Showing posts with label chiến tranh. Show all posts
Showing posts with label chiến tranh. Show all posts

Căn cứ Lima 85 (LS 85)

Hồi nhỏ, học lịch sử Việt Nam, được biết sau khi Trung Cộng giúp Việt Nam đánh bại quân đội viễn chinh của Pháp tại Điện Biên Phủ. Khi còn ở Pháp, mình được hội cựu chiến binh pháp cho học bổng nên cứ mỗi tháng mình ghé hội quán của họ để lấy tiền và ăn cơm trưa. Lâu lâu gặp và ngồi ăn cơm với ông tướng Bigeard, tướng Salan, bác sĩ Grovin, người bác sĩ tại Điện Biên pHủ. Họ kể về tướng Phạm Văn Phú, cũng tham gia trận đánh này. Mới biết đến vụ tổ chức quân đội bí mật (OAS), đã tìm cách ám sát ông De Gaulle nhưng số ông này chưa chết nên ra lệnh bỏ tù mấy ông thần này. Mình có ngủ lại mấy ngày tại Nimes, nhà ông Pierre, thường được bạn bè gọi “Le crabe tambour”. Được đạo diễn Pháp đưa lên màn bạc, kể về cuộc đời ông này đến khi bị tù vì trung thành với đế chế pháp.

 Khi các cường quốc, họp tại Geneva, đồng ý chia cắt Việt Nam thành hai phần Nam BẮc, biến Nam Việt Nam thành, thành trì chống cộng tại vùng Đông Nam Á, mà người Mỹ đưa ra thuyết Domino. Nếu Việt Nam Cộng Hoà thất bại thì khắp vùng Đông Nam Á sẽ bị nhuộm đỏ. Năm 1975 khi các xe tăng Liên Xô tiến vào dinh Độc Lập thì trái ngược với thuyết DOmino, các nước lân cận ngoài Cam bỐt và Lào, không ai muốn theo cộng sản. Chán Mớ Đời 

Căn cứ Lima 85 tại Lào

Hà Nội thành lập Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, Pathet Lào và Khờ me đỏ để có danh chính ngôn thuận, tiến đánh miền nam. Triều Tiên bị chia làm 2 nhưng bắc Triều Tiên không tấn công miền Nam được vì xung quanh là biển trong khi miền Nam Việt Nam bị bao vây, đối đầu phía bắc là Hà Nội, phía tây là Cam Bốt và Lào. Phía biển thì ít bị xâm nhập.

Trong cuộc chiến Việt Nam, hai nước láng giềng đã là nơi trú ẩn của bộ đội Hà Nội, sử dụng làm căn cứ, chuyển quân và tiếp liệu để tấn công Việt Nam Cộng Hoà. Việt Nam Cộng Hoà có tấn công Cam Bốt và Hạ Lào để cắt đứt đường tiếp tế của quân đội Hà Nội nhưng không thành lý do là hai nước trên có quân đội cộng sản, do Trung Cộng hậu thuẫn, gây nội chiến tại hai xứ này. Từ đó, khi Hoa Kỳ rút quân và ngưng viện trợ cho Việt Nam Cộng Hoà, đưa đến 30/4/75.

 Nhiều thập kỷ trước, vào ngày 12 tháng 3 năm 1968, một căn cứ bí mật của Hoa Kỳ trên một đỉnh núi ở Lào đã bị một lực lượng đặc công của Hà Nội tràn ngập. Chỉ có sáu trong số mười tám nhân viên CIA và Lực lượng Không quân đóng ở tiền đồn hẻo lánh thoát chết trong một cuộc tấn công này, và được giữ bí mật trong ba thập kỷ trước khi dc giải mã theo luật Hoa Kỳ. Các tin tức này được Ngũ Giác Đài công bố sau 30 năm vào năm 1998.

Lực lượng đặc biệt, CIA huấn luyện lính Mường

Lý do là do quân đội Hoa Kỳ bị cấm hoạt động hợp pháp tại Lào. Vương quốc này đã bị tàn phá bởi một cuộc nội chiến giữa những người theo chủ nghĩa bảo hoàng cánh hữu chống lại những người cộng sản Pathet Lào do một người em cùng cha khác mẹ của ông vua Lào, quên tên rồi. Những người cộng sản được Hà Nội hậu thuẫn, đã sử dụng lãnh thổ Lào để bí mật đưa quân vào Nam Việt Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, vào năm 1962, các phe của Washington, Hà Nội và Lào đều đã ký một hiệp ước hòa bình, trong đó các cường quốc nước ngoài đồng ý rút lực lượng của họ khỏi đất nước.


Tuy nhiên, Bắc Việt chỉ rút một số ít lực lượng của mình và Hoa Kỳ tiếp tục chuyển viện trợ quân sự rộng rãi cho phe bảo hoàng và thay vào đó bắt đầu một chiến dịch ném bom bí mật nhưng quy mô lớn vào vương quốc này được gọi là Chiến dịch Barrel Roll. Mặc dù các máy bay chiến đấu có trụ sở tại Nam Việt Nam và Thái Lan đã thực hiện các nhiệm vụ ở Lào, các nhà thầu đánh thuê do CIA điều hành và các 'hãng hàng không' như Air America đã bay các máy bay vận tải và quan sát từ các căn cứ của Lào. Các nhóm biệt kích được CIA huấn luyện, được thả từ các vùng này để xâm nhập vào Bắc Việt Nam, để móc nối và phá hoại. Đọc tài liệu của Mỹ về Lào khá đặc biệt. Mới hiểu rõ thêm về chiến tranh Việt Nam. Tại sao lại Khe Sanh năm 1968, được xem la một Điện Biên Phủ của Hoa Kỳ nhưng cuối cùng Việt Cộng rút lui.

Không ảnh căn cứ Lima 85 tại Lào

Nhân viên CIA cũng tuyển dụng người Hmong, do ông tướng Vang Pao lãnh đạo. Một dân tộc thiểu số hiện diện ở một số quốc gia Đông Nam Á, để chiến đấu trong một cuộc chiến tranh du kích chống lại Pathet Lào. Với mục đích này, nhân viên CIA lần đầu tiên thành lập một căn cứ trên đỉnh vách đá dựng đứng của núi Phou Pha Thi, một nơi linh thiêng trong tín ngưỡng vật linh của người Hmong, tình cờ nằm ​​ở vị trí chiến lược gần biên giới với Bắc Việt Nam.


Căn cứ này là một trong nhiều 'căn cứ Lima' ở Lào nhằm tạo điều kiện tiếp tế trên không cho các lực lượng đồng minh của Hoa Kỳ. Cơ sở chính nằm trên đỉnh núi cao 5.600 bộ anh, được bao quanh bởi những vách đá dựng đứng; Một con đường uốn lượn xuống dốc dẫn đến một đường băng ngắn dài 700 mét ở chân núi được sử dụng để tiếp tế và luân chuyển nhân viên, được trực thăng CH-3 thuộc phi đội trực thăng số 20 của Lực lượng Không quân Hoa Kỳ thực hiện các chuyến bay hàng tuần bí mật.


Vào mùa hè năm 1966, Lực lượng Không quân Hoa Kỳ đã quyết định điều chỉnh căn cứ này với mục đích mới—để phục vụ như một hệ thống dẫn đường bằng radar, hay Tactical Air Navigation System (TACAN,) bằng cách lắp đặt một máy phát điện và đầu tiên là một bộ tiếp sóng. Trong thời đại có trước GPS, các địa điểm TACAN đã giúp máy bay chiến đấu tìm thấy mục tiêu của chúng, đặc biệt là khi bay trong điều kiện tầm nhìn hạn chế hoặc vào ban đêm. (Hệ thống định vị vô tuyến đầu tiên, được gọi là Knickebein, được phát triển bởi Đức Quốc xã, để cho phép ném bom ban đêm chính xác hơn vào nước Anh.) Năm 1967, hệ thống này được nâng cấp thêm thành ăng-ten TSQ-81 và hệ thống ném bom từ xa cho phép căn cứ điều khiển từ xa. kiểm soát máy bay ném bom của Mỹ. Đà Lạt khi xưa, có hai trạm; trên Núi Bà và gần Đơn Dương.


Hà Nội chỉ cách Lima 85, 135 dặm về phía đông bắc, vì vậy căn cứ bí mật có thể định hướng tọa độ rất chính xác cho máy bay Mỹ oanh tạc thủ đô Bắc Việt. Bởi vì những cuộc tấn công đó có thể liên quan đến bất cứ thứ gì, từ máy bay ném bom chiến đấu F-105 đến hàng chục máy bay ném bom B-52 khổng lồ, điều này khiến căn cứ trở thành một hệ số nhân lực rất quan trọng. Chỉ trong sáu tháng, căn cứ Lima 85 đã chỉ đạo từ 25 đến 55 phần trăm các cuộc không kích nhằm vào các mục tiêu Bắc Việt Nam và Lào.


Hoàng tử Lào Souvanna từ chối tiếp nhận nhân viên quân sự Hoa Kỳ tại Lào, các nhân viên Lực lượng Không quân Hoa Kỳ được gửi đến tới Lima 85 đã phải ký giấy tạm thời giải ngũ họ khỏi quân đội Hoa Kỳ trước khi được trực thăng vận tới Lima, một bản kịch khôi hài được gọi là 'nhúng cừu'. được cho là không có vũ khí, mặc dù cuối cùng họ đã mua được một số vũ khí nhỏ. Thay vào đó, an ninh của căn cứ được cho là sẽ được bảo vệ bởi một tiểu đoàn của quân Hmong - do các nhân viên CIA cố vấn - và các cảnh sát Tuần tra Biên giới Thái Lan được bố trí xung quanh chân núi.

Thống kê các cuộc hành quân từ căn cứ Lima 85

Tuy nhiên, căn cứ Lima 85 có thể đã được dấu kín để dân chúng Hoa Kỳ không biết đến, nhưng sự hiện diện và mục đích của nó không phải là bí mật đối với Pathet Lào và quân Bắc Việt (NVA). Các trinh sát đã thăm dò hệ thống phòng thủ của căn cứ vào tháng 12 năm 1967, và vào ngày 12 tháng 1 năm 1968, một chuyến bay gồm bốn vận tải cơ hai tầng cánh An-2 đã tấn công Lima 85 bằng tên lửa 57mm dưới cánh và đạn súng cối 120mm rơi ra từ cửa hông, giết chết bốn người Hmong. Một máy bay trực thăng UH-1 của Air America đã phải tranh giành để đánh chặn các phương tiện vận tải chạy chậm và bắn hạ một trong các phương tiện vận tải bằng cách sử dụng AK-47 bắn ra bên hông — một trong số rất ít vụ tiêu diệt trực thăng trên máy bay được ghi nhận. Một chiếc An-2 khác bị rơi do hỏa lực mặt đất hoặc do cơ động tránh né không thành công.

Bức ảnh họa lại trận đánh khi trực thăng Mỹ bắn máy bay AN-2 của Bắc việt.

Căn cứ sau đó bị trúng đạn súng cối vào ngày 30 tháng 1, sau đó vào ngày 18 tháng 2, lực lượng người Mường, Hmong đã phục kích và giết chết một đội quan sát viên pháo binh của quân đội Bắc Việt gần ngọn núi và phục hồi kế hoạch phối hợp bắn phá. Các nhà lãnh đạo quân đội Mỹ biết rằng căn cứ bị cô lập đang bị bao vây bởi lực lượng kẻ thù mạnh hơn và có khả năng bị tấn công, nhưng sự hỗ trợ TACAN của căn cứ được coi là có giá trị đến mức đại sứ William Sullivan chống lại việc di tản khỏi căn cứ. Không thể phát huy hệ thống phòng thủ quan trọng, thay vào đó, các kỹ thuật viên của căn cứ bắt đầu thực hiện hàng trăm cuộc không kích nhắm vào các lực lượng cộng sản gần đó để bảo vệ vị trí của họ.


Các đặc công của Bắc Việt Nam từ tiểu đoàn 41 Lực lượng Đặc biệt đã leo qua các vách đá ở phía bắc của Phou Pha Thi mà không bị phát hiện vào ngày 22 tháng 1 và thiết lập lại các tuyến đường xâm nhập khả thi nhất. Đầu tháng 3 năm đó, một trung đội ba mươi ba người dưới sự chỉ huy của Trung úy Trương Mục tập trung gần núi, nơi họ được tăng cường bởi một đội đặc công chín người. Các biệt kích Việt Cộng được trang bị súng AK-47, súng carbine SKS, thuốc nổ, lựu đạn cầm tay và ba súng phóng lựu phóng tên lửa.


Vào lúc 6 giờ tối ngày 11 tháng 3, một trận pháo kích xuống chỗ ẩn nấp cho những người mở đường của Trương Mục rà phá mìn và bảo đảm các con đường xâm nhập vào Lima 85. Vài giờ sau, quân chính quy của Trung đoàn 766 Cộng quân và một tiểu đoàn Pathet Lào mở cuộc tấn công chốt giữ, hạ quân Hmong ở thung lũng quanh núi. Cuối cùng vào khoảng 9 giờ tối, người của Trương Mục bắt đầu mở rộng vách đá, những người điều hành chia thành năm “ô” để phát động một cuộc tấn công nhiều hướng. Ô Một và hai sẽ tập trung vào sở chỉ huy, ô ba và bốn sẽ lần lượt thu giữ thiết bị TACAN và đường băng, còn ô thứ năm sẽ ở lại dự bị.


Nhân viên căn cứ báo cáo về trận pháo kích, nhưng Đại sứ Sullivan quyết định không ra lệnh di tản trừ khi cuộc tấn công tỏ ra áp đảo. Đến 8 giờ sáng hôm sau, ông ta mới điều động trực thăng và không quân yểm trợ để giúp các nhân viên trốn thoát.


Điều này đã quá muộn. Những kẻ xâm nhập của Trương Mục đã vào vị trí lúc 3 giờ sáng hôm đó và đánh sập các chốt canh gác của người Hmong cũng như máy phát điện và radar TSQ-81 của căn cứ bằng cách sử dụng lựu đạn phóng tên lửa. Khi chỉ huy căn cứ, Thiếu tá Clarence Barton và một số kỹ thuật viên của Lực lượng Không quân chạy ra ngoài để đánh giá tình hình, họ đã bị lính biệt kích bắn hạ. Đến 4 giờ sáng, ba ô đầu tiên đã chiếm được tất cả các mục tiêu của chúng. Một số bị bắt ném xuống vực theo lệnh của Trương Mục. Chỉ có ô 4 buộc phải rút khỏi mục tiêu, không thể đánh bật lực lượng Hmong vượt trội gồm hai trung đội bộ binh và một đội súng cối được bố trí xung quanh đường băng.


Các nhân viên Hoa Kỳ sống sót đã chạy trốn đến một mỏm đá ở một bên vách đá, nơi họ bị mắc kẹt khi lựu đạn và hỏa lực vũ khí nhỏ trút xuống họ. Bắn trả bằng súng trường, họ cố gắng thực hiện một cuộc không kích gần như trên vị trí của họ.

Khu trực cơ Skyraiders mà mình từng thấy dội bom Napalm trên Số 4 trong cuộc chiến Mậu Thân tại Đà Lạt.

Cuối cùng vào lúc bình minh, các máy bay trực thăng của Air America được bao phủ bởi các khu trục cơ cường kích A-1 Skyraider đã sà xuống núi. Quân đội Hmong, dẫn đầu bởi hai đặc vụ CIA và được hỗ trợ bởi Skyraiders, đã tham gia vào một cuộc đọ súng ác liệt khi họ cố gắng đánh bật các biệt kích quân Bắc Việt khỏi địa điểm TACAN. Mặc dù trung đội Bắc Việt Nam đã giữ vững vị trí của mình, nhưng sau cuộc hỗn chiến, có 5 kỹ thuật viên Không quân sống sót và 2 điệp viên CIA.


Ông Richard Etchberger, một trong những phi công bị mắc kẹt trên vách đá, đã từ chối lên trực thăng cấp cứu cho đến khi Ông ta đưa ba đồng đội bị thương của mình lên dây đai cấp cứu của trực thăng. Khi ông ta được đưa đi, đã bị trọng thương và qua đời sau đó. Các lực lượng cộng sản sẽ giữ quyền kiểm soát núi Phou Pha Thai và sau đó đẩy lùi một cuộc tấn công của người Hmong để chiếm lại nó.


Cuộc tấn công của Hà Nội vào Lima 85 đã làm suy yếu đáng kể chiến dịch không quân của Hoa Kỳ trên Bắc Việt Nam và Lào. Theo lời kể của Việt Cộng, họ chỉ mất một biệt kích và giết chết ít nhất 42 quân Thái và Hmong cũng như hàng chục phi công Hoa Kỳ. Những người đóng ở căn cứ này là kỹ thuật viên, chơ máy bay đâu mà bay. Tuy nhiên, vị chỉ huy Trương Mục bị cấp trên khiển trách thay vì tuyên dương một anh hùng; cấp trên của ông ta tức giận vì ông ta đã phá hủy thiết bị TACAN có giá trị và giết các kỹ thuật viên, quăng xuống núi thay vì bắt họ. Dễ sợ, bắn chết rồi vẫn chưa xong, phải quăng xuống núi để thú rừng găn thịt họ. Kinh Chắc Liên Xô đưa ý định này để xem xét kỹ thuật của mỹ sáng chế.


Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội đều giữ bí mật về cuộc chiến của họ ở Lào. Bắc Việt Nam cần duy trì và đảm bảo tuyến đường mòn Hồ Chí Minh qua Lào, trong khi quân đội Hoa Kỳ buộc phải cố gắng ngăn chặn họ ở đó. Việc cả hai vi phạm một hiệp ước mà họ đã ký kết chỉ là một điều gì đó cần phải che giấu trước công chúng.


Ông Etchberger được đề cử Huân chương Danh dự sau khi qua đời, nhưng yêu cầu này đã bị Lực lượng Không quân từ chối do nhu cầu duy trì bí mật cuộc chiến trên không của Hoa Kỳ ở Lào, cuộc chiến sẽ thực sự leo thang dưới thời chính quyền Nixon và được tiết lộ với việc phát hành Hồ sơ NGủ Giác Đài sau 30 năm. Hoa Kỳ thả hàng tấn bom cho mỗi người sống ở Lào, trì hoãn nhưng không ngăn chặn được chiến thắng cuối cùng của cộng sản vào năm 1975.

Thượng sĩ Etchberger từ chối di tản trước hạ cấp của ông và bộ bắn tử thương, nhận được huy chương Danh Dự  trễ sau 33 năm.

Mãi 30 năm sau, Hoa Kỳ mới chính thức thừa nhận trận chiến tại căn cứ bí mật. Etchberger cuối cùng đã được trao Huân chương Danh dự trong một buổi lễ vào ngày 1 tháng 9 năm 2010. Trước đó vào những năm 2000, các cựu chiến binh Việt Nam trong trận chiến đã giúp các quân nhân Hoa Kỳ xác định vị trí hài cốt của các người Mỹ đã bị ném xuống vách đá, và sau đó của Thiếu tá Barton nữa.


Mình nhớ có lần đài radar trên Núi Bà bị Việt Cộng đánh nhưng không thành công, có lẻ họ bắt chước trận này. Đà Lạt có hai đài radar của mỹ; 1 trên Núi Bà, và 1 ở Lạc Dương.ai có tin tức về hai đài này không. Cảm ơn


Lâu lâu thiên hạ gửi mình tài liệu về chiến tranh Việt Nam, giúp mình hiểu chút gì ngày xưa, để hiểu lý do Việt Nam Cộng Hoà thua.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 







Tại sao phải cười khi về già

 

Sáng nay đến phiên mình được chỉ định đọc diễn văn 5-7 phút tại buổi họp Toastmaster. Thường mỗi lần họp, các hội viên thay phiên nhau làm toastmaster, điều khiển buổi họp, đưa ra một đề tài cho buổi họp và một table topic master, sẽ chuẩn bị đặt câu hỏi các hội viên dựa theo đề tài của buổi họp. Các hội viên phải trả lời trong vòng 2 phút. Ngoài ra, trong khi trả lời, các hội viên phải sử dụng một từ đặc biệt, được lựa chọn cho buổi họp nếu quên sử dụng sẽ bị loại. Hôm nay từ phải được dùng khi nói chuyện là “anamesis”. Ai nói quá 2 phút sẽ bị loại. Tập nói theo kiểu này thì lâu ngày mình quen, chỉ nói ngắn gọn, không lập lại. Mình có rủ đồng chí gái đi theo để tập nói ngắn gọn, không càm ràm tra tấn mình, chỉ nói một lần vừa đủ nghe nhưng cô nàng từ chối. 


Tương tự các diễn giả chỉ được nói từ 5 đến 7 phút tối đa. Buổi họp thường có hai người được chỉ định đọc diễn văn về đề tài tuỳ mình chọn. Để tập nói chuyện trước công chúng thay vì lóng cóng cà lăm khi được hỏi đến.


Mình chọn đề tài chuyến du hành đầu tiên sang Hoa Kỳ. Có người được chỉ định bình luận mình. Mình phải gửi đề tài mình nói cho người được chỉ định bình luận bài diễn văn của mình. Báo cho họ biết, mình cố gắng tập cách diễn đạt ra sao. Mình cho họ biết muốn chú ý đến cách diễn đạt với tay, ánh mắt và nhất là vui vẻ cho hợp với đề tài. Muốn bình luận, hội viên cũng phải học cách bình luận trong 3 phút phải đưa ra nhận xét, xem diễn giã có đạt mục đích của họ đưa ra,…và cuối cùng thì thêm ý kiến giúp diễn giã cố gắng học tập, sửa đổi thêm lần tới. Nếu họ nói quá 3 phút thì cũng bị loại. Cuối cùng mình được bầu bởi các hội viên là diễn giã hay nhất trong ngày. Chỉ có hai người mỗi buổi họp nên 50% là thắng nên chả có gì đáng kể.

Nếu thắng thì để dành để xem mỗi năm nhận được bao nhiêu cái như bảng danh dự khi xưa luôn tiện cho đồng chí gái biết là khác với tư duy cô nàng, mình biết nói trước công chúng. Vợ mình cứ chê mình là không biết ăn nói nên phải đi học nói. Ăn thì dạo này mình mình ăn một bữa một ngày nên chả càn học ăn nữa. Hôm qua đi soi ruột, không có thịt dư trong ruột như mấy lần tước nên bác sĩ kêu 10 năm nữa khám lại. Nhờ ăn uống đàng hoàng nên pulips không mọc bậy bạ trong ruột già vì nếu có để lâu ngày sẽ lớn to và chận phân thải. Chết
Ngoài bình luận viên đã được chỉ định, các hội viên có bổn phận phê bình, giúp ý kiến để diễn giã phát huy hay để ý khi nói chuyện cho lần tới. Khi bình luận, mình để ý đến cách người ta nói, sai chỗ nào để tự học hỏi luôn. Khác với dư luận viên người Việt, kêu nói như kít. Chấm hết, không đưa thêm cụ thể để người ta biết sai lầm của mình để sửa đổi.

Đề tài hôm nay là “tại sao phải cười”. Họ đưa ra những giải thích khiến mình nhớ đến hôm trước đi ăn tiệm với vợ chồng anh bạn. Anh ta kêu khi bác cười thấy hay ra phết. Mà đúng thật, mặt mình lúc nào cũng đăm đăm như hải quan phi trường Tân sân nhất. Bạn bè thân hay kêu mình cười lên, hay hỏi bị mất sổ gạo. Mình thích hóng chuyện thiên hạ để ghi nhận họ nói gì nên cái mặt lúc nào cũng đăm chiêu. Chán Mớ Đời 


Toastmaster đưa ra các nghiên cứu về hậu quả của cười như sau:


1. Tạo không khí cởi mở. Anh bạn kêu tôi vào vườn bác mà cứ thấy bác ngầu ngầu ra sao, nay thấy bác cười mừng quá. Khi chụp hình, đồng chí gái hay nhắc tuồng, bảo cười cười. Chán Mớ Đời 


Mỉm cười có thể cải thiện tâm trạng của chúng ta khi cảm thấy chán nản và có thể giúp cho những người đang phải vật lộn với chứng lo âu và trầm cảm. Một nghiên cứu năm 2010 của cơ quan y tế quốc gia Hoa Kỳ, cho thấy việc tự mỉm cười khi cảm thấy buồn sẽ giúp cải thiện tâm trạng và gia tăng những suy nghĩ tích cực. Vì vậy, nếu chúng ta đang có một ngày Chán Mớ Đời, dù sao thì hãy cố gắng mỉm cười, điều đó có thể dẫn đến một nụ cười chân thật và nâng cao tinh thần của chúng ta trong ngày.


2. Hạ huyết áp

Cười và cười nhiều hơn có thể giúp giảm huyết áp, đây là tin tốt cho sức khỏe tim mạch của chúng ta. Một nghiên cứu năm 2009 giải thích rằng tiếng cười ban đầu làm tăng nhịp tim, sau đó là giai đoạn thư giãn cơ bắp và giảm nhịp tim và huyết áp, giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim. Lần sau đi khám bác sĩ, vào phòng khám phải cười hoài để khi đo áp huyết sẽ giảm nếu không bác sĩ bắt uống thuốc cả đời. Hay nhìn ảnh của em sẽ giúp các bác vui vẻ lại

Hình em thời còn độc thân vui tính khi xưa tại Đà Lạt 

3. Giảm căng thẳng

Khi chúng ta cười thường xuyên hơn, cho dù chúng ta có cảm thấy hạnh phúc hay không, sẽ giúp cơ thể bạn đối phó với các tình huống căng thẳng hiệu quả hơn? Một nghiên cứu năm 2015 được công bố trên tạp chí Khoa học Tâm lý cho thấy rằng nụ cười có thể làm giảm nhịp tim trong các nhiệm vụ căng thẳng. Căng thẳng thường làm tăng nhịp tim và huyết áp. Vì vậy, duy trì nụ cười khi căng thẳng mang lại cho bạn những lợi ích về sức khỏe cả về tâm lý và thể chất.


4. Giúp mối quan hệ tốt đẹp hơn

Chúng ta thường bị thu hút bởi những người cười nhiều không? người Mỹ khi ra hải ngoại là người ta biết liền. Lý do họ hay cười vì đa số có hàm răng rất đẹp, trắng nên họ hay cười duyên dáng. Gene của gia đình mình là cái hàm nhỏ nên răng anh em hay mọc xiên như hàng rào ấp chiến lược. Đến đời con mình ở Hoa Kỳ, mới 12, 13 tuổi, nha sĩ đã khám phá ra vấn đề này nên nhổ bớt một cái để răng lớn dần ra, có không gian lớn dần. Thêm họ niềng răng từ tuổi dậy thì nên con gái mình thay vì có răng như bố hay mấy cô của nó, đều trắng như người Mỹ. Chỉ tội là phải trả tiền.


Theo một nghiên cứu năm 2014, những người hay cười được cho là đáng yêu hơn những người không cười như mình. Đồng chí gái hay cười nên được bạn bè ưa thích còn mình thì khiến họ Chán Mớ Đời. Trở nên dễ mến giúp bạn dễ dàng xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt hơn với mọi người, điều này rất quan trọng đối với sức khỏe và hạnh phúc tổng thể của bạn. Một nghiên cứu năm 2010 cho thấy những người có cảm xúc tích cực có hôn nhân ổn định hơn và kỹ năng giao tiếp giữa các cá nhân tốt hơn những người có cảm xúc tiêu cực. Vì vậy, hãy luôn nở nụ cười trên môi để giúp tạo ra các mối quan hệ xã hội bền chặt và lành mạnh hơn. Em hay kể chuyện tếu lâm cho vợ nghe nên vui vẻ cả làng.


5. Chức năng miễn dịch mạnh hơn

Dù chúng ta có tin hay không thì tiếng cười (thường bắt đầu bằng một nụ cười) dường như giúp tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể bạn. Mayo Clinic báo cáo rằng tiếng cười và những suy nghĩ tích cực giải thoát các phân tử tín hiệu trong não chống lại căng thẳng và bệnh tật, trong khi những suy nghĩ tiêu cực làm giảm khả năng miễn dịch của cơ thể bạn. Một nghiên cứu năm 2015 cho thấy liệu pháp cười làm tăng phản ứng miễn dịch ở phụ nữ mới sinh con. Vì vậy, có lẽ tiếng cười thực sự là liều thuốc tốt nhất.


6. Giảm đau

Giảm đau có thể là điều cuối cùng chúng ta liên tưởng đến với nụ cười và tiếng cười, nhưng thực sự, có những liên kết. Mayo Clinic báo cáo rằng tiếng cười khiến cơ thể bạn tiết ra thuốc giảm đau tự nhiên. Và một nghiên cứu năm 2012 cho thấy tiếng cười xã giao làm tăng ngưỡng chịu đau của bạn, tạo ra khả năng chịu đau cao hơn. Vì vậy, nếu ai đang bị đau do chấn thương, bệnh tật hoặc bệnh mãn tính, hãy xem một bộ phim hài hước, tham gia một chương trình hài kịch hoặc đi chơi với bạn bè và gia đình, những người khiến bạn mỉm cười.

Đồng chí gái có người anh họ làm bác sĩ, khi đỡ đẻ, anh ta khỏ khỏ cây viết xuống giường kêu cu cu ra đi khiến bà bệnh nhân đang rặng đau đẻ phì cười, đẻ cái rộp.


7. Sống lâu hơn

Hóa ra suối nguồn tươi trẻ có thể ở ngay dưới mũi bạn. Một nghiên cứu năm 2010 cho thấy nụ cười và những cảm xúc tích cực có liên quan đến việc tăng tuổi thọ. Nói về một lý do để mỉm cười! Một nghiên cứu của đại học Harvard từ 80 năm nay cho biết các người sống lâu nhờ có bạn bè, người thân bên cạnh. Về già, nếu chúng ta chỉ sống có một mình, không ai thăm hỏi sẽ khó sống lâu. Cuối đời người, chúng ta biết tiền bạc không nghĩa lý gì nhiều so với tình bạn, tình vợ chồng, con cái xum họp.


Hôm qua cả đại gia đình, ra tiệm ăn tổ chức sinh Nhật của đồng chí gái, anh em, con cháu mấy chục mạng kéo nhau lại ăn mừng. Về già mà có cháu, con của anh chị em thăm viếng là một may mắn hạnh phúc đời người.


Mỉm cười và tiếng cười có lợi cho tâm trí, cơ thể và sức khỏe tổng thể của bạn. Ngay cả khi bạn cảm thấy buồn, hãy nở một nụ cười và gặt hái vô số lợi ích sức khỏe từ việc mỉm cười.


Lâu lâu mình hay xem mấy chương trình hài của Mỹ, tây để cười còn Việt Nam thì có 2 ông thần nào trên San Jose, qua chương trình đọc báo vẹm, rất tếu.


Mấy bác buồn đời thì vào bờ lốc muctimsonden.com mà đọc để cười cho vui nhà vui cửa. Có người báo cho em biết là mỗi lần đọc bờ lốc của em là phải uống 3 ly nước sau đó thì đi tè mệt nghỉ. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Khi tôi chết đừng đưa tôi ra biển


Sáng nay, đang làm việc bổng nhận được nhắn tin của anh bạn, kèm theo bài hát “khi tôi chết đừng đưa tôi ra biển”. Mình đoán ai phổ nhạc thơ của ông Du Tử Lê nên mở nghe. Ai ngờ lời khác với bài thơ của ông Du Tử Lê nên lò dò đọc lại thì khám phá ra bài thơ của ông Du Tử Lê, mang tên “khi tôi chết mang tôi ra biển”, trong khi bài thơ này mang tên “khi tôi chết đừng mang tôi ra biển“ ngược ý với ông Du tử Lê. Mình hỏi anh bạn thì được biết tác giả bài thơ là cựu trung tá Thuỷ Quân Chiến, tên Nguyễn Văn Phán, gốc Huế, được xem như một trong những tiểu đoàn trưởng ưu tú nhất của binh chủng Thuỷ Quân Lục Chiến.


Mình đối chiếu với bài thơ của ông Phán để xem có sự khác biệt gì không. Hai ông đều là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Mò mò kiếm thêm tin tức thì một ông sát gái, còn ông kia thì sát cộng như Trâu Điên. Kinh


Nghe kể trận đánh chiếm lại Huế trong trận đánh tổng công kích Mậu Thân của Thuỷ Quân Lục Chiến mà thất kinh. Theo tài liệu mình đọc thì Mậu thân, Hà Nội bị mất đâu trên 300 ngàn quân, vừa bị thương vừa chết trận. Ông Võ Nguyên Giáp kể rất cảm động, được lệnh trên bắt phải chiếm thành Quảng Trị cho bằng được. Mỗi đêm có đến 100 bộ đội bơi thuyền qua sông Thạch Hãn bị giết. Ai chết cũng là người Việt cả. Hồi đó ông Kỳ kêu BẮc tiến, nếu đánh có thể chận được sự xâm nhập qua đường mòn Hồ Chí Minh sau này. Nói cho ngay cũng khó vì miền nam chết cũng như bị hao lực lượng phải đôn quân. Lịch sử đã sang trang.


Hoa Kỳ cũng sợ buồn buồn Mao Trạch Đông gửi sang 1 triệu lính tàu đói như binh lính của tướng Lữ Hán khi xưa, để đánh như ở xứ Triều Tiên khi xưa. Nên không dám đánh mạnh, chỉ đánh cầm chừng rồi khi ký kết được bán Coca Cola cho người Tàu uống thì bỏ Việt Nam.


Thủy Quân Lục Chiến là một trong 4 lực lượng tổng trừ bị cơ động thiện chiến nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Gồm có Nhảy Dù, Biệt động Quân, Thuỷ Quân Lục Chiến và Liên Đoàn Biệt Cách Nhảy DÙ. Nhiệm vụ chính của lực lượng cơ động Hành Quân Thủy Bộ, kiểm soát vùng biển và sông ngòi Miền Nam, với địa bàn chiến đấu khắp bốn vùng chiến thuật và mặt trận ngoại biên. 

Đây là đơn vị được tổ chức, chiến đấu và huấn luyện rập khuôn theo Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (USMC), được nhận xét như là đơn vị thiện chiến dày dặn kinh nghiệm nhất trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa có nguồn gốc từ thời kỳ Pháp. Năm 1949, theo Thỏa ước Pháp-Việt, lực lượng vũ trang của Chính Phủ Quốc gia Việt Nam sẽ bao gồm lực lượng Hải Quân, với tổ chức và huấn luyện do phía hải quân Pháp đảm nhiệm.Năm 1951,Pháp đề nghị phương án phát triển Hải Quân Việt Nam, theo đó sẽ thành lập hai Sư Đoàn Hải Quân, do Pháp chỉ huy.Tháng 3 năm 1952, Sắc Lệnh số 2 của Đế chế Pháp chính thức xác lập Hải Quân Việt Nam. Tới năm sau, hai sư đoàn hải quân được thiết lập. (Trích Mũ Xanh Trần Văn Hiển, Cựu Trung Tá Trưởng Phòng 3/SÐ/TQLC)


Xóm mình có anh Ngữ, con trai đầu của ông bà Ấm Thảo đi Thuỷ Quân Lục Chiến, đánh trận Thạch Hãn bị thương hư con mắt được giải ngủ. Mình nhớ anh này đi hướng đạo Lâm Viên. Hồi nhỏ thấy anh đem cả đoàn hướng đạo để làm cái cầu gỗ băng qua suối cho xóm Địa Dư. Lúc anh ta được giải ngủ có xuống nhà mình chơi, kể chuyện đánh giặc. Kinh sau đó về Sàigòn và từ đó không gặp lại.


Một anh hàng xóm khác, đi biệt kích nhảy toán, rồi sau được chuyển qua Biệt Cách Dù, đánh giải vây An Lộc, khi Việt Cộng bao vây tướng Lê Văn Hưng và lính của ông ta. Ở cải tạo mấy năm, nay ở Hoa Kỳ.


Có một tên khác, xin dấu tên, vì còn sống hay chơi bắn bi, thả diều với mình khi xưa, đi Biệt động Quân rồi đào ngủ trốn ở nhà luôn. Có anh chàng kia hơn mình 2 tuổi, cựu học sinh Văn Học, rớt tú tài đi lính chết ở Cai LẬy, có anh Thống gần xóm, thủ khoa trường Võ Bị cũng chết sớm. Mình thấy mấy người quen trong xóm chết nên tìm cách đi Tây cho xong. 


Mình mò trên mạng thấy có bài ông trung tá Phán kể vụ đánh chiếm lại cố đô Huế trong dịp Mậu Thân, xin phép tải về đây cho ai chưa biết đọc. Đọc thấy tội ghê, lính Việt Nam Cộng Hoà chết để tái chiếm Huế, ông Phán kể gặp lại thầy, gặp lại mạ ông ta đủ thấy thương chị. Mình nghe kể ông chồng của Mụ Rớt bán bún bò bị Việt Cộng giết trong vụ này. Bài thơ của trung tá Nguyễn Văn Phán “khi tôi chết đừng đưa tôi ra biển”. 


Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển

Đưa tôi về Lao Bảo, Khe Sanh
Để đêm nghe vang dội khúc quân hành
Ôi! Lính chiến một thời kiêu hãnh quá.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Ben Het, Dakto
Nơi bạn bè tôi, xây mộng sông hồ
Nguyện trấn giữ dãy Trường Sơn yêu quý.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Bình Giả, Chiến Khu D
Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề
Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi
Đêm U Minh, nghe tiếng thét vang trời
Mừng chiến thắng để dâng về tổ quốc.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Trả tôi về với dân tộc Việt Nam
Gói thân tôi ba sọc đỏ nền vàng
Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.

TQLC Trung Tá Nguyễn Văn Phán
 mất.


Hình do phóng viên ngoại quốc chụp tại Huế, ngay sau khi quân VNCH chiếm lại được Thành Nội: Đại Úy Nguyễn Văn Phán, ĐĐT/ĐĐ3/TĐ1/TQLC cùng 1 tù binh VC bị bắt sống. Tù binh này chỉ là một thiếu niên bị VC đẩy vào chỗ chết


Từ Cai Lậy về thủ đô Sài Gòn, nhập ngay vào đánh giải tỏa trại Cổ Loa của Thiết Giáp và Xóm Mới Gia Ðịnh xong xuôi, Quái Ðiểu Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến về nằm dọc đường Ngô Tùng Châu, Gia Định.

Mười hai giờ khuya họp Tiểu Đoàn, 2 giờ sáng có mặt tại Tân Sơn Nhất, 4 giờ sáng lên máy bay đi, đi đâu không biết.

Ðồ khô và tái trang bị không lãnh kịp. Cứ lên phi trường rồi hay. Ðó đây những loạt pháo kích, những loạt đại liên rời rạc, những đốm hỏa châu lũng lẳng trên bầu trời.

Tôi để lại đằng sau một Sài Gòn mang nặng bộ mặt chiến tranh. Những chiếc máy bay C.13O khổng lồ nuốt gọn 8OO Quái Ðiểu và đưa chúng tôi lên cao trong đêm tối mịt mùng.

– Ði đâu bây?

– Nha Trang, tao nghe Nha Trang đang có đánh nặng.

Lượm, Ðại Đội Trưởng Ðại Đội 1, dân Nha Trang, trả lời. Tôn, Ðại Đội Trưởng Ðại Đội 2 là dân Ðà Lạt, cãi:

– Ðà Lạt.

Phán Phu Nhơn nói:

– Ði đâu cũng được, đổi vùng là khoái rồi.

(Khi vào quân trường, Phán trình diện: Tui chánh quán làng Phú Nhơn, ở gần hồ Tịnh Tâm, quận Thành Nội, Huế. Thế là sau đấy, giữa lửa đạn và thịt đổ xương rơi, qua tiếng thét trong máy truyền tin, cái tên ngụy trang “Phu Nhơn” ra đời, nghe thật lạ tai!)

– Máy bay chi bay mãi ri bây?

Thời tiết thật xấu, và rồi bánh phi cơ cũng chạm đất, những cặp mắt đổ dồn ra khung cửa sổ máy bay. Phú Bài!

Cơn gió cắt da, bãi cát trắng trải dài, mưa nặng hột. Thiếu áo lạnh, tất cả đều quấn Poncho đứng nhìn đoàn người gánh gồng xuôi ngược, hấp tấp và lo sợ, một số về Truồi, một số lên Giạ Lê, An Cựu.

Phú Bài đó, Tịnh Tâm đó, Cầu Kho đó, Mạ, dì, chị và em mình đó mà không liên lạc được. Tình hình không biết sao, ruột như lửa đốt. Trách nhiệm nặng nề, tôi nằm trằn trọc suy nghĩ thật nhiều để chờ sáng mai. Kỷ niệm thời đi học kéo về trong trí tôi, đẹp quá, nhẹ nhàng quá, vụng dại quá.

Mười giờ sáng, đoàn GMC đưa chúng tôi về Huế. Qua Giạ Lê, đồng bào hỗn loạn, nét lo âu hiện rõ trên mặt. Tới An Cựu, dân chúng thưa thớt, nhà hai bên đường đóng kín cửa. Dọc quốc lộ 1 từ Huế về Phú Bài, binh sĩ Nhảy Dù từng toán dìu nhau âm thầm đếm bước. Những cái nhìn như nhắn gửi, như lo sợ giùm chúng tôi. Mạnh, Ðại Úy Nhảy Dù, cùng khóa cho tôi biết:

Trung tá Nguyễn Văn Phán tại Hoa Kỳ 

– Huế tang thương và điêu tàn lắm Phán ơi. Thừa (cùng khóa) chết, Phạm Như Ðà Lạt bị thương…

Mạnh khắp người băng bó đang được hai đệ tử dìu đi bộ về phi trường Phú Bài. Mạnh tiếp:

– Phán, mày cẩn thận. Không yểm trợ, không thực phẩm, không tiếp liệu, thời tiết quá xấu. Tụi nó chiếm hết thành phố, Ðại Nội, Gia Hội. Tụi nó chốt rất kỹ, chỉ còn cái lõm nhỏ ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 tại Mang Cá*.

(*Sau này tôi được nghe nói: Vì nghe tin Tướng Ngô Quang Trưởng kẹt nặng nên Đại Bàng Lê Quang Lưỡng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù đã xua quân đi bộ từ cây số 17 về Huế để cứu Tướng Trưởng. Tôi xin Tướng Lưỡng cho tôi được nghiêng mình chào Ông một cách đầy kính phục cho cái tình nghĩa huynh đệ không bút nào tả nổi này. Ðể đáp trọn tình nghĩa, Lữ Đoàn của Đại Bàng Lưỡng cũng hao hụt nặng nề).


Ðoàn xe dừng lại bên hông đại học Văn Khoa, cách con đường là trường Kiểu Mẫu mới xây, đối diện là đài phát thanh Huế, và trước mặt là cầu Trường Tiền, chiếc cầu tượng trưng cho xứ Huế, chiếc cầu đã hàng ngàn, hàng vạn lần qua lại, đầy ắp kỷ niệm.

Nhìn qua chợ Ðông Ba và phố Trần Hưng Ðạo mà lòng quặn thắt. Một mái chợ đã sập, những cột khói ngút trời cách khoảng. Từ đầu đường đến cuối đường Trần Hưng Ðạo không một bóng người. Nhìn bên phải là cầu Gia Hội vắng tanh, những cột khói khác vươn lên… Cả thành phố đã chết, Huế tôi tang thương đến thế sao! Một nhịp cầu đã sập, tôi nghĩ vành khăn tang đã cuốn lấy Huế.

Xuống tàu tại chân cầu Trường Tiền, xuôi dòng Hương xanh biếc ngang Gia Hội, quẹo trái sông Hang Bè, cầu Ðông Ba đó, có tiệm La Ngu ngày xưa chúng tôi thường mua dụng cụ học trò. Tiếp tục xuống ngang tiệm gạo Mụ Ðội, có người con gái đẹp não nùng tên Xuân mà con trai Huế lứa tuổi tôi đều hơn một lần đi qua đó để nhìn người con gái trời cho đẹp. Qua trường Bình Minh, nơi tôi học năm Đệ Tam, nhiều kỷ niệm đẹp. Ðến Bao Vinh, dân chúng nhốn nháo khi thấy một đơn vị lớn đang đổ bộ tại bến đò.

Tôi hướng dẫn đơn vị vào Mang Cá Nhỏ để tới bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Ðịch chào đón bằng hàng loạt hỏa tiễn 107 và 122. Tất cả nằm sát bờ tường để tránh pháo và tìm chổ phòng thủ. Tôi cho lệnh Sự, Trung Úy Ðại Đội Phó, kiểm soát con cái và chuẩn bị cơm chiều. Trung Úy Sự là sĩ quan trẻ, có tài và đầy nhiệt huyết, xuất thân Khóa 19 Võ Bị Ðà Lạt, thủ môn đội tuyển Nha Trang, đúng là đa năng đa hiệu.

Tôi dự buổi họp Tiểu Đoàn khẩn cấp và quan trọng. Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh:

– Phu Nhơn rành địa thế dẫn đầu, 8 giờ sáng mai xuất phát. Kế tiếp là Tôn, Ðại Đội 1, Lượm Ðại Đội 2, tiếp theo là Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn cùng Ðại Đội Chỉ Huy, sau cùng là Tòng Ðại Đội 4. Mục tiêu Phu Nhân phải chiếm là trường tiểu học Trần Cao Vân. Trước trường có thành Quân Cụ, vào khoảng một đại đội ta đóng ở đó, không biết còn hay


Phán hỏi:

– Còn phi trường Thành Nội thì sao? Tình hình trong Ðại Nội, Thiếu Tá có nắm vững không?

– Không rõ, tụi nó chiếm hết, chốt rất kỹ. Tất cả các cửa Thành Nội tụi nó đều kiền và chốt rất chặt. Cửa Hữu, cửa Chánh Tây, cửa Sập, cửa An Hòa, cửa Ðông Ba, Kỳ Đài Phú Vân Lâu v.v.. tụi nó đều chiếm hết.

Trong óc tôi, một bản đồ chi tiết hiện ra rất rõ cho một cuộc hành quân mà tình hình tôi nắm không được vững. Tôi cố tìm một con đường ngắn và an toàn nhất cho đơn vị để tới mục tiêu. Có rất nhiều đường đưa tới trường Trần Cao Vân, nơi từ 9 tuổi đến 19 tuổi tôi đã bao nhiêu lần đi lại. Con đường nào cũng đầy hoa và mộng, nay tôi đang tìm một con đường không có máu để cho anh em chúng tôi đi.

Tám giờ sáng, tất cả gọn gàng, sẵn sàng di chuyển. Ba trăm thước đường từ Mang Cá đến nhà tôi sao quá dài. Bồn chồn, nóng ruột vì nơi đó Mạ tôi, dì tôi, chị tôi và em trai út của tôi đang trông ngóng. Không biết có bị gì không?

Thiếu Uý Duật, Trung Đội Trưởng Trung Đội 2 dẫn đầu. Duật xuất thân Khóa 21 Ðà Lạt, hăng say, gan, thích xóc đĩa và gái đẹp, uống rượu rất ít, chỉ phá mồi. Phán và Ban Chỉ Huy Đại Đội kế tiếp. Thiếu Uý Nghênh, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1 tiếp theo. Nghênh xuất thân từ “Commando Du Nord”, kinh nghiệm, gan lỳ, thích đánh phé nhưng đánh nhỏ, rượu rất ít và không thích gái. Kế đến là Thượng Sĩ Nhất Mã Khện, Trung Đội Trưởng Trung Đội 3, xuất thân Commando trong Nam, rất gan lỳ, ít nói, mê rượu, không mê gái. Sau cùng là Thượng Sĩ Nhất Hải, Trung Đội Trưởng Trung Đội súng nặng. Hải xuất thân “Commando Du Nord”, người Nùng, lỳ lợm già dặn chiến trường, không rượu, không gái và không thuốc lá.

Chiếm lại cố đô Huế, làm lễ thượng kỳ

Tôi trở ra báo cáo về Tiểu Đoàn, lệnh của Tiểu Đoàn Trưởng:

– Phu Nhơn chiếm cho bằng được trường Trần Cao Vân, dọn sạch chung quanh. Tiểu Đoàn Trưởng và Bộ Chỉ Huy sẽ lên ở trại Quân Cụ. Quan sát địa thế thêm một lần nữa, trước mặt trường là cái am lên đồng, bên cạnh là quán hớt tóc lợp tranh chỉ có một ghế ngồi. Sát đó là ngã ba đường, một đường chạy lên cửa Sập, một chạy về trường Ðào Duy Từ và một chạy đến trường Trần Cao Vân. Có bốn năm cái đầu lố nhố bên trong trường. Duật phải chiếm am trước, trong trường bắn ra mãnh liệt, có cả B.40. Tôi ra lệnh Nghênh và Mã Khện cầm chân hỏa lực trong trường học. Duật chiếm xong am không một tổn thất. Tôi gọi Thượng Sĩ Hải đem hai đại liên và một 57 không giật lên tăng cường cho Duật để Duật yểm trợ cho Mã Khện vào trường. Sau 45 phút dùng mưu kế cùng với hỏa lực và sự gan dạ, kinh nghiệm, Mã Khện đã chiếm được một lớp của trường. Nghênh tràn vào cùng với Mã Khện lục soát và làm sạch sẽ. Hỏa lực từ góc Thành Nội đổ dồn về phía trường học, không sao, có thành của các lớp học che chở.
Tôi kêu Sự :
– Pháo binh có chưa? Kêu về đại bàng Thanh Hoá cứ bắn vào góc thành cho tau.
Ðến chiều vẫn không có một trái pháo bắn, anh em tôi có 7 đã lót đường cho mục tiêu đầu và 3 bị thương nặng. Tôi lên sát Duật và bảo đem cây 57 đến:
– Nhắm ngay vào góc thành, tụi nó bắn rát quá cứ “phơ” cho tau, trật trúng gì không cần, chỉ cần tiếng nổ.
Qua một vạt đất trống, trong một ngôi nhà gạch có bóng người lấp ló. Duật quay 57 nhắm thẳng:
– Nhột quá, cho em bung cái nhà này đi.
Tôi bỗng thấy có bóng đàn bà, tôi la lớn:
– Khoan bắn, nhà thầy Tiềm.
Rồi tôi băng qua đám đất trống đến nhà gặp cô và các cháu. Không thấy thầy, tôi chào cô và giới thiệu tôi học Sử Địa với thầy ở trường Bồ Ðề và khuyên cô về dưới phố. Tôi trở lại vị trí mà lòng nao nao buồn. Giờ này vẫn chưa có pháo, làm sao khóa góc thành đó lại. Duật bảo con cái đào hầm hố thật kỹ, tôi dặn:
– Mày cố thủ tại đây cho Tiểu Đoàn lên.
Tôi cùng đám đệ tử lúp xúp chạy đến tiệm hớt tóc để quan sát ngã ba đường và góc Thành Nội. Tôi chợt nghe tiếng đàn bà rên la quằn quại, sau cùng chỉ còn tiếng rên nho nhỏ. Nơi góc quán tối tăm, một người đàn bà máu me khắp nửa phần thân thể, vừa bị thương nặng lại vừa sanh ra một bào thai lờ mờ tượng hình đứa bé, trông giống như con rắn mối. Xót xa, chịu không nổi, tôi ra lệnh đem chôn đứa bé ngay và chuyển người mẹ về đồn Quân Cụ cho bác sĩ Tựu cứu giúp.
Ðến lúc ấy đại đội tôi đã có 13 chết, 3 bị thương nặng để trải thảm cho đơn vị.
Tối đó, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đến trại Quân Cụ. Sáng hôm sau, Tiểu Đoàn Trưởng cho Ðại Đội 2 của Tôn và Ðại Đội 1 của Lượm dưới sự chỉ huy của đại ca Ðã, Tiểu Đoàn Phó, chiếm nhà bảo sanh. Ðoạn đường có 30 thước, cách một hồ nhỏ mà phải trả bằng 50 đứa con thân yêu. Sau 8 tiếng đồng hồ mới chiếm được nhà bảo sanh, Tôn bị thương ngay từ phút đầu, Lộc Ðại Đội Phó lên thay.
Mười ngày tiếp theo, nhìn nhau qua một con đường rộng vừa đủ cho xe chạy mà hai bên đều khựng. Mưa vẫn rơi ray rức lê thê, thỉnh thoảng cơn gió thật lạnh thổi qua. Có những trận tấn công chớp nhoáng của địch vào Ðại Đội của Lượm và Lộc đều bị đánh bật lui. Ngược lại ta cũng nhiều lần cố tràn qua bên kia nhưng không chiếm được thêm một tấc đất. Hai bên tải thương đều thấy nhau rất rõ. Lượm bị hao hụt nặng, Phu Nhân lên thay. Tôi và con cái bò lên từng toán một, địch và ta đã sát nhau, ngóc đầu lên là đạn bắn xuyên mũ sắt ngay. Hơn nửa ngày mới trám hết vị trí của Lượm. Lượm và Tòng về phòng thủ cho Tiểu Đoàn. Tối đến pháo địch đủ loại nổ vang trời. Xác chết của anh em nằm trên mặt đường, sình lớn mà không lấy được. Phía bên kia bốn năm xác địch vẫn để yên, tụi nó cũng không dám ra lấy về. Cố giữ đất, giữ vị trí và làm vài cuộc tấn công nhỏ vẫn không qua đường được.
Từ căn nhà hai tầng cuối đường nhìn xéo từ nhà bảo sanh, một thượng liên và và trung liên nồi của tụi nó kiểm soát con đường rất kỹ, dưới sự chỉ huy của một đứa con gái mặc áo choàng màu xám, tóc xỏa dài nhưng không thấy rõ mặt. Tay đứa con gái chỉ tới đâu thì đạn nổ dồn về hướng đó. Tôi nhắm bắn hai phát M16 nhưng hụt, nó trốn nhanh vào sau cửa và mất luôn.
Hai mươi ngày nằm chịu pháo và bị bắn sẻ, tối nào hai bên cũng rà máy chửi nhau. Theo dõi máy, đột nhiên tôi bắt được một câu báo cáo của tụi nó:

Bồ câu hết thóc!
Tôi nghĩ ngay tụi nó đang thiếu đạn, nếu cứ nằm như thế này, một lúc nào đó tụi nó tập trung tấn công, mình cũng sẽ bị mất vị trí ngay, chỉ vì áp lực quá nặng nề, tổn thất nhiều, tinh thần anh em quá mệt mỏi. Tôi đi đến kết luận riêng: “Nếu mình không đánh nó, chắc chắn nó sẽ tấn công mình”. Tôi trình với Tiểu Đoàn Trưởng:
– Thiếu Tá cho tôi luôn thằng 2 để tôi tấn công tụi nó. Tôi thấy tinh thần anh em xuống quá và sức khỏe ngày càng hao hụt.
Tiểu đoàn trưởng không cho, bắt ráng giữ vị trí. Phu Nhơn năn nỉ:
– Nếu không thì cho tôi đột kích, tôi cùng vài toán nhỏ tràn qua đường đánh đột kích rồi rút về. Mình phải chứng minh cho tụi nó thấy mình còn đủ sức chơi tụi nó, thời tụi nó không dám tấn công mình.
Tiểu đoàn trưởng nói:
– Làm kế hoạch xong cho tôi hay.
Tại hầm của tôi anh em đang chờ, họ gồm: Lộc Ðại đội 2, Sự Ðại đội phó của tôi, Duật, Nghênh và Mã Khện. Tôi nói:
– Nằm chờ lâu tau chán quá, chỉ muốn qua đột kích tụi nó rồi rút về.
Tất cả im lặng, tôi tiếp:
– 4 giờ sáng mai mình đột kích, nếu giữ được vị trí thời tau cho tràn luôn. Bây giờ tau chọn 4 toán:
Toán 1: Phán, Ðiểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy.
Toán 2: Duật và 3 người thật nhanh và gan dạ.
Toán 3: Nghênh và 3 người.
Toán 4: Thượng Sĩ Nhất Hải và 3 người.
Tất cả trang bị thật nhẹ: mỗi người 20 quả lựu đạn và hai băng đạn cong ráp ngược cho M16.
Sự và Lộc dẫn con cái ra sát bờ đường, khi thấy khói xanh thì lùa tất cả tràn qua. Nếu thấy khói màu vàng, yểm trợ tối đa cho tụi tau dọt về. Sự và Lộc hãy về lo cho con cái, đúng 4 giờ sáng sẵn sàng tại vị trí.
Duật, Nghênh và Hải ở lại, tôi nhìn anh em thật lâu rồi cho biết:
– Tau theo dõi tụi nó báo cáo qua máy, hình như tụi nó thiếu đạn. Do đó tau quyết định cuộc đột kích hôm nay.

Tôi nghiêm mặt và lạnh lùng nói:
– Hai ông Duật và Nghênh tôi chỉ định phải đi với tôi. Riêng ông Hải, tôi cho ông suy nghĩ lần nữa. Lần này đi khó trở về, ông con cái đông, muốn ở lại vị trí tôi cho phép và tôi hứa rằng tôi không nghĩ là ông thiếu can đảm.
Suy nghĩ một lát, Thượng sĩ Hải trả lời:
– Ðại úy cho tôi ở lại vị trí.
Tôi vui vẻ bằng lòng và gọi Mã Khện đến, Mã Khện đồng ý đi và xin đem theo Hạ Sĩ Nhất Mười. Tôi tiếp:
– Bây giờ các ông về chọn người xong lên gặp tôi.
Tôi ngồi suy nghĩ miên man, liều, phải liều mới cứu được đơn vị. Chiều hôm đó, lúc 4 giờ, các toán trưởng lên gặp tôi, có thêm Trung Úy Sự. Tôi hỏi lần chót:
– Có ai xin ở lại cho tôi hay.
Không ai trả lời. Tôi căn dặn Sự nhắc Lộc khi thấy khói xanh thì sao và khói vàng thì sao, phải nhớ kỹ. Tôi đưa ba toán trưởng bò đến hầm trú ẩn của nhóm tiền đồn ở sát ngã tư đường. Tôi chỉ từng căn nhà bên kia đường:
– Cái thứ nhất gần ngã tư là mục tiêu của tau, cái thứ hai kế tiếp có hàng rào là của Nghênh, căn thứ ba cũng có hàng rào và cây nhãn cao là của Mã Khện, căn thứ tư có mấy bụi chuối lớn là của Duật. Tất cả hãy quan sát cho kỹ và cố chọn một con đường tiến quân thích hợp, không cần báo cáo miễn sao thích hợp thôi.
Tôi tiếp tục quan sát mục tiêu của tôi. Căn nhà bằng gạch có nhà trên và nhà dưới, kế đó là cầu tiêu xây bằng đá lợp tôn, sát đường là cái giếng xi măng. Trước sân có hai cây vú sữa cao và sai trái. Tôi biết phải làm gì để chiếm căn nhà đó. Tôi quay lại nói:
– Lần chót tôi hỏi các ông có ý kiến gì không? Ðúng 4 giờ sáng mai tôi sẽ chiếm trước, sau đó tùy các ông bằng mọi cách phải hốt cho bằng được các mục tiêu tôi ấn định.
Trở lại vị trí, tôi dặn dò Ðiểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy:
– Tối nay miễn gác, 3 giờ sáng mai gặp tau ở đây.
Sau đó tôi đi gặp Tiểu đoàn trưởng để trình bày kế hoạch. Ông nói:
Nguy hiểm quá, không được, chết cả lũ!
Tôi nói:
– Nếu Thiếu Tá không làm bây giờ, một vài ngày nữa tụi nó chỉ cần ho là lính mình chạy hết.
Cuối cùng ông chấp thuận:
– Nhớ là có gì thì trở về liền, càng sớm càng tốt.
Tôi dạ nhưng trong đầu tôi nghĩ khác. Trước mắt tôi bây giờ không có gì ngoài đoạn đường từ tiền đồn qua cái giếng, lên cầu tiêu, tới nhà dưới rồi chiếm nhà trên. Tôi nằm suy nghĩ triền miên cho đến 3 giờ sáng.
Trước khi bò ra tuyến xuất phát, tôi nhắc Sự và Lộc một lần nữa cho chắc ăn. Bốn giờ kém mười sáng, toán tôi có mặt tại tiền đồn.
Trời vẫn mưa, mưa xứ Huế có dư âm cái lạnh của ngày Tết. Trời tối không thấy gì, tôi ngại bắn lầm nhau. Gắng chờ một chút nữa, đến 5 giờ sáng mưa vẫn không tạnh, trời vẫn tối mù. Năm giờ rưỡi, cái giếng đã nhìn thấy được. Chuẩn bị! Tôi cảm thấy hồi hộp, chỉ cần bốn cái nhảy vọt là qua bên kia đường nhưng khó như đi lên trời vì con đường này là con đường tử thần làm ranh giới bên ta và địch, là hai mươi ngày trời không nuốt nổi 5 thước đất. Rách nát bao nhiêu cũng vẫn không qua được. Bây giờ mình cắt băng khánh thành, phải làm để cứu đơn vị, phải hy sinh để cứu đồng đội.
Vừa suy nghĩ xong, tôi phóng vụt qua ôm bờ giếng. Kế tiếp là Ðiểu, Việt, Can, Dư băng theo. Tất cả ngồi ôm thành giếng, mồ hôi ra như tắm mặc dù trời lạnh như cắt. Ðiểu và Can chiếm cầu tiêu. Bỗng một loạt đạn thật giòn và thật gần, tôi quay nhìn ra đường. Phúc và cái máy nát mình nằm trên mặt đường nhựa, dưới làn đạn mịt mùng của địch. Tôi hét lớn:
– Dư, Việt chiếm nhà bếp.
Tôi theo sát lên cầu tiêu bên cạnh Ðiểu và Can. Súng và pháo nổ dồn dập, một B.40 nổ ngay trên đầu mái tôn cong, cả ba thầy trò đều bị miểng nhỏ đâm đầy mặt, tóc râu và lông mày đều bị cháy. Cầu tiêu nhỏ quá nên tôi cùng Ðiểu và Can lên nhà bếp. Tôi ra lệnh:
– Ðiểu và Dư chiếm nhà trên, lục soát thật kỹ. Ðể Việt ở lại, tôi và Can cũng lên nhà trên. Ðiểu và Can giữ cửa chính nhìn ra sân, tôi và Dư giữ cửa sổ nhìn ra vườn có nhiều luống khoai lang.
Trời sáng hẳn, tôi lắng tai chẳng nghe nhà bên cạnh có gì cả bèn bò trở ra bờ giếng và thấy Duật, Nghênh, Mã Khện vẫn còn bên kia đường. Tôi toát mồ hôi. Tôi nhìn thẳng vào mấy ổng rất nghiêm và lấy ngón tay ngoắc. Tôi không dám gọi lớn tiếng, mấy ông kia gật đầu. Tôi bò trở lên nhà trên. Lựu đạn, súng nhỏ, súng lớn nổ khắp nơi và nhất là bên phía tay mặt tôi. Tôi biết rằng tụi tôi đã băng được qua đường. Tôi hỏi khẽ:

Thấy gì không Dư?
Dư lắc đầu, tôi nghe tiếng thì thào sát vách tường phía ngoài. Tôi đoán khoảng 7-8 người đang ở trong một cái hầm, tôi dùng ngón tay đẩy nhẹ cửa sổ. Một loạt đạn từ phía nhà đối diện xuyên ào ào vào cửa sổ. Bỗng Dư chỉ tay về phía các luống khoai, tôi đếm đủ 11 người đang bò qua, kaki Nam Ðịnh, súng AK và B.40, cách vách tường khoảng 20 thước, 15 thước rồi 10 thước. Tôi đưa súng lên lên định bóp cò thì Dư kéo lại và ra dấu dùng lựu đạn. Tôi dựng cây súng xuống thật nhẹ, hai tay rút hai trái lựu đạn miệng cắn chốt. Dư cũng thế, bốn lựu đạn ném ra cùng lúc, tiếng nổ xé trời, rồi bốn trái tiếp theo. Bên ngoài tường, tiếng hét lớn rồi tiếng rên và sau đó im lặng, tụi còn lại bò sát vào chân tường. Nhìn ra cửa, 5 xác nằm vắt trên luống khoai. Một loạt đạn nổ và tôi nghe:
– Chết em, Ðại uý!
Tôi sững sờ nhìn Dư, tay trái ôm ngón út của bàn tay mặt đầy máu, ruột của Dư đổ ra lòng thòng. Dư ngã vật ra chết tại chỗ, nơi Dư đứng có một lỗ hổng nhỏ ở vách tường. Vì mãi nhìn qua cửa sổ mà không để ý ở phía dưới: nguyên một họng AK thọc qua lỗ tường để sát bụng Dư mà nhả đạn. Tôi bắn một loạt M16 ra cửa sổ, và cứ thế hết quả này qua quả khác tôi ném tất cả lựu đạn của tôi ra ngoài bờ tường.
Hai thằng em đã hy sinh, còn bốn thầy trò phải giữ vững vị trí. Phía bên tay phải của tôi, súng vẫn nổ dữ dội. Ðến 10 giờ 30 sáng tôi cho Ðiểu liên lạc với Nghênh, Duật và Mã Khện. Ðiểu băng người ra đi, bốn căn nhà cách nhau mười phút đi bộ mà hơn một tiếng đồng hồ sau Ðiểu mới về báo cáo là tất cả đã chiếm được mục tiêu. Có đoạn đường nào xa và xấu hơn đoạn đường tôi đang đi!
Toán Duật: một chết một bị thương.


TQLC/QLVNCH ti
ến vào Huế

Toán Mã Khện: hai chết.
Toán Nghênh: một chết một bị thương.
Tất cả là 6 chết 2 bị thương, chúng tôi còn lại 11 người tại tuyến.
Ðiểu bò ra giếng cố đem qua cho tôi một cái máy. Cột máy vào một đầu dây và quăng đầu dây kia qua cho Ðiểu kéo. Can mờ máy liên lạc với Tiểu đoàn:
– Trình đại bàng, tôi sẽ cho tràn ngập vị trí với thằng 2 của Lộc và thằng 3 của tôi.
Ðại bàng hỏi:
– Tại sao từ sáng đến giờ không chịu liên lạc với tôi? Tôi ra lệnh rút về ngay.
Phán nài nỉ:
– Ðây là dịp may, tinh thần anh em đang lên, tôi xin đại bàng cho làm luôn.
Ðại bàng Thanh Hóa nói bằng bạch văn không ngụy trang:
– Nếu anh không rút về, tôi sẽ đưa anh ra tòa án quân sự.
Khí giận bừng bừng, tôi tắt máy không trả lời, trên tay vẫn cầm trái khói xanh. Suy nghĩ thật kỹ. Suy nghĩ thật kỹ. Hơn mấy giờ để đánh mục tiêu, bốn căn nhà và một con đường ngập máu. Mưa vẫn lạnh như cắt da và mồ hôi vẫn ra như tắm.
Cuối cùng tôi đành bảo Ðiểu chuyển lệnh cho các toán:
– Rút về ngay, mạnh toán nào rút toán nấy, không chờ đợi. Mang thương binh theo, xác chết bỏ lại.
Năm thước đường đi đã khó, về còn khó hơn. Mỗi bóng người nhúc nhích là đạn nổ hàng loạt, liên hồi, đạn bắn chéo bao phía, đan lưới thật dày trên mặt đường và khắp vị trí. Làm sao trở về đây? Con cái bên kia đường đưa mắt theo dõi. Toán tôi bò ra giếng, bỗng mấy bóng đen vụt qua đường như sao xẹt, nhào vào bờ lề và được anh em kéo ra sau. Ðạn nổ dòn tan cày nát mặt đường. Ðây là mấy đứa bị thương nặng, tưởng là di chuyển không nổi, nhưng khi nghe lệnh rút chúng thu hết tàn lực vùng chạy về, chớp mắt không kịp thấy.
Hỏa lực 3 phía nổ vùi vào vị trí chúng tôi. Các toán đột kích không còn liên lạc với nhau. Ðiểu và Can vẫn giữ căn nhà. Ðịch kiểm soát con đường bằng mấy cây thượng liên và trung liên, chúng bắn liên miên. Bên kia đường, Sự và Lộc đáp lễ bằng hỏa lực cơ hữu của Khăn Tím và của 2. Tôi lấy chân đạp vào thành giếng phóng người băng qua đường, lăn mình, nhảy, chạy và té ào vô bờ lề. Anh em kéo vội tôi ra sau, tôi dừng lại bảo Lộc và Sự bắn từng loạt một để tụi nó dọt về.
Nhìn thấy Việt ngồi thành giếng trố mắt ngó về mà tội nghiệp. Sống và chết cách nhau có một con đường. Tôi hồi hộp xót xa cho mấy thằng em. Tôi vừa quay mặt hét:
– Bắn kềm mấy cây thượng liên.
Những bóng người bay vọt qua đường. Tim tôi thắt lại, đạn nổ mịt mù. Lần lượt tôi gặp Nghênh, Duật, Mã Khện và tất cả anh em. Tôi ôm ghì từng đứa, tụi nó còn sống cả. Can và Việt nhào đến ôm tôi một cách dữ dội mà đậm đà trìu mến. Lính với tay sờ người, nắm nhẹ áo tôi:
-Ðại Úy, tóc và râu Ðại Úy cháy hết rồi, mặt bị dăm nhiều chỗ.
Cả Ðại đội bất chấp đạn địch, đứng dậy nhìn nhau hãnh diện và sung sướng. Tôi báo cáo Tiểu đoàn:
– Tất cả đã về vị trí.
Bỗng tôi thấy thiếu một cái gì, tôi nhìn Can và Việt hỏi:
– Thằng Ðiểu đâu?
Tụi nó nói:

Lần cuối cùng em thấy nó vừa khóc vừa chạy lung tung tìm Ðại Úy ở bên ấy.
– Thôi chết tau rồi, tau phải cứu nó, hai thằng bây theo tau.
Tôi, Can và Việt bò trở ra đường. Bỗng nhiên một bóng người nhảy qua khỏi hàng rào, nhảy qua khỏi miệng giếng, phóng nhanh qua đường, nhào lăn vào vị trí và la lớn:
– Ê, tụi bay thấy anh Hai đâu không?
Ðiểu đứng dậy nước mắt đầm đìa, tôi lao đến ôm Ðiểu:
– Tau định qua kiếm mày đây.
– Trời anh Hai, tụi nó nói anh Hai chết rồi. Em đi lục hết căn nhà mấy chục lần, chỉ không dám ra ngoài hè mà không thấy xác anh Hai đâu. Hôm trước Mạ có dặn nhỏ với em, phải sát bên cạnh anh Hai, nếu có gì cũng phải nhớ đem anh Hai về cho Mạ.
Tóc tai mặt mày râu ria Ðiểu cháy nám, áo quần rách bươm, nó khóc mùi mẫn vì thấy tôi còn sống. Rồi nó lại bẻn lẻn cúi đầu hai hàng nước mắt lã chã giọt xuống đất. Trong một cuộc chiến bạc bẽo lại có chút tình nghĩa trao nhau qua mấy giọt nước mắt nóng hổi. Sáu giờ chiều, xuống trình diện Tiểu Đoàn Trưởng, ông nói ngay:
– Ông làm chuyện nguy hiểm quá, lỡ kẹt bên đó thì nói làm sao với Lữ Đoàn?
Tôi dạ dạ vâng vâng cho qua rồi nghiêm mặt đề nghị:
– Thưa Thiếu Tá, ngày mai cho tôi tấn công, tôi tin chắc sẽ tràn ngập vị trí tụi nó. Cho tôi thêm thằng 2 của Lộc, để thằng 1 của Lượm đi sau thu dọn chiến lợi phẩm. Chỉ xin Thiếu Tá cho tôi hai chiếc tank kèm hai bên hông của tôi.
Ông hỏi:
– Có chắc ăn không Phán?
Tôi cương quyết:
– Chắc, và nếu tràn được vị trí Thiếu Tá cho phép tôi đánh thẳng lên Kỳ Ðài nếu kịp thời gian.
Tôi theo Tiểu Đoàn Trưởng lên trình ông Già Hự, Ðại Tá Yên Tư Lệnh Phó. Ông già chấp thuận.
Tôi trở về họp các trung đội trưởng:
– Ngày mai, 8 giờ sáng, Ðại Đội 3 Khăn Tím bên trái, Ðại Đội 2 của Lộc bên phải, dàn hàng ngang lấy con đường lên cửa Sập làm chuẩn tiến song song. Sau khi hai chiếc tank yểm trợ bằng hỏa lực xong, cả hai đại đội xung phong tràn ngập vượt qua mỗi chốt thật nhanh, không cần thâu chiến lợi phẩm, để Ðại Đội 1 đi sau làm chuyện đó. Tất cả ba lô và đồ ăn để lại, trang bị thật nhẹ, Khi tới xóm nhà sát cửa thành thì dừng lại chờ tôi.
Ðúng 8 giờ sáng ngày hôm sau, dàn quân, hai chiếc tank Ontos hạng nặng tiến lên, mỗi chiếc trang bị 6 cây đại bác 106 ly. Tôi chỉ vị trí tác xạ cho hai trưởng xa người Mỹ rồi ra lệnh khai hỏa. Hy vọng 12 cây 106 ly này sẽ san bằng mục tiêu trước mặt cho con cái tôi được dễ dàng đôi chút. Nhưng mỗi chiếc tăng chỉ bắn một phát đạn duy nhất rồi chạy lùi biến mất, không biết chạy về đâu. Tôi hết hồn, quân đã dàn xong, bắt buộc tôi phải ra lệnh xung phong. Tôi hét thật lớn, hét khản cả cổ:
-XUNG PHONG!
Cả một đoàn quân dàn hàng ngang, không một ai nhúc nhích.
Con đường trước mặt, con đường của 21 ngày máu và nước mắt, con đường tráng nhựa đẹp đẽ nhưng băng qua là đi vào cõi chết. Tôi tức giận chửi thề lung tung rồi chụp cây đại liên M.60 của người lính bên cạnh bắn một loạt dài rồi một mình tôi vừa bắn vừa băng qua đường cùng với toán cận vệ: Can , Việt, Ðiểu và hai thằng mang máy. Qua khỏi đường xông tới trước, tiếng đại liên của tôi nổ dòn. Ðúng lúc ấy cả đoàn quân đồng thanh hô xung phong và ào qua đường. Sau đó, đoàn người vượt nhanh qua mặt tôi và lướt tới trước. Súng nổ vang rền, đoàn quân tiến đều, M16 bắn vãi vào chốt, lựu đạn ném vào chốt, đạp chốt, bang chốt, lướt qua, cố giữ đội hình. Tiếng nổ inh tai liên tục, đàn áp thật mãnh liệt và chạy tới trước. Ðến 3 giờ chiều, chúng tôi đến xóm nhà sát cửa Sập.
Lính vỗ vai nhau cười làm tôi bắt cười lớn vì xóm nhà này rất quen thuộc với họ. Lính thường hay đến xóm này rồi về kể nhau nghe con này đẹp, con kia chân dài, con nọ… Nào khăn, nào thau vứt bừa bãi khắp nơi. Lính vui vẻ kể chuyện tục cho nhau nghe và hồn nhiên đùa nghịch. Những tiếng cười đầy ham muốn và thèm thuồng, hơn 40 ngày, từ vùng 4 về giải tỏa Sài Gòn rồi ra đây, không thấy mặt một người đàn bà, chỉ thấy toàn máu và mồ hôi. Tôi ra lệnh:
– Lộc và Sự mỗi ông cho 1 toán 10 người băng nhanh đến sát mặt thành rồi ngồi xuống. Toán kế tiếp chạy đến leo lên vai toán thứ nhất để toán này đồn đồn lên thành. Khi bám được mặt thành thì tác xạ tối đa và bằng mọi cách giữ vị trí để làm đầu cầu.
Con cái tôi hành động đẹp còn hơn tài tử xi nê. Tiếng đạn lớn nhỏ nổ rền, hai toán lên thành chiếm xong vị trí. Tôi cho tất cả con cái đem bàn ghế ra chất sát tường và leo lên ngay. Tiếng đạn và pháo địch vẫn mãnh liệt trên nóc thành.
Một chặng đường xương máu đã vượt qua, bây giờ mục tiêu chính, mục tiêu của niềm hãnh diện, mục tiêu của ơn sâu và nghĩa nặng: Kỳ Ðài Huế.
Ðây là nơi tượng trưng cho linh thiêng của dân tộc nói chung và cho Huế nói riêng. Duật và 20 người tiến chiếm 6 cây súng thần công to lớn, từ đó Duật dùng hỏa lực kềm địch ở cửa Ngọ Môn, yểm trợ cho Nghênh và Mã Khện chiếm Kỳ Ðài.

Ðịch bắn trả. Con cái tôi dùng hỏa lực tối đa và thần tốc tiến vào Kỳ Ðài. Phản ứng của địch bắt đầu yếu, 5 giờ 12 phút chiều, màu áo rằn ri Thủy Quân Lục Chiến đã làm chủ Kỳ Ðài. Lá cờ xanh đỏ sao vàng đầy hận thù còn ở trên không. Một thằng em rút đâu trong người ra một lá cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn. Tôi gọi về Tiểu đoàn:
– Tất cả đã sạch sẽ, xin Thiếu Tá cho tôi treo cờ.
Tôi nhớ rõ lệnh của Trung tướng Lê Nguyên Khang:
– Một người lính Thủy Quân Lục Chiến duy nhất còn sống sót cũng phải dựng lại cho được ngọn cờ vàng tại Phú Vân Lâu.
Trong niềm vui cùng tột, Hạ Sĩ Hạnh hét lớn: “Thủy Quân Lục Chiến”, xong lấy trái hỏa châu đập mạnh định bắn pháo bông lên trời ăn mừng. Trong cơn say chiến thắng, Hạnh xoay ngược hỏa châu vào mình, hỏa châu nổ xuyên bụng. Hạnh cười tươi:
– Em không sao Ðại Úy.
Phán nghĩ thằng em này tỉnh táo quá, chắc nó chết, và nó chết thật.
Tiểu Đoàn Trưởng bảo Phu Nhân giữ đầu máy chờ.
(Sau này tôi được nghe: Khi báo cáo về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, Chuẩn Tướng Trưởng xin Thủy Quân Lục Chiến dành vinh dự treo cờ cho Sư Đoàn 1. Sáng hôm sau ngày 24/2 Phạm Văn Ðính dẫn một đơn vị của Sư Đoàn 1 từ cửa Thượng Tứ lên làm lễ thượng kỳ.)
Nhìn lá cờ vàng phất phới trên nền trời màu xám của Huế, tôi hãnh diện thật sự vì một thằng con của Huế đã góp phần dựng lại ngọn cờ này.
Trung úy Sự trình tôi:
– Thằng Hạnh chết, mình còn 67 người.
Ðại đội ra đi hơn 17O người, sau 24 ngày và sau bao nhiêu lần bổ sung quân số, chỉ có 3 mục tiêu: con đường, cửa Sập và Kỳ Ðài mà bây giờ tôi chỉ còn lại 67 người.
Sáng hôm sau tôi về phối trí đóng quân lục soát ở khu vực cửa Ðông Ba, Nhà Thương Nhỏ, chợ Xép, ngã tư Anh Danh. Ban chỉ huy của tôi đóng tại một tiệm cầm đồ, tiệm này có Tôn và Lưu cùng học một lớp với tôi hồi nhỏ. Trong nhà không còn ai cả.
Chiều hôm đó tôi gặp lại rất nhiều bạn bè cũ. Tình hình chưa được an ninh hoàn toàn nhưng đóng ở đây chúng tôi nhẩn nha hơn trước nhiều. Tôi đi kiểm soát các vị trí và cho lệnh lục soát tàn quân địch. Lính canh bắt giải tới một người đàn ông lớn tuổi, gầy ốm ăn mặc lếch thếch, áo vét nhàu rách, tóc tai rối bù và dơ bẩn, miệng nói lí nhí.
– “Lệnh giới nghiêm, đã 11 giờ đêm sao ông này còn lang thang trên hè phố, em nghi quá,” Người lính nói.
Tôi sững sờ nhìn người đàn ông. Thầy Cao Hữu Triêm!
– Trời ơi Thầy!
Tôi gọi mấy tiếng lớn mà thầy cũng không nghe, thầy tiếp tục lẩm bẩm rất nhỏ. Tôi cầm tay mời thầy ngồi:
– Con là học trò cũ của thầy đây.
Một ánh mắt lạc lỏng xa vời:
– Ờ, ờ sao con khỏe không? Thầy mấy ngày ni chưa ăn chi cả.
Lính tôi kiếm cơm trắng và một đĩa gà luộc về mời thầy xơi. Tụi nó còn kiếm được một bình trà nóng mời thầy. Sau một hồi thầy tỉnh táo, và cho biết: cô và sắp nhỏ vào Ðà Nẵng, thằng con lớn bị chết rồi, thầy không muốn về nhà nữa. Rồi thầy khóc, giọt nước mắt lăn dài trên đôi má nhăn nheo. Tôi nói:
– Thôi thầy ở đây với con cho yên.

Lính của tôi thay nhau hầu hạ thầy ân cần, đến ngày thứ tư thầy đòi đi, tôi thu xếp để thầy vô Ðà Nẵng. Từ đó, tôi mất tin tức của thầy. Cầu mong thầy được bằng an.
Ðược sinh ra và lớn lên ở Huế, tôi cố trả một phần nào chữ Hiếu cho nơi chôn nhau cắt rún. Máu của tôi, của anh em tôi, của đồng bào tôi đã tạo thành một cơn sóng thần cuốn đi tất cả kẻ thù để dựng lại ngọn cờ trên Kỳ Ðài tượng trưng cho Huế. Hai mươi năm sau, hồi tưởng lại, máu và xương kia đã theo dòng Hương Giang cuốn tôi và bằng hữu ra biển bắt làm người biệt xứ!
Lạy trời, một ngày nào đó, cũng Cố Ðô đó, cũng Kỳ Ðài đó, cho tôi được góp phần dựng lại ngọn cờ một lần nữa để đền đáp ơn sâu và nghĩa nặng, nơi tôi đã sinh ra, nuôi tôi lớn lên và cho tôi làm người.


Xin tải đây bài hát do nhạc sĩ Nguyễn Hoàng sáng tác theo thơ của trung tá Nguyễn Văn Phán.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen 
Nguyễn Hoàng Sơn