Hiển thị các bài đăng có nhãn Tình yêu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tình yêu. Hiển thị tất cả bài đăng

Out of Africa (rời khỏi Châu Phi)

 Mình theo dõi nhóm chuyên viết lịch sử về phụ nữ, âm thầm thay đổi xã hội, văn hoá, chính trị nên lâu lâu thấy họ đăng lịch sử những bà nhà văn, nhân vật nào đó… mà mình có dịp đọc khi xưa. Thật ra từ một thế kỷ qua, nhiều nhân vật nữ trên thế giới đã thay đổi rất nhiều xã hội về văn hoá, khoa học,… 

Mình có một sự kính nể các phụ nữ qua hình ảnh bà cụ mình, dù chưa bao giờ được đến lớp học nhưng vẫn thành công trong cuộc đời, không để sự nghèo hèn của ông bà mình, vẫn vươn lên trong xã hội tại Việt Nam. Do đó mình có đam mê tìm kiếm các nhân vật phụ nữ trong lịch sử để xem họ đã thay đổi xã hội, chế độ phụ hệ ra sao. Hôm nay có một bà, nói cho ngay không biết tên, chỉ nhớ dạo đi làm ở Luân Đôn thì có xem phim “Out Of Africa” có Robert Redford và Meryl Streep đóng với những phong cảnh đẹp nức nở. Sau này mình có dịp đi leo núi Kilimanjaro thì mới cảm nhận được hình ảnh trong phim. Hình như đạo diễn là Sydney Pollack. Đi xem vì bà thư ký trong công ty, người gốc Ấn Độ nhưng được sinh tại Kenya, rồi lấy chồng Anh quốc, di dân qua Luân Đôn, kêu mình đi xem. Đọc báo dạo đó nói là sau khi phim này trình chiếu thì dân Anh quốc đi nghỉ hè ở Phi châu đông còn hơn người Anh quốc.

Câu chuyện về một phụ nữ chôn người mình yêu tại Phi Châu, rồi chứng kiến đồn điền cà phê của bà ta banh ta lông sau bao nhiêu năm công sức xây dựng vì nói gì thì nói chớ trong một văn hoá như Phi châu, một phụ nữ khó mà sai khiến các nông dân ngu lâu dốt bền như mình nên khó mà thành công. Bà ta trở về âu châu, đói, hết tiền, bệnh và đơn côi. Bà ta mất hết những gì sỡ hữu tại phi châu, tình yêu, tài sản và kể lại hồi ức của thời gian tại phi châu, và cuốn sách này trở thành hồi ký được yêu thích nhất thế giới tây phương.


Karen Dinesen sinh năm 1885 trong một gia đình quý tộc, thông minh, tài hoa và cảm thấy ngột ngạt trong một nền văn hoá, đào tạo phụ nữ thành một hình thức trang trí và tuân lời đàn ông. Năm 28 tuổi, thời đó được xem là ế nguyên thuỷ, bà ta quyết định lấy bá tước Bror von Blixen-Finecke không vì tình yêu và muốn tìm con đường thoát ly. Lý do là bà ta yêu người em sinh đôi của chồng nhưng tên này từ khước, tiếp thu mối tình hữu nghị sông không liền sông núi không liền núi của bà nên chơi sang, lấy thằng anh để tên phụ bạc gọi bà ta bằng chị.


Ông chồng thích giang hồ, khó tin tưởng nhưng ông ta đem đến cho bà một lối thoát ra khỏi Đan Mạch, và họ rời Đan MẠch di dân sang Kenya, Phi Châu. Hai vợ chồng mua độ 450 mẫu đất dưới chân đôi Ngong, gần Nairobi. Và trồng cà phê, được xem là “kim thuỷ”, sẽ làm cho họ giàu có, khi đem cà phê về âu châu bán như Starbuck. Như bao nhiêu kẻ phiêu lưu, họ không biết gì về trồng trọt nhất là cà phê nơi xứ lạ. Đất của họ mua nằm trên đồi, cao độ quá cao để trồng cà phê. Đêm đêm trời lạnh nên cây cà phê chới với. Vụ này thì mình hiểu vì vườn bơ của mình ở vùng Riverside, nằm trên đồi cao, không nằm trong khu vực bị lạnh cứng chớ vùng Temecula thì có vấn đề này hay cách vườn mình độ 5 dặm, nằm dưới thấp là ngọng. Mùa đông lạnh dưới 30 độ F thì chủ nông trại phải đốt lửa rồi dùng quạt gió để thổi hơi ấm nếu không thì trái bị đông cứng thì bị hư ngay. Khu vực vườn mình thì nằm trên cao nên có gió thổi nên không bị lạnh lắm nên không vướng vụ này. Hú vía.


Ông chồng thì thuộc giống quý tộc nên tối ngày đi săn thú Safari như tây đồn điền khi xưa ở Đà Lạt. Nên bà ta từ một gia đình quý tộc phải làm lo lắng mọi thứ cho nông trại. Tiền bạc, nông dân,… rồi một ngày đẹp trời, ông chồng đi săn về và truyền cho bà ta bệnh hoa liễu vì gái gú trong các chuyến đi săn.

Thời ấy thì chưa có thuốc chữa như ngày nay. Họ chỉ hạn chế bằng cách sử dụng thạch tín và thuỷ ngân nên huỷ hoại từ từ thân thể của bà ta. Bà ta phải trở về Đan Mạch nhiều lần để chữa trị, thuỷ ngân làm hư răng của bà ta, hệ thống tiêu hoá cũng như thần kinh. Bà ta đau ốm cả đời đến khi qua đời. Có một ông gốc Đà Lạt kể cho mình là ông bố đi chơi gái bị bệnh hoa liễu về làm một phát bà mẹ bị bệnh này luôn nên hết sinh con đẻ cái. May là thời đó tây đã tìm được thuốc chữa trị.


Bà ta ly dị ông chồng năm 1925 sau 12 năm chung sống sơ sơ nhưng vẫn ở lại giữ cái trại cà phê. Bà ta cương quyết phải thành công. Trong phim họ quay Meryl Streep đẹp như bà mỹ chả thấy hư răng hư cỏ gì cả. 


Buồn đời bà ta có duyên gặp ông Denys Finch Hatton, người Anh quốc, tốt nghiệp đại học Oxford, có văn hoá, trí thức khác với ông chồng bá tước vớ vẩn. Ông thần này thì sang phi châu cũng để đi săn bắn thú và làm phi công. Ông ta yêu bà này nhưng không muốn đám cưới, bị ràng buộc. Trong khi bà ta thì muốn có một cuộc sống an bình. Nên hai người sống với nhau vài tuần rồi ông ta đi săn cả tháng, trở lại.


Trong phim thấy họ quay cảnh nghe nhạc Mozart, đọc thơ, hay xem mặt trời lặn, đủ thứ khiến mình muốn đi phi châu. Khi sang đây thì khám phá trong phim họ không có quay cảnh mấy con muỗi chích hay ruồi bu như ruồi bu. Cho nên khi xem phim là một chuyện còn thực tế là một chuyện. Khỏi phải đưa đồng chí gái sang đây vì mụ vợ không thích bị muỗi chích.


Bà ta có viết là chàng không có nhà ngoài cái lều che nắng che mưa. Thật sự đàn ông không thích bị ràng buộc lắm. Bà này bị bệnh hoa liễu nên mình không biết ra sao, thêm bệnh hoạn, răng cỏ bú xấu la mua. Gần 40 chắc cũng hết khả năng làm mẹ.


Đang bơi lội trong vòng hạnh phúc vô biên, âm nhạc của Mozart, thi ca nên bà ta quên lo vụ cà phê nên nợ nần chồng chất nên cuối cùng đành phải bán nông trại. Hoạ vô đơn chí, ông bồ buồn đời hay sao lái máy bay rồi đâm vào núi. Bà ta chôn người tình không bao giờ cưới ở đồi Ngong, nơi ông bồ yêu thích nhất rồi rời Châu Phi trở về Đan Mạch. Sạch túi, sạch tình. Chỉ còn lại mới ký ức vì cuộc tình không trọn vẹn và sự trống vắng dung dịch vô biên của đời người.


Thông thường ai lâm vào tình trạng của bà ta chắc lâm vào bệnh trầm cảm này nọ. Bà ta thì không, bà ta bắt đầu viết kể lại cuộc đời bà ta từ khi rời Đan Mạch. Bà ta lấy bút hiệu Isak Dinesen (Isak theo tiếng do thái, có nghĩa là “người thích cười” và Dinesen là họ của bà ta). Và bà ta bắt đầu viết về cuộc đời ở Phi châu. Bà ta viết cuốn “Out of Africa” (rời khỏi Phi Châu) và được xuất bản năm 1937. 


Bà ta viết về thiên đàng đánh mất tại pHi châu, một thời trẻ đầy nhiệt huyết, muốn tạo dựng cơ ngơi tại một đất nước khác, không gò bó như những người di dân đến Hoa Kỳ hay một nước nào khác. Đau khổ vì tình yêu, như TTKH đi bên cạnh ái ân của chồng tôi vì bị bệnh hoa liễu. Rồi phát hiện ra mối tình hữu nghị sông liền sông núi liền núi để rồi tình yêu vỗ cánh bay theo chiếc máy bay bà già rớt đâu đó trên ngọn đồi Châu Phi. Nông trại bà ta cố công phát triển cũng tan theo mây khói. Như các gia đình pháp sang Việt Nam như ở Đà Lạt, gia đình La Farrault, O’neil ,…muốn biến Đà Lạt thành khu nông nghiệp trồng trà, nuôi bò này nọ. Mình người Việt thì kêu là thực dân này nọ nhưng thật ra họ đem sự hiểu biết văn mình đến cho các thuộc địa. Ngày nay thực dân đã ra đi, rời khỏi CHâu Phi nhưng người sở tại vẫn không khá gì mấy trước kia. Khi xưa, thằng thực dân bốc lột, nay thằng đánh đuổi thực dân học nghề lại bốc lột dân bản địa nên thấy tương lai mịt mù. Nay người Tàu đến thì lại thấy hình ảnh mấy người sở tại đi tìm các ông ba tàu chém giết vì bốc lột họ.


Sau cuốn Out of Africa, bà có viết thêm nhiều cuốn nữa nhưng không được độc giả ưa thích lắm. Bà ta được đề cử văn chương Nobel mấy lần nhưng không được. Nhà văn Ernest Hemingway cho rằng bà ta xứng đáng là khôi nguyên văn chương Nobel hơn ông ta nhưng có lẻ thời đó xã hội còn kỳ thị phụ nữ.

Nhờ qua tác phẩm của bà ta mà người ta biết đến Safari , thú vật ở phi châu khiến du khách tò mò muốn khám phá. Mình nhờ đọc Hemingway mới muốn bò lên đỉnh núi cao nhất Châu Phi, Kilimanjaro.


Đọc cuốn sách thì hay hơn xem phim. Khi xem phim thì thấy hình ảnh này nọ chuyện tình thì chả hiểu gì nhiều lắm nhưng khi đọc cuốn sách, mới hiểu thêm về chủ nghĩa thực dân, sự xung đột hay đối xử với người bản địa ra sao.


Nay về già mới nhận ra là bà ta như mình, rời Đà Lạt ra hải ngoại, tạo dựng cuộc đời mới, lập gia đình, có con cái. May mắn không gãy cánh giữa đường như nhiều người bạn quen. Cuộc đời qua bao nhiêu chông gai, vợ chồng vẫn đồng hành vượt qua. Trong khi bà Karen, cảm thấy tù túng tại Đan Mạch. Ai chưa đi Đan Mạch chớ xứ này ít người, chán như con gián. Bà ta muốn thoát ra khỏi không gian tù túng, không muốn an phận cuộc đời nên chấp nhận lấy ông chồng không yêu thương gì để thoát khỏi không gian của xã hội cổ xưa.


Hồi ký của bà ta rất sống động, kể về cuộc sống tại phi châu, các toan tính, lo lắng khi làm nông dân, văn hoá phong tục của người bản địa, tình yêu vợ chồng như người tình hờ. Để rồi gặp ông thần phi công. Ông này cũng vậy, muốn thoát khỏi xứ sương mù, lái máy bay chở khánh khách, đi săn bắn. Ông ta cũng như bao đàn ông khác, không muốn bị kềm kẹp vào một tình yêu, bị trói buộc vào trách nhiệm người chồng, người cha. Chỉ muốn yêu như làm thơ, trong khi bà Karen thì muốn biến tình yêu thành công cụ, làm ô sin cho mình.


Bỏ cả tuổi thanh xuân để kiến tạo một tương lai vững vàn về tài chánh, tình yêu để rồi mất tất cả cho nên văn hoá của tây phương không có câu: “đỏ tình đen bạc” hay ngược lại. Đỏ tình thì đỏ tiền còn đen tình thì đen bạc. Anh hay chị có tiền thì gái hay trai đẹp bu lại đen còn hơn ruồi còn không có thì chả có thằng nào hay cô nào bu lại. Chán Mớ Đời 


Nhưng nhờ bà ta can đảm nhìn lại đời thấy rong rêu nên viết lại hồi ký một đời người đầy thất bại, vừa tiền bạc vừa tình yêu bằng anh ngữ. Có lẻ tại phi châu bà ta sử dụng anh ngữ nhiều hơn nhất là khi cặp bồ với ông phi công người anh. Cuối cùng bà ta thành công qua văn chương thay vì qua nghề trồng cà phê. Nhưng phải trải nghiệm mới có chất sống để viết thay vì ngồi bựa ra hay kêu Ây Ai viết dùm. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Franca Viola, cô gái kiên cường chống lại Mafia


Nhớ dạo đi làm ở Ý Đại Lợi sau đó mình đi giang hồ khắp xứ spaghetti này, ghé thăm các sinh viên ở chung cư xá đại học bách khoa Torino. Nhớ ngày đầu tiên đặt chân đến hòn đảo Sicilia, nổi tiếng quê hương của Mafia. Đang ngồi vẽ ở bến tàu Messina, thì có hai cô gái đến ngồi bên cạnh xem mình vẽ. Hai cô nói trời nắng nay mới hiểu lý do mắt người Á châu là mắt hí. Hai cô tha hồ nói tiếng ý nghĩ mình không hiểu đến khi mình bắt đầu nói tiếng ý khiến hai cô hết hồn. Hai cô hỏi chuyện nhiều nhưng mình chỉ trả lời lớ ngớ vì sợ anh của hai cô này đến tìm mình để khệnh vì nghe đồn con trai vùng này kỵ con trai tán em gái họ. Như trong phim Bố Già, khi Michael Corleone, chạy trốn sang Sicilia, rồi thấy một cô gái nên hỏi thì các tên cận vệ tái mặt, kêu đừng đụng tới. Sau này đến Ragusa, hỏi chuyện thì anh bạn kêu tào lao, cứ nói chuyện thoải mái. Sau đó là vô tư trả lời mấy cô trong làng. 

Bà Franca Viola 

Nói chung thì sống ở Ý Đại Lợi thì mình thấy văn hóa miền nam và miền Bắc Ý Đại Lợi rất khác nhau, khi xưa dân miền Bắc xem thường dân miền nam, kêu lạc hậu. Ngày nay có thể đã thay đổi. Có câu chuyện về một cô gái ý ở miền nam, kiên cường, anh hùng chống lại văn hóa lâu đời của xã hội Ý Đại Lợi. Gây ảnh hưởng đến nền văn hoá lâu đời và đã thay đổi xã hội Ý Đại Lợi vào thế kỷ 20.


Cô ta tên Franca Viola sinh ngày 9 tháng 1 năm 1948 tại Alcamo, gần Trapani nơi mình có đi ngang, ngủ lại một đêm, có kể vụ đi ăn cơm ở tiệm không phải trả tiền, một thị trấn ở Sicilia, là con gái của ông bà nông dân Bernardo Viola và Vita Ferra. Năm 15 tuổi, cô đính hôn với Filippo Melodia, 23 tuổi, cháu trai của một thành viên mafia địa phương, Vincenzo Rimi. Cuộc đính hôn bị hồi hôn sau khi Melodia bị bắt vì tội trộm cắp, theo yêu cầu của cha cô. Sau đó, ông thần Melodia rời quê đến Đức. Thời đó dân miền nam Ý Đại Lợi nghèo nên phải bỏ quê sang pháp, Đức quốc hay Bỉ (như Salvatore Adamo) để làm việc nuôi sống gia đình ở quê nhà. 


Năm 1965, khi Franca 17 tuổi, ông thần Melodia, buồn đời vì không thích ăn súc xích, trở về Alcamo và cố gắng nối lại mối tình xưa. Lúc này, Franca đã đính hôn với Giuseppe Ruisi, một người bạn thời trẻ trâu nên kêu buông tôi ra vì tôi có Bồ rồi mà. Tức giận, ông thần Melodia đeo bám và đe dọa gia đình cô. Vào ngày 26 tháng 12 năm 1965, hắn cùng 12 người đàn ông mang súng xông vào nhà Viola, đánh đập mẹ cô Franca và bắt cóc Franca cùng em trai 8 tuổi của cô, Mariano. Mariano được thả vài giờ sau, nhưng Franca bị giam giữ tám ngày trong một trang trại của chị gái tên Melodia, nơi cô bị cưỡng hiếp nhiều lần. Tên Melodia tin rằng, theo truyền thống Sicilia và luật pháp Ý (Điều 544), Franca sẽ phải lấy hắn để khôi phục “danh dự” và tránh trở thành “donna svergognata” (người phụ nữ vô liêm sỉ), vì mất trinh tiết trước hôn nhân là điều bị xã hội làng xóm chê trách nặng nề. Tương tự ở Việt Nam khi xưa nhưng không bị cạo đầu trét vôi, thả trôi sông nếu gia đình không làm cổ cho cả làng. Luật pháp Ý Đại Lợi, dạo đó cho phép kẻ hiếp dâm thoát tội bằng cách cưới nạn nhân, một tập tục gọi là “matrimonio riparatore” (hôn nhân sửa sai đền bù).


Bà Franca kiên định với mối tình trẻ trâu, từ chối lấy ông thần Melodia, tuyên bố sẽ kiện hắn vì tội bắt cóc và cưỡng hiếp. Cha cô, Bernardo, giả vờ thương lượng với bọn bắt cóc trong khi hợp tác với cảnh sát Carabinieri để giải cứu con gái. Ngày 2 tháng 1 năm 1966, Franca được giải thoát, và ông thần Melodia cùng đồng bọn bị bắt. Dù đối mặt với áp lực xã hội gay gắt, bêu xấu công khai, đe dọa giết chết, vì ông chú bị can là thành viên xã hội đen danh tiếng Mafia và các vụ phóng hoả, đốt cháy vườn nho và nhà của gia đình, Franca và gia đình vẫn kiên quyết khởi kiện đòi công lý cho con mình dù có bị giết.


Phiên tòa, bắt đầu ngày 9 tháng 12 năm 1966 tại Trapani, thu hút sự chú ý toàn quốc và quốc tế. Bên bị cáo Melodia tuyên bố đó là một vụ “fuitina” (trốn theo trai tự nguyện), nhưng sự kiên cường của cô Franca không lay chuyển. Ông thần Melodia bị kết án và nhận 11 năm tù, một chiến thắng mang tính bước ngoặt, thách thức các chuẩn mực gia trưởng của Sicilia và hệ thống pháp luật Ý thời đó. 


Sự bất khuất và kiên trì của Franca biến cô thành biểu tượng của phong trào giải phóng phụ nữ ở Ý sau chiến tranh thứ 2. Vụ việc của cô phơi bày bất công của luật “danh dự” và truyền cảm hứng cho những phụ nữ khác, ít nhất bốn cô gái Sicilia noi gương cô. Nó góp phần dẫn đến việc bãi bỏ Điều 544 vào năm 1981 và việc phân loại lại tội cưỡng hiếp là tội chống lại con người vào năm 1996. Tháng 12 năm 1968, Franca kết hôn với Giuseppe Ruisi, người luôn ủng hộ cô bất chấp các mối đe dọa, thậm chí phải xin giấy phép mang vũ khí để tự vệ. Tổng thống Ý Giuseppe Saragat gửi quà cưới cho họ, và Giáo hoàng Phaolô VI tiếp họ trong một buổi tiếp kiến riêng. Họ có hai con trai và một con gái, hiện vẫn sống ở Alcamo.


Câu chuyện của cô Franca được đưa lên nghệ thuật thứ 7 qua các bộ phim như The Most Beautiful Wife (Người Vợ Đẹp Nhất (1970), mình xem phim này ở trung tâm văn hoá Pompidou, khi họ có cuộc đàm thoại về văn hóa Ý Đại Lợi. Viola, Franca (2017), and The Girl From Tomorrow (Cô Gái Đến Từ Ngày Mai (2022), và cuốn sách của Beatrice Monroy, Niente ci fu(2012). Năm 2014, cô được vinh danh là Grande Ufficiale dell’Ordine al Merito della Repubblica bởi Tổng thống Giorgio Napolitano. Franca, nay 77 tuổi, từng nói: “Đó không phải là hành động can đảm. Tôi chỉ làm điều tôi cảm thấy phải làm, như bất kỳ cô gái nào ngày nay sẽ làm. Tôi lắng nghe trái tim mình.” Sức mạnh thầm lặng của cô đã định hình lại quyền phụ nữ ở Ý và để lại di sản khiến đàn ông phải cẩn thận khi đụng chạm phụ nữ. Xong om


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Donna Donna

 Donna Donna 

Hôm qua đang đi bộ, tập luyện để đi bộ Via Francigena từ Lucca đến La Mã tháng tới, bổng nhớ đến bài hát Donna Donna khi xưa nghe ở Đà Lạt. Có lẻ kể chuyện về 4 chị em họ Chử nên nhớ đến thời xưa. Khi xưa, hàng xóm có một ông thần học Yersin trên mình đâu 5, 6 năm nên mình hay bò sang nhà để nghe ké nhạc Tây, nhạc Mỹ nhất là xem Playboy. Ông thần này dạy đối tượng của ông thần Dũng 302, xóm địa dư nay ở Montreal nhảy đầm. Cô này cũng hàng xóm của mình luôn, nay ở San Jose. 


Có bài Donna Donna do Claude Francois hát, bổng nhiên nhớ lại những ca từ nói về thằng bé, sống trong một ngôi nhà to lớn, cuộc sống chứa chan hạnh phúc và niềm vui nhưng tận đáy lòng đứa bé trai có những ước mơ, trở thành người lớn. Rồi thằng bé rời xa nhà, trải nghiệm bao nhiêu cuộc tình đẫm lệ, đói khát của cuộc đời để rồi một ngày nào đó nhớ lại và tiếc nuối thời thơ ấu đầy mộng mơ. 


https://youtu.be/vxvBHkRxLo4?si=AuMKggNy2n8nq-ol


Il était une fois un petit garçon

Qui vivait dans une grande maison

Sa vie n'était que joie et bonheur

Et pourtant au fond de son cœur

Il voulait devenir grand

Rêvait d'être un homme

Chaque soir il y pensait

Quand sa maman le berçait


Donna Donna Donna Donna

Tu regretteras le temps

Donna Donna Donna Donna

Où tu étais un enfant


Puis il a grandi, puis il est parti

Et il a découvert la vie


Les amours déçues, la faim et la peur

Et souvent au fond de son cœur

Il revoyait son enfance

Rêvait d'autrefois

Tristement il y pensait

Et il se souvenait


Donna Donna Donna Donna

Tu regretteras le temps

Donna Donna Donna Donna

Où tu étais un enfant


Parfois je pense à ce petit garçon

Ce petit garçon que j'étais


51 năm để nhìn lại ngày xưa còn bé, với nhiều ước mơ đi Tây, mơ ngày trở lại Việt Nam để rồi vài tháng sau đến Tây, Sàigòn trở thành bên thua cuộc. Bao nhiêu mộng mơ đều tan biến. Gia đình không biết sống chết ra sao suốt 3 năm trời trước khi có thư từ được cho gửi về Việt Nam. Mặc cho dòng đời đưa đẩy từ nước này sang nước nọ, từ Âu châu sang Hoa Kỳ.


Mình nhớ cũng vì bản nhạc này mà mình bị bọn Tây học chung chửi. Lý do là mình ngồi vẽ trong atelier thì buồn đời mình hát bản nhạc này. Mấy thằng Tây con đầm kêu sao mày hát toàn nhạc ýe ýe không. Rồi tụi nó cho nghe Joan Baez hát tiếng anh bản nhạc này. Lúc đó mới biết bản nhạc này được Tây chuyển ngữ như ở Sàigòn khi xưa, có phong trào nhạc trẻ, chuyển ngữ nhạc Tây, nhạc Mỹ ra việt ngữ. Có lần mình hát bài Seasons in the Sun. Rồi cãi nhau với Tây đầm là nhạc Mỹ không phải nhạc Tây khiến chúng cười, kêu mình ngu mà không biết. Sau này mới biết bài này do Jacques Brel, người Bỉ, là tác giả. Bài hát mang tên “Le Moribond”. Sau này được một ông Mỹ tên Rod McKuen chuyển ngữ ra Seasons in the sun. Từ đó mình được chúng cho mượn băng cassette để nghe nhạc Tây, kiểu có trình độ tiếng Tây cao cao hơn những bài hát của thời học sinh, choai choai. Salut les copains. 


Nghe bản chính bằng tiếng yiddish 


https://youtu.be/nrERf0RwnrQ?si=82cD7pAmEBJjBEay


Bà nhạc sĩ Joan Baez hát bài hát từ một bài hát Yiddish, của người do thái “Dana Dana"(in Yiddish דאַנאַ דאַנאַ). Nhờ bà Joan Baez khiến bài hát này nổi tiếng vào thập niên 1960. Bản nhạc chính được viết năm 1940 bởi Sholom Secunda và Aaron Zeitlin. Tên bản nhạc là Dos Kelbl (con bê). Bản nhạc nói về con bê được đưa đến lò sát sinh, khác với con chim én, tự do trên bầu trời. Biểu tượng cho tự do và sự áp bức của bạo quyền. Đến năm 1956, được chuyển anh ngữ bởi Arthur Kevess và Teddi Schwartz. 


Đến khi bà Joan Baez hát bản nhạc này vào thời gian có cuộc đấu tranh về quyền Dân sự và chiến tranh Việt Nam, khiến khắp nơi trên thế giới đều biết đến. Tương tự khi qua Tây mới nghe bài hát của Bod Dylan “Blowin’ in the wind”. Con bê tượng trưng cho những người thụ động trước sự bất công, trong khi con én tượng trưng cho những người lựa chọn tự do, ngay cả khi điều đó có đến nguy hiểm.


https://youtu.be/j1zBEWyBJb0?si=6QlACnYSYz3V3FK5


A calf is being led away on a wagon to the slaughterhouse at dawn.

Above, a swallow flies freely in the sky.

The calf cries as it watches the bird.


Refrain :

Donna, Donna, Donna, Donna… (nonsense syllables used for rhythm)


The swallow says to the calf:

“You’re weak and without will.

If calves could grow wings,

They could escape the farmer and his knife.”


The winds blow freely across the plains,

Laughing and playing with the clouds.

But calves remain trapped,

Because they never try to break free.


Cho thấy bản nhạc pháp ngữ do Claude Francois hát khác ý nghĩa với bản anh ngữ. Có lẻ âm điệu hay nên ông thần Claude Francois chuyển ngữ theo ngẫu hứng của ông ta thay vì đấu tranh chính trị như những năm của thập 60 tại Âu châu và Hoa Kỳ.


Nhớ khi xưa ở Việt Nam, mình nghe bản nhạc này thấy hay hay vì dạo ấy, mơ đi Tây hơn mê gái. Muốn thoát khỏi khung cảnh chết chóc của chiến tranh. Để rồi ngày nay, nhớ lại thời thơ ấu, lại nối tiếc những gì không thực hiện được của thời mới lớn. Đành kể chuyện đời xưa tại Đà Lạt. Chán Mớ Đời 


Parfois je pense à ce petit garçon

Ce petit garçon que j'étais


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Chuyện tình Cali đến Cao Miên


Hôm qua xuống Bôn Sa, vào tiệm ông Tám thì thấy khoá cửa sắt nên hỏi. Ông Tám kêu sợ vô gia cư đến phá phách. Hỏi phá ra sao, ông Tám kêu xin tiền này nọ thêm sì ke. Ông kể dân vô gia cư đa số là bị dính sì ke. Khi thiếu thuốc thì lên cơn như khúc Hazard và Brookhurst thường thấy một ông cởi trần đứng chửi bú xua la mua. Chủ nhà của ông Tám khi xưa, làm thợ ống nước có nhà có cửa đàng hoàng rồi mê sì ke, mất nhà luôn. Đang ngồi thì điện thoại gọi, bên đầu dây kêu cô Tư. Nói chuyện xong, ông Tám kêu bà vợ cũ gọi hỏi thăm. Mình hỏi sao giỏi vậy. Mấy cô đì mình khi xưa thì không bao giờ muốn gặp mặt lại. Sợ nhìn lại những ánh mắt hình viên đạn đồng AK. Ông Tám thuộc dạng có số đào hoa nên từ khi rời Việt Nam dính đến 8 bà nên mình gọi ông Tám Bôn Sa.


Ông Tám kể khi xưa, đọc mục tìm bạn 4 phương rồi trả lời. Trả $5 để báo người Việt cho số điện thoại rồi gọi. Gặp cô em đăng báo cho cô chị đi du lịch qua Mỹ rồi trai khôn tìm vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng ở chốn Bôn Sa để làm giấy tờ ở lại. Vụ này thì mình có biết vài người đi du lịch sang Mỹ rồi phát hiện ra chồng, làm đám cưới, ở lại luôn. Mình hỏi ra sao kể tiếp.


Ông Tám kể là cô em sang đây làm Nail, có bà chị sang chơi và muốn ở lại nên đăng báo tìm bạn 4 phương cho cô chị ở Bôn Sa cách đây gần 18 năm. Cô chị đi chơi thăm bạn bè ở San Jose qua xe đò Hoàng, vài ngày nữa mới về. Thế là hẹn gặp nhau ở tiệm Kim Sư, ăn Tôm Cọp và mì X.O. Đúng ngày ông Tám đến gặp ăn uống vui vẻ. Hỏi cô chị tìm chồng ở chốn Bôn Sa theo tục ngữ của Sơn đen “trai khôn tìm vợ Minh-Tơ, gái khôn tìm chồng ở phố Bôn Sa” làm gì mà nghỉ hưu sớm ở tuổi 50 ở Việt Nam. Bà chị kêu làm hiệu trưởng khiến ông Tám đứng hình. Hiệu trưởng là Đảng viên gộc mới được đề bạt, nên tránh vì dính dáng là khó thọ. Ông Tám vẫn liên lạc nói chuyện. Cô em nghĩ chắc không xong nên hỏi riêng, chắc anh không chịu chị hai của em thì thôi em làm mai chị Tư của em ở Việt Nam, cũng một lần dang dỡ. Nhà có 5 chị em gái kiểu ngũ long công nương. Thế là cho điện thoại ở Việt Nam để gọi đả thông tư tưởng. Sau 3 tháng tìm chồng ở BôN sa không được thì Cô Hai trở về Việt Nam. Ông Tám nhờ Cô Hai đem về một đôi bông tai cho cô Tư. Mình thấy ông Tám Bôn Sa quá sang, quen cô Tư qua điện thoại mà đã gửi đôi bông tai. Hèn gì gái mê. Keo kiệt như mình nên ế là phải. Lý do khách hàng làm thợ bạc, có hột xoàn 4 ly nhưng xấu hay sao đó nên bán rẻ. Ông Tám mua và nhờ Cô Hai mang về cho cô Tư khiến cô Hai hơi bực mình. Kiểu duyên Chị nhưng tình em. 


Sau vài tháng tốn tiền mua thẻ gọi điện thoại về Việt Nam, ông Tám đề xuất một kiến nghị là hẹn gặp nhau tại Cao Miên để mục thị nhau. Lý do là ông ta không muốn về Việt Nam gặp lại Việt Cộng. Cô Tư nhất trí đi Cao Miên nhưng kéo thêm Cô Hai vì cô Hai biết mặt ông Tám, sợ bị Cao Miên, Hun Sen bỏ bùa rồi tung điện đàm lên mạng xã hội. Thế là ông Tám bay về Nam Vang, thuê khách sạn đàng hoàng. Sau đó gặp lại cô Hai và cô Tư. Hôm sau cô Hai về lại Việt Nam, để cô Tư lại đả thông tư tưởng, điều nghiêng lý lịch trích dọc trích ngang trên giường, dưới giường suốt 2 tuần lễ thì ông Tám bay về đi làm lại. Cô em làm Nail đã bảo lãnh cho cô Tư nên phải đợi giấy tờ cho xong. Khi qua làm đám cưới. Ông Tám kêu đợi lâu quá thì xa mặt cách lòng ông ta dính cô em làm nail vì ông chồng bị tiểu đường nên bị liệt dương mà cô em còn trẻ. Xong om.


12 năm sau khi làm giấy tờ bảo lãnh thì cô Tư sang Mỹ thì lúc đó cô Tư cũng khó chấp nối vì em gái bảo lãnh nói rõ vụ này chỉ đột suất thôi nhưng ông Tám lại dính bà Minh Tơ. Nên chỉ biết trả hết về người trả hết chuyện tình Cao Miên. Được cái là từ ngày ông Tám uống mật ong của ông Mễ nuôi ong trong vườn mình thì sức khỏe tốt lại sau khi bị mỗ tim này nọ. Ông ta kể mỗ tim xong thì ngồi ghế đứng lên là chân cẳng run run như bụi chuối sau hè. Nay nhờ mật ong nguyên chất, giúp ông ta khoẻ lại, rờ mó bà 7 Minh Tơ được lại rồi. Xong om


Hôm qua đi ăn cơm với một anh bạn. Anh ta kể khi xưa bị ung thư, mỗi ngày anh ta uống nước cam vắt, có sinh tố C giúp tiêu diệt các tế bào ung thư. Công thức háo học của sinh tố Ca tương tự như công thức hoá học của đường nuôi tế bào ung thư, chỉ khác thêm 4 H. Và anh ta bỏ thêm một muỗng mật ong nguyên chất lành đến nay.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn