Hiển thị các bài đăng có nhãn chiến tranh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chiến tranh. Hiển thị tất cả bài đăng

Tướng George Marshall khôi phục lại âu châu

 Chiến Tranh và Hoà Bình

Dạo này dân cư mạng ồn ào trên các mạng xã hội. Người nguyền rủa Hoa Kỳ bán đứng Ukraine như Việt Nam Cộng Hoà, Á-Phú-Hãn, các đồng minh. Người thì hoan hô, kêu cuộc chiến không phải của người Mỹ hay người Pháp. Trong khi đó Hoa Kỳ đang quần Venezuela thì các đồng minh như Puchin, Tập Cận Bình, Cuba chả thấy lên tiếng. 


Bên pháp số chống đối tổng thống Macron thì kêu ông Macron hân hoan tuyên bố sẽ cung cấp 100 chiến đấu cơ Rafale cho Ukraina trong vòng 10 năm nữa, khiến cổ phiếu công ty chế tạo máy bay này tăng vọt lên 10% trong khi ngân quỹ không được quốc hội duyệt phê. Họ kêu thu thuế được 18 tỷ mà phải xài đâu 30 tỷ (không nhớ số chính xác, chỉ lướt qua). Dân tình kêu tiền đâu, bán cho Ukraine, họ hết tiền, hết người để đánh. Chết rất nhiều. Mình theo dõi bên ủng hộ Ukraina, bên ủng hô Puchin thì cả hai bên chết rất nhiều và đào ngủ cả hai bên cũng nhiều. Mình thích đọc tài liệu của hai bên để có một nhận định riêng ít bị tuyên truyền.


Khi xưa, còn bé mình nghe đài Sàigòn buổi chiều kêu Việt Cộng bỏ lại mặt trận 120 xác chết, và bao nhiêu bị thương, phe ta vô sự rồi buồn đời tối mình mở đài Hà Nội ra nghe thì cũng cùng trận đánh, phe ta diệt 400 tên lính nguỵ,… cho nên mình thất kinh từ đó, không bao giờ tin vào một tin tức. Sau này đọc tin tức cả hai bên thì được biết Mùa Hè Đỏ Lửa, hai bên chết kinh hoàng. Mình hỏi ông chú họ ở quê, chú kể là hãi hùng, đại đội của chú chỉ sống sót vài người, chú bị thương nhẹ nên may được trở về quê quán. Đọc hồi ký các sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà cũng nghe kể tan thương lắm.

Trên tờ Foreign Affairs, có đăng vụ phụ nữ Nga hối hả lấy chồng, đối tượng là những chàng trai sắp sửa được đưa ra mặt trận, vào lò nghiến thịt. Lý do là những người tử trận được tiền tử đền bù khá nhiều và có thể được trả lương cả đời nhằm khuyến khích họ ra đi. Họ sẽ hát ngày thành hôn tôi bận đồ hành quân và vợ tôi chỉ mong cho tôi sớm hy sinh cho Puchin …. Cho thấy người Nga vẫn vui khi có chiến tranh vì được lãnh tiền vì chiến tranh.


Mình thích sự trào phúng của người Pháp vì có nhiều người đưa thí dụ Pháp quốc ký giấy “letter of intent” bán cho Ukraina 100 phi cơ chiến đấu Rafale như: hội phụ huynh muốn gây quỹ nên mua bột mì, đường bú xua la mua rồi bỏ công làm bánh này nọ, sau đó đem bán rồi cúng hết tiền cho chương trình của trường. Chính phủ Macron nói bán 100 chiến đấu cơ Rafale nhưng Ukraine không có tiền thì xem như cho không. Tạo công ăn việc làm và làm giàu cho công ty chế tạo Rafale, đã giúp ông ta lên ngôi tổng thống. Cũng có thể chỉ nói cho vui làm trò để lấy tinh thần cho lính Ukraina tiếp tục đánh. Nghe phía bên Puchin thì cũng muốn đàm phán. Cần giữ đất đã chiếm vì nếu không thì dân nga sẽ thịt ông ta. Mà ông Zelensky cũng lâm vào tình trạng nếu mất đất thì dân chúng Ukraina cũng thịt ông ta. Có lẻ ông Zelensky sẽ bị ám sát trước khi ký kết ngưng bắn. Rồi vài năm sau, Puchin lại cho quân xua qua Ukraina nữa như Hà Nội đã làm sau khi bị đánh tơi bời hoa lá năm Mậu Thân. Dân chúng miền nam không nổi dậy chạy theo họ mà bỏ chạy nên họ dẹp vụ giải phóng miền nam và ra mặt đưa bộ đội vào Nam bất kể ký kết hiệp đình Paris.


Sáng nay, lại nghe Hung Gia Lợi kêu được Hoa Kỳ cho phép mua dầu khí rẻ của Nga và sẽ chia cho Serbia. Mấy ông tây bà đầm ở Âu Châu hô hào đánh cho Puchin bay đầu nhưng lại mua dầu khí rẻ của Puchin thì làm sao cấm vận được. Họ được mua dầu khí rẻ thì càng tốt. Chiến tranh càng kéo dài dân âu châu càng lợi. Họ chỉ hô hào đạo đức giả.


Nhớ khi xưa, học lịch sử Hoa Kỳ, sau khi Hitler tự tử, nay lại nghe tin tức ở Á Căn Đình cho rằng ông này đã chạy sang Á Căn Đình sống đến chết. Quân đội đồng minh chiến thắng thì có chương trình MArshall nhằm tái thiết Tây Âu lại. Cứ tưởng tượng đang đứng giữa trung tâm một thành phố châu Âu năm 1945. Không có tiếng xe cộ. Không có tiếng rao buôn bán. Chỉ có mùi khói, những bức tường cháy xém, và tiếng bước chân nặng nhọc của những con người đang cố gắng sống sót sau một cơn ác mộng kéo dài sáu năm. Những cây cầu gãy đôi, những trường học chỉ còn là đống gạch. Những nhà máy không còn máy móc và tệ hơn tất cả: không còn hy vọng. Có thể nói là tuyệt vọng.


Hình ảnh này mình đã nhìn thấy năm Mậu Thân, khi lên Cây Số 4, phụ gia đình dì Ba Ca, xây lại căn nhà, dấu vết bom napalm vẫn đầy , nghẹt mùi cháy của bom phosphore. Hình ảnh dượng Ba Ca đứng nhìn căn nhà gỗ đã tương, chỉ còn nền xi-măng. Dượng và mấy người con trai mỗi ngày làm hắc-lô để xây lại. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã tài trợ một số tiền. Hình ảnh hoang tàn của chiến tranh khiến mình hoảng sợ, chả muốn đánh nhau, tham dự cuộc chiến.

Hình ảnh mình đã thấy ở Số 4 sau khi Việt Cộng rút lui và trận mưa bom napalm mà từ khu vực nhà mình đứng thấy rõ các cuộc oanh tạc. Lúc đầu thấy máy bay bà già bay vòng vòng rồi nghe cái tạch, rồi thấy đạn khói bay xuống đất khói bay lên rồi vài phút sau là khu trục cơ bay đến thả bom. Dạo đó chưa học hyperbol nhưng sau này lớn lên học là hiểu liền nhờ chứng kiến thật khi xưa. Có ai biết lý do Việt Cộng lại cắm quân lại Số 4? Vì dân số 4 có nhiều người nằm vùng?


Trong bối cảnh Tây Âu thời hậu chiến, xuất hiện một nhân vật, dáng khắc khổ, ít khi cười, nói chuyện thẳng thắn nhưng rất chậm rãi, không ồn ào phô trương. Tên của ông là George Catlett Marshall. Trong chiến tranh, ông từng chỉ huy hơn tám triệu binh sĩ, nhiều hơn cả lực lượng của Mỹ ngày nay. Ông góp phần định hình chiến lược đánh bại phe Trục. Tướng Eisenhower, cựu tổng thống Hoa Kỳ từng nói:“Marshall là người đàn ông vĩ đại nhất tôi từng gặp.”


Nhưng điều khiến ông Marshall trở nên một tướng lãnh độc nhất, không phải là khả năng chỉ huy chiến tranh mà là khả năng nhìn thấy hòa bình khi thế giới chỉ thấy tro tàn. Tương tự ngày nay, dân cư mạng cứ hô hào Ukraine phải đánh tới người dân cuối cùng. Mình xem biểu đồ ngân sách của âu châu và Hoa Kỳ viện trợ cho Ukraine từ khi cuộc chiến khởi đầu thì thất kinh, người Mỹ đóng góp rất nhiều mà nay âu châu kêu gọi đóng góp thêm khiến người Pháp kêu trời. Tiền đâu ra. Lúc đầu mình tưởng chỉ có Hoa Kỳ nay khám phá ra âu châu cũng banh ta lông về kinh tế. Chúng ta cần chuẩn bị cho cuộc khủng hoảng kinh tế sắp tới.

Ông Trump lên kêu không cung cấp viện trợ nữa thế là ngọng. Mình nghe nói nhưng chưa có tin chính thức là chính quyền Ukraina cũng tham nhũng lắm. Đồ viện trợ qua tay chính phủ Ukraina rồi trở lại các tay khác ở Âu châu và Hoa Kỳ. 


Trong một buổi điều trần tại thượng viện, tướng George C. Marshall ngồi im lặng trong khi các thượng nghị sĩ tranh luận, giọng nói của họ vang lên khi họ cố gắng biến chiến thắng khó nhọc của Thế chiến II thành sự trả thù. Đó là năm 1947, và châu Âu đã tan vỡ. Các thành phố nằm trong đống đổ nát, người dân chết đói, và trật tự chính trị từng gắn kết lục địa này đang sụp đổ. Toàn bộ các quốc gia đứng bên bờ vực hỗn loạn. Các người dân địa phương trả thù nhau vì tội làm pháp gian, đức gian, ý gian,… các phụ nữ có sinh hoạt với đức quốc xã trong thời chiến tranh, bị cạo đầu, bôi nhọ, chửi bới. Thêm Stalin cắt đất, khiến nhiều dân tộc phải rời bỏ chốn chôn nhau cắt rốn đi về một xứ nào đó họ chưa bao giờ biết. Như trường hợp bà Inge, sinh ra trong vùng đất ở Ba Lan, sau đệ nhị thế chiến bị tống cổ về Đức quốc. Phải học tiếng đức vì được xem là người đức thay vì Ba Lan như xưa.


Hoa Kỳ đã có thể quay lưng. Họ có thể tuyên bố chiến thắng của mình và bỏ mặc châu Âu chịu đau khổ. Nhiều người trong Quốc hội mong muốn điều đó. George Catlett Marshall, hiện là Ngoại trưởng, lại có một tầm nhìn khác. Ông đề nghị một điều mà ít ai có thể tưởng tượng được: tái thiết chính những quốc gia mà nước Mỹ đã chiến đấu chỉ hai năm trước đó như Đức quốc và Nhật Bản thêm Ý Đại Lợi. Nhờ đó có thể giúp Hoa Kỳ khôi phục các xưởng sản xuất, tái thiết sau thế chiến thứ 2. Giúp người giúp ta 100 lần 100 giàu có.


Ngày 5 tháng 6 năm 1947, ông đứng trên bục giảng tại Đại học Harvard, đọc bài diễn văn tốt nghiệp chỉ kéo dài chưa đầy mười phút. Không có những khoảng lặng kịch tính như mình học ở hội Toastmasters hay những lời kêu gọi cảm xúc, không có những lời hoa mỹ để nhận được tràng pháo tay. Thay vào đó, ngoại trưởng Marshall nói một cách thẳng thắn, thực tế về sự tàn phá ở châu Âu và trách nhiệm của những người đã thoát khỏi nó. “Chính sách của chúng ta không nhằm vào bất kỳ quốc gia hay học thuyết nào,” ông nói, “mà là chống lại nạn đói, nghèo đói, tuyệt vọng và hỗn loạn.” Ai buồn đời thì nghe bài diễn văn của ông ta:

https://youtu.be/dg9_GqXa770?si=Xc6IxauqhZcY-PX3


Mấy ông tàu cũng bắt chước ý định này với chương trình “Vòng đại và Con Đường”, giúp họ phát triển, có công ăn việc làm cho người Tàu lại thêm có ảnh hưởng ở các các xứ mà họ thực hiện chương trình này như ở Phi Châu và các nước thuộc Liên Xô cũ mà mình đã từng ghé. Puchin thay vì đem quân đi đánh thiên hạ, cứ dùng tiền bán dầu hoả rồi thành lập các chương trình như Trung Cộng là được lòng dân thế giới, giúp đất nước giàu có.


Đằng sau những lời lẽ bình tĩnh ấy là một người đàn ông đã chứng kiến ​​chiến tranh sâu sắc hơn bất kỳ ai. Với tư cách là Tổng Tham mưu trưởng Lục quân, Marshall đã chỉ huy lực lượng quân sự lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, hơn tám triệu quân dưới quyền. Ông đã giám sát mọi hoạt động, mọi kế hoạch, mọi cuộc di chuyển từ Bắc Phi đến Normandy. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ tìm kiếm sự chú ý của đám đông. Nếu ai có dịp đi viếng vùng Normandie, nên ghé lại các nghĩa địa chôn lính mỹ chết khi được gửi sang âu châu. Nghĩa trang Biên Hoà của lính Việt Nam Cộng Hoà không bằng những nghĩa trang quân đội Hoa Kỳ tại vùng này. Lính chết nhiều khi đổ bộ xuống bờ biển Normandie. Khi viếng những nghĩa trang này, thì không ai có khả năng hô hào chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, toàn là lính trẻ không. Mình ghé lại nghĩa trang quân đội Việt Nam Cộng Hoà, ở Biên Hoà, thấy toàn là lính chết ở tuổi 19, 20. Ukraina hay Nga, đều có những người mẹ, hay vợ khóc khi được tin con hay chồng hy sinh cho cuộc chiến vô nghĩa.


Như ông thượng tá mình gặp, chủ một tiệm ăn ở Vịnh Hạ Long. Ông ta than bỏ cả tuổi trẻ vào nam đánh mỹ cút nguỵ nhào, nay về quê mở tiệm ăn, phải phục vụ bọn đế quốc du khách mỹ và nguỵ quân nguỵ quyền như anh. Chán Mớ Đời. Sau 10 năm say men chiến thắng khiến dân từ có cơm để ăn phải ăn bo bo mà Liên Xô cho ngựa ăn để sống. Phải quay đầu lại năn nỉ Hoa Kỳ xin bang giao. Cho thấy cuộc chiến vo nghĩa, thêm ông Lê Duẫn cuối đời như giác ngộ cách mạng kêu “chúng ta đánh cho Nga, cho Tàu”.  


Khi Tổng thống Roosevelt đề nghị ông cơ hội lãnh đạo cuộc đổ bộ của quân Đồng minh vào châu Âu, Marshall đã từ chối, chỉ nói: “Tổng thống phải quyết định nơi nào tôi hữu ích nhất.” Ông hiểu tầm quan trọng của sự lãnh đạo, nhưng ông cũng biết khi nào nên để người khác chỉ huy. Roosevelt đã chọn Eisenhower cho Ngày D, và Marshall ủng hộ quyết định này mà không hề phàn nàn. 


Giờ đây, khi sự tàn phá của chiến tranh lan rộng từ chiến trường đến sinh mạng của hàng triệu thường dân, ông Marshall nhận thấy rằng việc giành lại hòa bình sẽ đòi hỏi cùng một kỷ luật và sự hy sinh đã giúp giành chiến thắng trong chiến tranh. Ông đề nghị một chương trình mà sau này được gọi là Kế hoạch Marshall là một nỗ lực to lớn để tái thiết Tây Âu, không phải thông qua chiếm đóng hay trừng phạt, mà thông qua viện trợ. Kế hoạch này sẽ tiêu tốn 13 tỷ đô la, một số tiền tương đương hơn 170 tỷ đô la theo giá trị hiện đại.


Kế hoạch này kêu gọi thực phẩm, máy móc và chuyên môn của Mỹ đổ vào các nền kinh tế đang bị tàn phá của châu Âu. Kế hoạch này sẽ giúp xây dựng lại các nhà máy, khôi phục nông trại và ổn định chính phủ. Nó cũng sẽ gắn kết tương lai của châu Âu với Hoa Kỳ, tạo ra mối liên kết tin tưởng thay vì oán giận. Nhờ đó mà kinh tế và kỹ thuật Hoa Kỳ phát triển rất nhanh sau cuộc chiến khiến khắp nơi thế giới, ai nấy đều có nhà và xe hơi. Một nhân công mỹ có thể nuôi một vợ và con, có chiếc xe hơi.


Trong nước, ý tưởng này đã vấp phải sự phản đối dữ dội. Những người chỉ trích cáo buộc Marshall lãng phí tiền của Mỹ, "nuôi dưỡng người nước ngoài" khi các cựu chiến binh Mỹ vẫn cần sự giúp đỡ. Tương tự ngày nay, người ta hô hào ủng hộ Ukraine đánh Puchin nhưng chả thấy ai tự nguyện lên đường sang Ukraine đánh Puchin. Một số người thậm chí còn gọi kế hoạch này là phản quốc, cho rằng nó sẽ củng cố sức mạnh cho những kẻ thù cũ như Đức và Ý. Tại Thượng viện, cuộc tranh luận trở nên gay gắt. Tuy nhiên, Marshall vẫn giữ bình tĩnh. Ông không tranh luận hay biện hộ. Ông chỉ đơn giản nêu ra sự thật và để logic của lòng trắc ẩn tự lên tiếng.


“Hoa Kỳ sẽ giúp tái thiết toàn bộ châu Âu.” Không chỉ giúp một nước, không chỉ giúp đồng minh, mà là toàn bộ lục địa chìm trong bóng tối. Ông không hứa cứu trợ nhân đạo đơn thuần mà đề nghị một phương thuốc chữa tận gốc: giúp các quốc gia tự đứng vững. Một phóng viên đã viết “Marshall không nói bằng lửa, mà bằng sự tỉnh thức.” Và chính sự tỉnh thức ấy đã thay đổi thế giới.


Trong vòng bốn năm, kết quả là không thể phủ nhận. Sản lượng công nghiệp của châu Âu đã tăng hơn 35%. Nạn đói giảm, chính phủ ổn định, và những kẻ thù cũ trở thành đồng minh. Kế hoạch này không chỉ tái thiết các thành phố mà còn xây dựng lại niềm tin vào nền dân chủ, vào sự hợp tác, và vào chính nước Mỹ. Như chúng ta thấy Tây Đức và Nhật Bản, phát triển thậm chí ngày nay người Nhật và người Nam Hàn làm cái tượng của tướng McArthur.


Công nghiệp Tây Âu vượt mức trước chiến tranh. Người dân có việc làm trở lại. Nhà cửa được xây mới. Hệ thống dân chủ được củng cố. Các quốc gia kề vai hợp tác thay vì nghi ngờ. Ngay cả những nước từng là đối thủ trong chiến tranh cũng nhận viện trợ. Marshall hiểu rằng: Hòa bình bền vững không thể xây trên lòng thù hận. Chỉ có thể xây trên thịnh vượng chung.


Do đó khi nghe thiên hạ chửi nhau này nọ. Quá dễ vì họ không phải hy sinh nhân mạng, tài chính nên tha hồ hét bú xua la mua đến tên cuối cùng cũng đánh. 


Kế hoạch Marshall trở thành nền tảng cho Cộng đồng Kinh tế châu Âu, rồi Liên minh châu Âu sau này. Kế hoạch Marshall cung cấp 13 tỷ đô la, một con số khổng lồ thời bấy giờ. Nhưng số tiền ấy vẫn chưa phải là điều đặc biệt nhất. Lần đầu tiên trong lịch sử, một cường quốc chiến thắng chọn xây dựng thay vì trừng phạt. Có lẻ ông ta học được bài học thế chiến thứ nhất, khi quân chiến thắng trừng phạt Đức quốc khiến phòng trào Đức quốc Xã lên ngôi và tìm cách trả thù tạo nên thế chiến thứ 2.


Họ gửi lúa mì đến nuôi dân đói, gửi than để sưởi ấm mùa đông, máy móc để dựng lại nhà máy. Gửi vốn để mở lại thương cảng và gửi cả niềm tin rằng tương lai có thể tốt hơn. Một nhà sử học viết: “Kế hoạch Marshall không chỉ mang hàng hóa đến châu Âu. Nó mang lại hy vọng.”


Khi George Marshall nhận giải Nobel Hòa bình năm 1953, ông trở thành người lính chuyên nghiệp đầu tiên làm được điều này. Đứng trước khán giả ở Oslo, ông đã nhận giải thưởng với cùng một sự khiêm nhường lặng lẽ đã định hình cuộc đời ông. "Hòa bình", ông nói, Tôi là một người lính. Tôi hiểu chiến tranh tàn phá thế nào và tôi biết hòa bình đáng giá ra sao.” Ông không nói về chiến thắng, không nói về vinh quang. Ông nói về điều duy nhất khiến chiến thắng có ý nghĩa: khôi phục lại cuộc sống của con người.


Không lâu sau đó, ông từ giã sự nghiệp chính trị. Không giống như nhiều người cùng thời, ông không viết hồi ký, không có bài phát biểu nào để tôn vinh thành tích của mình, và cũng không tìm kiếm chức vụ chính trị nào. Ông chưa bao giờ đấu tranh để được công nhận, mà chỉ đấu tranh vì kết quả. Khi ông qua đời vào năm 1959, không có tượng đài cá nhân hay lời tri ân nào được viết ra. Chỉ có một di sản được khắc trên những con phố được xây dựng lại của châu Âu và sự ổn định của một thế giới mà ông đã góp phần cứu vãn.


George C. Marshall đã dành cả cuộc đời để làm chủ nghệ thuật chỉ huy, nhưng hành động lãnh đạo vĩ đại nhất của ông không đến trong chiến tranh mà là trong hòa bình. Vào thời điểm thế giới sẵn sàng trừng phạt, ông đã chọn tái thiết. Vào thời điểm cơn giận dễ dàng đến, ông đã chọn lòng nhân từ.


Ông đã chứng minh rằng sức mạnh thực sự không phải là sức mạnh hủy diệt, mà là lòng can đảm để khôi phục lại những gì sự hủy diệt đã lấy đi. Một nhà ngoại giao châu Âu từng nói: “Nếu không có Marshall, có lẽ châu Âu vẫn còn chia rẽ, đói nghèo và sợ hãi.”


Khi mình ở Pháp quốc, có viếng vùng Normandie, nơi có mấy nghĩa trang quân đội Hoa Kỳ, đã nằm xuống để “giải phóng” nước pháp. Ngược lại người Pháp rất ghét người Mỹ kêu “les amerloques” này nọ, chửi Hoa Kỳ không thương tiếc. Nếu không có người Mỹ nhảy vào cuộc chiến thì có lẻ ngày nay người Pháp nói tiếng đức. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn

Trận chiến Bến Hét

 Trận chiến Bến Hét


Có lần nói chuyện chuyện với thiếu tá Phong, đại đội trinh sát 302 Đà Lạt, Tuyên đức. Sau này quân số của đại độ gia tăng nên được đôn lên thành tiểu đoàn 204, chiến công cuối cùng là đánh chiếm lại Di Linh nhưng tổn thất rất nhiều, nhờ đó mà dân Đà Lạt mới có đường chạy về Sàigòn. Mình hỏi lý do nào, sau khi ra trường lại đi lực lượng đặc biệt, đóng ở đồn Bến Hét, ở ngã ba biên giới thì anh ta cho biết, hồi đó trẻ, nghe đến Ngã 3 biên giới nên muốn phiêu lưu nên gia nhập LLĐB để được bổ đi những nơi xứ buồn muôn thở. Nhiệm vụ dạo ấy chỉ đi tuần rồi kêu mấy người cam bốt hay Lào bò qua biên giới trồng trọt, nói họ xâm lấn đất đai Việt Nam Cộng Hoà, đuổi họ về nước. Sau Mậu Thân anh ta được điều về Đà Lạt, chỉ huy đại đội trinh sát 302 thì chiến trường ở vùng tam biên mới sôi động. 


Thua trận Mậu Thân nên Việt Cộng muốn đánh lại, đem bộ đội chính quy từ miền bắc vào. Quân đội mỹ có thành lập các đồn quan sát địch quân di chuyển dọc con đường Hochiminh. Hình như có mấy chục căn cứ như vậy từ Quảng Trị vào miền Nam. Căn cứ Bên Hét là quan trọng nhiều nhất vì nằm ngay ngã ba biên giới. Trọng tâm vì Hà Nội chuyển quân và vũ khí từ Cambuchia bằng đường thuỷ đến hải cảng Sihanoukville và đường mòn qua ngõ Hạ Lào.

Không ảnh cho thấy căn cứ được xây dựng theo hình tam giác, có phi đạo để máy bay tiếp tế.

Hồi nhỏ mình nghe người lớn, nhất là chú Ký, bạn thủ túc với ông cụ mình tỏng quân đội, sau này ông cụ mình giả ngủ thì chú vẫn ở trong quân đội. Sau này chú đi tù và ra tù cùng ngày với bố mình. Mỗi lần chú về phép, là ông cụ dãn mình ghé lại nhà chú ở ấp Ánh sáng, thăm hỏi nên cứ nghe mấy trận chú vừa trải qua như Dakto, Đồng Xoài,… 


Người lớn nhắc đến đồn Bến Hét ở Ngã Ba Biên Giới bị tấn công gì đó ở Ngã Ba Biên Giới của xứ Đông-Dương (Việt Nam, Lào và Cam Bốt), với những danh từ Lực Lượng Đặc Biệt, Dân Sự Chiến Đấu nhưng chả hiểu mô tê răn rứa chi cả. Sau này, ra hải ngoại đọc tài liệu của người Mỹ, nhất là vào các nhóm cựu chiến binh Hoa Kỳ, họ hay nhắc đến trận đánh này. Thêm hình ảnh. Mình ghi lại đây những gì đọc được để hiểu thêm về cuộc chiến Việt Nam khi xưa mà mình may mắn không tham dự.


Trận chiến Bến Hét (tiếng Anh: Battle of Ben HetTrại Bến Hét (còn gọi là Trại Biệt kích Bến HétTrại Biệt động quân Bến Hét và Căn cứ hỏa lực Bến Hét) là một trong những trận đánh dữ dội trong Chiến tranh Việt Nam, xảy ra tại trại lực lượng đặc biệt Bến Hét (Ben Het Special Forces Camp), thuộc tỉnh Kon Tum, vùng Tây Nguyên của Việt Nam Cộng Hòa, gần biên giới Lào và Campuchia. Theo mình hiểu những nơi quan trọng, nơi cộng quân xâm nhập miền nam thì quân đội mỹ, xây dựng một trại do lính lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ xây dựng, trấn đóng, có một số người dân tộc thiểu số, được người Mỹ huấn luyện, gọi là dân sự chiến đấu (CIDG) và quân đội Việt Nam Cộng Hoà trấn đóng.

Các lô cốt cho 4 gia đình dân sự chiến đấu ở
Vợ con của dân sự chiến đấu sống trong căn cứ

Người Mỹ còn xây các căn cứ tại Lào, Cam Bốt, để hướng dẫn phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc bắc Việt, sau này biệt động của Hà Nội, leo phía sườn núi và đánh úp căn cứ, mình có kể vụ này rồi. Ai buồn đời thì đọc trên bờ lốc. Trên nguyên tắc là người Mỹ không tham chiến tại Lào và Cam Bốt nhưng trên thực tế thì có do đó vấn đề lính mỹ mất tích tại hai xứ này khá phổ biến nên cù cưa vụ lập lại bang giao khá lâu đẻ người Mỹ đem hài cốt về lại Hoa Kỳ.

Hình này mình lấy trên nhóm cựu chiến binh Hoa Kỳ, họ kể đột nhập vào các căn cứ của Việt Cộng bên Cam Bốt, và dùng cung tên để bắn, không gây tiếng động, rồi rút lui trước khi Việt Cộng biết có họ đến. Theo hình này thì họ cho biết đã hạ sát được 76 Việt Cộng, không tiếng súng.

Ngày nay ai cũng biết là mấy vụ tổng công kích Mậu Thân khiến Việt Cộng thua xiểng niểng, họ ước tính đến 300,000 thiệt mạng và bị thương. Sau đó Hà Nội chuyển chiến thuật, thay vì du kích như xưa, để nhân dân miền nam đứng lên ủng hộ, lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hoà  như người Mỹ nghĩ đem quân vào Bagdag là người dân Iraq sẽ đứng lên đón mừng trao vòng hoa họ này nọ. Mấy cuộc tổng công kích, Việt Cộng đến đâu là dân chạy đến đó. Mình nhớ dân cư vùng Số 4 và Số 6, năm Mậu Thân bỏ chạy vào thành phố hết. Chả ai theo ngoại trừ bị bắt buộc, khi ban đêm họ về đập cửa kêu đi theo nếu không họ giết. Nguy hiểm nhất là mùa hè đỏ lửa, dân chạy giặc từ Quảng Trị trên quốc lộ số 1, bị Việt Cộng pháo kích tơi bời hoa lá. Năm 1975, tương tự, nhà kể là lúc chạy di tản về Phan Rang rồi chạy đi Bình Tuy, Việt Cộng cũng pháo kích, chắc có Việt Cộng nằm vùng đề lô. Có chiếc xe lam bóp còi qua mặt xe ông cụ. Sau đó thì khi xe nhà mình chạy đến thì thấy chiếc xe Lam banh ta lông bởi pháo kích. Xong om


Mình có kể vụ Việt Cộng tiếp viện vào chiến trường miền Nam bằng con đường mòn Hochiminh và từ hải cảng Sihanoukville. Cho thấy Việt Nam Cộng Hoà khi xưa khó mà trấn thủ suốt cả miền Nam từ vùng phi quân sự đến Hà Tiên. Bản đồ này thấy khó mà đứng vững vì Việt Cộng cứ đánh vào bên hông hoài htif sớm muộn cũng sụp khi Hoa Kỳ ngưng viện trợ.


Gần đây, đọc báo chí Trung Cộng thì khám phá ra sau Mậu Thân, có đâu 300,000 quân của Trung Cộng sang Việt Nam, bảo vệ hậu phương để bộ đội bác hồ yên lòng vào nam đánh mỹ cút nguỵ nhào. Mình bắt đầu hiểu lý do người Mỹ đánh cầm chừng không dứt điểm như bắc tiến này nọ. Lý do là ở Triều Tiên, mấy ông ba tàu được Mao Trạch Đông cho qua Triều Tiên đánh mỹ te tua với chiến thuật biển người, đói quá nên cho chết bớt nên người Mỹ ngại không dám bỏ bom, đoán là nơi lính Trung Cộng sửa đường này nọ, sợ ông Mao lại cho lính tàu vượt sông Bến Hải như đã làm trong chiến tranh Triều Tiên. Do đó mà sau này ông Lê Duẫn kêu: “chúng ta đánh cho Nga, cho tàu”.

Xác chiến xa nhẹ của Việt Cộng bị bắn cháy bỏ lại mặt trận Bến Hét.

Chiến tranh du kích không thành công thì chuyển qua đánh trực diện. Thế là bộ đội bác Hồ được chuyển vào Nam rất nhiều qua đường mòn Hồ CHí Minh, mình có kể vụ này, sau khi đọc tài liệu của Hà Nội. Vấn đề là di chuyển quân thì bị lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ thám thính rồi kêu B52 thả bom. Mình có ông chú ruột, nghe kể là bị B52 dập chết trên đường vào Nam. Nay được phong là liệt sĩ.


Hình như mình có kể về một ông gốc Quảng Nam, đi lực lượng đặc biệt, kể cho ông bạn người Mỹ tại Hoa Kỳ về các hoạt động trong thời gian ở Việt Nam. Ông ta kể đi thám thính các kho đạn và có thấy xe thiết giáp của Hà Nội, chuyên chở vào Nam.


Trận Bến Hét được xem là trận đánh đầu tiên của hai bên có xe tăng yểm trợ nên mình tò mò xem ra sao. Việt Cộng tấn công để dập tắt các đại bác 175 ly của lực lượng đặc biệt tại đồn Bến Hét. Chắc có thể bắn qua biên giới nơi Việt Cộng trú quân. Lực lượng đặc biệt đi trinh sát rồi gọi điện báo toạ độ để pháo binh bắn.


Tài liệu của người Mỹ cho biết là lực lượng đặc biệt của họ thành lập căn cứ này vào đầu thập niên 60 của thế kỷ trước. Mục đích là theo dõi quân đội bắc Việt xâm nhập miền nam qua các đường ở Hạ Lào. Năm 1969, có độ 440 dân sự chiến đấu (Civilian Irregular Defense Group (CIDG), những người thượng, 551 binh sĩ của Việt Nam Cộng Hoà, 207 lính pháo binh của mỹ, và 25 cố vấn quân sự Hoa Kỳ. 

Súng đại bác trong căn cứ Bến Hét.

Phòng thủ thì có 3 đại đội pháo binh Việt Nam Cộng Hoà, 2 M42A1 “Duster” self-propelled anti-aircraft guns (với 2 nòng 40mm cannons), and a battery of M107 175mm self-propelled Hotwizer với khả năng bắn xa 20 dặm (36 cây số) và nước Lào. Tin tức tình báo đầu năm 1969, cho biết có sự hiện diện của xe tăng trong vùng. Căn cứ nằm cách Kom Tum 53 cây số và cách biên giới có 13 cấy số nên rất dễ bị tấn công nhất là pháo đội 175 ly. Việt Cộng cần dập tắt mối đe doạ này. Mình có anh bạn gốc Hà Nội, cho biết là thép của mỹ đúc đại pháo rất tốt, ngày nay, nga lấy về tiếp tục sử dụng vì thép của Liên Xô không tốt bằng.


Trận đánh xảy ra vào 3 rạng sáng 4 tháng 3 năm 1969. Đúng hơn là khởi đầu vào 9 giờ tối, Việt Cộng nả đại bác vào căn cứ đến 10 giờ đêm mới ngưng chắc thép liên xô bị nóng quá nên ngừng. Trại Bến Hét cách thị xã Komtum khoảng 24 cây số về phía tây, gần ngã ba biên giới. Vị trí chiến lược án ngữ đường 512 và quốc lộ 14, kiểm soát cửa ngõ vào cao nguyên trung phần của Việt Nam Cộng Hoà .

Phi cơ tiếp liệu đậu trên phi đạo của căn cứ.

Phía Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ:

Lực lượng đặc biệt Mỹ (US Army Special Forces)

Đơn vị pháo binh, thiết giáp M48 Patton

Lực lượng Dân sự chiến đấu (CIDG) – chủ yếu là người dân tộc thiểu số dưới sự huấn luyện của Mỹ. Mình có thấy hình ảnh của họ, hình như sống với vợ con trong trại nên nhiều khi bom đạn bắn vào họ lo cho gia đình nhiều hơn là chiến đấu, bắn trả Việt Cộng. Hình như anh Phong có kể là lực lượng này chán đời thì trốn đi. Để lần sau nói chuyện mình hỏi thêm. Ai biết thì cho mình hay.


Phía Bộ đội Nhân dân Việt Nam:

Chủ lực là Trung đoàn xe tăng 202 cùng bộ binh của Sư đoàn 320

Đây là một trong những lần đầu tiên xe tăng Bắc Việt được sử dụng tại chiến trường Tây Nguyên


Theo tài liệu thì Đêm 3/3/1969, quân Bắc Việt mở trận tấn công quy mô lớn vào trại Bến Hét bằng xe tăng T-54 và PT-76, loại xe tăng nhẹ có đại liên 76 ly, BTR-50PK armored personnel carrier và một  phối hợp với bộ binh. Khởi đầu có độ 10-12 chiến xa, được hổ trợ bới pháo binh. Đây là trận đấu xe tăng hiếm hoi trong chiến tranh Việt Nam. Phía Mỹ phát hiện sớm nhờ thiết bị cảm biến và radar, nên các xe tăng M48 của Mỹ sẵn sàng nghênh chiến. Giao tranh ác liệt xảy ra suốt đêm; pháo binh và không quân Mỹ yểm trợ mạnh mẽ. Sáng hôm sau, nhiều xe tăng Bắc Việt bị bắn cháy, và cuộc tấn công bị đẩy lùi.


Mình đọc đâu đó, lính Việt Nam Cộng Hoà bắn hạ các thiết giáp xa của Việt Cộng nhiều ở An Lộc, khiến mấy ông Liên Xô phải nghiêng cứu làm lại các chiến xa T-54,…nên năm 1975, khó bắn hạ. Mà mấy ông mỹ thì đã hát bài Goodbye Vietnam.


Phản công của Hoa Kỳ/Đồng minh: Các xe tăng Duster của trại, do Trung sĩ Jerry W. Jones và Trung sĩ Nhất Hugh H. Havermale chỉ huy, đã chuyển sang nhiệm vụ chống tăng. Ban đầu, chúng bắn đạn chống tăng nổ mạnh (HEAT), sau đó chuyển sang đạn nổ mạnh (HE) khi đạn cạn. Một kíp lái xe Duster, bao gồm Havermale, đã trúng một quả đạn HE, khiến tài xế và lính nạp đạn thiệt mạng, đồng thời làm bị thương những người khác, nhưng chiếc xe đã nhanh chóng được sửa chữa và bố trí lại.

Xác phi cơ mỹ bị bắn cháy nằm trên phi đạo

Cuộc giao tranh cận chiến diễn ra trong bóng tối và sương mù, với các xe tăng Dusters tấn công ở cự ly dưới 100 mét. Xe tăng của Hà Nội bắn bừa bãi vào trại trong khi các ê kíp lái Hoa Kỳ sử dụng đèn pha và đèn vạch đường để nhắm mục tiêu. Sau khoảng một giờ giao tranh ác liệt, lực lượng bộ đội đã rút lui dưới sự nổ súng của một máy bay chiến đấu AC-47 "Spooky" đang bắn yểm trợ. Mình nhớ năm Mậu thân hay sau Mậu Thân khi Việt Cộng tấn công Đà Lạt, trên vùng Mả Thánh có Việt Cộng núp, có chiếc máy bay này bay trên trời rồi rọi đèn xuống bắn súng nghe rợn người.


Sáng hôm sau, lực lượng Hoa Kỳ rà soát chiến trường, thu hồi xác của hai xe tăng PT-76 và một xe tăng BTR-50PK bị phá hủy, cùng với băng gạc dính máu, mũ bảo hiểm của một tài xế, quần áo bị cháy và một súng phun lửa, bằng chứng về tổn thất của bộ đội Nhân dân Việt Nam, mặc dù không tìm thấy thi thể nào. Thương vong của phe Đồng minh khá nhẹ: một Dân quân Chiến đấu (CIDG) thiệt mạng và bốn người bị thương. Tổn thất của bộ đội Nhân dân Việt Nam ước tính khoảng 15–20 người, bao gồm cả toán lái xe tăng, cùng một số xe bị hư hỏng hoặc bị bỏ lại.

Chiến tranh tàn phá 
Gánh gồng chạy giặc Việt Cộng. Việt Cộng tới đâu dân chạy xa về phía lính mỹ hay Việt Nam Cộng Hoà 


Trận chiến đã chứng minh tính dễ bị tổn thương của thiết giáp hạng nhẹ của bộ đội Nhân dân Việt Nam trước hỏa lực phòng không của Hoa Kỳ được chuyển đổi thành phòng thủ mặt đất và làm nổi bật giá trị chiến lược của trại. Tuy không dẫn đến sự sụp đổ của trại, nhưng Ben Het phải đối mặt với nhiều mối đe dọa khác, bao gồm một cuộc bao vây lớn bắt đầu từ ngày 23 tháng 6 năm 1969, với sự tham gia của 3.000 quân Quân đội Nhân dân Việt Nam và các cuộc không kích B-52 để đáp trả. Trận này chết nhiều. Hôm nào kể lại.


Dù thất bại chiến thuật, trận Bến Hét giúp phía Bắc Việt rút kinh nghiệm cho các chiến dịch sau này, đặc biệt là Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào (1971) và Chiến dịch Tây Nguyên (1975).

Cuộc đụng độ thiết giáp hiếm hoi này đã nhấn mạnh bản chất biến đổi của Chiến tranh Việt Nam, nơi bộ đội Nhân dân Việt Nam chuyển từ chiến thuật du kích sang tấn công quy ước với sự hỗ trợ của Liên Xô. Nó đã nâng cao tinh thần của Hoa Kỳ vào thời điểm khó khăn sau Tết Mậu Thân và ảnh hưởng đến chiến thuật phòng thủ các căn cứ hỏa lực xa xôi. Sự kiện này được ghi nhớ trong lịch sử quân sự Hoa Kỳ như một minh chứng cho khả năng phòng thủ ứng biến trước quân số áp đảo.


Sau này còn nhiều cuộc tấn công của bộ đội bác hồ mãnh liệt hơn. Hình như có bố một chị học Yersin đã tử trận tại đây. Sẽ kể sau.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn