Nữ hoàng Bolero
“Khi xưa mấy bài này thấy sến mà nay đánh đàn hát thấy hay”. Đồng chí gái dạo này học đàn mấy bài Bolero khiến mình thất kinh vì cô nàng hay la mình sao anh sến quá vậy mà nay lại thích nhạc Vàng. Từ khi đồng chí gái về hưu thì bỏ hết thời gian vào đam mê, muốn làm ca sĩ, trở thành nữ hoàng Bolero. Mình không biết cô nàng có bao nhiêu cây đàn, cái trên xe, cái ở phòng khách , cái trong phòng ngủ, trong tương lai có thể có cả trong phòng tắm.
Có vợ muốn trở thành ca sĩ cũng vui. Mình nghĩ từ khi mụ vợ về hưu, hình như mình phải trả tiền quần áo mụ vợ mua nhiều hơn khi đi làm. Hồi mới lấy nhau, mụ không chịu bận áo dài, nay chả hiểu sao mụ mua khá nhiều áo dài để bận đi hát trong các viện dưỡng lão, cho khán giả đa số trả nhớ về không. Ngoài ra mụ còn bận áo quần rất nghệ sĩ, cứ làm như các hippie một thời ở đại nhạc hội Woodstock, đeo bandeau, bận quần ống loa, lên sân khấu sàn tới sàn lui, sàn qua bên phải rồi sàn qua bên trái. Sáng ra, điều dưỡng viên tọng cho một ly thuốc, bỏ lên xe lăn kéo ra phòng tập thể, say thuốc , đầu ngẩn ra phía sau, ngáp ngáp, lâu lâu rú lên như tiếng còi xe lửa trong đêm thâu.
Cuộc đời vui thật. Ca sĩ cứ hát ban nhạc cứ đánh không có ai xì xào, hát chùa nên các viện dưỡng lão thích lắm, cứ kêu hát hoài. Về già mụ vợ đi làm ca sĩ già cho các khán giả ở các viện dưỡng lão còn mình thì đi làm vườn trồng bơ tưới cây, đuổi coyote, trở về đời nông dân.
Làm ô sin, mình phải ủng hộ một ca sĩ đã về già. Khi nào mụ đi hát, phải đi theo để ủng hộ, vỗ tay cho to vì khán giả đa số, chỉ biết gào ê a. Ỷ Lan đẻ 5 con cho chồng nuôi rồi mới bắt đầu lên sân khấu vào tuổi 40, còn mụ vợ thì 30 năm sau mới bước lên sân khấu. Ở viện dưỡng lão thì không có ánh đèn sân khấu nhưng các tiệm ăn thì có đèn chớp chớp. Tuần rồi, mình đang ở tỏng vườn, mụ gọi điện thoại ra xem họ hát hay lắm, nên phả bỏ cuốc xẻng, chạy về ra bolsa để nghe mụ hát. Có mấy người bạn cũng buồn đời đi học hát, học hò lên sân khấu. Phải vỗ tay cho gà nhà.
Mình hiểu ngày nay ở Hà Nội, họ gọi Nhạc Vàng là Nhạc Sến khi xưa trước 75. Sau 75 thì họ kêu là nhạc đồi trụy nhưng rồi không hiểu sao sau 50 năm, nhạc đỏ của họ hết được nhân dân hát, ngay nhựa cúc Trần Tiến trên đài truyền hình, không biết thâu tức hay trực tiếp mà kêu là quên Nhạc Đỏ đi. Và chỉ hát khắp 3 miền nhạc sến của nguỵ quân nguỵ quyền. Họ lại thăng cấp lên Nhạc Vàng nhất là nay vàng lên $5,000. Chán Mớ Đời
Cả chục năm rồi, mình có nghe một ông thần bên Úc Đại Lợi nói trên YouTube về lịch sử tân nhạc Việt Nam từ thời tây sang đến 1975. Không nhớ tên, ai tò mò thì tìm trên YouTube. Nếu mình không lầm thì khi người pháp sang Việt Nam, các người theo tây học, thay vì đi nghe hát ả đào như Nguyễn Tuân, họ bị ảnh hưởng bới nhạc của tây phương. Người Pháp sang Việt Nam thì đem theo mấy đĩa nhạc cuả họ thêm nhảy đầm theo các vũ điệu Tango, Rumba, Bolero, Slowrock thêm phát thanh trên đài giúp người Pháp nghe nhạc để quên nổi buồn xa xứ như sau 75, đa số người Việt di tản, tỵ nạn cũng hay sao băng cassette để nghe nhạc Sàigòn khi xưa.
Từ đó người Việt mới bắt đầu học hỏi âm nhạc của người Pháp rồi biến tấu qua lời Việt mà họ gọi là nhạc cải cách (musique rénovée). Thời kỳ này thường được xếp vào thể loại tiền chiến, trước 1945 khi người Việt bắt đầu kháng chiến chống pháp. Bố vợ mình kêu là thời kỳ lãng mạn, thanh niên bị ảnh hưởng rất nhiều do đó theo kháng chiến như ông Che Guevara, lãng tử đi khắp xứ làm cách mạng. Thời đó có Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Văn Cao, Đoàn Chuẩn – Từ Linh… nhưng dạo đấy vẫn được xem trọng, chưa được gọi là nhạc sến. Nếu mình không lầm chữ Sến có nghĩa là mấy chị giúp việc trong nhà, dưới quê bỏ chạy giặc lên Sàigòn, hay gánh nước thường họ gọi là Marie Phong-ten (đến từ chữ pháp Fontaine, bể nước)
Sau Hiệp định Genève 1954, một lượng lớn dân Bắc hơn 1 triệu người di cư vào Nam, mang theo văn hoá âm nhạc riêng. Các nhạc sĩ như Phạm Duy, Dương Thiệu Tước,… Người miền Nam thích nhạc dễ hát, dễ nghe, giai điệu chậm, buồn. Như thể loại nhạc ca tài tử, cải lương,…
Chỉ khi quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam thì các điệu nhạc Bolero Latin mới du nhập vào miền Nam. Thời ông Diệm thì cấm nhảy đầm nhưng khi người Mỹ vào thì vũ trường, quán bảo, phòng trà mọc lên như nấm khiến nhạc bình dân có đất sống. Mình nhớ bà dì mình khi xưa mê Tino Rossi lắm.
Thời kỳ này bắt đầu xuất hiện phong cách sáng tác “nhạc vàng”; Lời ca mộc mạc, thẳng thắn, nói về tình yêu, chia ly, xa cách. Giai điệu chậm, rải đều, dễ thuộc. Khi xưa có bà hàng xóm nghe đài Sàigòn buổi chiều nên cứ nghe đài phát thanh nhạc, dù bé chả hiểu gì nhưng đến này lâu lâu mình rú lên “gác lạnh về khuya cơn gió lùa…có người con gái buông tóc thể,…” mình chả biết ai hát hay tác giả, chỉ nhớ khi xưa đài Sàigòn phát thanh.
Sau này lớn lên một tí thì ông cụ mình mua các băng nhạc như Trường Sơn của Duy Khánh, mới bắt đầu nghe đến Lam Phương, Trúc Phương, Hoàng Thi Thơ, Hồ Đình Phương, Châu Kỳ… ông cụ mình hay mở băng nhạc Trường Sơn của Duy Khánh để nghe bài “tôi ở miền xa trời cao đất lạ,…” nhất là bài “con biết bây giờ mẹ buồn em trông, khi thấy mai vàng nở đầy trên mương,…” dạo ấy mình thấy ông cụ ngồi trên ghế nghe rất mê mệt. Sau này ra hải ngoại mình mới hiểu tâm sự của ông cụ khi tết về, xa quê, xa gia đình khi nhớ đến bài “Xuân này con không về”.
Theo tài liệu mình đọc thì được biết là giai đoạn nhạc sến đạt đỉnh cao, đồng thời gắn liền với thân phận, chiến tranh và đời lính. Họ cho rằng chiến tranh lan rộng đưa đến dòng nhạc nói về cuộc chiến qua những ca khúc buồn, chia ly, nhớ nhung trở thành tiếng lòng của số đông người miền Nam. Mình thấy uỷ mị, làm mất đi tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Đọc đâu đó, các nhà văn, nhạc sĩ nằm vùng như Phạm Thế Mỹ, được lệnh của Trần Văn Giàu, sáng tác những tác phẩm làm ru ngủ người dân Miền Nam.
Trong khi đó nhạc của Hà Nội được gọi là Nhạc Đỏ, với những lời ca như “đường ra trận mùa này đẹp lắm,…” kinh. Đường đi giết người mà đẹp. Thì ca thì Tố Hữu, nghe nói ông ta là bộ trưởng văn hoá của Hà Nội viết như:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt
Ngoài các nhạc phẩm được phát thanh trên các đài phát thanh, thêm băng nhạc và cassette đã đóng góp vào sự quảng bá các nhạc phẩm cho quần chúng. Mình nhớ ông bà cụ có dẫn đi xem đại nhạc hội tại Đà Lạt, có CHế Linh hát bài Những Đóm Mắt Hoả Châu thêm có ông mỹ Rick Murphy hát tiếng Việt khiến dân Đà Lạt kháo nhau đi xem.
Đại loại các nhạc phẩm “sến” nói về tình yêu đôi lứa trong chiến tranh, Nỗi niềm người lính xa nhà, Thân phận người phụ nữ, Kiếp nghèo, cô đơn, lỡ làng và nhạc sĩ sử dụng nhịp bolero 4/4, câu hát lặp lại nhiều để “vào tim”. Hình như Nhật Trường, Trần Thiện Thanh làm nhiều bài hát khá thịnh hành, với những bài hát nói về người lính tên Đương hay người ở lại Charlie,…
Nhạc sến hình thành từ ảnh hưởng nhạc Tây và đời sống bình dân miền Nam, phát triển mạnh nhất 1963–1975 với chủ đề buồn, chia ly, đời lính, rồi sống tiếp ở hải ngoại, và hồi sinh rực rỡ ở Việt Nam hiện đại.
Âm nhạc giúp những người trả nhớ về không tìm lại ký ức của họ. Mình có xem một phim tài liệu về một ông người Mỹ, đi vào các viện dưỡng lão, gặp mấy người lớn tuổi, bị bệnh trả nhớ về không. Ông ta mở nhạc, các bài ca thời của họ còn trẻ thì như đúng tầng số, mấy người này đứng dậy và bắt đầu múa hát nhảy cà tưng, cà tang. Họ khuyên chúng ta về già nên có lẻ chúng ta nên họ chát karaoke, hay trên sân khấu hoặc chơi đàn hay Keyboard,… mình có anh bạn, bác sĩ về hưu sớm để bỏ thì giờ đi học đàn và hát. Anh ta mê hát lắm. Hội đoàn nào mời là đi hát. Mình không biết chừng nào hết nợ nàng với kiếp đam mê hát hò. Chỉ muốn mụ vợ càng hát càng học đánh đàn là mình vui. Một ngày nào đó sẽ trở thành nữ hoàng Bolero của Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen .
Nguyễn Hoàng Sơn

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét