Hiển thị các bài đăng có nhãn Nghệ Thuật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nghệ Thuật. Hiển thị tất cả bài đăng

8 kiến trúc sư, 21 đức giáo hoàng để hoàn thành


Tuần lễ này, thế giới đều hướng về giáo đường thánh Phao Lồ ở La MÃ, đúng hơn là Vatican. Rất nhiều vị nguyên thủ quốc gia đến dự đám tang vị lãnh đạo của nhà thờ Thiên Chúa Giáo, đức giáo hoàng Francisco. Ngôi thánh đường này được xem to lớn nhất thế giới. Phải mất đến 120 năm, 8 kiến trúc sư và 21 đức giáo hoàng mới hoàn thành ngôi giáo đường này.

Ở xa chúng ta thấy cái vòm to lớn nhưng khi đến gần thì không thấy đâu cả

Khi mình đến viếng và vẽ ngôi giáo đường này lần đầu tiên năm 1978 thì phải công nhận mình rất ngạc nhiên và choáng trước sự vĩ đại của ngôi giáo đường này. Có nhiều nhà thờ trên thế giới cao nhưng chưa có nhà thờ nào rộng lớn như ngôi giáo đường này. Bên trong cũng thần kỳ, nghệ thuật, kiến trúc, các vật liệu điêu khắc như đồng vàng, đá cẩm thạch, điêu khắc,… nội cái baldachin không là đủ thấy quá sức tưởng tượng của một tên sinh viên kiến trúc năm thứ 3. Từ khi mình xem ngôi giáo đường này thì sự sự suy nghĩ của mình về kiến trúc thật sự thay đổi.

Thiết kế bởi Bernini
Lịch sử hình thành của ngôi giáo đường rất quan trọng, vì là sự kết hợp rất nhiều kiến trúc sư theo suốt 120 năm nhất là 21 vị đức giáo hoàng thay đổi suy nghĩ về ngôi giáo đường. Điểm đặc biệt, thánh đường này được xây trên địa điểm của một nhà thờ được xây dưới thờ Constantine the Great vào năm năm 360 sau công nguyên.
Đây là hình vẽ của ngôi nhà thờ được xây năm 360 và hơn 1000 năm sau bị phá bỏ để xây thánh đường Phao Lồ

Vào năm 1505, sau 12 thế Kỹ ngôi nhà thờ này te tua, nên đức giáo hoàng Julius II, đột phá tư duy, muốn xây một ngôi giáo đường to lớn nhất thế giới. Lý do là ông ta muốn xây nhà thờ to lớn để có thể đặt ngôi mộ của ông ta. Khởi đầu ông ta kêu nghệ nhân Michelangelo phát hoạ. Nhà thờ cũ được phá xập nhưng vài năm sau, ông ta qua đời (1513).


Do Bernini thiết kế

Để gây quỹ xây dựng ngôi giáo đường này, nhà thờ kêu gọi giáo dân càng cúng dường nhiều thì sẽ ở địa ngục ít và lên thiên đàng nhanh. Sự việc được xem như tham nhũng buôn bán thánh khiến một số giáo dân bất bình như trường hợp ông Martin Luther ở Đức quốc, dấy lên phong trào cải cách chống đối nhà thờ Vatican. Sau này ai viếng thăm Vatican đều lên tiếng phản đối sự giàu có xa hoa của nhà thờ. Mình có mấy người bạn gốc Ý Đại Lợi không ưa nhà thờ vì vụ này.

Linh mục Martin Luther ở Đức quốc không chấp nhận nhà thờ phải kêu gọi giáo dân đóng góp tiền bạc để xây nhà thờ, dấy lên phong trào đòi cải cách nhà thờ, tạo lên đạo Tin Lành. Mình có đọc nhiều tài liệu về vụ này nhưng không dám kể lại sợ mấy bác công giáo choảng em. Khi xưa có quen mấy cô công giáo bị choảng quá trời khiến ế vợ rất lâu. 

Phải mất 120 năm, 8 kiến trúc sư và qua đến 21 đời đức giáo hoàng mới hoàng thành ngôi giáo đường lớn nhất thế giới. Các kiến trúc sư danh tiếng như Bramante, Sangallo, della Porta, Peruzzi, và Maderno. Cộng với các kiến trúc sư và nghệ nhân như Michelangelo, Raphael và Bernini. Cứ mỗi lần kiến trúc sư mới thì lại thay đổi những gì người tiền nhiệm thực hiện hay thiết kế. Do đó kết quả là sư giáo thao giữa các bản vẽ của 8 kiến trúc sư. Cái vòm là do Michelangelo, mặt kền thì do Maderno, những cột trụ to đùng phía ngoài là do Bernini. Các đỉnh tháp do Raphael. Nhìn chung thì hơi lộn xộn nhưng nhờ các trang trí baroque sau này nên làm choáng ngợp, che đậy các sai lầm của kiến trúc sư. 

Bản vẽ cho thấy hai cái tháp và vòm khác nhau

Do đó khi chúng ta quan sát thì hơi lộn xộn. Cái vòm được xem là to nhất thế giới là kiệt tác của Michelangelo nhưng đứng ở trước mặt tiền do kiến trúc sư Maderno thiết kế thì chúng ta sẽ không thấy, có khắc tên đức giáo hoàng Phao Lồ đệ ngũ, thuộc gia đình Borghese. Nếu đứng xa chúng ta thấy cái vòm này nhưng gần giáo đường thì bị che mất. Chúng ta thấy ngôi giáo đường được chia làm riêng biệt vì cái mặt tiền chỉ được xây để làm khác biệt, nối kết với bên ngoài. 

Mặt tiền do Maderno thiết kế, nếu đứng gần sẽ không thấy cái vòm phía sau. Hình chụp mình đoán rất xa. Mình có chụp ảnh đồng chí gái ở đây 

 Luân đôn có cái vòm của nhà thờ Thánh Phao Lồ (St Paul) do kiến trúc sư danh tiếng Sir Christopher Wren thiết kế vào năm 1710, do ảnh hưởng của giáo đường ở Vatican, nhưng đồng nhất hơn. Thay vì rạc rời như ở Vatican.

Nhà thờ St Paul ở Luân đôn, ảnh hưởng với thánh đường ở Vatican 

Phía trong nội thất thì cái baldachin do Bernini thiết kế chỗ đức giáo hoàng ngồi rất đẹp và uy nghi nhưng có lẻ dát vàng hơi nhiều. Ngôi tượng Pieta của Michelangelo quá đẹp. Có tên nào khùng khùng phá nên họ phải sửa lại. Nay ai vào xem thì sẽ thấy sau gương. Nếu có thời gian đi xem thì có Hàng ngàn tấm tranh và tượng rất đẹp nhưng chả biết của ai. Ngoại trừ đọc sách . Đặc biệt là dưới nền nhà có mộ của thánh Phao Lồ, và thêm 90 đức giáo hoàng được chôn cất tại đây. 

Chỗ đi xuống nơi chôn cất trên 90 đức giáo hoàng

Kiến trúc của thánh đường Phao Lồ này được xem là tuyệt đỉnh của kiến trúc Baroque. Tóm lại thánh đường Phao Lồ của Vatican là một kiến trúc tuyệt vời của thời đại Phục Hưng -baroque, khác biệt với kiến trúc gothique của thời trung cổ. Nói lên văn hoá đã thay đổi của thời đại. Kiến trúc Gothique do các kiến trúc sư thời pHục Hưng đặt tên để nói lên sự man dại của thời trung cổ. Thêm ánh sáng được sử dụng rất khá so với thời Gothique của trung cổ. Cửa sổ của thánh đường rất nhỏ so với kiến trúc Gothique. 

Daọ mình ra trường thì trường phái Deconstruction của triết gia Jacques Derida nổi tiếng nay nghe nói họ bắt đầu trường phái cấu trúc lại (reconstruction). Mình không ngờ sự ảnh hưởng của Deconstrucrion đã tạo nên chủ nghĩa thức tĩnh. 

Kiến trúc thời Phục Hưng không có những kiểu cửa sổ như thời Gothique
Không ảnh cho thấy cái mặt tiền do Maderno vẽ như che dấu nhà thờ như chia làm hai
Đức giáo hoàng Julius V, người đột phá tư duy để xây ngôi thánh đường vĩ đại
Đây là nơi ông ta được chôn cất

Mình viếng nhiều ngôi thánh đường của thiên chúa giáo và hồi giáo thì phải công nhận ngôi giáo đường này là độc nhất. Có một không hai dù kiến trúc không đồng nhất lắm nhưng đã nói lên sự thành hình của một ngôi giáo đường qua 120 năm với rất nhiều tiền bạc của cải của giáo dân trên thế giới.

Bức tượng Pieta của Michelangelo lúc mình xem lần đầu nay thì được che phủ lại sợ thiên hạ phá

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

vệ quân đức giáo hoàng

 Nhớ lần đầu tiên đến La-Mã, viếng toà thánh Vatican thì mình thấy mấy ông lính bận đồ màu mè, thêm đội nón sắt như thời xưa mà mình xem trong xi-nê. Hỏi ông thầy thì ông ta giải thích đó là vệ quân Thuỵ Sĩ, có nhiệm vụ bảo về đức giáo hoàng. Khiến mình như bò đội nón. Tại sao lại vệ quân Thụy sĩ mà không phải vệ quân Ý Đại Lợi. Mới khám phá ra ở Ý Đại Lợi có thêm mấy nước nhỏ khác ngoài Vatican. Hỏi ra thì khi xưa có nhiều lính đánh thuê tương tự ngày nay chúng ta thấy ở chiến trường Ukraine hay đâu đó ở trung Đông này nọ. Hình như lính đức đi đánh thuê dùm cho vua Anh quốc, nghe đâu đến 30,000 người đến từ vùng Hesse-Kassel và Hesse-Hanau khi bị quân Mỹ đánh đồn của họ.

 Khi xưa, ở Pháp có một ông Tây tên Bob Denard, hình như không phải tên thật, chuyên đi đánh thuê ở Phi Châu để lật đổ chính phủ phi châu, kiếm tiền. Robert Denard từng tham chiến tại Đông Dương (tên thật Gilbert Bourgeaud; 7 April 1929 – 13 October 2007). Có nhiều người lính không biết sinh sống ra sao khi giải ngủ nên tiếp tục làm lính đánh thuê. Ông thầy nói là áo quần của vệ quân Thuỵ Sĩ do Michelangelo thiết kế. Nhưng đoán là không.


Giáo hoàng Julius II, nổi tiếng với tham vọng quân sự, đã yêu cầu lính đánh thuê Thụy Sĩ do danh tiếng về kỷ luật và lòng trung thành của họ. Lính Thụy Sĩ đã nổi danh ở châu Âu, từng tham gia các cuộc xung đột như Chiến tranh Bourgogne. Đội quân đầu tiên gồm 150 vệ binh Thụy Sĩ đã đến Roma dưới sự chỉ huy của Đại úy Kaspar von Silenen. Xứ Thuỵ Sĩ không có chiến tranh nhưng đưa quân đi đánh thuê. Điểm lạ là Thuỵ Sĩ tuy nhỏ bé nhưng có đến 4 thứ tiếng, chưa nói đến phương ngữ của mỗi vùng. Cho nên khi xưa, muốn hiểu nhau không phải dễ.

Thời khắc nổi tiếng nhất của Vệ binh diễn ra trong vụ Cướp phá Roma vào ngày 6 tháng 5 năm 1527, khi 147 trong số 189 vệ binh hy sinh để bảo vệ Giáo hoàng Clement VII trước các đội quân nổi loạn của Hoàng đế Charles V. 42 người sống sót đã hộ tống Giáo hoàng đến nơi an toàn tại Castel Sant’Angelo qua Passetto di Borgo, một lối đi bí mật. Sự kiện này được tưởng niệm hàng năm với lễ tuyên thệ của các tân binh vào ngày 6 tháng 5. Trên YouTube, có một phim tài liệu nói về một anh chàng người Thụy sĩ, gốc vùng nói tiếng pháp, độc thân, có giấc mơ làm vệ quân cho Vatican. Bác nào buồn đời như em thì nên xem. Rất hay


Qua nhiều thế kỷ, vai trò của Vệ binh chuyển từ chiến đấu trên chiến trường sang các nhiệm vụ nghi lễ và bảo vệ. Họ đã vượt qua nhiều thách thức, bao gồm việc giải thể các Quốc gia Giáo hoàng năm 1870, và được chính thức hóa theo Hiệp ước Lateran năm 1929, công nhận chủ quyền của Thành Vatican. Nên nhắc lại một tí, khi xưa, các đức giáo hoàng hay đem quân đi đánh mấy vùng lân cận, không chịu chi tiền cho Vatican. Có một phim nói về Michelangelo, có kể vụ đức giáo hoàng đem quân đi chinh phạt vì các vua chúa bên cạnh không nộp thuế để xây thánh đường San Paolo.

Vệ binh Thụy Sĩ gồm khoảng 135 thành viên, bao gồm 110 vệ binh, 15 hạ sĩ quan, 9 sĩ quan và một linh mục tuyên úy. Chỉ huy, được gọi là Đại tá, giữ cấp bậc cao nhất.
Tân binh trải qua huấn luyện quân sự cơ bản tại Thụy Sĩ, sau đó là đào tạo chuyên sâu tại Thành Vatican. Đào tạo bao gồm kiểm soát đám đông, sử dụng súng, kỹ thuật bảo vệ cận thân và nghi thức cho các nhiệm vụ nghi lễ. Kỹ năng ngôn ngữ (tiếng Ý và thường là tiếng Pháp hoặc Đức) cũng được phát triển, vì tiếng Ý là ngôn ngữ làm việc.


Nhiệm vụ chính của Vệ binh Thụy Sĩ là đảm bảo an toàn cho Giáo hoàng và Vatican.

 Hộ tống Giáo hoàng trong các lần xuất hiện công khai, chuyến đi và các buổi tiếp kiến riêng. Vệ binh được huấn luyện các kỹ thuật an ninh hiện đại để đối phó với các mối đe dọa.

 Kiểm soát các điểm ra vào Thành Vatican, như Cổng Thánh Anna, và tuần tra các khu vực trọng yếu như Cung điện Tông Tòa.

Tham gia các sự kiện như thánh lễ của Giáo hoàng, lễ phong thánh và các buổi tiếp đón ngoại giao. Họ tạo thành đội danh dự cho các nguyên thủ quốc gia đến thăm.

 Bảo vệ Domus Sanctae Marthae (nơi ở của Giáo hoàng) và các tòa nhà khác trong Vatican.

Tháp tùng Giáo hoàng trong các chuyến công du quốc tế, phối hợp với lực lượng an ninh địa phương.

Đồng phục đặc trưng của Vệ binh Thụy Sĩ là dấu ấn của bản sắc họ:

•  Đồng phục nghi lễ: Đồng phục phong cách Phục hưng màu xanh, đỏ, cam và vàng, thường được cho là do Michelangelo thiết kế (dù có lẽ không chính xác), được thiết kế lại vào năm 1914 bởi Chỉ huy Jules Repond. Nó gồm áo chẽn, quần ống túm và mũ morion với lông đỏ cho các dịp nghi lễ. Đồng phục thay đổi theo cấp bậc, với sĩ quan mặc thiết kế cầu kỳ hơn.

•  Đồng phục hàng ngày: Đồng phục màu xanh đơn giản với mũ nồi được sử dụng cho các nhiệm vụ thường nhật.

•  Vũ khí: Vệ binh mang vũ khí truyền thống như giáo dài và kiếm cho các nghi lễ, nhưng cũng được trang bị súng hiện đại (ví dụ: súng ngắn SIG Sauer) và được huấn luyện sử dụng chúng. Họ cũng sử dụng thiết bị không gây chết người như bình xịt hơi cay.

•  Áo giáp: Trong các sự kiện lớn, vệ binh mặc áo giáp ngực bóng loáng và mũ, làm nổi bật vẻ ngoài nghi lễ.


Vệ binh Thụy Sĩ là cầu nối sống động với thời kỳ Phục hưng, thể hiện sự liên tục lịch sử của Vatican. Lòng trung thành của họ bắt nguồn từ truyền thống trung lập và kỷ luật của Thụy Sĩ.

•  Lễ tuyên thệ: Được tổ chức hàng năm vào ngày 6 tháng 5 tại Sân San Damaso, các tân binh tuyên thệ trung thành với Giáo hoàng bằng ngôn ngữ mẹ đẻ (Đức, Pháp hoặc Ý). Nghi lễ này tưởng nhớ sự hy sinh năm 1527.

• Đồng phục rực rỡ và sự hiện diện kỷ luật của Vệ binh khiến họ trở thành điểm thu hút du khách, nhưng vai trò của họ như một lực lượng an ninh chuyên nghiệp thường bị đánh giá thấp.

•  Việc cân bằng giữa truyền thống và nhu cầu an ninh hiện đại là phức tạp. Vệ binh phải đảm nhận các nhiệm vụ nổi bật trong khi duy trì sự cảnh giác trong thời đại của các mối đe dọa toàn cầu.


Kể từ vụ ám sát hụt Giáo hoàng Giovanni Paolo II năm 1981, Vệ binh đã hiện đại hóa huấn luyện và trang bị, hợp tác với cảnh sát Ý và các cơ quan quốc tế cho các chuyến đi của Giáo hoàng. Vệ binh sống trong doanh trại trong Thành Vatican, với các tiện nghi hiện đại. Lương của họ khiêm tốn nhưng miễn thuế, và họ được cung cấp chỗ ở và bữa ăn miễn phí.

Vệ binh thường phục vụ từ 2–5 năm, dù một số ở lại lâu hơn. Sau khi phục vụ, nhiều người trở về Thụy Sĩ, tận dụng kinh nghiệm của mình trong các lĩnh vực an ninh, cảnh sát hoặc tư nhân. Khi làm cận vệ thì họ không được lập gia đình. Phải độc thân.

Vệ binh vẫn chỉ dành cho nam giới, phản ánh truyền thống và chính sách của Vatican. Các cuộc thảo luận về việc bao gồm phụ nữ đã xuất hiện, nhưng chưa có thay đổi nào được thực hiện.

Sự kiện đáng chú ý

•  Lực lượng đa ngôn ngữ: Phản ánh sự đa dạng ngôn ngữ của Thụy Sĩ, vệ binh nói tiếng Đức (phần lớn), Pháp hoặc Ý, tạo nên một sự kết hợp văn hóa độc đáo.

•  Lòng trung thành với Giáo hoàng: Khẩu hiệu của Vệ binh, “Fidelis usque ad mortem” (Trung thành đến chết), nhấn mạnh cam kết của họ. Họ là một trong số ít đơn vị quân sự phục vụ một thực thể nước ngoài (Tòa Thánh).

•  Hình ảnh nghệ thuật: Vệ binh Thụy Sĩ xuất hiện trong nghệ thuật, văn học và truyền thông, thường được lãng mạn hóa như biểu tượng của sự vĩ đại của Vatican.


Ai buồn đời vào tranh nhà của Vatican để đọc thêm. Em chỉ tóm tắc.

•  Trang web chính thức của Vatican (vatican.va) cung cấp chi tiết về lịch sử và tuyển dụng của Vệ binh.

• Các cuốn sách như The Swiss Guard của Robert Royal cung cấp bối cảnh lịch sử, trong khi các tài liệu về an ninh Vatican mô tả chi tiết các hoạt động hiện đại của họ.


Quy trình tuyển dụng vào Vệ binh Thụy Sĩ Giáo hoàng là một quá trình nghiêm ngặt, chọn lọc và dựa trên cả truyền thống lẫn các yêu cầu an ninh hiện đại. Nó bảo đảm các ứng viên đáp ứng các tiêu chí khắt khe để trở thành người bảo vệ Giáo hoàng và Thành Vatican. Khi đức giáo hoàng Giovanni Paolo đệ nhị bị ám sát, chắc mấy ông Thụy sĩ này chắc bị chúa phạt nhiều.  Dưới đây là chi tiết về quy trình, dựa trên các nguồn chính thức và thông tin có sẵn.


Ứng viên phải đáp ứng các yêu cầu sau để được xem xét:

•  Quốc tịch: Công dân Thụy Sĩ, thể hiện mối liên hệ lịch sử và văn hóa của Vệ binh với Thụy Sĩ.

•  Giới tính: Nam, vì Vệ binh vẫn là một tổ chức chỉ dành cho nam giới. Chủ nghĩa thức tĩnh chưa xâm nhập vào toà thánh Vatican.

•  Tôn giáo: Công giáo La Mã thực hành, được xác nhận bởi thư giới thiệu từ linh mục giáo xứ.

•  Độ tuổi: Từ 19 đến 30 tuổi tại thời điểm nộp đơn.

•  Chiều cao: Tối thiểu 174 cm (5’8”), để đảm bảo dáng vẻ uy nghiêm trong các nhiệm vụ nghi lễ.

•  Tình trạng hôn nhân: Độc thân (vệ binh có thể kết hôn sau 5 năm phục vụ nếu được phép đặc biệt).

•  Học vấn/Nền tảng nghề nghiệp: Ưu tiên có bằng trung học hoặc chứng chỉ nghề, dù không bắt buộc.

•  Đào tạo quân sự: Hoàn thành khóa huấn luyện quân sự cơ bản trong Lực lượng Vũ trang Thụy Sĩ, đảm bảo quen thuộc với kỷ luật và sử dụng vũ khí.

•  Nhân cách: Có “nhân cách đạo đức không thể chê trách,” nghĩa là không có tiền án và có danh tiếng về sự chính trực.

•  Sức khỏe và thể lực: Sức khỏe thể chất và tinh thần tuyệt vời, được xác nhận qua kiểm tra y tế.

•  Kỹ năng ngôn ngữ: Biết tiếng Ý cơ bản (ngôn ngữ làm việc của Vệ binh) là một lợi thế, dù sẽ được đào tạo.

Đức giáo hoàng mới qua đời nên trên truyền hình chắc có chiếu mấy ông vệ quân Thụy sĩ này nên em nhớ vụ này khi xưa nên kể lại. Em không phải công gáio nên cũng không rành lắm về Vatican.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Người đàn bà xúi dại

Sau lưng mỗi đại nhân là một người đàn bà hay đàn ông tin tưởng vào người phối ngẫu của mình 

Có người hỏi mình tại sao không rủ đồng chí gái đi tập Đông Phương Hội, mình nói không phải là đại nhân. Vợ mình không bao giờ nghe mình cả. Chỉ biết sai khiến mình. Kêu mình điên điên, không ăn nhậu như chồng của bạn đồng chí gái. Lý do là sau lưng mỗi người đàn ông thành công, đều có một người đàn bà tin tưởng tuyệt đối và tài năng của chồng mình. Vấn đề là nhiều khi người đàn ông được người vợ giúp đỡ trở thành giàu có, nổi tiếng, nhìn lại thấy bà vợ mình quê mùa, không có chân dài tới nách nên buồn đời, như Christophe kêu “non, je ne t’aime plus”. Chán Mớ Đời 

Ông bà Gabriel Garcia Marquez

Người ta thường chỉ biết đến người thành công nhưng quên đến người phối ngẫu. Điển hình là bà thủ tướng Anh quốc, Margaret Thatcher, làm lớn ở Anh quốc, nhờ ông chồng, tề gia, lo cho con, không được tốt lắm vì nghe nói tên con trai phá làng phá xóm hơi nhiều. Trong cuộc đời, người thành công không bao giờ đạt được sự nghiệp một mình. Đều có sự giúp đỡ rất tích cực của nhiều người nhất là người vợ hay người chồng.


Mercedes Barcha Pardo, vợ của Gabriel García Márquez, đóng vai trò không thể thiếu trong hành trình trở thành một trong những nhà văn vĩ đại nhất thế giới, khôi nguyên giải Nobel về văn chương. Bà không chỉ là người bạn đời mà còn là nguồn cảm hứng, người quản lý tài chính, và người cố vấn, giúp ông tập trung vào sáng tác.


Bà Mercedes gặp ông Gabriel García Márquez vào năm 1941 tại Sucre, Colombia, khi bà mới 9 tuổi và ông 14 tuổi, trong một buổi khiêu vũ nơi ông đã cầu hôn bà một cách ngây thơ. Muốn nổi tiếng phải nghĩ đến lấy vợ ở tuổi 14. Kinh. Mối tình hữu nghị này kéo dài qua 14 năm thư từ và xa cách trước khi họ kết hôn vào năm 1958. Trong những năm đầu khó khăn, khi ông García Márquez là một nhà báo và nhà văn chưa thành danh, sự kiên định của Mercedes là chỗ dựa tinh thần cho ông. 


Nhà viết tiểu sử Gerald Martin nhận xét: “Mercedes là kim chỉ nam của ông,” giúp ông vượt qua những giai đoạn tự nghi ngờ và áp lực của sự danh tiếng sau này. Cái này thì mình đồng ý. Nếu người phối ngẫu không tin tưởng vào mình thì sẽ không bao giờ thực hiện được ước mơ của mình hoặc ly dị.


Bà là nguồn cảm hứng cho nhiều nhân vật trong tác phẩm của ông. Úrsula Iguarán, người phụ nữ mạnh mẽ trong Trăm Năm Cô Đơn, phản ánh sự kiên cường của Mercedes. Fermina Daza trong Tình Yêu Thời Thổ Tả cũng mang những nét tính cách của bà, đặc biệt trong cách mô tả một cuộc hôn nhân bền vững và phức tạp. García Márquez từng nói: “Tất cả phụ nữ trong sách của tôi đều có bóng dáng của Mercedes.” Ông ta không thể tả về tư cách, hành động của một ngừoi phụ nữ nếu khôgn sinh sống với người đó. Nguồn gốc Ai Cập của bà (cha bà là một dược sĩ gốc Ai Cập) góp phần tạo nên sắc thái huyền bí và đa văn hóa trong chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của ông, tương tự như cách trang phục phản ánh di sản.


Việc sáng tác Trăm Năm Cô Đơn (1967) là minh chứng rõ nhất cho vai trò quan trọng của Mercedes. Năm 1965, khi García Márquez, lúc đó 38 tuổi, có cảm hứng bất ngờ trên đường đến Acapulco, Mễ Tây cơ. Bà Mercedes hủy chuyến nghỉ mát gia đình và thúc giục ông về nhà viết. Trong 18 tháng, ông giam mình trong phòng làm việc tại Mexico City, gọi là “hang động của mafia,” trong khi Mercedes chăm sóc hai con trai nhỏ, Rodrigo và Gonzalo, và quản lý tài chính trong cảnh túng thiếu. Kiểu phụ nữ khi xưa, anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng. Nhốt ông ta trong nhà, chưa xong chưa cho ra đường. 


Gia đình rơi vào khó khăn: họ bán xe hơi, vay nợ, và sống nhờ lòng tốt của bạn bè như Álvaro Mutis. Mercedes khéo léo đối phó với các chủ nợ, thậm chí thuyết phục một người bán thịt cho mua chịu. Khi bản thảo hoàn thành, họ không đủ tiền gửi 490 trang đến nhà xuất bản ở Buenos Aires. Á Căn Đình. Dạo đó xứ Á Căn Đình giàu có nên là nơi xuất bản sách Châu Mỹ la tinh. Bà Mercedes cầm cố máy sấy tóc, lò sưởi, và máy xay sinh tố để có 160 peso, đủ gửi nửa bản thảo. Mình đưa mụ vợ về ngủ lại nhà ở quê, mụ cứ hỏi có máy sấy tóc, có điện nước hay không. Thành công của tiểu thuyết, bán hết 8.000 bản in đầu tiên trong vài tuần và đến năm 2020 đạt 50 triệu bản bằng 46 ngôn ngữ là minh chứng cho sự hy sinh của bà. 


García Márquez đoạt giải Nobel Văn học năm 1982, và bà là người đứng sau vinh quang đó. Mình nhớ năm này ra trường thì thiên hạ nói đến ông ta, trước kia đâu biết ông này. Phải vào thư viện mượn sách ông ta để đọc, có thể vỗ ngực với Tây đầm là đã từng đọc 100 năm cô đơn, lúc đó mình mới 26 năm cô đơn mà phila 100 năm cô đơn. Sau này sang Hoa Kỳ thì tìm sách của ông ta đọc thêm. Nói chung là mình chỉ đọc có cuốn này thôi của ông ta. Thật ra bên Tây mình chỉ mượn sách của những tác giả nghe tên khi xưa để đọc nhất là mấy ông Tây bà đầm.

Khi danh tiếng của ông Gabriel García Márquez tăng vọt, Mercedes trở thành lá chắn bảo vệ ông, kiểu bà vợ ông Biden. Sự nổi tiếng mang đến vô số yêu cầu như phỏng vấn, diễn thuyết, và các mối quan hệ chính trị. Mercedes, được bạn bè mô tả là “thông minh sắc sảo” và “một thế lực tự nhiên,” quản lý cuộc sống công khai của ông. Bà đọc nhiều tờ báo mỗi ngày, chọn lọc tin tức để ông nắm bắt mà không bị phân tâm, giống như cách các chiến lược gia quân sự (như trong câu chuyện Firebase Kate) phân tích thông tin. Bà cũng kiểm soát những ai được tiếp xúc ông, khéo léo từ chối các yêu cầu không cần thiết. Nhà văn Mexico Elena Poniatowska từng nói: “Mercedes là bức tường bạn phải vượt qua để đến với Gabo.” Thật ra lấy vợ rồi thì vợ kêu ngồi đâu thì ngồi đó, cấm cãi. Gặp ai thì gặp chớ có biết gì đâu. Đồng chí gái hay đi gặp thân hữu, khi nào cần mình đi theo thì báo cho biết. Còn mình thì ngồi nhà. Mụ vợ đi đâu thì đi, không dám hỏi.


Bà còn hỗ trợ ông trong các mối quan hệ xã hội và chính trị. García Márquez giao du với các nhân vật như Fidel Castro và Bill Clinton, và Mercedes điều phối những mối quan hệ này với sự tinh tế. Trong những năm 1970, khi ông bị chỉ trích vì quan điểm cánh tả, Mercedes tư vấn cách ông phản hồi công chúng, giúp ông tập trung vào văn chương. Ở Mexico, nơi họ định cư từ năm 1961, bà xây dựng một cộng đồng trí thức Mỹ Latinh, gồm Carlos Fuentes và Julio Cortázar, tạo môi trường sáng tạo cho chồng. Người ta nói gần mực thì đen gần đèn thì sáng nên giao du với các trí thức gia khác giúp đối thoại, hiểu rõ vấn đề hơn. Thay vì lên mạng như ngày nay chửi bú xua la mua.


Sau Trăm Năm Cô Đơn, Mercedes tiếp tục giúp García Márquez sáng tác các tác phẩm như Thuở Xưa của Tộc Trưởng (1975) và Biên Niên Ký Một Cái Chết Được Báo Trước (1981). Bà đọc bản thảo và đưa ra ý kiến, dù hiếm khi nhận công lao. Khi ông thành lập Quỹ Báo chí Mới Iberoamerican (FNPI) năm 1994, bà giữ vai trò Chủ tịch Danh dự, định hình sứ mệnh đào tạo nhà báo. Sau khi ông qua đời năm 2014, bà lập Quỹ Gabo năm 2017 để bảo tồn di sản của ông, tài trợ các sáng kiến văn học và báo chí.


Bản thân bà Mercedes để lại di sản sâu sắc nhưng kín đáo. Bà từ chối những lời ca tụng sáo rỗng, khẳng định sự độc lập. Bà qua đời tháng 8 năm 2020 ở tuổi 87, được các lãnh đạo và nhà văn, như Tổng thống Colombia Iván Duque, ca ngợi là “ngọn gió thầm lặng sau thiên tài của Gabo.” Thú thật mình chả biết bà ta là ai đến khi thấy báo chí đăng tải.


Nguồn gốc Colombia-Ai Cập và tuổi thơ ở Magangué mang đến cho bà Mercedes một bản sắc văn hóa phong phú. Bà giới thiệu cho ông García Márquez những giai điệu và truyền thuyết vùng Caribbean, thấm vào chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của ông. Ngôi nhà của họ ở Mexico City là trung tâm văn hóa Mỹ Latinh, thể hiện sự hiếu khách và tài tổ chức của bà. Bà yêu thích sự riêng tư, giống chồng, và duy trì thói quen kỷ luật: ông viết vào buổi sáng, bà xem thư từ và lo việc nhà, để không gian sáng tạo riêng cho ông.


Bà cũng ảnh hưởng đến hai con trai. Rodrigo, một nhà làm phim, và Gonzalo, một nhà thiết kế, ghi nhận bà đã dạy họ cách sống với danh tiếng của cha mà vẫn theo đuổi con đường riêng, thể hiện sức mạnh của bà như một người mẹ.

Không có Mercedes, ông García Márquez có thể chỉ là một nhà văn tài năng nhưng vô danh. Sự hy sinh của bà trong sự nghiệp sáng tác Trăm Năm Cô Đơn, khả năng quản lý cuộc sống công khai của ông, và ảnh hưởng văn hóa là những yếu tố cốt lõi cho thành công của ông. Nhà viết tiểu sử Dasso Saldívar viết: “Mercedes không chỉ là người phụ nữ đứng sau người đàn ông; bà là nền tảng của thế giới của ông.” Câu chuyện của bà là bài học về sự đồng hành, kiên cường, và sức mạnh thầm lặng.


Socrate từng tuyên bố trước khi uống thuốc độc: bằng mọi cách phải lập gia đình. Nếu anh tìm được một người vợ tốt thì anh sẽ hạnh phúc. Còn nếu gặp phải một người phụ nữ xấu, thì anh sẽ thành một triết gia”. Mình chỉ muốn hạnh phúc chớ còn triết gia để cho người khác. Cuộc đời mình may mắn gặp đồng chí gái. Xong om


Ngày nay về hưu, mình nhất trí hỗ trợ mụ vợ học Tây ban cầm và hát karaoke. Biết đâu một ngày nào đó, đồng chí gái sẽ nổi tiếng trên YouTube, được khối tiền. Khỏi phải trồng bơ. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn