi đó khiến bà ta một thân một mình tử thủ với cái tiệm. 

Hôm nào kể vụ Nathalie Wood tát tai Frank Sinatra

Thế là từ đó mình trở thành bồi tiệm ăn Việt Nam vào cuối tuần buổi tối. Đi làm ngày đầu tiên, trên nguyên tắc là 11 giờ đêm quán đóng cửa nhưng khách đi xi-nê ra ghé ăn thì bà tiếp tục bán thế là khi mình về thì métro đóng cửa quá 12 giờ đêm. Mình kêu taxi về nhà thì tốn 120 quan pháp. Đi làm thì bà ta trả 100 quan với tô bún thịt nướng. Thế là lỗ. Hôm sau mình nói với bà ta không thấy bà ta bù tiền cho mình. Chỉ kêu tội chưa. 


Sau này nếu đông khách trễ métro thì mình đi bộ về nhà, từ Boulevard  Saint Michel về đến Neuilly sur Seine. Mùa đông lạnh thật. Năm ngoái về Paris, mình tính đi bộ từ Boulevard Saint Michel về tới Neuilly sur Seine để tìm lại chút hương xưa nhưng đến Khải Hoàn Môn là cô em rên kêu mệt quá, đành bỏ vụ đi bộ, lấy métro về. Đó là mình chỉ ăn tiệm Việt Nam có 4 lần trả tiền, còn ăn cơm bồi thì mỗi tuần đến khi tốt nghiệp rồi đi Thuỵ Sĩ. Bà ta chỉ làm món bún thịt nướng và chả giò chớ không có nhiều món.


Thuỵ Sĩ cũng như Ý Đại Lợi dạo ấy chưa có tiệm ăn việt còn tiệm tàu thì mình cũng không ăn. Nay thì thấy tiệm ăn đầy phố, tiệm Việt Nam cũng có nhưng không nhiều lắm. Chỉ nhớ lâu lâu gặp mấy anh bạn du học sinh thì họ nấu ăn ở phòng trọ. Năm ngoái về Ý Đại Lợi thăm lại mấy anh bạn này thì nhớ đến món gà xào xả của anh bạn gốc Bắc kỳ, di cư vào Đà Nẵng. Mấy chục năm sau gặp lại nhau thì họ ăn cơm Ý Đại Lợi nhiều hơn cơm việt. Mình ở chơi mấy ngày thì thấy toàn cơm ý không. Chỉ có hôm vợ chồng anh bạn mời ông cha người Việt đến nhà ăn vì ông cha cũng thèm cơm việt. Hình như hôm đó ăn Phở vì ông cha gốc Nam định. Chẳng bù lại khi xưa, gặp nhau nấu phở, không có bánh phở thì lấy spaghetti ăn với nước phở. Ngon ra phết. Lâu lâu mình về Paris, mua hột vịt lộn và đồ việt ở chợ Thanh Bình đem qua Ý Đại Lợi. Cô em mình ở Tây cũng ăn đồ ăn pháp, chắc có con là Tây đầm hết nên ăn đồ ăn pháp nhiều hơn. Thêm mình ở bolsa nên không thèm thức ăn việt. Về Tây ăn đồ Tây. Hú nhau nấu hột vịt lộn ăn. Họ mừng lắm khi mình mua cho chai nước mắm. Ở Thụy sĩ không có cơm việt nhưng quen vài gia đình người Việt nên cũng có ăn cơm việt. Có anh chàng sinh viên, buôn bán đồ Việt Nam kiếm thêm tiền hay gửi mình mua đồ mỗi khi về Paris. Nay ở Thuỵ Sĩ, mở tiệm ăn Việt Nam.


Qua Anh quốc thì mình chỉ ăn cơm tàu là nhiều nhất. Cơm Việt Nam thì nhớ ở Soho, có một tiệm Việt Nam nhưng chủ là người Tàu tên Pasteur. Lâu lâu ghé ăn phở cho đỡ thèm. Có một tiệm tàu chuyên bán thịt vịt quay Bắc kinh trứ danh. Có tên tàu Hongkong làm chung giới thiệu, kêu chỗ này vịt quay ngon hơn cả ở Hương Cảng. Nên lâu lâu ăn trưa, mình lấy Tube đến chỗ này ăn đĩa cơm vịt quay. Sau này qua Nữu Ước làm việc, ở Tribeca nên gần phố tàu. Đi làm về, xuống trạm Canal, rồi ghé vô phố tàu ăn. Có vài tiệm Việt Nam nhưng đa số là người Tàu làm chủ. Cứ ăn hết thực đơn của tiệm thì tìm tiệm khác để ăn. Mình thuộc dòng keo kiệt nên ăn tiệm rẻ tiền nhất nên chắc cũng không ngon lắm.


Thời sinh viên thì chả biết nấu ăn, chỉ cơm với cá hộp Sumaco. Lâu lâu tụi bạn Tây đầm rủ nấu ăn thì mình làm chả giò cho chúng. Không biết có ngon hay không nhưng chúng đẫn hết. Chúng gọi pâté imperial. Nay về Tây lại nghe chúng kêu “Nem”. Qua Ý Đại Lợi làm việc thì học được nấu spaghetti nên từ đó mình chỉ nấu spaghetti để ăn đến khi lấy vợ.


Nay ở Bolsa ăn cơm việt riết rồi ớn, phải ăn món khác đổi khẩu vị. Xong om


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn