Hiển thị các bài đăng có nhãn Đàlạt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đàlạt. Hiển thị tất cả bài đăng

Out of Africa (rời khỏi Châu Phi)

 Mình theo dõi nhóm chuyên viết lịch sử về phụ nữ, âm thầm thay đổi xã hội, văn hoá, chính trị nên lâu lâu thấy họ đăng lịch sử những bà nhà văn, nhân vật nào đó… mà mình có dịp đọc khi xưa. Thật ra từ một thế kỷ qua, nhiều nhân vật nữ trên thế giới đã thay đổi rất nhiều xã hội về văn hoá, khoa học,… 

Mình có một sự kính nể các phụ nữ qua hình ảnh bà cụ mình, dù chưa bao giờ được đến lớp học nhưng vẫn thành công trong cuộc đời, không để sự nghèo hèn của ông bà mình, vẫn vươn lên trong xã hội tại Việt Nam. Do đó mình có đam mê tìm kiếm các nhân vật phụ nữ trong lịch sử để xem họ đã thay đổi xã hội, chế độ phụ hệ ra sao. Hôm nay có một bà, nói cho ngay không biết tên, chỉ nhớ dạo đi làm ở Luân Đôn thì có xem phim “Out Of Africa” có Robert Redford và Meryl Streep đóng với những phong cảnh đẹp nức nở. Sau này mình có dịp đi leo núi Kilimanjaro thì mới cảm nhận được hình ảnh trong phim. Hình như đạo diễn là Sydney Pollack. Đi xem vì bà thư ký trong công ty, người gốc Ấn Độ nhưng được sinh tại Kenya, rồi lấy chồng Anh quốc, di dân qua Luân Đôn, kêu mình đi xem. Đọc báo dạo đó nói là sau khi phim này trình chiếu thì dân Anh quốc đi nghỉ hè ở Phi châu đông còn hơn người Anh quốc.

Câu chuyện về một phụ nữ chôn người mình yêu tại Phi Châu, rồi chứng kiến đồn điền cà phê của bà ta banh ta lông sau bao nhiêu năm công sức xây dựng vì nói gì thì nói chớ trong một văn hoá như Phi châu, một phụ nữ khó mà sai khiến các nông dân ngu lâu dốt bền như mình nên khó mà thành công. Bà ta trở về âu châu, đói, hết tiền, bệnh và đơn côi. Bà ta mất hết những gì sỡ hữu tại phi châu, tình yêu, tài sản và kể lại hồi ức của thời gian tại phi châu, và cuốn sách này trở thành hồi ký được yêu thích nhất thế giới tây phương.


Karen Dinesen sinh năm 1885 trong một gia đình quý tộc, thông minh, tài hoa và cảm thấy ngột ngạt trong một nền văn hoá, đào tạo phụ nữ thành một hình thức trang trí và tuân lời đàn ông. Năm 28 tuổi, thời đó được xem là ế nguyên thuỷ, bà ta quyết định lấy bá tước Bror von Blixen-Finecke không vì tình yêu và muốn tìm con đường thoát ly. Lý do là bà ta yêu người em sinh đôi của chồng nhưng tên này từ khước, tiếp thu mối tình hữu nghị sông không liền sông núi không liền núi của bà nên chơi sang, lấy thằng anh để tên phụ bạc gọi bà ta bằng chị.


Ông chồng thích giang hồ, khó tin tưởng nhưng ông ta đem đến cho bà một lối thoát ra khỏi Đan Mạch, và họ rời Đan MẠch di dân sang Kenya, Phi Châu. Hai vợ chồng mua độ 450 mẫu đất dưới chân đôi Ngong, gần Nairobi. Và trồng cà phê, được xem là “kim thuỷ”, sẽ làm cho họ giàu có, khi đem cà phê về âu châu bán như Starbuck. Như bao nhiêu kẻ phiêu lưu, họ không biết gì về trồng trọt nhất là cà phê nơi xứ lạ. Đất của họ mua nằm trên đồi, cao độ quá cao để trồng cà phê. Đêm đêm trời lạnh nên cây cà phê chới với. Vụ này thì mình hiểu vì vườn bơ của mình ở vùng Riverside, nằm trên đồi cao, không nằm trong khu vực bị lạnh cứng chớ vùng Temecula thì có vấn đề này hay cách vườn mình độ 5 dặm, nằm dưới thấp là ngọng. Mùa đông lạnh dưới 30 độ F thì chủ nông trại phải đốt lửa rồi dùng quạt gió để thổi hơi ấm nếu không thì trái bị đông cứng thì bị hư ngay. Khu vực vườn mình thì nằm trên cao nên có gió thổi nên không bị lạnh lắm nên không vướng vụ này. Hú vía.


Ông chồng thì thuộc giống quý tộc nên tối ngày đi săn thú Safari như tây đồn điền khi xưa ở Đà Lạt. Nên bà ta từ một gia đình quý tộc phải làm lo lắng mọi thứ cho nông trại. Tiền bạc, nông dân,… rồi một ngày đẹp trời, ông chồng đi săn về và truyền cho bà ta bệnh hoa liễu vì gái gú trong các chuyến đi săn.

Thời ấy thì chưa có thuốc chữa như ngày nay. Họ chỉ hạn chế bằng cách sử dụng thạch tín và thuỷ ngân nên huỷ hoại từ từ thân thể của bà ta. Bà ta phải trở về Đan Mạch nhiều lần để chữa trị, thuỷ ngân làm hư răng của bà ta, hệ thống tiêu hoá cũng như thần kinh. Bà ta đau ốm cả đời đến khi qua đời. Có một ông gốc Đà Lạt kể cho mình là ông bố đi chơi gái bị bệnh hoa liễu về làm một phát bà mẹ bị bệnh này luôn nên hết sinh con đẻ cái. May là thời đó tây đã tìm được thuốc chữa trị.


Bà ta ly dị ông chồng năm 1925 sau 12 năm chung sống sơ sơ nhưng vẫn ở lại giữ cái trại cà phê. Bà ta cương quyết phải thành công. Trong phim họ quay Meryl Streep đẹp như bà mỹ chả thấy hư răng hư cỏ gì cả. 


Buồn đời bà ta có duyên gặp ông Denys Finch Hatton, người Anh quốc, tốt nghiệp đại học Oxford, có văn hoá, trí thức khác với ông chồng bá tước vớ vẩn. Ông thần này thì sang phi châu cũng để đi săn bắn thú và làm phi công. Ông ta yêu bà này nhưng không muốn đám cưới, bị ràng buộc. Trong khi bà ta thì muốn có một cuộc sống an bình. Nên hai người sống với nhau vài tuần rồi ông ta đi săn cả tháng, trở lại.


Trong phim thấy họ quay cảnh nghe nhạc Mozart, đọc thơ, hay xem mặt trời lặn, đủ thứ khiến mình muốn đi phi châu. Khi sang đây thì khám phá trong phim họ không có quay cảnh mấy con muỗi chích hay ruồi bu như ruồi bu. Cho nên khi xem phim là một chuyện còn thực tế là một chuyện. Khỏi phải đưa đồng chí gái sang đây vì mụ vợ không thích bị muỗi chích.


Bà ta có viết là chàng không có nhà ngoài cái lều che nắng che mưa. Thật sự đàn ông không thích bị ràng buộc lắm. Bà này bị bệnh hoa liễu nên mình không biết ra sao, thêm bệnh hoạn, răng cỏ bú xấu la mua. Gần 40 chắc cũng hết khả năng làm mẹ.


Đang bơi lội trong vòng hạnh phúc vô biên, âm nhạc của Mozart, thi ca nên bà ta quên lo vụ cà phê nên nợ nần chồng chất nên cuối cùng đành phải bán nông trại. Hoạ vô đơn chí, ông bồ buồn đời hay sao lái máy bay rồi đâm vào núi. Bà ta chôn người tình không bao giờ cưới ở đồi Ngong, nơi ông bồ yêu thích nhất rồi rời Châu Phi trở về Đan Mạch. Sạch túi, sạch tình. Chỉ còn lại mới ký ức vì cuộc tình không trọn vẹn và sự trống vắng dung dịch vô biên của đời người.


Thông thường ai lâm vào tình trạng của bà ta chắc lâm vào bệnh trầm cảm này nọ. Bà ta thì không, bà ta bắt đầu viết kể lại cuộc đời bà ta từ khi rời Đan Mạch. Bà ta lấy bút hiệu Isak Dinesen (Isak theo tiếng do thái, có nghĩa là “người thích cười” và Dinesen là họ của bà ta). Và bà ta bắt đầu viết về cuộc đời ở Phi châu. Bà ta viết cuốn “Out of Africa” (rời khỏi Phi Châu) và được xuất bản năm 1937. 


Bà ta viết về thiên đàng đánh mất tại pHi châu, một thời trẻ đầy nhiệt huyết, muốn tạo dựng cơ ngơi tại một đất nước khác, không gò bó như những người di dân đến Hoa Kỳ hay một nước nào khác. Đau khổ vì tình yêu, như TTKH đi bên cạnh ái ân của chồng tôi vì bị bệnh hoa liễu. Rồi phát hiện ra mối tình hữu nghị sông liền sông núi liền núi để rồi tình yêu vỗ cánh bay theo chiếc máy bay bà già rớt đâu đó trên ngọn đồi Châu Phi. Nông trại bà ta cố công phát triển cũng tan theo mây khói. Như các gia đình pháp sang Việt Nam như ở Đà Lạt, gia đình La Farrault, O’neil ,…muốn biến Đà Lạt thành khu nông nghiệp trồng trà, nuôi bò này nọ. Mình người Việt thì kêu là thực dân này nọ nhưng thật ra họ đem sự hiểu biết văn mình đến cho các thuộc địa. Ngày nay thực dân đã ra đi, rời khỏi CHâu Phi nhưng người sở tại vẫn không khá gì mấy trước kia. Khi xưa, thằng thực dân bốc lột, nay thằng đánh đuổi thực dân học nghề lại bốc lột dân bản địa nên thấy tương lai mịt mù. Nay người Tàu đến thì lại thấy hình ảnh mấy người sở tại đi tìm các ông ba tàu chém giết vì bốc lột họ.


Sau cuốn Out of Africa, bà có viết thêm nhiều cuốn nữa nhưng không được độc giả ưa thích lắm. Bà ta được đề cử văn chương Nobel mấy lần nhưng không được. Nhà văn Ernest Hemingway cho rằng bà ta xứng đáng là khôi nguyên văn chương Nobel hơn ông ta nhưng có lẻ thời đó xã hội còn kỳ thị phụ nữ.

Nhờ qua tác phẩm của bà ta mà người ta biết đến Safari , thú vật ở phi châu khiến du khách tò mò muốn khám phá. Mình nhờ đọc Hemingway mới muốn bò lên đỉnh núi cao nhất Châu Phi, Kilimanjaro.


Đọc cuốn sách thì hay hơn xem phim. Khi xem phim thì thấy hình ảnh này nọ chuyện tình thì chả hiểu gì nhiều lắm nhưng khi đọc cuốn sách, mới hiểu thêm về chủ nghĩa thực dân, sự xung đột hay đối xử với người bản địa ra sao.


Nay về già mới nhận ra là bà ta như mình, rời Đà Lạt ra hải ngoại, tạo dựng cuộc đời mới, lập gia đình, có con cái. May mắn không gãy cánh giữa đường như nhiều người bạn quen. Cuộc đời qua bao nhiêu chông gai, vợ chồng vẫn đồng hành vượt qua. Trong khi bà Karen, cảm thấy tù túng tại Đan Mạch. Ai chưa đi Đan Mạch chớ xứ này ít người, chán như con gián. Bà ta muốn thoát ra khỏi không gian tù túng, không muốn an phận cuộc đời nên chấp nhận lấy ông chồng không yêu thương gì để thoát khỏi không gian của xã hội cổ xưa.


Hồi ký của bà ta rất sống động, kể về cuộc sống tại phi châu, các toan tính, lo lắng khi làm nông dân, văn hoá phong tục của người bản địa, tình yêu vợ chồng như người tình hờ. Để rồi gặp ông thần phi công. Ông này cũng vậy, muốn thoát khỏi xứ sương mù, lái máy bay chở khánh khách, đi săn bắn. Ông ta cũng như bao đàn ông khác, không muốn bị kềm kẹp vào một tình yêu, bị trói buộc vào trách nhiệm người chồng, người cha. Chỉ muốn yêu như làm thơ, trong khi bà Karen thì muốn biến tình yêu thành công cụ, làm ô sin cho mình.


Bỏ cả tuổi thanh xuân để kiến tạo một tương lai vững vàn về tài chánh, tình yêu để rồi mất tất cả cho nên văn hoá của tây phương không có câu: “đỏ tình đen bạc” hay ngược lại. Đỏ tình thì đỏ tiền còn đen tình thì đen bạc. Anh hay chị có tiền thì gái hay trai đẹp bu lại đen còn hơn ruồi còn không có thì chả có thằng nào hay cô nào bu lại. Chán Mớ Đời 


Nhưng nhờ bà ta can đảm nhìn lại đời thấy rong rêu nên viết lại hồi ký một đời người đầy thất bại, vừa tiền bạc vừa tình yêu bằng anh ngữ. Có lẻ tại phi châu bà ta sử dụng anh ngữ nhiều hơn nhất là khi cặp bồ với ông phi công người anh. Cuối cùng bà ta thành công qua văn chương thay vì qua nghề trồng cà phê. Nhưng phải trải nghiệm mới có chất sống để viết thay vì ngồi bựa ra hay kêu Ây Ai viết dùm. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Paris có gì lạ không sơn

 Paris có gì lạ không sơn


Về Paris năm nay nhận thấy có gì đó thay đổi nhưng đến mấy ngày mới nhận ra đó là xe cộ ít hơn xưa. Đi đường thấy vắng xe và các con đường được thu hẹp lại để dành cho xe đạp và bộ hành. Tiếng còi và tiếng chửi thề khi xưa không còn nghe nhiều. Người ở Paris dường như không còn vội vã như xưa. 

Cứ tới đây mở ứng dụng lấy xe đạp chạy tới chỗ nào đó chán thì bỏ xe ở đó


Hôm trước đi ăn với bạn học Yersin cũ khi ra về mình và cô em lấy uber về thì thấy ít xe thật. Không như xưa nghe chửi bới bấm còi vang cả Paris. 


Mình thấy các viện bảo tàng mọc thêm như nấm. Có lẻ mỗi năm Paris có đến 80 triệu du khách nên họ phải tạo ra những nơi này để thu hút du khách và kiếm tiền. 




Các tiệm nhỏ đóng cửa khá nhiều và nhiều tiệm bán tạp hóa rau cải nhỏ được mở ra nhiều nơi. Các siêu thị như Monoprix, Franprix, vẫn còn hoạt động khác với Hoa Kỳ là các công ty thay đổi tên họ rất nhanh. Các vĩa hè nơi khu phố sang trọng được chỉnh sửa, trồng cây hoa nhất là các bãi đậu xe đạp dài quá cỡ. 



Nghe nói đi xe đạp cũng nguy hiểm vì chạy cũng nhanh và chả nhường nhau gì cả hay gây tai nạn cũng như bị xe hơi làm bisou. Freine ne mange pas Mình thích đi bộ nhưng nếu bác nào thích xe đạp thì đến Paris mướn xe đạp chạy như New York. Làm cái ứng dụng rồi mỗi lần đi trả tiền cũng tiện. Paris thấp ít có đồi nên cũng đạp được. Quảng trường La Concorde không thấy xe nhiều thậm chí chỗ khải hoàn môn thấy ít xe. Hôm qua ghé lại đây gặp một đám người Việt từ Việt Nam sang du lịch kêu đi qua Cartier mua sắm sau đi xuống Louis Vuitton. Quá đỉnh. 


Không hiểu tại sao người Việt gọi con ông cháu cha mà không gọi con cha cháu ông. Bác nào hiểu cho em biết. Tây gọi Fils à papa. 


Đi lại các con hẻm mua sắm của Paris xưa thấy họ trùng tu lại và du khách đến rất đông. Không như khi mình còn sinh viên te tua lác đác vài người đi bộ nhanh để tránh mưa gió. 


Đi ngang tiệm sách thấy dân Tây mua sách rất nhiều, ngoài đường thấy thiên hạ ngồi đọc sách khi chờ đợi thay vì lướt sóng. Khác với người Mỹ vào B&N thấy vài người uống cà phê đọc sách. 


Mình có cảm tưởng người Pháp chú trọng về tinh thần và mỹ thuật hơn là tiền như người Mỹ. Ai hạnh phúc hơn ai. Khó trả lời. 


Phố xá đóng cửa nhiều không ai thuê, khiến các nghệ sĩ nhân dân vẽ grafitti nhiều nhưng mình thấy các tiệm ăn đông hơn xưa cũng như các tiệm bánh mì, bánh ngọt đầy nơi cho du khách. Hôm kia hai anh em đi ăn tiệm đại Hàn thì thất kinh. Khi xưa mình ở Paris thì chỉ có tiệm ăn tàu và Việt Nam, tiệm ăn Nhật thì rất hiếm. Có thể nói mình chưa bao giờ ăn cơm Nhật Bản ở Paris. Ngày nay khu gần opera có nguyên một khu vực toàn là nhà hàng Nhật Bản và Đại Hàn. Đi tới đây chỉ thấy người Nhật và người Đại Hàn. Không nghĩ là phố Tây Paris. 


Đời sống ở Paris quá đắt đỏ hèn gì khi mình làm việc ở Paris ngày nào cũng đi ăn tiệm nên cuối năm chả để dành được một đồng. 




Dân Tây lười hơn dân ý. Chỉ có 3 loại thùng rác trong khi người ý có đến 5 thùng để thanh lọc rác nên ra đường thấy toàn là thùng rác. Cô bạn kiên định kêu đi taxi chớ không đi uber để trả tiền cho taxi cao hơn vì họ mua bằng chạy taxi. Họ tin tưởng vào việc đi xe lửa hơn là đi xe hơi để bảo vệ môi trường. Trong khi cây cối cần gas carbonique để thở ra Oxygen cho con người thở. 


Muốn tìm vẻ cổ kính đường xưa ướt mưa của Tây thì phải ra ngoại ô với thực đơn chỉ viết tiếng Tây còn trong Paris thì có thêm tiếng anh, nhiều khi dịch từ gú gồ nên thấy hơi lạ. Như hôm trước ăn cơm với bạn học Yersin xưa ở tiệm Việt Nam thấy dịch ra tiếng anh bú xua la mua. 


người Pháp ngày nay thấy giới trẻ lai đủ loại sắc dân, da vàng lai trắng lai đen lai rệp đủ loại. người Pháp vẫn thích bận áo quần với khẩu hiệu tiếng anh với những địa danh của Hoa Kỳ. Lâu lâu thấy mấy cô đầm bận váy ngắn hơn đầu gối đạp xe đạp hay mang cao gót đi lệt bệt trên đường không biết họ có đau chân hay không nhưng được cái nhiều cô có cặp giò rất đẹp khi bận bas. 



Tình cờ đi phía sau tòa thị chánh Paris thấy có nơi tưởng niệm các nạn nhân bị khủng bố giết ngày 13/11/2015 khiến mình thấy lạ vì khi xưa có action directe cũng ám sát vỏ bom nhưng không như ngày nay. 


Tháng 10 mà du khách vẫn đông như du khách. Mình thấy hành khất nhiều nhưng họ không đi lang thang mà ngôi một chỗ, có người úp mặt xuống đất, người khôn hơn để một hai con chó bên cạnh tạo cảm xúc cho người Pháp yêu động vật như Brigitte Bardot đứng lại cho tiền mua thức ăn cho chó. Tuần lễ ở đây hên vì không mưa. Mấy khu nghèo như quận 19, 20 nghe nói đông vô gia cư như Los Angeles nhưng mình không đến. 


Nghe nói dòng sông seine này rất sạch nhưng đi ngang qua chả thấy ai tắm như báo chí đăng có lẻ mùa hè thôi. Dưới cầu Mirabeau dòng sông Seine Vẫn chảy êm đềm. 


Ai đến Paris vào viện bảo tàng Louvre, nên ghé lại xem bức tượng nụ hôn tình yêu đẹp này
Đến Paris thường du khách đến chụp hình Khải Hoàn Môn ở đầu đại lộ Champs Elysees và Carousel ngay vườn Tuileries. Ít ai chịu khó đi xem Khải hoàn môn ở cửa Saint Dennis này. Nhỏ hơn nhưng khá đẹp. Khi xưa, sinh viên mình bị thầy bắt đi vẽ ná thở mấy chỗ này.


Paris vẫn Paris nhưng không sôi động như khi mình sinh sống. Có cái gì đó khiến cảm thấy không còn sức sống, đúng hơn là niềm tin vào tương lai. Nói chuyện với trẻ thì công ăn việc làm khó khăn, người đồng tuổi mình thì lo lắng tiền hưu trí sẽ cạn dần. người Pháp không còn tự tin như xưa xem mình là thông minh hơn các nước xung quanh. Dấu hiệu một đế quốc vàng son đã qua đi như khi xưa mình cảm nhận khi đi vòng nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 




Chuyến xe đò chiều mưa

 Chuyến xe đò 131


Mình có duyên đi chuyến xe đò 131 này. Hôm đi bộ từ San Gimignano đến Monteriggioni thì khám phá mình đi quá đà, gấp đôi con đường cần đi, đã đi luôn chuyến đi cho ngày mai, phải quay ngược lại. Tính xem khách sạn có chỗ thì khỏi phải về. Nhưng nhớ sực là không có chỗ nên công ty phải giữ phòng cho mình giữa đường nên đành châu về hiệp phố thôi. Mấy chỗ này nhỏ nên khó có phòng vì chỉ lác đác vài nhà nghỉ nhỏ. 


Mỏi giò nên hỏi vòng vòng tìm đường đến trạm xe đò 131 liên tỉnh từ Siena đến Firenze. Hồi nãy đi lên đồi nay phải xuống lại. Trời mưa lại đi xuống tìm đường về khách sạn. 




Hóa ra có chuyến xe đò 131 từ Siena ghé lại Monteriggioni rồi ngưng lại Colle Val D’Elsa trước khi đến Firenze. Sáng hôm sau mình lại lấy chuyến xe đò 131 này khởi hành từ Firenze đậu lại Colle Val D’Elsa để đưa mình lại bến xe cũ chiều qua. Cũng may là hôm qua đi không gặp mưa còn hôm nay lấy xe đò đi thì mưa như điên. 


Mai mình sẽ đi Firenze nên tìm trên ứng dụng Rome2Rio thì có 3 cách đi: xe lửa, FlixBus hay Itabus nên hỏi tiếp tân cách nào đi từ khách sạn ra nhà ga để lấy xe buýt thì ông ta kêu không nên đi FlixBus mà kêu đi xe đò chuyến 131R. Lại thấy hình ảnh của chuyến đi lộn khách sạn vào lúc 5 giờ chiều nay gió đông. Thế là chuyến đi này có duyên với chuyến xe đò liên tỉnh Toscana 131. Đi là 131 còn về là 131R. Cho thấy ứng dụng không bằng hỏi thổ công. 


Từ khách sạn bò đến bến xe đò có mấy trăm thước. Độ 200. Rồi lên xe đi như mấy lần trước, được dịp ghé qua lại con đường mình đã đi qua rồi khi trời tối, nay đi lại. Tới nơi sớm nên để hành lý ở khách sạn rồi đi vòng vòng. Firenze thì mình đã đến 4 lần rồi nên chắc chả có gì lạ. Lại đi vòng vòng 10 dặm cho quen chân vì sau đó lại lên đường hành hương. Điểm lạ đi quen rồi mỗi ngày không đi được 10 dặm thấy khó chịu ở chân. 


Dạo này thấy chân cẳng không còn chất béo nữa. Dù mình ăn cũng nhiều. Hôm trước lấy hai trái táo của khách sạn nói để ăn khi đợi ăn cơm chiều vì bên này 7 giờ tối tiệm ăn mới mở cửa nhưng quên đến khi muốn ăn thì chúng bị hư cho thấy không được ngâm thuốc bảo quản như ở Hoa Kỳ vì hai tuần sau vẫn còn ăn được. Nên sáng nay ăn chuối kiwi và táo ngay. 


Sáng nay ra bến xe đò đợi chuyến 11:10 nhưng có chuyến 10:40 nên leo lên cho chắc ăn dù chạy chậm vì phải ngừng nhiều trạm. Giá 9,50 Euro. Rẻ hơn FlixBus. Mà lại gần khách sạn. 


Đến Firenze thì kéo Vali đi bộ độ 1 cây số đến khách sạn để hành lý đó rồi đi ăn. Ăn xong đi vòng vòng thấy nay họ chặt tiền để vào xem cái dome vòm của Brunoleschi khi xưa không trả tiền nay họ chặt 30 Euro. Thiên hạ làm đuôi, xếp hàng để vô cả mấy tiếng đồng hồ trong khi mình khi xưa vào đây chả tốn tiền, lác đác vài du khách. Họ cho biết là mỗi năm có đến trên 13 triệu du khách đến thành phố này. Xem như 1 triệu mỗi tháng. 

Nông dân ngu lâu dốt bền như mình đi ngang thành phố phải ngủ lại thấy tên thành phố ngày mà đến mà sao đã đến. Chụp hình kỷ niệm rồi đi tiếp đến chặng cho ngày mai tổng cộng 38 km. 


Mình đến Firenze nhiều lần nên không còn rung động như lần đầu. Đi vòng vòng chỉ thấy toàn là du khách. Đa số xung quanh chiếc cầu cũ ( cỗ kiều) và thánh đường. Ngày nay thấy nguy nga vậy chớ khi xưa chỉ làm bằng gạch. Mình có tấm ảnh trước đây. Sau này có tiền giáo phận mới bỏ tiền lát đá cẩm thạch trên tường, màu mè như ngày nay. 





Khi xưa mình đi Ý Đại Lợi bằng xe đò cũng nhiều vì rẻ. Nhớ năm 1981 khi mình sang Ý Đại Lợi làm việc mấy tháng vì đã đủ điểm cho các khóa học. Nay chỉ cần làm luận án ra trường nên buồn đời hỏi bạn bè thì họ giới thiệu cho một người chị họ rồi từ đó dẫn đến giáo sư Ana của Đại học bách khoa Torino. Rồi Đi làm 5 tháng rồi chạy đi vòng vòng xứ Ý Đại Lợi từ Bắc chí nam suốt 3 tháng hè rồi về lại Paris. 


Đi xe buýt ở Ý Đại Lợi thì có thể lên lỏi vào các các làng mạc nhỏ vì xe lửa chỉ đến những thành phố lớn rồi đi xe đò về các làng. Như trường hợp ở làng Chiusi Della Vierna nơi mình dừng chuyến đi bộ. Muốn lấy xe lửa phải đi xe buýt đến thành phố nhỏ Arezzo, lấy xe lửa đến Firenze rồi đi đâu thì đi. Xe buýt có hai chuyến một ngày 6 giờ sáng và 5 giờ chiều nên mình mướn xe chở thẳng ra Firenze. Mất hai tiếng còn đi xe buýt rồi xe lửa mất 6 tiếng. 


Đi xe đò mình có một kỷ niệm ở Ý Đại Lợi rất vui. Sô là khi xưa ở vùng Sicilia ít phát triển nên xe lửa ít thêm đồi núi nhiều nên phải đi xe đò nhiều. Có lần mình lên xe đò ngồi buồn đời mình vẽ ông lơ xe đò và tài xế. Thế là họ đòi mua, trả giá được miễn vé xe đò. 


Lý do đi quá Giang xe và xe đò là năm đó. Khi mình vừa rời thành phố Bologna bằng xe lửa thì hôm sau khủng bố đánh bom trạm xe lửa này nên sợ quá phải đi quá Giang và xe đò. 


Khi xưa lên xe lửa sợ không biết có bị đánh bom này thì không có cảm giác này. Chỉ lo đình công. 


Xe đò ý ngày nay rất tối tân, mua vé bằng thẻ, không còn lơ xe đò để bán vé. Lên chỗ tài xế bên cạnh có cái hộp đưa điện thoại ra xẹt một cái là xong. Vấn đề là chả biết giá tiền bao nhiêu. 


Ai đi chơi thì nên lấy xe đò một lần cho biết. Ở vùng Toscana thì chuyến xe đò từ Firenze và Siena có 2 chuyến mỗi giờ. Có thể viếng các thành phố xung quanh như San Gimignano, Montserragioni, rất đẹp. Sáng đi chiều về khỏi mất công đổi khách sạn. Tốt nhất ở Siena vì rẻ hơn Firenze.


Sau này có. Dịp trở lại với vợ con mình sẽ mướn xe vespa chạy mấy đường nhỏ viếng các thành phố này vì xe hơi là ngọng không có chỗ đậu xe. 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nhà 

thăm viếng với thổ công Lyon

Lâu lắm tình cờ đọc một bài của một ông thần đoán là ở thành phố Lyon, viết đi tìm viếng mộ hoàng hậu Nam Phương và vua Hàm Nghi. Rất chi tiết. Mình lại thích bà hoàng hậu cuối cùng của nhà Nguyễn này nên định bụng có dịp sẽ ghé qua Lyon để đi viếng. Năm ngoái tính đi nhưng nghe ông thần kể phải lái xe 50 km nên thôi. 



Năm nay thì còn ngày giờ sau chuyến đi bộ cho nó lành ở Ý Đại Lợi. Tính viếng Bảo Gia Lợi và Lỗ Mà Ni vì cũng gần nhưng xem lại máy bay thì mất 7 tiếng dù rất gần vì phải bay đổi nhiều chặng nên thôi. Ghé thăm vợ chồng anh bạn ở Torino rồi lấy xe lửa ghé Lyon, quê hương ẩm thực của Pháp quốc. 


Mình liên lạc ông thần ở Lyon thì may quá anh ta về hưu và không Đi nghỉ hè nên ra chương trình làm hướng dẫn viên cho mình. Qua mạng cũng làm quen nhiều người dễ thương chưa bao giờ thấy mặt tự nguyện làm hướng dẫn viên. Về Việt Nam cũng vậy, có nhiều người đọc bờ lốc mình nhắn tin gặp gỡ. Đúng là 5 châu bốn bể Anh em một nhà. Đi xa mà có thổ công thì tốt nhất như ở Torino có anh bạn dẫn đi mấy chỗ đẹp ở ngoại thành hay anh bạn ở Veneto cho xem những thành phố xung quanh quá đẹp mà du khách khó biết vì chỉ đến venise. 


Anh ta lên chương trình như sau:”Tui đề nghị với anh 2 ngày ở Lyon như thế này :


- Thứ năm 9/10 tới Lyon Part Dieu lúc 11:30. Từ “Quai” xuống “gare” anh đi ra ngõ Vivier Merle (hướng Centre Commercial Westfield La Part Dieu). Khi ra khỏi nhà ga, anh quẹo trái đi theo đường Vivier Merle khoảng 3 phút là tới Pullman.

- Tới Pullman anh nhận phòng và có thể ăn trưa ở đó (nghe nói họ nấu ngon).

- Khoảng từ 14:00 đến 14:30 tui sẽ đến Pullman gặp anh. 

- Sau đó mình sẽ đi Bus đi vô centre ville, đi xem Musée des beaux-arts (khoảng 2 tiếng), place des Terreaux, rue de la République (rue piétonne), place Bellecour. Sau đó đón Métro trở về ks, chia tay.


- Thứ sáu 10/10, khoảng 9:30 tui đến đón anh ở ks để đi xem Notre Dame de Fourvière, le Vieux Lyon. Ăn trưa xong mình đi tới làng Pérouges classé des plus beaux de France. Viếng xong trở về ks mình chia tay. Sau đó anh có thể đi bộ 3 phút qua Centre Commerciale Westfield để đi shopping chút đỉnh và ăn tối trong đó luôn.


Anh thấy chương trình như vậy được không ?” Mình thì nhất trí ngay, chỉ có vụ viếng viện bảo tàng thì khỏi vì nông dân ngu lâu dốt bền như mình thấy cũng chả có gì. Đi vòng vòng ngoài trời ngắm thiên hạ vui hơn. 


Đi xe lửa cao tốc nên sau 4 tiếng đã đến Lyon. Mình mướn khách sạn ngay bên cạnh nhà ga để dễ di chuyển vì mình lấy xe lửa tgv đi Paris có hai tiếng vào sáng sớm. Thường khi xưa ở Âu châu xung quanh nhà ga là không an ninh nhưng nay thì bên cạnh nhà ga toàn là phố xá mới và đẹp. 



Họ chưa cho lấy phòng nên mình đi vòng vòng thấy có nhà hàng, có cặp Tây đầm già đứng xem thực đơn rồi đi vào nên đi theo. Đúng 12:00 giờ nên họ bắt đầu cho thực khách vào. Ngồi buồn đời thấy cuốn sổ tay trên bàn mới khám phá ra một chi nhánh của ông đầu bếp danh tiếng người Pháp tên Paul Bocuse. Ông ta chết rồi, nghe nói chắc gia đình cũng không còn phần hùn nhiều trong tập đoàn này nhưng rất ngon. Đáng ở lại Lyon để ăn vì giá thì phân nữa Ritz Carlton ở Cali mà lại ngon gấp bội. Phục vụ viên bận đồ vứt thắt cà ra vát sang như tây. 


Ăn xong lại bò về khách sạn ngồi đợi ông thần Lyon đến vì chả biết mặt ất giáp ra sao. Thấy anh chàng đi vào thì đoán nên tới chào. Anh ta dẫn ra lấy xe buýt. Thấy dân Tây vẫn không thay đổi, vẫn dành nhau khi lên xe không thứ tự như xưa, nhất là giới trẻ. Được cái là ghế đều dành cho phụ nữ ngồi. Mình không thấy thằng Tây nào dành chỗ của phụ nữ. 

Trường học trung học nổi tiếng nhưng chụp vì kiến trúc đẹp
Nguyên Đinh cơ này được vẽ tường. Chả thấy cửa số đâu. Cũng có thể cửa sổ được sơn như xe buýt   Trong nhìn ra thấy nhưng ngoài nhìn vào thì mù. 

Hẻm thương mại như ở Paris


3 tiệm sát nhau đều là Mỹ 
Quảng trường có đồ che nắng để hè thiên hạ ra ngồi chơi đọc sách 


Xe chạy qua hai chiếc cầu, một qua sông Rhone và một sông Saone. Hai con sông này giao thoa tạo thành một ốc đảo. Nghe kể mấy chiếc cầu này khi quân Đức rút lui thì họ đánh sập hết khác với chiếc cầu cũ ở Florence thì tên chỉ huy Đức mến vẻ đẹp của chiếc cầu cũ kỹ nên ra lệnh không đánh sập, nay người ta ghi ơn ông ta, có gắn bảng nơi cầu ghi ơn kẻ thù. Chỉ thấy khi con người có văn hóa, có chút suy nghĩ sẽ không đập phá quá khứ, những gì cha ông đã xây dựng để lại hay chế độ cũ. Tôn trọng lịch sử và văn hóa. 


Sau đó anh ta kêu xuống xe buýt rồi thả bộ đi viếng phố cỗ. Rất đẹp. Anh ta giải thích là ông thị trưởng thuộc dạng écolo nên cấm xe cộ vào thành phố nên phố xá ít người đi mua sắm. Đi chơi thì sướng vì rộng rãi nhưng phố xá đóng cửa nhất là 3,4 giờ chiều vì người có tiền đi mua sắm cần xe hơi chạy vào trung tâm rồi bỏ lên xe. Không lẽ chạy xe đạp vào thành phố thì còn sức đâu mà bát phố với mua sắm. Mùa này hết du khách rồi nên có thể ngắm dân sở tại sinh hoạt. 


Mình để ý là các chi nhánh tiệm ăn hay uống của Hoa Kỳ rất nhiều so với thời mình ở pháp. Vào các trung tâm mua sắm cũng vậy. 


Đi qua công trường Terreaux (đất bùn) có viện bảo tàng mỹ thuật anh bạn hỏi có muốn vô xem không. Mất độ 2 tiếng nên mình nói thôi. Để thời gian đi vòng vòng thú hơn là xem mấy bức tranh chả hiểu gì cả. Chỗ này có bể nước do điêu khắc gia Frédérique Bartholdi thực hiện. Ông thần này nổi tiếng vì thực hiện tượng nữ thần tự do ở New York. Nghe kể là Năm 1857, thành phố Paris mở cuộc thi thiết kế đài phun nước cho Place des Terreaux ở Bordeaux. Frédéric Auguste Bartholdi, khi đó 23 tuổi, thắng cuộc thi với tác phẩm Fontaine de la Garonne, tượng trưng cho sông Garonne và bốn nhánh của nó (Dordogne, Tarn, Lot, Ariège) chảy ra Đại Tây Dương, được thể hiện qua hình ảnh một phụ nữ dẫn dắt cỗ xe ngựa. Tuy nhiên, thành phố Bordeaux xù, từ chối công trình vì chi phí cao (300.000 franc). 


Thế là ông Thị trưởng Lyon, Antoine Gailleton, quyết định mua đài phun nước này để đặt tại Place des Terreaux nhằm nâng tầm thẩm mỹ cho thành phố. Công trình được hoàn thiện năm 1892, đúc bởi xưởng Gaget, Gauthier & Cie (cũng đúc Tượng Nữ thần Tự do). Bể nước nặng 21 tấn, cao 15 mét, với bể chính chứa 70.000 lít nước, được bơm tuần hoàn. 


Lúc đầu đài phun nước này được đặt ở giữa quảng trường nhưng sau họ xây hầm đậu xe ở dưới quảng trường nên phải dời vào một khúc để khỏi bị xụp hầm. Nghe nói trùng tu mất mấy triệu Euro. 


Đi vòng vòng mình cảm thấy thích không gian của thành phố này, màu mè như vùng Toscana của Firenze khác với paris. Sau đó cả hai ghé tiệm uống nước và đi tè cho thoải mái. Sau đó lấy métro về lại khách sạn. Chia tay hẹn gặp lại ngày mai đi ngoại thành. (Còn tiếp)


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn