Kiến trúc nhân bản ngày nay


Khi xưa, học kiến trúc, mình khao khát thiết kế những đồ án hiện đại, chưa ai đã từng thực hiện. Mình thích sống ở các thành phố lớn như Paris, London, New York, Milano, Zurich,… nhưng rồi khi về già mình lại thích các thành phố nhỏ, những con đường cổ đại. 

Tòa nhà này được người Tàu xây cho dân Tajikistan. Không có hồn gif cả. Chỉ gắn đèn lên Chán Mớ Đời 


Trong chuyến đi Trung Á vừa qua, mình nhận thấy các kiến trúc do người sở tại xây cất nhanh chóng không có linh hồn. Ngược lại những con đường được thành lập dưới thời Sa Hoàng hay Liên Xô vẫn còn đó. Vẫn có nét gì đó hài hoà như cây cối mọc từ cả trăm năm qua, che bóng mát cho người dân sở tại. Các toà nhà thời Liên XÔ tuy không đẹp nhưng có cái gì đó níu kéo như lịch sử.

Hai tòa nhà may mặt thời liên sô


Điển hình về Đà Lạt, chỉ có một khúc đường Minh Mạng khi xưa, chỗ Vọng Nguyệt Lầu đi xuống chỗ tiệm Bi Da Hồng Ngọc, Lữ Quán Sàigon, vẫn còn giữ chút gì cổ kín, lịch sử của Đà Lạt hay đường Trần Hưng Đạo, các biệt thự vẫn còn đó, trong khi khu Hoà BÌnh thì xây cất bú xua la mua. Du khách đi từ Đà Nẵng vào Hội An, Phố Cổ bổng nhiên cảm thấy nhẹ nhàng như được chữa lành. Du khách ngoại quốc đến Việt Nam phải ghé đến Hội An. Hay các thành phố cổ kính, thời trung cổ của Tây phương được du khách viếng thăm hàng năm.

Kiến trúc cổ xưa ở Pháp quốc 
Thành phố với các tòa nhà chọc trời ngày nay. 

Tại sao? Lý do là các kiến trúc cổ chữa lành tâm hồn chúng ta. Các kiến trúc đương đại với các bê tông cốt sắt khiến đầu óc con người bị bấn loạn, với những tòa nhà chọc trời khiến con mắt chúng ta hoảng sợ một điều gì không ổn. Như ở New York, các toà nhà kính và thép đều đều được xây cất theo kiểu khuông mẩu, đút tại xưởng rồi ráp lên khiến con người bình thường bị stress. 

Các con đường thời trung cổ được xây dựng cho con người thay vì cho xe cộ chạy. Vào thành phố là kẹt xe, bóp còi khắp nơi tạo một không gian khá stress. Trong khi đi bộ vào các thành phố cổ như Hội an, chúng ta cảm thấy thoải mái, không gian như lắng đọng lại, thời gian như chậm theo từng bước chân. Khác với những cuộc đi bộ nhanh ở New York để cho kịp chuyến xe lửa, không bị trễ xe điện ngầm, chen lấn đủ trò.







Thế kỷ 20 được đánh dấu với những con đường dài, thẳng băng cho xe chạy khiến cho con mắt chúng ta thấy dài xa thăm thẳm, trong khi các con đường của thành phố cổ khi xưa la những đường cong hữu cơ, giúp não bộ chúng ta bình yên. Không gian nhỏ bé lại nói như Tây au visage humain. 








Vật liệu như đá, gỗ, gạch tạo dựng một vật thể to lớn khác với những tấm kính cửa sổ to đùng vô cảm. Thiết kế ưu sinh giúp đưa ánh sáng tự nhiên vào kiến trúc như ánh sáng mặt trời, cây cối, gỗ hay nước làm cho không gian lắng đọng. Con người được hoà với không gian, thời tiết thay vì như ngày nay, vào nhà hay sở làm là máy điều hoà không khí, ánh đường neon không thay đổi ngày này qua ngày nọ. 

Nhớ khi xưa học anh ngữ, trong cuốn sách English for Today của ông LÊ Bá Kông. Có bài viết về thành phố lớn. Lúc sang làm việc tại New York mình mới hiểu. Sáng đi làm trời tối, vào sở làm việc đến chiều ra về trời tối khiến mình chới với. Lâu lâu phải chạy ra ngoại ô, gặp bạn bè ở vùng New Jersey,..




Trong khi đi chơi ở các thành phố nhỏ, chúng ta thấy ánh sáng hiện trên tường, những bước chân nhịp vang âm thanh trên đường, mùi hương của tiệm bánh mì gần đâu đây hay tiệm ăn với nướng thịt.

Ngoài ra kiến trúc còn tạo dựng bản thể. Các toà nhà cổ xưa cho không gian xung quanh một linh hồn nếu không mọi thứ đều như nhau. Các nhà thờ, toà tháp, vòm của kiến trúc cổ như mời gọi chúng ta nhìn lên và cảm nhận những nét đặc thù của không gian.


Ngoài ra chúng ta cảm nhận kiến trúc cổ, được xây dựng từ bao thế kỷ có gì gắn bó với bản thân mình như chúng ta đang qua lịch sử. Các chi tiết điêu khắc, màu sắc lôi kéo ánh mắt chúng ta , mời gọi để ý đến những điểm này.

Khi chúng ta đi trên những con đường cổ xưa, lót đá như ở thành Vienne, chúng ta nhận thấy nhịp điệu nhãn quang, tiếng gót giày vang lên dội vào tường hai bên đường tỏng khi ngày nay các con đường được trán nhựa với màu đen thăm thẳm. Không có sự cảm nhận nào.


Các hình dáng của kiến trúc cổ được hình thành xung quanh người dân, sinh sống tại đó tỏng khi các toà nhà hiện đại được hình thành bởi hệ thống, tốc độ và máy móc.


Đi bộ cảm thấy khác biệt. Ngày nay đi Âu châu, có nhiều nơi cấm xe, biến thành phố đi bộ. Nhớ năm ngoái mình đi Torino, trở lại những quảng trường trong phố thị, được biến thành phố đi bộ. Mình cảm nhận được kiến trúc cổ xưa hai bên đường thay vì lo ngại tránh xe khi xưa. Con người bổng lắng động không bồn chồn, lo sợ như khi mình đi làm ở đây. Nhưng nếu đông người quá thì cũng Chán Mớ Đời. Như đi viếng Venezia lại, du khách vẫn đông, cho nên cũng nản ngược lại đi Treviso thì có những khu vực nhẹ nhàng yên tịnh khiến mình cảm thấy bình yên.


Chúng ta thấy các kiến trúc sư khi xưa đưa ánh sáng vào căn phòng, âm thanh vang dội ra sao trong khi ngày nay họ chả để ý, cứ gắn đèn Neon là xong thì công thức hay luật xây dựng của thành phố ban hành. Hay cách xây cất cạnh nhau giúp chúng ta có sự riêng tư không bị dồn nén như ngày nay. Mình đến Hồng Kông, ngủ nhà anh bạn khiến mình thất kinh. Nhà cửa san sát bên nhau, lên cao mút mùa. Nay về Sàigòn thấy chỗ đường Nguyễn Văn Cảnh, xây y chang bên Hồng Kông.


Khoa học, tâm lý học đều nhìn nhận kiến trúc gây ảnh hưởng về cảm xúc. Các toà nhà cổ giúp con người yêu đời hơn.


Trong thành phố có những quảng trường lôi cuốn người dân đến trong khi các vĩa hè đẩy người dân ra xa. Con đường xe chạy như điên khiến người ta không có dịp nhìn phía bên kia. Mình nhớ khi xưa, đi chơi ở Ý Đại Lợi, đến mấy làng nhỏ của mấy người bạn học ở trường Bách Khoa Torino. Tại đây, chiều chiều, độ 5, 6 giờ, dân trong làng, đi bộ. Không có xe cộ chạy trong làng. Dân tình gặp nhau giữa đừng, nói chuyện hỏi thăm nhau rất vui. Cứ đi bộ 3 bước là gặp một người bạn của mấy người bạn mình. Đứng lại nói chuyện, hỏi thăm học hành ra sao, chừng nào xong rồi hỏi mình từ đâu đến. Có lẻ chuyến đi Ý Đại Lợi năm đó để lại mình nhiều kỷ niệm. Nay mất liên lạc hết nếu không mình sẽ trở lại mấy ngôi làng này.


Có lẻ vì vậy mà mình muốn đi hành hương bằng chân từ Lucca về đến Roma vào tháng 9 này. Đồng chí gái bận hát hò, đàn ca chi đó nên không muốn đi và cho phép mình đi một mình. Hy vọng sẽ tìm lại không gian của thời sinh viên, khi quá giang xe đi khắp Âu châu. Kỳ này đi chuyến Via Francigena, sẽ ngụ tại các albergo, B&B, có nhiều người đi hành hương, chắc vui, gặp nhau một hôm, ăn với nhau bữa cơm rồi mai xa nhau như xưa. Khá vui.


Mình là người lương nhưng đi cho vui. Sang năm sẽ đi shikoku, viếng 88 ngôi chùa ở Nhật Bản. 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Minh, người nhái bị bỏ lại


Ông Nguyễn Hoàng Minh, người nhái của Việt Nam Cộng Hoà được thuyên chuyển làm thông dịch viên cho các toán Navy Seal của Hoa Kỳ  sau 75 đi tù và có cuộc sống khó khăn đến khi các người nhái mỹ tìm lại được và giúp đỡ ông ta những ngày còn lại và qua đời ngày 24 tháng 12 năm 2019

Đi vườn về thấy trên Prime có phim tài liệu kể các cựu chiến binh Navy Seal, từng tham chiến tại Việt Nam, trở lại Việt Nam để tìm một một người nhái tên Minh, từng nhảy toán với họ làm thông dịch viên, giúp kiếm tin tức của địch quân. Sau 75 thì ông Minh mất tích và các cựu quân nhân Navy Seal tìm kiếm rồi cơ duyên đến tìm lại được người bạn đồng ngũ. Rất cảm động. Ông này tên thật là Nguyễn Hoàng Minh.


Phim được quay về chuyến đi của một số người nhái Hoa Kỳ về Mỹ Tho để gặp lại một cựu người nhái Việt Nam Cộng Hoà, từng cộng tác với họ trong cuộc chiến. Sau 75, kẹt lại, đi tù mất mấy năm nhưng không được qua Mỹ. Mình mò thêm tin tức trên mạng nên tải lại đây cho bác nào thích tìm hiểu hơn. 

https://fb.watch/AwufJ1Ok2c/?mibextid=wwXIfr&fs=e

Câu chuyện kể các toán người nhái Mỹ khi xưa, hoạt động trong vùng Mỹ Tho, Bến Tre, gặp khó khăn vì không quen văn hóa cũng như địa hình ở Việt Nam. Họ cần một người thông dịch viên người Việt. Hải quân Việt Nam tìm ra một người gần dạ biết tiếng anh nhưng vấn đề là ông ta bị nhốt tù vì ba gai. Làm thông dịch viên ông Minh được người nhái mỹ trả lương riêng. Do các người nhái lấy quỹ đen trả chớ không phải quân đội mỹ trả. 


Họ kể ông Minh rất gan dạ, lúc nào cũng đi tiên phong và cứu mạng nhiều người nhái Mỹ. Mấy người này kể không có ông Minh thì đã chết mất đất. Có lần họ tập bắn bên sông thì trúng một cô bé tên Lung, khiến cô ta bị thương, gãy chân. Nhóm người nhái đưa vào bệnh viện rồi giúp qua mỸ sinh sống.

https://www.tcpalm.com/story/specialty-publications/vero-beach/2016/11/09/seals-reunion-vietnamese-colleague-made-into-poignant-documentary/93229508/

Họ kể có lần hai toán người nhái được thả vào vùng địch vì có mấy người lính Mỹ của sư đoàn 9 bị bắt tù binh, tìm cách cứu mấy người này nhưng cuối cùng bị lộ, ông Minh bị thương nặng cùng mấy người nhái Mỹ. Trực thăng được gọi bốc cả toán về. Ông Minh được đưa vào bệnh viện quân đội Mỹ cứu chữa dù không phải lính Mỹ.

Cuốn sách nói về người Mỹ không bỏ lại đồng đội là ông Minh


Sau khi chính phủ Clinton bỏ lệnh cấm vận, một người nhái Mỹ về Việt Nam làm ăn và tìm cách kiếm ông Minh nhưng không được. Bổng nhiên có người nhớ đến cô bé tên Lung bị bắn lầm, gãy chân được người Mỹ đưa qua Mỹ sinh sống. Cô này đã lớn và vẫn liên lạc với ông Minh. Thế là cả toán người nhái Mỹ khi xưa vui mừng tìm lại đồng đội. 


Họ khám phá ra đời sống gia đình ông Minh cực khổ nên góp tiền xây nhà cho ông Minh và hàng tháng nhờ cô Lung chuyển tiền giúp đỡ. Cuối cùng họ gặp lại gia đình ông Minh tại Việt Nam. Họ có kể là tìm cách đưa ông Minh qua Mỹ định cư nhưng dạo ấy dưới chính quyền Obama, chỉ cho 50 chiếu khán cho thông dịch viên và 50 người từ Iraq được cho phép định cư tại Hoa Kỳ. Cho thấy phải có số mới đi Mỹ được. Ông Minh này có công với người Mỹ nhưng vẫn không đi được. Trong phim ông Mình kể đi tù hai năm nên có lẻ vì vậy không đạt tiêu chuẩn đi Theo diện H.O. Việt Cộng cws đình bình ông ta là được CIA cài cắm lại. 


Điểm mình thấy hay là cô Lung được đi Mỹ nhờ sự can thiệp của ông Minh. Sau này lại giúp ông ta tìm lại đồng ngủ. Họ chiếu cảnh gặp gỡ lại với ông Minh rất cảm động. Mình không đi lính nên không hiểu sự sống chết ở trận địa, tình huynh đệ chí binh. Cho thấy người Mỹ hay người Việt cùng nhau đánh trận thì tình nghĩa của họ vẫn luôn luôn nhớ nhau.

Hình ông Ninh đứng bên trái ngậm điếu thuốc 

Có điểm lạ là họ vẫn giữ các tấm hình cũ khi xưa, có lẻ chụp hình trước khi nhảy toán vì thấy quẹt mặt cải trang, có hình ông Minh trong đám người nhái Mỹ. Tương tự mình thấy hình ảnh thiếu tá Phong, đại đội 302 trước khi đi nhảy toán. Có thể để kỷ niệm, lỡ tử trận thì còn chút gì để nhớ cho gia đình.


Cuối cùng thì họ mời gia đình ông Minh sang Mỹ chơi, viếng thăm viện bảo tàng người nhái Hoa Kỳ. Họ liên lạc cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ tại vùng để nhờ họ tiếp đón gia đình ông Minh. Họ phỏng vấn các người Mỹ gốc việt, kể về các chuyến đi vượt biển tìm tự do,… rất cảm động. Có người kể được Hoa Kỳ cứu vớt nên để trả ơn, đã gia nhập Hải quân Hoa Kỳ. 

Câu chuyện này làm mình nhớ đến mấy người cố vấn mỹ của đại đội trinh sát 302, tìm lại thiếu tá Phong khi anh ta vượt biển. Và kể trong cuốn sách của họ. Mình có kể vụ này rồi. 


Tuần này có ông Hùng Cao, được thượng viện Hoa Kỳ đồng thuận chức thứ trưởng bộ Hải quân do chính phủ Trump bổ nhiệm. Ông này có ra tranh cử thượng nghị sĩ nhưng thất cử. Ông Trump muốn xử làm đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam nhưng ông ta từ chối.  Đây là người Mỹ gốc việt thứ hai được làm thứ trưởng. Người đầu tiên là Ted Dinh tên việt là Đinh Đồng Phụng Việt, tốt nghiệp luật khoa đại học Harvard.  Mình có gặp vài lần khi xưa với hai cô sinh viên luật khoa trường này tên Bích Ngọc và Mai Lan. 


Cho thấy có tài thì người Mỹ họ bổ nhiệm không phân biệt màu da, sắc tộc hay lý lịch. Đó là sức mạnh của Hoa Kỳ. Hay ông gốc Ấn Độ có khả năng trở thành thị trưởng thành phố New York. Khiến người Mỹ không dám mua nhà đầu tư ở New York. Con mình đang tính mua nhà cho thuê ở New York, nay phải chạy qua Philadelphia để kiếm nhà mua.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Vợ tôi làm nhạc sĩ


Anh thấy vợ anh giỏi không?” Đang ngủ mà mụ vợ lay lay đánh thức mình dậy để hỏi chuyện mình biết từ lâu. Mình mắt nhắm mắt mở kêu quá giỏi. Đồng chí gái hỏi thiệt không, mình trả lời quá thiệt. Rồi ngủ tiếp. Ai đời cuối đời tối đi ngủ có vợ đánh đàn hát em ru anh ngủ một tối mùa hạ, một tối mùa đông không cho anh ngủ. Anh phải thức giấc để nghe em hát em ru.  Chán Mớ Đời 

Đồng chí gái trình diễn nhạc thiền với bạn

Số là gần năm nay, đồng chí gái đi học đàn Tây ban cầm nên mỗi ngày phải tập gõ đàn. Lúc đầu thì cũng mệt tai mình khi nghe cô nàng lên dây đàn từng từng từng từng từng tửng tượng… nhưng sau bao nhiêu ngày gian khổ tập luyện, thấy trình độ có nhích lên một chút. Mình cũng vui là đồng chí gái tìm được niềm vui đi học đàn sau khi nghỉ hưu chớ không thì mệt mình. Nhớ dạo covid, đồng chí gái lo ngại đủ trò, sợ nên không cho mình đi đâu cả suốt 3 tuần lễ, khiến mình lo cho cái vườn cần chăm sóc. Nay thì chả thấy mặt cô nàng nữa. Hết đi học đàn đến học hát rồi đi hát nên khi nghe tiếng đàn ở phòng khách là biết cô nàng ở nhà, không dám làm động, mất cảm hứng đến tiếng đàn của đồng chí gái. Tối mình đi ngủ cũng không biết mụ vợ ở đâu vì đi tập với mấy bà bạn. 


https://youtu.be/h7U4WvPbSEM?si=USBIhY-21vEc4ioT


Qua Ý Đại Lợi năm rồi, gặp lại anh bạn du học sinh khi xưa thì khám phá ra anh ta là tác giả bản nhạc “khi tôi chết đừng đem tôi ra biển” của ông trung tá Thủy Quân Lục Chiến, khiến mình thất kinh vì khi xưa nghe anh ta hát giọng quảng  nay lại gặp mụ vợ chuyển ngữ lời nhạc ngoại quốc. Ai cũng thành nhạc sĩ hết.  Kinh


Chuyến đi chơi vừa qua, mụ vợ rên là nhớ đàn này nọ nên tháng 9 này mình đi Âu châu một mình. Mụ vợ mê học đàn hơn là đi du lịch. Nhất là mình đi bộ từ thành phố Lucca về đến La Mã gần 4 tuần lễ mà ăn ở không phải ở khách sạn 5 sao nên mụ vợ đi không nổi. Đi trung bình 25 cây số mỗi ngày mà lại ngủ tại các lữ quán của những người hành hương. Con đường này gọi Via Francigena khởi đầu từ Canterberry ở Anh quốc khi xưa các ông cố Đạo đi hành Hương xuống tòa thánh Vatican. Mình định đi vùng Toscana và xuống Lazio La mã. Họ có con đường đi đến Santiago de Compostella ở Tây Ban Nha nhưng Dạo này thiên hạ đi đường này như đi chợ nên đông người lắm thôi hẹn lần sau. Mình thích thức ăn Ý Đại Lợi hơn luôn tiện ghé thăm mấy người bạn để ôn lại một thời sinh viên du học. 


Thường cô nàng có một giang sơn trong phòng khách để tập đàn, với giá nhạc, đèn đuốc này nọ. Vấn đề là mình đi ngủ sớm vì sáng thức giấc vào 4 giờ sáng để đi tập ở Đông Phương Hội thì cô nàng sợ ở một mình dưới nhà nên lại vác đàn lên lầu vào phòng ngủ. Mình đang nằm lơi bơi về miền đâu đâu thì bắt đầu nghe tiếng mụ vợ lên dây đàn. Từng tưng từng tửng tựng,… giúp mình tu theo khổ hạnh dây đàn từ gần 1 năm nay. Cứ mụ lên dây đàn thì thân thể mình lại uốn éo theo sợi dây đàn được nâng lên. Tâm hồn mình rướm lệ. 


Khi mới về hưu, nghe ai khiến mụ vợ đòi tu, đi chục cái chùa bắt mình đi mua chuỗi lần hạt, mua về kêu nhỏ quá, đòi 108 hạt nên ông chủ quán bán đồ tu rất vui. Mua chuông mua mõ về thêm cái iPad để đọc kinh. Cô nàng nói đọc Chú Đại Bi nên mình tìm trên YouTube có ông thầy Thích Trí Thoát, mở cho mụ vợ nghe để tụng theo. Vấn đề là mụ không đeo kính thì không thấy đường vì bị lão thị. 


Mỗi lần zoom màn ảnh lên thì lại mất nhiều chữ nên xoay qua xoay lại làm mất chỗ, câu tiếp theo. Mới đọc được “nam mô hắc ra thì xoay lại xoay qua bà lô yết đế”. Mình nói không phải nhảy đoạn rồi, lại phải bắt đầu lại từ đầu. Mình dặn khi nào anh đánh chuông cái boong thì bắt đầu xá rồi khi gõ cái mõ lóc cóc thì đọc, khi nào hết hơi thì khỏ cái chuông, để rồi vái một cái. Coi vậy về già tu khó chớ không phải dễ, vừa đánh chuông, gõ mõ theo nhịp đọc của mình, vừa nhìn IPad đọc cho ăn khớp rất khó. Lúc đầu mình đánh chuông, gõ mõ giúp mụ nhưng mụ cứ xà nay với zoom cái IPad lên xuống rồi đọc là thấy mệt nên mình ngưng để mụ vợ tập đọc. Được cái là đọc vài lần thì mình thuộc kinh luôn. Nhớ khi mới phát hiện ra mối tình hữu nghị, cô nàng rủ đi chùa thì mình đọc kinh say sưa khiến mụ vợ ngạc nhiên. Số là năm Mậu thân có người em chết trẻ mình phải đọc kinh suốt 49 ngày mỗi chiều cúng cơm cho em nên quen. 


Đồng chí gái đọc kinh Chú Đại Bi rất khó khăn vì phiên âm không phải tiếng việt nên nghe cực kỳ khó tả nhất lại đọc theo giọng Huế. Nam mô hặc ra hặc vô Nam mô a rị  ra da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Cứ thêm dấu nặng khắp nơi. Mình phải tập kiên nhẫn để trợ duyên cho vợ tu. Thiên thủ thiên nhản mà mụ vợ đọc thành thiên thụ thiên nhạn, xem như một ngàn cái đầu thành 1000 cây 1000 con chim nhạn. Chán Mớ Đời 


Đùng một cái mụ nghe lời bạn bè đi học đàn, thế là vụ tu hành xin gác lại cho mai sau. Được cái là giúp mình thẩm âm về tài năng vô giá của mụ khi lên dây đàn. Cứ từng từng từng tứng từng tưng. 

Mỗi tối cứ đang lơi bơi về miền đất ngủ là nghe mụ vợ lên dây đàn, phải mở mắt ra. Không dám than thở với ai cả vì thủ trưởng đang tập đánh đàn. Rồi mụ thâu tiếng hát trong đêm thâu mở cho mình nghe rồi hỏi hay không. Cứ  về nhà là nghe mụ hát với đánh đàn giúp không khí vui cả lên. 


Từ từ mụ học thiền ca, lại đánh đàn thêm gõ chuông gõ mõ. Cứ lên dây đàn xong là lên tiếng chuông mõ. Chiều chiều dắt mạ qua đèo là boong. Ruột đau chín chiều lóc cóc lóc cóc boong noong. 


Mình mừng là mụ vợ tìm ra một đam mê khi về hưu nếu không thì hơi mệt. Cứ  ngồi một chỗ rồi rên đau đây đâu đó này nọ. Lâu lâu có trình diễn của lớp nhạc mình phải đi ủng hộ mụ vợ. Xong om


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Người hàng xóm Đà Lạt xưa


Hôm qua có ông thần gần xóm mình muốn kết nối trên Facebook khiến mình thất kinh. Lý do là nhà ông thần số 49 C Hai Bà Trưng, mình phải mất một thời gian khá lâu để tìm lại trong ký ức hình ảnh căn nhà của gia đình anh ta. Lý do là nhà gỗ được làm sau Mậu Thân. Cư xá ty Công Chánh chấm dứt với căn nhà số 49B của bác Ngọc, bên dãy số chẵn là số 50, nhà của ông Sâm, trưởng ty Công Chánh, bố của thằng Chiến mà mình hay chơi khi xưa hồi học tiểu học.


Mình đoán ông thần trên mình vài tuổi vì thấy là bạn của anh Hạnh Trần, Chính Trị Kinh Doanh, người đi leo núi Kilimanjaro với mình. Có lần ông thần này hỏi mình về căn nhà màu đen của gia đình anh ta khiến mình như bò đội nón. Có nhiều người hỏi mình nhiều chuyện quái đản. Cứ làm như mình là ma xó của thầy Chiêm. Nghe một ông trưởng ty cảnh sát ở Huế kể, mệ ngoại mình lấy chồng xứ Xiêm-La, rồi buồn quá vì ông chồng có vợ bé hay sao đó, nên mệ ngoại ôm con về lại Việt Nam, đem theo cái tượng Phật về Huế. Sau này lấy ông Ngoại mình. Bố của thầy Chiêm xin tượng Phật rồi nổi tiếng thầy bói từ đó ở Huế rồi truyền cho thầy Chiêm sau này vào Đà Lạt làm ăn. Sau này vợ thầy CHiêm qua đời nên thầy lấy em vợ cho trọn tình gia cảnh. Vợ thầy Chiêm mua lại cái xập của dì Bộ, cạnh hàng mẹ mình nên mình hay gặp thầy Chiêm khi xưa ở chợ. chiều ông ta ra đón vợ về.


Dì Bộ, khi xưa làm cho cô Ba CHỉ, tiệm Bình Lợi, để dành tiền, ra riêng, mua cái xập, rồi lấy hàng của cô Ba Chỉ bán. Đến khi lấy chồng, gặp thằng lười, đánh bài mắc nợ nên phải bán cái xập để trả nợ cho chồng. Khi xưa, ở Đà Lạt nhất là ngoài chợ, cảnh chồng đánh bài mắc nợ mình thấy hoài nên sau này, không bao giờ mình đánh bài.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trao cung kiếm cho thủ khoa Nguyễn Đức Phống, khóa 22B. Anh này khi xưa mình hay ghé nhà anh ta ở cư xá Kiến Thiết. Thấy anh ta lúc nào cũng học. Ra trận đầu tiên chết. Hồi nghe anh ta đậu thủ khoa Võ Bị, mình cũng ham vào trường Võ bị nhưng mấy tháng sau nghe anh ta chết nên mình dám đi lính. 

Cạnh hàng dì Bộ, là hàng dì Liên, cũng một thời làm việc cho cô Ba Chỉ, tiệm Bình Lợi, bán dừa. Lúc mình đi Tây thì dì chưa chồng nên không biết sau này ra sao.


Trở lại ông thần ở số 49 C Hai BÀ Trưng. Mình đoán là nhà của thằng Hiếu, học Yersin với mình khi xưa, số 51 nên khi nhà ông thần xây căn nhà gỗ hai tầng, sơn verni để giữ cho gỗ tốt, khỏi mục nên lâu ngày thành màu đen. Do đó mới lấy số 49 C, thêm số của tiếp theo nhà của bác Ngọc là 49 B. Hồi đầu năm đi Úc Đại Lợi lại quên đi tìm bác Ngọc. Bác này khi xưa hay đánh bài với ông cụ mình, bạn đánh bài hay gọi bác là Rô-be, chắc tên thánh của bác. Lý do là có dạo hai người con gái của bác ở Úc có liên lạc với mình. Mình khi xưa có chơi với thằng Chân, con trai của bác, đến khi gia đình này đổi về Sàigòn trước 75 thì mất tông tích. Nghe kể thằng Chân bị pháo kích của Việt Cộng trong những ngày cuối cùng của chiến tranh và chết.


Been phair thấy một phần chỗ ông Hai và ông Thạc làm đồ thiết như vòi tưới nước vườn
Bên phải có con dốc đi lên đường Hàm Nghi
Thư viện Đà Lạt đường Yersin 
Hình này sau 75

Bệnh viện Phương Lan 

Kế nhà bác Ngọc 49B, là nhà bác Hân, có con gái khá đông. Chỉ nhớ chị Huệ, chị Hương học Việt Anh. Sau này chị Hương lấy ông Tôn Thất Trai, dạy toán ở trường Trần Hưng Đạo, cắm dùi miếng đất trước nhà, xây căn nhà nhỏ. Nghe nói sau này bán bún bò nổi tiếng lắm. Nay nghe nói ở San Diego nhưng mình chưa tìm lại được. có gửi i-meo qua nhóm thân hữu Đà Lạt nhưng không được hồi âm.

Giữa hai căn 49 B và 49 C là cổng vào vườn của bà làm vườn, không nhớ tên. Chỉ nhớ mình và thằng Khánh Ù, con ông Phúc, hò nhau ăn cắp  buồng chuối của bà ta, bị chửi mất dép cả tháng, rồi đem quăng  buồng chuối lại qua hàng rào. Chỗ này tới mùa bắp sú hay xà lách là xe hàng đến đậu rồi mấy người chặt sú, quăng lên xe. Thường là được những người có tiền ở Đà Lạt như bà Marcel, ở đường Phan đình Phùng, cạnh Ga-ra Phan Xứng bỏ tiền ra mua trước nên rẻ. Lý do là nhà làm vườn cần tiền để chuẩn bị cho đợt tới như mua phân bón này nọ, nên hay phải bán non sú, hay choux fleurs trước khi đến mùa hái. Ở Đà Lạt , mình phục bà Marcel, bà ta lái xe hàng đi mua rau cải Đà Lạt chở về Sàigòn bán,… ông Marcel hình như có 3 vợ, 18 người con nên nuôi mệt thở. Có dạo mình học với Dương Quang Phước, sau qua Văn Học thì học với em hắn là Dương Quang Trí. Trí dễ thương lắm hay đi lái máy cày vì ông Marcel có vườn trên Đa Thiện. Anh chàng cày đất của bố mình xong, mấy nhà vườn bên cạnh nhờ cày luôn nên anh ta có tiền, lâu  lâu chạy qua nhà mình rủ đi ăn chè Mây Hồng, ở đường Tăng Bạt Hổ. Tên này kết chị Nga con bác Tám, chè Mây Hồng nên hay rủ mình vì quen chị Nga là vậy. Sau này về Đà Lạt, mình có gặp Trí lại một lần thì mấy tháng sau nghe qua đời. Chắc uống rượu nhiều quá.


Ông thần 49 C nên biết khá nhiều người trong khu vực đó như anh Phống, thủ khoa Võ Bị, ra trận đầu tiên chết, hay trước nhà anh ta có bác gì quên tên, hình như Lê, anh của bác Tô trên đường Thi Sách và nhà của hai dì Thanh Trúc, con bà gì quên tên. Mình có gặp lại dì Trúc tại Nam Cali sau này dì dọn ra Riverside thì hết gặp.


Nói chung ai đọc bài mình kể chuyện Đà Lạt xưa thì ít ai biết mình nên họ hay thắc mắc hỏi. Thậm chí như anh Ngọc, đai đen Thái Cực Đạo, ở xóm Pasteur, khi xưa đánh bóng bàn với mình hay đi ăn chè, cũng không nhớ cho nên mình quen cảnh thiên hạ cứ hỏi tông tích mình. Mới nhận được còm của anh Ngọc “Sony NguyenUsa Nhớ ra rồi, Sơn đánh bóng bàn hay, có lần hạ Hoàng mạnh Toàn ở nhả ô Nghi. Còn nụ cười khó nghe mình hay chọc AE khi đánh bóng bàn , có lần bác Tô nghe, góp ý với Toàn, sợ quá không dám cười nữa! Chắc gần 60 rồi!. Xung quanh xóm còn nhiều cái hay lắm; như trên Calmette có 3 người nổi tiếng : anh Ng Đức Quang( k1 CTKD- du ca), anh Huỳnh bá Tuệ Dương (k3 CTKD- phó ty KT và giảng ở CTKD Dalat), chị Lệ Khánh ( con ông Dương Mân- em là gái trời bắt xấu); xóm công Chánh có 3 người đẹp: Hoàng  Giang (đối diện nhà ô Lào ), Lâm Đồng (em Lâm Viên , ở sát nhà Sơn), Hải ( con mụ Đàn, cũng sát nhà Sơn) tuy không sắt như Bích Thuỷ (?) dốc Nga ba Chùa nhưng cung làm siêu lòng mấy anh thế he mình. Hôm nay nhớ rõ Ku Sơn rồi, chắc hết ‘ chán mớ đời’”.


Anh Ngọc nhắc đến Hoàng Giang, nghe nói đi vượt biển rồi mất tích luôn, Lâm Đồng con bà Hiển, em của anh Kiệt, an ninh quân đội, nghe nói sau 75 lấy ca sĩ Duy Quang thì phải, còn Hải con bác Đàn thì mình không biết vì đến ở sau 75. Mình chỉ nhớ nhà bên cạnh bà Đàn là nhà bà Ron. Em bác Phú, nay ở Seattle, trên 100 tuổi. Mình có gặp lại năm ngoái chị Mẫn, con của hai bác ở Seattle. Nay thằng Long xây căn nhà to đùng nơi sân khi xưa mình hay chơi bắn bi với đám trong xóm. Nghe nói con Thu ở căn nhà cũ nhưng thấy xây lại mấy tầng. Mình về không gặp lại, chỉ nghe nhà kể thôi.

Còn chị Lệ Khánh con bác Mân, pháo trưởng ty cảnh sát thì hồi nhỏ hay gặp chị đi ngang nhà. Có lần cả đám con nít đang chơi ở đường Thi Sách thì có ông sinh viên Võ Bị đi ngang hỏi nhà chị Lệ Khánh. Mình và thằng Thọ con Ấm Thảo lanh chanh kêu biết rồi dẫn lên Calmette. Thằng Thọ kêu chị Khánh ơi thì chị ra ra ban công hỏi thì nó nói có anh này muốn gặp chị. Anh ta nói gì mình không nhớ rồi bỏ đi. Chán Mớ Đời 


Còn nhà Khánh Ù, con ông Phúc thổi kèn cho ban nhạc trường Võ Bị, bán lại cho con ông Thạc, cư xá Địa Dư. Ông Thạc tuy làm cho nha Địa dư nhưng cũng có cái xập, cuối tuần ra chợ làm thợ Hàn với ông Hai, anh thì phải. Làm mấy cái đồ tưới cây cho nhà vườn, gánh nước tưới cây. Ngoài chợ hay gọi ông Hai thợ thiếc. Hàn đối diện tiệm Bình Lợi của cô Ba Chỉ. Hai người này có người em út tên gì quên tên. Khi xưa thích dì Gấm, làm cho nhà mình. Nên hay lên nhà mình thỏ thẻ tán dì gấm. Đùng cái có tin dì Gấm mang bầu với ông Tư Thân, trên số 4, chạy giặc Mậu Thân xuống ở nhà ông Tước. Buồn đời anh ta đi lính và chết trước 75. Dì Gấm về Huế sinh con, được thằng con trai nên bà Tư Thân về Huế năn nỉ xin đem vào Đà Lạt nuôi. Nghe nói người con sau này vẫn ở Số 4.


Như có ai nói ở xóm Địa Dư nhưng sao không biết mình. Mình chỉ kể về xóm Địa Dư chớ đâu có ở cư xá Điạ Dư. Xóm này mình chỉ biết hai mạng là Phạm Ngọc Liên, học chung ở Yersin khi xưa và Văn Tài Phát. Liên thì mình có gặp lại tại Cali mấy lần, còn Văn Tài Phát thì mình có i-meo trước khi về Đà Lạt nhưng hắn ít khi xem i-meo nên khi mình rời Đà Lạt, hắn mới đọc thì quá trễ. Sau này có con của bác Nguyễn Văn Tước, hay chạy chiếc xe Lambretta, có liên lạc với mình. Mình có điện thoại cho bác Tước ở Gia-nã-đại, hỏi thăm dùm cho bố mẹ mình một lần. Nghe nói bác bây giờ đi đứng khó khăn. Ông thần Dũng này học trên mình vài năm, sau đi lính, ngành an ninh quân đội nên khá rành dân trong xóm , xóm trên xóm dưới. Hắn mê chị Lan, con bác Tân Gầy, số 47A, học Bùi Thị Xuân. Mình có hỏi muốn liên lạc không vì chị Lan nay ở San Jose. Mình cho điện thoại. Dân xóm Địa Dư thì mình có gặp lại một người rất nổi tiếng, làm lớn ở Việt Nam tại Hà Nội. Cô nàng cho biết là biết em mình, bố mẹ mình, hoá ra em của thằng Hùng mà mình hay đá banh khi xưa. Nhà sát nhà chú Be và ông Lào. Còn như gia đình chú Be, ông Lào thì mình không có dịp gặp lại. Lý do họ không biết mình, chỉ biết bố mẹ mình thôi. Còn Chú Be thì dọn đi đâu.


Xóm Địa Dư gồm 3 dãy nhà hai tầng, không nhớ mỗi dãy có bao nhiêu căn hộ, 3 hay 4. Phía trên thì có chiếc cầu gỗ đi từ đường Hai Bà Trưng đi vào, còn phía dưới thì phải đi xuống mấy thang cấp. Dãy đầu tiên, đi từ dốc Hai Bà Trưng thì mình chỉ nhớ có gia đình ông Thạc, thợ thiết với ông Hai. Có đường hẻm băng từ Hai Bà Trưng qua Phan Đình Phùng, sau đó đến dãy nhà Phạm Ngọc Liên và Văn Tài Phát. Sau này hình như gia đình Phạm Ngọc Liên mua được nhà bên đường Hàm Nghi nên dọn về bên đó. Có ông anh du học. Sau đó có mấy thang cấp đến một sân lớn, mấy ông công chức khi xưa ở xóm này hay chơi Pétanque. Mình hay bò xuống đây bắn bi hay đá banh với đám con nít cùng lứa với mình. Chỗ này có nhà vệ sinh cho cả xóm. Hình như có 3, hay bốn nhà cầu, một phía có cái bể nước để bà con giặt quần áo. Sau đó thì đến dãy nhà ông Lào, Chú Be và TTM. Đến con đường hẻm đi qua đường Phan Đình Phùng, chỗ cái giếng vườn ông Ba Đà và bà Tôn Sanh, bà con chi với mẹ mình. Rồi đến xóm Công Chánh.


Năm 1992, về Đà Lạt lần đầu tiên thì mình có đến thăm gia đình bác Bửu Duy. Hình như có ai hỏi mình có nhớ đến anh Tý, con trai đầu của bác Duy, con bà trước. Nhớ chớ. Còn thì nghe thằng Vinh, Dũng, con Hương chết. Thằng Hồ thì nghe nói di dân qua Mỹ, ở đâu Texas nhưng chưa gặp lại. Chắc còn nhỏ nên không nhớ mình. Con Hà thì ở Úc Đại Lợi. Có ghé thăm bác Nhị, cạnh nhà ông Lào. Nghe nói thằng Miều đã chết, còn thằng Toàn thì ở Hoa Kỳ thì phải còn thằng Bảo thì ở Vũng Tàu. Thằng Bảo học Yersin trên mình một lớp. Khi xưa, hai thằng nuôi vịt để bán. Vịt mình mới lớn một tí, ông cụ kêu người làm làm thịt nên mình mất vốn luôn, hết nuôi. Cũng chấm dứt cuộc đời chăn nuôi vịt. 


Ở Cali mình có gặp lại gia đình bác Bửu Ngự, tiệm Thanh Nhàn khi xưa ở khu Hoà BÌnh. Sang Cali, gia đình bác mở tiệm Thanh Nhàn tại Bolsa nên mình tìm ra. Mình nhớ ơn bác Bửu Ngự, khi xưa lúc ông cụ mình bị bắt, lên án 18 năm tù, không ai dám ghé nhà mình, sợ liên luỵ với gia đình phả động. Chỉ có bác Ngự ghé lại thăm và khuyên mẹ mình ráng giữ gìn sức khoẻ để nuôi bầy con 10 đứa. Mình có đi ăn đám cưới thằng Hội, con trai đầu của bác. Lấy Giáng Ngọc, con gái của nhạc sĩ Tùng Giang. Đám cưới này lạ lắm vì tổ chức ngày thứ 5. Lý do là các ca sĩ đi show vào cuối tuần. Con của hai bác đều thành công. Có cô con gái thứ nhì lấy con trai của đại tá Phạm Ngọc Thảo. Thiếu tá Phong, đại đội 302, tiểu đoàn 204 khi xưa, kể là đi ăn đám cưới, lần đầu tiên mới thấy bác Ngự gái cười. Nghe nói bác Ngự trai đã qua đời, còn bác gái nay trả nhớ về không. 


Mình có ghé thăm bác Tân Gầy, mẹ của thằng Đôn, hay đánh lộn với thằng Thọ, con ông cai trường Đa nGhĩa. Sau này nghe nói bác nằm một chỗ nên chỉ hỏi thăm cô con gái Út tên Tú thì phải. Nghe nói Bác cũng mới qua đời.


Mình có gặp lại thầy Trịnh Minh Đức, dạy Pháp văn mình khi xưa. Thầy là con của ông Điện, nhà bên cạnh bác Nhị. Gia đình dì Tân, bà con với mình, con bà Dụ, chị bà Võ Quang Tiềm thì mình gặp mỗi lần về Đà Lạt, có ông thần Thăng, bà con khi xưa hay chơi với nhau. Bên cạnh là nhà của ông Võ Văn Địch. Mình có chơi với Võ Việt Điểu khi xưa, anh tên Thắng, có liên lạc lại , nay ở Virginia. Nghe nói làm cho cơ quan CIA thì phải. Đinh gia Trực cho mình I-mèo của chị Lực nhưng lâu quá cũng không liên lạc lại. Ở xa quá, chỉ mừng là biết hàng xóm còn sống thôi.


Hàng xóm thì mình có gặp lại chị Hợp, chị Hiền ở san Jose, Hiếu, Hà còn bác Hoà. Tí Em, Nguyên con bác Tước, còn thằng Bi, Bé Lớn , Bé Nhỏ thì không. Chị Gái thì ở Cali nhưng lái xe mất cả 2 tiếng nên cũng chưa có dịp gặp lại. Chị Gái khi xưa hay cho mình mượn truyện để đọc. Về Sàigòn thì Tí Em và Nguyên mời đi ăn, cái tiệm rất ngon, có thực đơn dầy như cuốn tự điển bách khoa. Kỳ về Sàigòn qua, chỉ có 1 ngày ở Sàigòn nên tranh thủ gặp mấy người em họ bên ông ngoại mình. Hàng xóm có nhà bà Vinh nhưng từ khi dọn xuống CHi Lăng thì gia đình không còn liên lạc nữa. Bà Vinh có mấy người con như anh Thanh đi Pháo Binh, anh Tú, học khoa học ở Sàigòn, chị Tân, rồi đến thằng Tiến thua mình 1 tuổi, rồi đến con Tâm, con Tuyết. (Còn tiếp)

Mình được thiên hạ gửi cho đâu trên 2000 tấm ảnh về Đà Lạt xưa. Để khi nào rảnh mình lựa ra một số ảnh rồi kể chuyện đời xưa. 

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn