Những người bị quên lãng sau chiến tranh

 Những người bị quên lãng sau chiến tranh


Hôm trước, thấy tấm ảnh xưa khu vực Kim Khuê, mới nhớ đến vụ các thương phế binh, lính Việt Nam Cộng Hoà hy sinh một phần thân thể của họ trong chiến tranh. Có chương trình giúp đỡ họ trở về đời sống dân sự với khẩu hiệu: “người cày có ruộng, phế binh có nhà”

Sau này ra hải ngoại mình đọc tài liệu của người Mỹ thì khám phá ra Việt Cộng trước 75, chiếm đóng rất nhiều lãnh thổ miền nam mà họ gọi vùng giải phóng. Khi xưa, chả bao giờ thấy bản đồ nên cứ nghĩ là Việt Cộng đóng quân bên Lào, Cam Bốt rồi chạy qua Việt Nam đánh rồi rút về. Hóa ra tình hình khác với những gì mình nghe khi xưa.


Do đó chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, ra luật “người cày có ruộng”, mua đất của các địa chủ rồi phân phát cho tá điền để giúp họ trung thành với chính phủ Việt Nam Cộng Hoà thay vì chạy theo mấy ông giải phóng. Chính phủ trả cho địa chủ 10% tiền mặt và 90% trái phiếu. Theo tài liệu thì chương trình Người Cày Có Ruộng thành công hơn chương trình Cải Cách Điền Địa của đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà. Trên Luatkhoa.com có viết như sau:


Theo các số liệu thống kê được đăng tải trên Far Eastern Survey, thuộc Viện nghiên cứu Hoa Kỳ về Thái Bình Dương, miền Nam Việt Nam vào thời điểm đó có dân số 4,5 triệu, nhưng chỉ có 255.000 người (5,6%) thật sự sở hữu đất đai. Tệ hơn nữa, có đến 184.000 người trong số đó chỉ có dưới 5 ha đất, dẫn đến thực tế là 71,7% số người có đất chỉ sở hữu khoảng 12,5% tổng diện tích đất canh tác. Phần lớn đất còn lại nằm trong tay một nhóm nhỏ.

Một nửa số người có đất không trực tiếp canh tác đất mà cho thuê lại để nhận tô, nghĩa là làm địa chủ. Số lượng đại địa chủ (những người sở hữu lên đến hơn 10 ha đất) và phần đất màu mỡ mà họ nắm giữ có thể khác nhau ở từng địa phương, song đều nằm ở mức đa số đáng quan ngại. Ví dụ, tại Chợ Lớn, đại địa chủ nắm 50,6% diện tích đất. Tại Bạc Liêu, đại địa chủ nắm đến trên 89,5% diện tích đất

Hình như chương trình này để thu phục người di cư từ miền Bắc, sau khi trải nghiệm vụ đấu tố Cải Cách Ruộng Đất tại miền Bắc. Trong đó ông bà nội mình là nạn nhân được đốc lên thành Phú Nông, cường hào ác bá súyt bị giết. Họ cấp phát đất cho người Bắc di cư như vùng hố Nai,… có chị bạn gốc Đà Lạt, Bắc kỳ di cư, không hiểu sao ông bố có cơ sở làm ăn tại Đà Lạt, lại có vườn ở miền Tây. Nên mình đoán là khi di cư vào Nam, được chính phủ Ngô Đình Diệm cấp đất.


Ngược lại chương trình Người Cày Có Ruộng dưới thời đệ nhị Việt Nam Cộng Hoà thì theo thống kê ngoại quốc thì được xem là rất thành công. Xin trích dẫn bài của Luatkhoa.com nói về chính sách Người Cày CÓ Ruộng của nền đệ nhị Việt Nam Cộng Hoà 


Chương trình “Người cày có ruộng” do Nguyễn Văn Thiệu và các nhà kinh tế dưới quyền thiết kế được các nhà khoa học quốc tế thừa nhận một thành công lớn. Mục tiêu chính của nó là (1) xóa bỏ hoàn toàn chế độ sản xuất nông nghiệp tá điền, (2) bảo vệ quyền tư hữu đất đai, (3) xây dựng kinh tế quốc gia dựa trên mô hình sở hữu của các nông trang vừa và nhỏ.

Có hai lý do chủ yếu dẫn đến thành công của chương trình. Một là, chương trình thật sự mong muốn cải tổ hệ thống quyền sở hữu đất đai tại miền Nam Việt Nam. Sau khi đặt ra hạn mức sở hữu của các “cựu” địa chủ, lượng đất thu hồi (có bồi thường thông qua tiền mặt hoặc trái phiếu chính phủ) sẽ được giao lại cho nông dân hoàn toàn miễn phí, thay vì phải mua lại theo thời hạn như chương trình của Ngô Đình Diệm. Trong đó, tá điền đang lĩnh canh sẽ nhận được ưu đãi về thủ tục và ưu tiên chờ so với những người khác.

Những thay đổi này khiến cho lượng đất được giao và được canh tác trên thực tế tăng theo cấp số nhân, theo nghiên cứu của giáo sư Roy L. Prosterman thuộc Đại học Washington. Giáo sư Prosterman cũng là người sáng lập của Viện Nghiên cứu Phát triển Nông thôn rất nổi tiếng.

Thống kê về kết quả tái phân bổ đất đai từ năm 1968-1969 tại miền Nam Việt Nam. Nguồn: nghiên cứu “Land-to-the-Tiller in South Vietnam: The Tables Turn” của Roy L. Prosterman.

Theo bảng thống kê, chỉ trong vòng hai năm ngắn ngủi ngay sau Mậu Thân, có đến 240.000 mẫu đất (tức lên đến gần 100.000 ha đất) được phân phối lại cho người cày, tá điền và các nông dân ít ruộng đất.

Lý do thành công thứ hai là năng lực, sự quyết đoán và bền bỉ của bản thân ông Nguyễn Văn Thiệu đối với chương trình. Cũng trong nghiên cứu của Giáo sư Prosterman ở trên, Thiệu được ghi nhận là phải đối mặt với hàng loạt các áp lực liên quan đến các nhóm lợi ích thuộc phe điền chủ và đại điền chủ, đồng thời áp lực từ nhóm đối lập vốn không muốn ông này nhận được quá nhiều sự ủng hộ từ quần chúng.

Ông là người đầu tiên can thiệp vào quá trình “tái thu tô” của giới địa chủ chạy trốn trước và trong năm 1968 đối với những vùng vừa bình ổn (những khu vực vừa đánh bật Việt Cộng, hay Mặt trận Giải phóng Dân tộc miền Nam Việt Nam). Từ đó, chính quyền Thiệu chấp nhận tạm thời quyền sinh sống và làm ăn của rất nhiều nông dân đang canh tác, chuẩn bị cho một cuộc cải cách sâu rộng.

Chương trình Người cày có ruộng cũng chính thức giới hạn hạn mức điền địa cho những người “trực tiếp canh tác” là 15 ha tại Nam phần và 5 ha tại Trung phần. Ông cũng loại trừ khái niệm và quyền giữ “đất hương quả”, vốn là một lỗ hổng pháp lý trong luật pháp thời Ngô Đình Diệm, để bảo đảm quá trình tái phân phối ruộng đất không bị ảnh hưởng. Hàng loạt các lãnh đạo và bộ trưởng liên quan đến việc soạn thảo dự thảo Luật Người cày có ruộng cũng bị sa thải khi phát hiện ra rằng họ cố tình cài cắm nhiều điều khoản để bảo vệ quyền lợi của các nhóm lợi ích.

Cho đến năm 1973, cùng lúc với thời điểm Hoa Kỳ rút quân lực chính quy khỏi Việt Nam, 2,7 triệu mẫu đất đã được phân phối cho hơn 800.000 hộ tá điền. Chế độ sản xuất nông nghiệp tá điền hoàn toàn được loại bỏ.

Cho đến thời điểm năm 1975, chỉ tính tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, 70% dân số nông thôn đã thuộc nhóm thu nhập trung bình, sở hữu hơn 80% đất và hơn 60% nông cụ (bao gồm cả các loại nông cụ hiện đại như máy cày, máy tuốt lúa). Đây chính là cái gai “tư hữu – tư bản” mà chính quyền tiếp quản và chính quyền của nhà nước cộng sản thống nhất không thể nhổ tận gốc, dẫn đến sự thất bại nghiêm trọng của mô hình sản xuất tập thể được áp đặt ngay sau đó.

Người cày có ruộng, vì vậy, không thể được xem là một thất bại chính sách. Một trong những luận điểm phổ biến nhất để phản bác tính chính danh của chính quyền VNCH là vai trò và sự thất bại của nó trong việc cải thiện bất bình đẳng xã hội, mà quan trọng nhất là bất bình đẳng về đất đai.

Luận điểm này được chính truyền thông phương Tây đề xuất, khẳng định và tuyên truyền một cách mạnh mẽ. Theo đó, cả Hoa Kỳ lẫn chính quyền Sài Gòn đều thiếu hiểu biết và cố chấp trong việc kiểm soát và giải quyết triệt để nhu cầu cùng quyền lợi chính đáng của nông dân và người lao động. Đó là lý do chủ yếu khiến các nhóm dân cư, mà đặc biệt là dân sống tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, xem trọng vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (hay gọi ngắn là Việt Cộng).

Lập luận này được phân tích chi tiết trong quyển “The Economics of Insurgency in the Mekong Delta of Vietnam” của tác giả Robert L. Sansom. Nó đi xa đến mức khẳng định rằng Việt Cộng là một trong những lực lượng giúp mang đến và duy trì những thay đổi kinh tế, xã hội tích cực cho vùng đồng bằng này, đặc biệt tại những vùng mà chính quyền VNCH không thể kiểm soát.

Tờ bướm của chính phủ Việt Nam Cộng hòa quảng bá chương trình “Người cày có ruộng”. Ảnh: Viet Stamp.

Tuy nhiên, cho dù chấp nhận những quan điểm và luận cứ trên, rằng sự ủng hộ của giới nông dân, tá điền, những người cùng khổ dành cho phe Cộng sản là căn nguyên cho sự sụp đổ của VNCH, ta cũng cần thẳng thắn thừa nhận rằng có điều bất thường về thành quả nông nghiệp và đất đai của vùng đất trù phú này ngay sau 1975.

Sống trong môi trường chính trị cộng sản mà nhiều người cho rằng nông dân miền Nam luôn hy vọng và ủng hộ, vì sao năng suất sản xuất lúa nước giảm lần lượt 13,2% và đến 19,7% trong các năm 1977 và 1978?

Theo thống kê chính thức từ nghiên cứu do Giáo sư Võ Tòng Xuân, một trong những cây đa của ngành nông nghiệp Việt Nam đương đại, kết hợp với Prabhu L. Pingali từ Viện Nghiên cứu lúa gạo Quốc tế thực hiện, ngay sau khi thống nhất đất nước, tổng sản lượng lúa giảm đến 7 triệu tấn, và giảm dần đều mỗi năm 6 triệu tấn trong một thời gian đáng báo động.

Không chỉ vậy, những cải cách về đất đai và kinh tế lao động tập thể mà Hà Nội áp dụng tại khu vực này được ghi nhận là chỉ làm căng thẳng hơn tình trạng bất bình đẳng về quyền và lợi ích, làm bùng nổ tranh cãi và bất ổn chính trị.

Điểm thú vị ở đây là, nếu chúng ta cáo buộc chính quyền miền Nam Việt Nam đã không bảo đảm được đời sống, quyền tiếp cận đất đai và bảo vệ bình đẳng xã hội dành cho nông dân, tá điền; vì sao những người này trong giai đoạn sau 1975 lại phản đối một cơ chế đất tập thể rõ ràng bình đẳng hơn và đại đồng hơn?

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa phát hành vé số đặc biệt, xổ ngày 30/4/1970, nhân chương trình “Người cày có ruộng”. Ảnh: Viet Stamp.

Cụ thể, từ năm 1970 cho đến năm 1973, cùng giai đoạn Hoa Kỳ rút quân lực chính quy khỏi Việt Nam, 2,7 triệu mẫu đất đã được phân phối cho hơn 800.000 hộ tá điền. Chế độ sản xuất nông nghiệp tá điền hoàn toàn được loại bỏ. Thiệu được khen ngợi là chính thức xây dựng thành công nền nông nghiệp trung lưu đồng thời bảo vệ sở hữu tư nhân.

Ở Đồng bằng sông Cửu Long, cứ điểm của các đại điền chủ và trùm đất đai toàn Việt Nam suốt hơn mấy thế kỷ, 70% dân số nông thôn đã thuộc nhóm thu nhập trung bình, sở hữu hơn 80% đất và hơn 60% nông cụ.

Không chỉ vậy, tiêu chuẩn về cái gọi là tá điền, trung nông, phú nông cũng hoàn toàn vượt trội so với cái mà chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc xây dựng.

Ví dụ, theo phân tích của Minh‐Tam T. Bui và Arayah Preechametta, nếu chương trình “Người cày có ruộng” xác định người sở hữu từ 1 đến 3 ha đất là “bần cố nông”, cũng những người này sẽ bị cáo buộc là “địa chủ trung lưu” trong hệ thống chính trị sau 1975.

Bảng so sánh sự khác biệt trong cách thức phân loại các chủ đất giữa hai hệ thống, “Người cày có ruộng” của Việt Nam Cộng hòa và hệ thống chính trị sau 1975. Nguồn: Nghiên cứu “Land Inequality or Productivity: What Mattered in Southern Vietnam after 1975?”.

Như vậy, có thể khẳng định rằng trước 1975, chế độ tá điền đã bị bãi bỏ, công bình đất đai đã được thiết lập tại miền Nam Việt Nam, và người nông dân cũng đã trải nghiệm niềm hạnh phúc của “Người cày có ruộng” trong ít nhất 5 năm.

Nghiên cứu chi tiết của Charles Stuart Callison, một trong số ít các tác giả phương Tây gắn bó với chính sách cải cách đất đai của VNCH, khẳng định rằng sự ủng hộ của các nhóm dân cư như nông dân, tá điền và người sinh sống tại vùng nông thôn miền Nam Việt Nam dành cho phe nổi dậy Việt Cộng đã giảm rõ rệt.

Ông chỉ ra sức mạnh quân sự cũng như nền tảng ủng hộ quần chúng của Việt Cộng đã không còn như xưa, đặc biệt sau trận Tết Mậu Thân 1968. Nguyễn Văn Thiệu ở một mức độ nào đó đã chiến thắng cuộc chiến du kích và nổi dậy với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Sự kiện Sài Gòn thất thủ, vì vậy, có nhiều cơ sở để được xem là một thất bại quân sự thuần túy của một đội quân bị tiêu giảm nhiều nguồn tài lực hỗ trợ so với trước đó, cùng với những sai lầm chiến thuật khác; thay vì là một thất bại về dân vận và nền tảng ủng hộ đại chúng như nhiều tài liệu và nhà quan sát phân tích.


Tương tự cũng giúp các thương phế binh trở về dân sự qua các chương trình dạy nghề, cũng như cấp dưỡng lương bổng để tránh nổi loạn, cũng như không làm xiêu lòng các quân nhân tại ngủ nếu thấy chính phủ không đối xử tốt với đồng đội của mình bị tàn phế.

Có dạo mình thấy mình thấy thương phế binh cắm dùi, chiếm đất của thiên hạ để xây nhà cho họ tại Đà Lạt. Sau này mới hiểu là chính phủ Việt Nam Cộng Hoà có chương trình chuyển các thương phê bình lên Đà Lạt và nhiều nơi khác để trở về đời sống dân sự. Đà Lạt có làng thương phế binh nếu mình không lầm nằm gần viện đại học Đà Lạt. Hình như bố của ông Thi Đà Lạt, khi xưa làm giám đốc làng thương phế binh thì phải. Đà Lạt ít người nên thương phế binh dạo đó gốc Đà Lạt chắc ít nhưng chính phủ chuyển về Đà Lạt nhiều nên bắt đầu có nạn xây nhà cửa không giấy phép.


Người ta nói lính trinh sát 302 khi xưa là kiêu binh nhưng mình nghĩ mấy ông thương phế binh mới chính là kiêu binh, thí mạng cùi thì có ai dám lộn xộn. Cò Giao, cò Mạnh hay cò Đào cũng bỏ chạy tá lả khi gặp mấy ông này. Nay đọc tài liệu xưa mới hiểu có chương trình đưa thương phế binh lên Đà Lạt, 

Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) coi việc chăm sóc thương phế binh (TPB), những cựu quân nhân bị thương tật do chiến tranh là một phần quan trọng của chính sách xã hội và quân sự, nhằm tri ân sự hy sinh, ổn định xã hội và khuyến khích tinh thần binh sĩ. Các chương trình này được xây dựng dựa trên Hiến pháp của đệ nhất cộng hoà năm 1956 và các luật sau đó, như Luật Thương Binh năm 1964, với ngân sách riêng từ Bộ Quốc phòng và Bộ Xã hội Lao động. Ước tính, đến tháng 4 năm 1975, có khoảng 20.000–30.000 TPB VNCH, và chính phủ hỗ trợ họ qua bốn trụ cột chính: trợ cấp tài chính, y tế, tái định cư và việc làm. Những nỗ lực này được đánh giá cao bởi các tổ chức quốc tế như USAID và Liên Hiệp Quốc lúc bấy giờ, giúp giảm gánh nặng xã hội và ngăn chặn bất ổn.


Đậu tú tài về Sàigòn, ở nhà bà Dì ngay cây xăng Bà Huyện Thanh Quan, đối diện có trung tâm chỉnh hình cho các thương binh nên thấy họ ra vào nhiều, thấy thương nên mình chả muốn dính dáng vào chiến tranh nên xin du học cho khoẻ đời nông dân.

Sau Hiệp định Genève 1954, VNCH đối mặt với chiến tranh du kích do Hà Nội chủ trương cài đặt lại cán bộ của họ để tiếp tục cuộc chiến và leo thang từ 1965 khi quân đội Mỹ, nghĩ là chỉ vài tháng sẽ dẹp xong mặt trận giải phóng miền Nam như ông thần Puchin nghĩ là trong vòng vài ngày là dứt điểm Ukraina. Chính phủ Ngô Đình Diệm (1955–1963) khởi xướng các chương trình ban đầu, mở rộng dưới thời chính phủ Nguyễn Văn Thiệu (1967–1975) với sự hỗ trợ Mỹ. 


Mục tiêu là “người cày có ruộng, phế binh có nhà”, khẩu hiệu nhấn mạnh công bằng xã hội. Xem phim thời sự khi đi xem xi-nê ở rạp Hoà Bình hay Ngọc lan hay chiếu mấy vụ này. Thấy ông Thiệu chụp hình với nông dân có đất và thương phế binh có nhà, tuyên truyền này nọ. Theo báo cáo của Bộ Quốc phòng VNCH, đến 1974, hơn 80% TPB được hỗ trợ, với quỹ hàng năm khoảng 10–15% ngân sách xã hội (tương đương hàng triệu USD thời đó, nhờ viện trợ Mỹ).

Mình nhớ anh Ngữ, con đầu của ông bà Ấm Thảo xóm trên đường Thi Sách, kể trận chiếm lại HẢi LĂng, anh ta bị Việt Cộng bắn bay mất một con mắt nên được giải ngủ. Nghe kể lúc tái chiếm lại Quảng Trị, lính Việt Nam Cộng Hoà và bộ đội bác hồ chết như rạ. Hai bên đánh thuê cho các chủ nghĩa tư bản và cộng sản. Mình có ông cậu ruột, quan sát viên trên máy bay bà già để xem Việt Cộng đóng quân ở đâu rồi bắn đạn khói để khu trực cơ bay lại thả bom. Có lần bị bắn hư con mắt, giải ngủ. Sau 75, Việt Cộng vào kêu anh là thành phần ác ôn, chỉ điểm cho giặc lái dội bom bộ đội bác hồ thế là đi tù mất 6 năm.


Chính phủ VNCH thành lập hệ thống toàn diện, phân loại TPB theo mức độ tàn tật (nhẹ: 10–30%, nặng: trên 50%, đặc biệt: mất chi hoặc mù). Các chương trình được Nha Thương Binh quản lý (sau là Cục Thương Binh) thuộc Bộ Quốc phòng, phối hợp với Hội Hồng Thập Tự và các tổ chức tôn giáo.


•  Trợ cấp hàng tháng: TPB nhận tiền mặt dựa trên mức độ thương tật, từ 5.000–20.000 piastres/tháng (khoảng 10–40 USD thời giá), cộng thêm phụ cấp gia đình (vợ/con). TPB nặng được miễn thuế và ưu tiên giáo dục con cái.

•  Quỹ Hưu Trí Đặc Biệt: TPB trên 50% tàn tật được hưu trí sớm, với mức 70–100% lương quân sự cuối cùng. Năm 1972, hơn 15.000 TPB nhận trợ cấp định kỳ, giúp họ tránh nghèo đói.


•  Bệnh viện chuyên ngành: Xây dựng các trung tâm như Bệnh viện Grall (Sài Gòn) và các chi nhánh ở Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ, chuyên phục hồi chi giả, chỉnh hình và tâm lý. Hợp tác với Mỹ cung cấp thiết bị (chân tay nhân tạo).

•  Chương trình phục hồi: Miễn phí khám chữa, thuốc men và liệu pháp (vật lý trị liệu). Đến 1970, hơn 5.000 TPB được lắp chi giả.

•  Hỗ trợ tâm thần: Các chương trình chống trầm cảm sau chấn thương, kết hợp với cố vấn Mỹ. Vụ này ở Hoa Kỳ, đa số các cựu chiến binh đều dính phải nên mình không hiểu ở Việt Nam có bị hay không. Bộ đội bác hồ chắc không ít thì nhiều chắc vẫn bị. Mình có ông chú họ, ở quê bị thương ở chiến trườn ghiền nam, kể là sợ lắm cháu ơi. Sống sót về quê được là may rồi.


•  Chương trình “Phế Binh Có Nhà”: Phân phối đất đai và nhà ở tại các khu tái định cư như Vùng 4 Chiến Thuật (miền Tây), Đà Lạt và ngoại ô Sài Gòn. Mình đoán lý do Đà Lạt là vì đa số các vùng khác đều bị Việt Cộng chiếm đóng, vùng xôi đậu, nên họ chỉ cho TPB về những nơi an toàn, gần thành phố.


Mỗi TPB nặng nhận 1–2 hecta đất canh tác, hỗ trợ giống cây và vốn vay. Liên kết với luật“Người Cày Có Ruộng”: TPB được ưu tiên trong cải cách ruộng đất (Luật 1970), nhận ruộng từ địa chủ, giúp hàng nghìn gia đình ổn định.

•  Kết quả: Đến 1974, khoảng 10.000 TPB có nhà riêng, giảm tình trạng vô gia cư.


TPB còn nhúc nhích, sử dụng chân tay được thì phải dạy họ nghề để làm ăn, tự nuôi thân và vợ con. Các trung tâm dạy nghề miễn phí (nông nghiệp, cơ khí, may mặc) tại Sài Gòn và các tỉnh. Hợp tác với ILO (Tổ chức Lao động Quốc tế) cung cấp học bổng.


Ở xóm Cò Đào, có hai ông thần Sơn và Tánh , thợ may, không thấy đi lính. Không biết họ là thương phê bình, hay lính kiểng, để đại đội trưởng lãnh lương của họ, rồi ở nhà may áo quần cho dân choai choai Đà Lạt.

•  Ưu tiên tuyển dụng: TPB được quota 10–20% trong công chức nhà nước và công ty, cộng thêm ưu đãi thuế cho chủ sử dụng lao động. Đa số thanh niên đi lính hết nên thiếu nhân công, thợ thuyền.

•  Hỗ trợ kinh doanh: Vay vốn lãi suất thấp qua Ngân hàng Phát triển Nông thôn. Dạo ấy cứ nghe đài phát thanh nói về ngân hàng phát triển nông thôn mà mấy ông kẹ về ban đêm thì bù trớt.


Các chương trình này không chỉ cứu trợ mà còn củng cố lòng trung thành của quân đội, góp phần vào sự ổn định xã hội miền Nam. Theo đánh giá của USAID (1973), VNCH dẫn đầu Đông Nam Á về chăm sóc TPB, với tỷ lệ tái hòa nhập xã hội lên 70%. Tuy nhiên, chiến tranh leo thang làm ngân sách eo hẹp, và sau 1975, nhiều TPB rơi vào hoàn cảnh khó khăn do thiếu hỗ trợ từ chính quyền mới. Có người bị đưa đi cải tạo như ông cậu mình mất 6 năm. Hy sinh đời bố củng cố đời con nên sau này được đi Hoa Kỳ theo diện H.O.


Lần đầu tiên về quê, ngủ lại đêm nhà thờ ông bà, sáng 5 giờ sáng thì nghe cái loa phường đọc tên các người trong làng đã hy sinh tại mặt trận Điện Biên Phủ, được chính phủ cấp tiền cho gia đình của liệt sĩ. Có ông chú bị thương tại chiến trường Nam Bộ, nghe nói được nhà nước hổ trợ khi về quê. Nhưng mình đoán các thương binh của Việt Nam Cộng Hoà thì chắc chả được gì trong tinh thần hoà giải hoà hợp dân tộc.


Hàng năm ở quận Cam hay trên San Jose, mình thấy cộng đồng người Việt tổ chức đại nhạc hội để gây quỹ cho thương phế binh tại Việt Nam. Nghe nói sau 75, thành phần này te tua, không được hổ trợ gì cả thêm có nợ máu với bộ đội nên nghe nói cuộc đời họ te tua lắm. Ăn mày, bán nhang, bán vé số,…


Có anh kia quen trên mạng, sinh sống tại Việt Nam, thương phế binh, kêu là anh ta có nhận được tiền của người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ gửi về nhưng mình đoán chỉ tượng trưng thôi. Giúp đỡ tinh thần của họ lên cao một tí để sống còn vì họ mới chính là người thua cuộc hoàn toàn trong cuộc chiến. Người nào may mắn, được đi theo diện H.O. Hay đoàn tụ thì có thể hy sinh đời bố củng cố đời con còn nếu ở lại Việt Nam thì đời con đời cháu cũng khó ngóc đầu lên.


Những chương trình giúp thương phế binh tại Việt Nam là minh chứng cho tinh thần nhân đạo, nhắc nhở rằng hy sinh vì đất nước xứng đáng được tri ân muôn đời dù bên thua cuộc hay thắng cuộc. Họ chỉ vì sinh ra tại miền nam hay trên vỹ tuyến 17 rồi được đào tạo và gia nhập quân đội hay bộ đội rồi bắn nhau như trường hợp của cuốn phim “Ngày Giỗ”. Hai anh em sinh ra tại Sàigòn. Ông bố đấu tranh chống chính quyền Sàigòn, rồi bị cảnh sát dí nên trốn vào bưng, đem theo người em. Người anh thì bị bệnh nên bà mẹ không cho đi theo. Lớn lên, người anh đi lính Cộng Hoà, còn người em vào bưng thì đi lính cách mạng.


Một hôm trên chiến trường, người anh bắn chết một cán binh Việt Cộng thì khám phá ra là em mình. Sau 75, người anh đi tu để sám hối một đời oan nghiệt. Ai buồn đời thì xem đường dẫn phim ngắn “Ngày Giỗ” của đạo diễn Hàm Trần.


https://youtu.be/0CJE1p7eS9c?si=48fO4lyk04uugiUr


Mình có 2 ông chú ruột, 1 bị Tây bắn chết, 1 bị B52 của Mỹ dập chết trên đường vào Nam còn ông cụ mình vào nam vì không muốn tiếp tục làm nông dân. Sau 75, bị cải tạo 15 năm. Còn chú họ hy sinh hay bị thương tại chiến trường miền nam thì đếm không hết. Bên ngoại thì đi lính miền nam, bị thương, chết cũng nhiều. Cho thấy chiến tranh chỉ toàn là chết chóc, chả giúp được gì. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét