30 /4 là cái ngày định mệnh cho cuộc đời hắn.

Hắn sinh ngày 30/4 năm Bính Thân, rồi ngày mất nước lại đúng vào ngày sinh nhật của hắn, hắn ngơ ngác như đa số thị dân Đà Lạt, nhìn đoàn quân tuổi còn trẻ hơn em hắn tiến vào thị xã trong tiếng hoan hô khá miễn cưởng của đám CM30. Rồi cũng cái ngày định mệnh ấy, 30/4 hắn tình cờ được rời Việt Nam, vượt biển đi tìm tự do.
Hắn đang học đại học Sàigòn, thì mất nước , phải trở về Đà Lạt để phụ giúp mẹ hắn nuôi đàn em vì bố hắn thuộc diện lính nguỵ nên được nhà nước mời đi học tập đường lối, chính sách của Cách Mạng tận ngoài bắc. Thế là hàng ngày, hắn phải vác cuốc và gánh đôi thùng nước vào Suối Tía trồng trọt nhằm để tránh tai mắt của tổ dân phố, muốn đưa gia đình hắn đi kinh tế mới.
Mỗi sáng, mẹ hắn luột mấy củ khoai rồi chia cho mấy đứa con. Hắn được chia hai củ, được gói cẩn thận trong cái khăn, nhiều khi sang hơn thì có nắm cơm và chút mắm ruốc kho, bới trong cái lon sữa Guigoz của Thuỵ Sĩ. Cái lon này khi xưa hắn hay dùng để nuôi dế, nay lại được việc, tiện cho mọi thứ, quý hơn vàng. Mỗi ngày, hắn vác cuốc, gánh đôi thùng tưới nước vào vườn. Trước 75 thì vườn nhà hắn có máy bơm nước từ con suối để tưới rau nhưng sau 75, mấy người từ miền Tây Nam Bộ, đến mua, nghe nói đâu để đóng tàu vượt biên gì đó. Mẹ hắn nói bán để kiếm tiền nuôi mấy đứa em hắn lóc nhóc, lăn lóc đầy nhà.
Không bán máy thì đêm đêm họ cũng đến rinh đi, thôi thì bán như bao người thời đó, cứ đem bán dần, bán lần những gì có trong gia đình, của cha ông để lại. Mỗi ngày hắn phải đi sớm để gánh nước tưới rau, để tránh cái nắng rồi mới cuốc đất làm rẫy. Cuộc đời của hắn như tên Johan Moritz trong cuốn "giờ thứ 25" của Constantin Virgil Gheorghiu, bị đưa đẩy khỏi vòng tay kiểm soát của hắn, mặc kệ số mệnh đưa về đâu. Hắn chỉ hy vọng sau cơn mưa trời lại sáng.
Một hôm, thay vì đi thẳng về nhà thì hắn bổng muốn ra khu Hoà Bình xem tình hình ra sao vì từ ngày 30/4ấy thì hắn không muốn ra phố vì sợ gặp đám bạn CM30. Mới ngày nào ngồi chung bàn, chia nhau từng cục kẹo bổng nhiên xa lạ, ra đường không thằng nào dám nhìn thằng nào. Đi xin giấy tờ, làm hộ khẩu, gặp nhiều tên học chung khi xưa, đeo xà cọt, băng đỏ, đập bàn kêu hắn là con nguỵ quân nguỵ quyền, có nợ máu với nhân dân.
Cuộc đời lạ thật! Một người làm quan cả họ được nhờ, đây chúng mới làm tà lọt cho chế độ mới là đã vênh váo như tên hàng thịt ở làng Đơn Hùng Tín. Có lần hắn đến phường để xin cái giấy đi đường thì gặp thằng S, học chung khi xưa nên chào hắn trong lòng vui mừng vì có lẻ nó sẽ kí cho cái giấy. Ai ngờ nó đập bàn, kêu anh kia phải xưng hô tử tế với cán bộ của cách mạng, hắn đành thưa ông cán bộ.
Trong xóm thì cũng bị đám cm30, thập thò, rình nhà hắn để báo cáo với tổ dân phố để lập công với cách mạng. Hắn nhớ có lần, mẹ hắn đi chợ về, con mắt rất gian, ra hiệu mấy anh em hắn đóng cửa sổ lại và không được nói. Mấy anh em ngồi xung quanh người mẹ. Mẹ hắn lấy trong cái giỏ một gói báo ra, từ từ tháo tờ giấy báo ra, để lộ ra một cái đùi gà luộc. Mẹ hắn từ từ xé cái đùi gà như khi xưa, trước ngày bị giải phóng, hắn thường được ăn vào những ngày giỗ.
Từ từ mẹ hắn đưa chia cho mỗi đứa một miếng thịt gà nhỏ bé. Ôi chao sao mà nó ngon chi lạ. Hắn bỏ miếng thịt vào mồm, trên cái lưởi để thấy cảm giác rưng rưng, như dòng điện chạy từ cái lưởi của hắn lên đến bộ não như để hồi tưởng lại người tình năm xưa, rồi như chợt nhớ, hắn vội vàng chạy lại mấy cửa sổ, hé màn để xem phía ngoài có con bà Thủ, bà Thới, canh me để tố giác phố phường. Sau khi ăn xong phần thịt trong sự im lặng, như trân trọng giây phút tuyệt vời, mấy anh em hắn chuyền tay nhau để gặm cái xương gà. Khi không còn chút mỡ màng hay chút tuỷ nào, bà cụ hắn lấy tờ báo gói mấy miếng xương vụn nát, đem đi chôn sau vườn rồi lấy miếng đá chằn lên trên để tránh chó mèo hàng xóm cào bới.
Hắn đang rão bước trên đường Thành Thái xưa, nay ông vua này được họ đổi tên là Nguyễn Chí Thanh, nghe nói ông tướng liệt sĩ nào đó mà có lần trước 75, hắn có nghe tin ở đài phát thanh Sàigòn, thông báo khi Cục R bị không quân Mỹ thả bom chết. Đi qua rạp Ngọc Lan, hắn rùng mình khi nhớ cảnh xem quân đội chiếm đóng, tuyên dương một cô học chung khi xưa, anh hùng giải phóng. Lúc đó mới biết cô ta nằm vùng, đã đặt chất nổ rạp Ngọc Lan khi xưa. Sau ngày 30/4 thì những người hắn quen, bổng nhiên được tuyên dương, có công trạng với cách mạng, mới biết là nằm vùng cho bên kia, cho nên hắn lẫn trốn, tránh ra phố để khỏi sợ những đòn trả thù của phường a dua CM30.
Phố phường Đà Lạt dạo này vắng teo, không khí ảm đạm. Bổng nhiên hắn nhớ đến bài thơ "trên đường HTT" của Nguyễn Tất Nhiên:
Hồng Thập Tự ơi
Ta lang thang trên con đường này
Đường tình ngày xưa ta vui chân đón em học về
Hồng Thập Tự ơi
Ta đang đau nỗi đau Sài Gòn
Ta nhớ nhung lắm khung trời xanh
Hắn chỉ cần đổi cái tên Hồng Thập Tự thành Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng, Hai Bà Trưng,.. là cũng nói lên tâm trạng của hắn. Hắn chợt nhớ đến cô bé Răng Khểnh, khi xưa học chung Hội Việt Mỹ với hắn, có đôi mắt đẹp khôn tả, nữ sinh Bùi Thị Xuân nhưng không biết nhà ở đâu. Hắn hay đến trường sớm để trông ngóng, nhìn dáng cô bé răng khểnh, thủng thẳng đi vào cổng trường Đoàn Thị Điểm, làm sáng ngập khung viên trường. Hắn tự hỏi không biết cô bé nay ra sao. Chắc đã lấy chồng vì sau 75, mấy cô thi đua lấy chồng vì sợ đi nghĩa vụ, thanh niên xung phong, thêm có tin đồn là nhà nước bắt gái miền nam lấy thương phế binh bộ đội để trả nợ máu nhân dân miền bắc.
Bổng hắn nghe ai gọi tên hắn rồi một chiếc xe Honda dừng lại trước mặt. Thằng H, khi xưa học chung với hắn, kêu to leo lên xe tao chở đi. Mấy năm nay toàn đi bộ nay có người chở Honda nên hắn mừng quá, vội leo lên. Cái ghế ngồi bị băng keo dán chằng chèo để lò xo khỏi bật ra nhưng sao hắn vẫn sung sướng như gặp lại người tình cũ, một chút hương xưa. Sau ngày mất nước thì hắn không gặp lại thằng H, đậu Tú tài IBM xong thì nó về học đại học Cần Thơ, quê của ba hắn. Thằng H đưa hắn lại một cái nhà ở gần trường Tân sanh. Nó gõ cửa 3 tiếng, rồi cánh cửa vội mở, nó lẹ làng dẫn xe vào rồi ngoắc hắn vào.
Vào trong thì hắn được giới thiệu với chủ nhà, khá nổi tiếng khi xưa, một tay tài phiệt, chuyên đầu cơ tích trử của thị xã. Thằng H nói là ông A Sáng muốn giúp mày đi vượt biển thì hắn trả lời nhà không có tiền. Ông A Sáng chậm rãi nói là ông ta sẽ giúp hắn đi miễn phí với điều kiện là hắn giúp ông ta đưa cô vợ bé hắn đi vượt biển. Thằng H nói là bà vợ lớn ghen nên phải kiếm người đóng vai chồng cho vợ bé của ông ta để theo ghe vượt biển. Đến nơi thì đường ai nấy đi, ông ta sẽ cho đi theo ghe của ông ta, đóng cho cả đại gia đình, mày không phải trả 2 cây. Hắn mừng quá nhưng xin đợi tối trả lời vì phải hỏi ý kiến mẹ hắn.
Thằng H chở hắn về đến nhà, chạy vào nhà hỏi bà mẹ hắn. Hai mẹ con nhìn nhau trong yên lặng. Cái tin bất ngờ đến mà mẹ con hắn, dù có ước mơ cũng không thể mơ nghĩ đến như vậy. Đi vượt biển không mất tiền. Thấy hàng xóm tuần tự cho con đi vượt biển, có gia đình không biết con cái, có đến bờ tự do chưa mà mấy năm rồi vẫn biệt tăm.
Theo lời dặn của thằng H, sáng hôm sau lúc 4:00 sáng, hắn đã có mặt ở bến xe đò, đem theo một bộ đồ và một chiếc nhẫn cưới của mẹ hắn, để lo toan sau này khi đến bờ tự do. Từ xa, đã thấy thằng H chạy lại, đưa cho hắn cái chứng minh thư nhân dân với tên Phùng A Kiêu, ngày sanh vẫn 30/4, thêm cái giấy đi đường. Hắn dặn là đi bán chính thức nên phải có giấy tờ với tên tầu. Hắn bảo đợi một tí, vợ ông A Sáng đến thì lên xe một lúc, hắn đưa cho hắn vé xe đò.
Hắn ngạc nhiên, không hiểu đâu thằng H có vé xe vì thường thiên hạ phải thức dậy sớm, có khi từ đêm trước, ra bến xe đứng đợi cả mấy tiếng đồng hồ mới đến phiên mình được mua vé mà nhiều khi đến phiên mình thì hết vé như trong chuyện cổ tích, vậy mà tên này lại có vé đâu ra đó. Phải phục tên này. Ngày xưa trong lớp hắn là một trong những tên lanh lợi nhất, học thì không hơn ai nhưng mánh mung thì không ai bì.
Hắn đang lo, không biết chuyến đi này ra sao thì hắn có cảm tưởng có ánh mắt của ai đang nhìn, hắn quay mặt lại thì thấy hình bóng của mẹ hắn, đứng sau cái xe bán phở quốc doanh, vừa vội vã quay mặt đi như người ăn vụng. Hắn muốn chạy tới mẹ hắn nhưng sợ công an, mọi người phát hiện nên chỉ quay mặt đi. Thằng H kêu hắn lên xe đò, vợ ông A Sáng đã lên rồi.
Thằng H cứ dặn hắn đi dặn lại, là khi đến bến xe ở Sàigòn thì kiếm thằng M. Nó sẽ đến bến xe kiếm mày và vợ ông A Sáng, dẫn xuống Rạch Giá để tối mai, bọn công an biên phòng ăn mừng ngày chiến thắng miền nam, sẽ không canh gát thì tàu ông A Sáng nhổ neo. Như để trấn an hắn, thằng H nói nhỏ "mua bãi rồi, 300 cây". Trường hợp không gặp thằng M, thì mày đưa bà A Sáng đến nhà thờ đức Bà, đợi trong nhà thờ, ngồi phía sau bên tay phải cửa ra vào, 5:00 chiều sau lễ thì sẽ có người đến dẫn đi Rạch Giá.
Nếu có bị xét hỏi dọc đường thì bảo là vợ chồng mới cưới, nay đem vợ về ra mắt xóm giềng. Vợ ông A Sáng tên A Muối còn mày là Phùng A Kiêu. Thế là hắn lên xe đến chỗ ngồi của mình thì thấy cô bé Răng Khểnh ngồi đó. Có lẻ cô ta cũng ngạc nhiên như hắn, mở đôi mắt tròn xoe như thiên thần nhìn hắn, rồi xít vào cho hắn ngồi xuống. Hắn cứ như bị say nắng, tim hắn đau nhói, không ngờ cô nàng lại làm vợ bé ông A Sáng, một ông già đáng tuổi bố cô nàng.
Hắn mừng vì cô nàng còn sống nhưng oan nghiệt thay lại là vợ của vị ân nhân của hắn. Cả hai ngồi yên lặng bên nhau, không dám nhút nhít, động đậy trong tư thế ấy đến khi anh lơ xe đếm đủ người rồi ra lệnh cho bác tài xế khởi hành. Xe lúc đầu chỉ có 12 người như đã quy định, nhưng vừa ra khỏi bến đã dừng lại trên đường Nguyễn Tri Phương, đón thêm 10 người nữa. Hắn bị hai bà đi buôn, ép sát vào người cô bé răng khểnh. Mùi da thịt của cô bé toả lên làm khửu giác của hắn như tê dại.
Sau lưng cứ nghe anh lơ, chọt chọt than củi phía sau, lâu lâu leo lên mui, kéo xuống bao than. Thời đó xăng dầu hiếm nên người ta độ xe lại, dùng than củi. Phía sau xe Renault, loại xe đò Đà Lạt - Chi Lăng, họ gắn cái thùng phui rồi bỏ củi than để đốt ở trong, tạo nên khí thổi vào động cơ để chạy. Người ta còn gọi là xe hoả tiển vì cái bình than độ, cải tiến phía sau, trông như cái tên lửa. Lúc khởi hành thì họ dùng xăng dầu để đề ma rê cái máy rồi khi chạy sẽ chuyễn qua hệ thống than. Hắn và Răng Khểnh, ngồi phía sau xe, cạnh cái lò than nên mồ hôi mồ kê chảy như suối, nhất là khi đến Định Quán nhưng hắn vẫn không thấy mệt và cứ muốn giây phút này dài vô tận như một phương trình không ẩn số.
Sau một ngày ngồi trên xe, xe dừng lại bến xe đò Sàigòn thì hắn nghe tiếng thằng M, cũng học chung khi xưa nhưng không nhận ra. Tên này khi xưa, trắng trẻo như thư sinh, nay lang thang ở chợ trời nên đen đủi như vịt xiêm. Sau 75, thì hắn bỏ học, theo thằng H, lang thang ngoài chợ trời, kiếm ăn qua ngày. Rồi tình cờ đi buôn thì hai thằng cần giấy tờ cấp giấy phép của công an khu vực, mới được mua vé xe về miền Tây, mua đồ lậu, đem về thành phố bán. Theo chủ thuyết kinh tế ưu việt mới của nhà nước, Ngăn Sông Cách Chợ, tự túc tự cường. Người trên rừng muốn ăn cá biển thì đào hồ ao, pha với muối để nuôi cá thu,...
Thế là hai thằng bắt đầu làm giấy tờ giả để di chuyển, sau có người trả tiền làm dùm rồi đám tổ chức vượt biển ngóng được tin nên trả hai thằng thù lao hậu hĩnh nên móc nối được với dân Đà Lạt muốn đi chui. Hắn và Cô bé răng Khểnh được thằng M, bố trí trên xe đò miền Tây, bảo tới nơi sẽ có người đón vào nhà dân, đợi ngày đi. Như hiểu lo lắng của hắn, thằng M nói xe toàn chở dân đi chui không à, đến nơi sẽ có người dẫn đi, coi chừng lạc bà chủ thì hết lên ghe nghe con.
Xe đến nơi thì có người ra đón nhưng tên chỉ đường, nhìn cô bé răng khểnh rồi la lên. Trời ơi! Bà đi kiểu này thì lộ hết. Dân làm ruộng mà má trắng, má hồng con gái Đà Lạt như bà thì tụi biên phòng, cm30 biết ngay. Hắn lấy cái khăn rằn ri, vừa lau mồ hôi rồi quấn lên đầu răng khểnh, lấy bùn thoa lên mặt cô bé, biến thành cô bé lọ lem. Hắn nhìn cô bé Á Muối rất ngộ nghĩnh.
Đoàn người lần mò, hắn nắm tay răng khểnh đi trong đêm vì sợ lạc cô nàng là phải ở lại. Tên dẫn đường chỉ hắn vào ngôi nhà, đúng hơn là cái chòi, dặn ở đây, tối hắn đến kêu xuống bãi. Hắn đưa cho 2 ổ bánh mì với ruốc và bình nước để uống rồi bỏ đi. Còn lại hắn và răng khểnh thì không gian và thời gian bổng như dừng lại, hơi thở hắn nghe rất nặng nề.
Cuối cùng hắn đưa ổ bánh mì cho răng khểnh rồi cả hai ngồi xuống đất ăn. Răng khểnh kể sau 75 thì bố cô nàng là giảng viên đại học Võ Bị nên được mời ra bắc học tập ở trại Đầm Đùn. Mẹ cô nàng đi thăm nuôi mấy lần, bị dân ngoài bắc móc túi, cướp sạch nên phải mượn tiền ông A Sáng rồi ông ta muốn cưới cô nàng để xoá nợ. Thế là cô nàng lấy ông ta để nuôi đàn em. Hắn cũng kể lại mấy năm qua sau ngày sinh nhật của hắn thứ 19, bỏ học đi làm vườn trồng khoai. cô nàng hi vọng ra hải ngoại, sẽ đi học lại, để gửi tiền về cho mẹ.
Thế hệ của hắn bổng nhiên, bị bắt buộc lớn mau như chú bé Phù Đổng khi xưa, không có thời gian làm tuổi trẻ, tập tành yêu đường, mộng mơ sau ngày 30/4 ấy. Đậu tú tài xong thì cậu tú IBM, nhìn tương lai với những mộng mơ đầy nguyện ước như Thuý Kiều và Kim Trọng của Nguyễn Du, bổng chốc phải làm người lớn, chịu đựng những oan khiên, nghiệt ngã của cuộc đời, hằn lên trí óc non nớt của kẻ dậy thì.
Hắn thiếp đi trong đêm tối trong tiếng vo ve của muỗi. Lúc đầu hắn cố đập nhưng chả chết con nào rồi như mệt mõi hắn ngủ luôn. Bổng hắn nghe tiếng tên Hai trọc, người dẫn đường huýt gió, kêu hắn dậy rồi cả hai theo tên trọc lần mò trong đêm lạnh. Tên trọc ngừng lại, huýt gió thì đàng xa, có nghe huýt gió lại, hắn cầm tay răng khểnh xuống thuyền. Chiếc thuyền nhỏ nhấp nhô khiến cô nàng suýt té, ôm vịnh chặt vào người hắn khiến hắn như mơ dại. Cô bé nắm chặt tay hắn như để tự trấn an trong khi chiếc xuồng lướt nhẹ trong đêm thâu. Tài thật! Trong bóng đêm mà người chèo thuyền như có đèn pha.
Cuối cùng xuồng taxi của hắn đến Cá lớn. Hắn thấy trên tàu, đôi mắt của ông A Sáng gật đầu, đếm danh sách của người đi cánh ông ta. Hình như chỉ đợi răng khểnh lên tàu là ông ta ra lệnh cho tài công nhổ neo. Trong tàu, ai nấy im lặng, nghe nói người ta cho con nít uống thuốc ngủ để chúng khỏi khóc la. Tiếng máy tàu chạy bằng dầu Diesel vẫn bình bịch trong đêm đen. Hắn nghe ai đó đang lâm râm cầu nguyện Bề trên ban phước Hồng Ân làm hắn nhớ đến bài hát nghe trên đài VOA, nối kết hắn và thế giới bên ngoài.
Lời kinh đêm ôi lời kinh đêm.
Lời kinh buồn như tiếng mẹ thở dài.
Ai có nghe thấu lời kinh khổ,
Sao cúi mặt gục đầu ngủ quên.
Trời mong manh ôi đời lênh đênh.
Thuyền bấp bênh cuộc sống mơ hồ..
Lời kinh cầu từng ngày quen thuộc
Lời mẹ buồn giữa tiếng Nam-mô.
Thuyền trôi xa về đâu ai biết
Thuyền có về ghé bến tự do.
Trời cao xanh hay trời oan nghiệt.
Trời có buồn hay trời chỉ làm ngơ.
Trời chơ vơ ôi người bơ vơ.
Người vẫn ôm mảnh ván rũ mục.
Lời kinh cầu từng hồi nấc nghẹn.
Lời mẹ buồn giữa tiếng Amen.
Người buông xuôi về nơi đáy nước
Người có mộng một nấm mộ xanh.
Biển ngây ngô hay biển man rợ
Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ.
"có phải tàu vượt biển không?" hắn bổng giựt mình tỉnh dậy, mọi người trong tàu đều run sợ nhìn một cái đèn pha từ xa rọi vào con thuyền của hắn rồi tiếng loa phát thanh kêu vang trong đêm trường. Đó là tiếng vang của bác sĩ Đinh Xuân Anh Tuấn, cựu sinh viên ở Paris, đi theo tàu Ile de Lumière do bác sĩ Bernard Kouchner đứng ra chủ xướng, đi vớt người tỵ nạn ở biển Đông. Mọi người reo mừng, tuỳ đức tin của mình cảm tạ Thượng đế, Trời Phật, thề sẽ ăn chay, làm điều lành, điều tốt suốt đời, rồi khi lên bờ lại mau quên.
Lên đảo thì hắn và Răng Khểnh được bố trí cho một chiếc giường tre trong khu tập thể của những ai có gia đình. Phùng A Kiêu và vợ A Muối cùng một hộ còn gia đình ông A Sáng thì ở dãy phía trong, rộng rãi cho gia đình đông người. Hằng ngày, sinh hoạt tắm rửa, ăn uống thì có LHQ lo, lâu lâu thì A Muối tranh thủ nấu cơm với cá cho hắn ăn chung. Tối lại thì hắn và A Muối, để cái giỏ ở giữa giường như Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài khi xưa. Lúc đầu thì hắn cũng trằn trọc khó ngủ nhưng rồi cũng quen.
Có hôm, sau ăn tối thì hắn thấy ông A Sáng đến chòi của hắn rồi nhờ hắn canh chừng mụ vợ rồi vào trong phòng với A Muối. Hắn ngồi ở ngoài canh chừng như con chó trung thành với chủ, xem sao trên trời như Thuý Kiều khi xưa dạo nhạc cho Hoạn Thư và Thúc Sinh, ăn tiệc rồi mây mưa với nhau. Và cứ như vậy, vài ngày thì ông A Sáng ghé lại giường A Muối còn hắn làm con chó si tình, gác cửa cho chủ.
Một hôm, ngày 30/4 sau cơm tối thì thằng Ba Thẹo, kêu hắn đi dự lễ tưỡng niệm ngày mất nước rồi ghé thăm tên Trung vì ngày mai sẽ đi đoàn tụ ở Úc. Lúc trở về thì hắn nghe tiếng la hét trước lều hắn. Bà A Sáng và mấy đứa con đang đứng trước lều của hắn, đang chửi rủa A Muối. Có lẻ vì uống bia ở lều tên Trung nên hắn hét vang lên rồi tát bà A Sáng, cấm bà không được đụng tới vợ hắn.
Tối đó A Muối đề nghị hắn đi định cư chung với cô nàng ở Mỹ. Hắn hỏi thế ông A Sáng thì sao. Cô nàng bảo ở Hoa Kỳ cấm hai vợ nên cô phải khai riêng và cô chán cảnh này. Cô muốn đi đến một vùng nào xa xa để làm lại cuộc đời. Hắn đang đợi phái đoàn Úc phỏng vấn để đi đoàn tụ với bà cô ở Melbourne nên không biết tính sao.
Nếu làm hồ sơ lại thì phải ở thêm trên đảo thêm một cuốn lịch. Thật ra hắn lo ngại một điều là đi định cư với A Muối thì vong ơn bội nghĩa với ông A Sáng, vị ân nhân của hắn, đã cho hắn đi vượt biển mà bỏ A Muối thì cô nàng không có ai nương tựa ở xứ người. Thêm nữa, hắn cũng mến cô nàng. Nhiều khi hắn cứ mong được sống bên Răng Khểnh như vậy trên đảo cả đời. Như ai nói tình Bidong có giấy là dông.
Tối đó, say nên hắn ngủ thiếp đến khi thức giấc thì thấy tay hắn nằm trên ngực của Răng Khểnh. Cái khó là tay cô nàng lại cầm chặc tay hắn. Hắn cảm thấy rạo rực, nóng ran trong lòng.
Hắn nhớ đến thầy dạy môn đạo Đức năm 12, nói về nhân vật Raskolnikov trong "Tội ác và hình phạt " của Fedor Dostoieski. Hắn không muốn phản bội lòng tin của ông A Sáng, ân nhân của hắn. Nếu không có ông ta thì hắn chẳng bao giờ có cơ hội trốn khỏi Việt Nam. Nhiều khi hắn tự biện cho rằng ông A Sáng đã già, có gia đình, sẽ không chăm sóc A Muối như hắn một khi đã đi định cư. Hắn và A Muối có thể chạy trốn như Dustin Hoffman và Catherine Ross trong phim The Graduate, cuốn phim cuối cùng hắn xem ở rạp Ngọc Lan trước ngày mất nước, để xây dựng một cuộc đời mới.
Hắn không biết làm sao trong khi A Muối kéo bàn tay của hắn, thám hiểm trên cơ thể của Răng Khểnh.
(Còn tiếp)
Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Chuyện tình 7X

Hắn quen ả từ khi còn học tiểu học khi nhà hắn dọn về trong xóm Cà Bưng rồi lớn lên học chung trường cấp 3. Cuộc tình học trò giữa hắn và Ả, êm đềm như lục bình trôi dạt trên hồ Xuân Hương.
Đậu tú tài, hắn về Sàigòn học đại học còn Ả ở lại Đà Lạt, học sư phạm làm giáo viên vì muốn đem chút kiến thức để dạy mấy đứa trẻ nghèo ở các quận thị xã. Ả qua nhà hắn hàng ngày nên được gia đình hắn xem là dâu trong nhà. Hai bên họ đều mong ngày cưới đến sau hắn tốt nghiệp.
Sau khi tốt nghiệp đại học Sàigòn thì Ả hỏi hắn làm đám cưới thì hắn chần chừ, nói đợi khi nào thành danh rồi sẽ làm đám cưới. Ả vui vẽ chờ đợi. Một lần từ Sàigòn về, hắn khuyên Ả nên đi lấy chồng vì hắn thấy tương lai bấp bênh, xét về lý lịch nhân thân, nhân thíc, ngang dọc của gia đình Ả, nguỵ quân, nguỵ quyền thì con của hắn và Ả sẽ khó mà có một tương lai sáng ngời, dưới ngọn cờ cách mạng mà để Ả đợi thì tội cho đoá hoa sẽ mau tàn.
Rồi một hôm Ả được tin hắn làm đám cưới với con gái của một đảng viên, giám đốc công ty mà hắn đang đi làm, được thăng chức. Ả buồn khóc hết nước mắt rồi vài năm sau lấy con một gia đình nguỵ làm vườn ở Tùng Nghĩa, nơi cô nàng đi dạy.
Cuộc đời hắn không suông sẻ như mong đợi. Vợ hắn, con ông giám đốc, nghe nói nạo thai nhiều lần nên không có bầu dù hắn năng nổ, khắc phục hàng đêm lao động vinh quang để gia tăng sản xuất cho dòng họ. Thiên hạ dèm pha, cô vợ trở lại đường xưa, đi chơi với bạn cũ, bỏ hắn lây lất ở nhà rồi đem nhau ra toà. Hắn mất luôn việc ở cơ quan của bố vợ cũ. Lang thang kiếm việc, rồi bò về Đà Lạt, ở với bố mẹ hắn trong tuyệt vọng. Sáng dậy từ 3 giờ sáng, chạy xe thồ để bạn bè không thắy cảnh hắn chở hàng ra chợ cho mấy người bán ở chợ.
Ả lấy chồng làm vườn thì bổng nhiên, nhà nước quy hoạch đường xá, gần ngay vườn thế tự nhiên thiên hạ ghé lại mua đất mà gia đình này, sau 75 bị cướp sạch tài sản, đuổi đi kinh tế mới, khai hoang vùng đất này. Gia đình Ả bổng nhiên giàu có lên, cho con đi du học, hai vợ chồng đi du lịch ngoại quốc như đi chợ.
Chán mớ đời!
Nhs

Chuyện tình x 7

Cô bé thích hắn khi học chung cấp 3. Tính tình hắn hơi ngông ngông khiến đám bạn hay gọi hắn là Tốc Kê. Hắn học không giỏi nhưng vẽ rất đẹp, bao nhiêu biểu ngữ trong trường, ở xóm đều do hắn một tay vẽ hết.
Lên đại học thì hắn lại học mỹ thuật khiến gia đình, bạn bè cô bé dèm pha, bảo thằng này là cốt nghèo khiến cô bé xót xa. Nhiều lần cô bé bảo hắn học nghề khác để dễ kiếm tiền hơn là vẽ. Nghệ thuật không nuôi sống được tình yêu nhưng hắn cũng cố gắng, khắc phục nhưng không biết học được cái gì ngoại trừ cầm cái cọ. Cuộc tình hữu nghị từ từ không còn môi hở răng lạnh nữa.
Một hôm hắn được tin cô bé lấy chồng, một tên lái xe nào ở Pleiku. Dạo ấy, thời bao cấp, người ta hay nói "nhất lái xe, nhì dịch vụ". Mấy tên lái xe, được xem là hot boy của thời bao cấp, đi buôn thêm nên đến tỉnh nào cũng có mấy cô theo hầu để được hàng hoá mà bán. Một hôm cô bé xin đi quá giang xuống Sàigòn rồi mang thai với tên lái xe, bỏ Đà Lạt về quê chồng sinh sống.
Ngày cô bé lên xe tên lái xe về Pleiku thì hắn uống nguyên một xị rượu đế, rồi bắt chước Tuấn Vũ hát "đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng có thai, đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng mang bầu". Rồi mọi chuyện cũng qua đi. Mỗi ngày hắn chạy xe thồ, đêm về vẽ tranh cho vui. Lâu lâu ghé ông sư để trà đàm, bàn về nghệ thuật, vẽ viết.
Một hôm đang dẫn mấy thằng tây đi phượt, xung quanh Đàlạt, thì hắn phải ghé tạt nhà để đi vệ sinh, vì mấy thằng tây kêu cho ly sữa tươi khiến Tào Tháo rượt hắn. Mấy thằng Tây, con đầm thấy mấy tấm tranh của hắn treo trên tường thì buộc miệng kêu: "c' est Matisse vietnamien". Hắn chả biết Matisse là thằng tây nào nên cứ như bò đội nón. Sau này có tiền hắn mới mua cuốn sách về hoạ sĩ Matisse thì mới hiểu. Ông này vẽ đàn bà như ốm đói, như mấy người mẫu thời trang ngày nay. Hắn vẽ người việt trong thời bao cấp, ốm đói nên cũng gầy gò như tranh ông Matisse. Cuối cùng mấy thằng tây con đầm mua mấy tấm tranh của hắn, trả tiền khá bộn dù hắn chả biết phải bán giá bao nhiêu.
Trước khi rời Đà Lạt, mấy thằng tây mũi lõ kêu hắn phải tiếp tục vẽ như mấy tấm ảnh mà chúng mua. Rồi chúng giới thiệu đám tây đầm đi du lịch ở Việt Nam, ghé mua. Thế là cuộc đời hắn bước sang một trang sử mới. Có tiền hắn cho xây một cái nhà lớn 3 tầng, có cái xưởng vẽ cho hắn và một nơi để tranh của hắn vẽ để du khách đến thưởng lãm. Cuộc đời lạ, cứ có Tây thích là tự nhiên hắn được người Việt trọng vọng, khi xưa thì chả ai thèm nhìn hay cho ăn ghi sổ. Thấy hắn là cứ lo thủ cái ví, như sợ hắn chôm chỉa.
Có tiền là có tình yêu, thế là hắn lên xe bông về nhà hắn với cô vợ mới. Vợ hắn muốn đưa hắn về Dakto, thăm họ hàng. Thế là hai vợ chồng đưa nhau về quê ngoại trên chiếc xe ô tô con, mới mua.
Xe chạy gần đến Pleiku thì trời đổ mưa, vợ chồng hắn tấp vào cái quán bên đường. Cả hai lật đật chạy vào quán trú mưa luôn tiện ăn tô phở vì vợ hắn nói khi xưa hay ghé ăn tiệm này. Vợ chồng hắn đang lom khom coi thực đơn thì bà chủ quán đến, chào thực khách, tay đang cho con bú. Hắn nhìn lên thì tá hoả tam tinh. Hoá ra bà chủ quán là cô bé ngày xưa. Cuộc đời sao chua cay, khi gặp lại vợ ông bán phở. Trời ơi chính lại là nàng. To béo hơn xưa, không đen gầy như trước.
Chán mớ đời.
Nhs

Tại sao làm Estate Planning

Người Mỹ họ làm Estate Planning với hai mục đích: tích lũy và giữ gìn tài sản. Khi kế hoạch này được thành hình thì chúng ta sẽ bớt lo lắng và yên tâm vui sống cho đến khi qua đời và người thân ở lại sẽ cám ơn chúng ta đã có viễn kiến và nhớ ơn.
Nếu chúng ta bổng nhiên hôm nay được Chúa gọi về đất Chúa thì chuyện gì sẽ xẩy ra cho những gì chúng ta và người phối ngẫu đã bỏ cả đời, tuổi trẻ trong mấy chục năm để tích lũy? Liệu công ty, văn phòng bác sĩ,..., của chúng ta có còn tiếp tục hoạt động hay người phối ngẫu có thể quản lý để giữ nguồn lợi tức? Những đơn vị đầu tư của chúng ta có còn giữ nguyên giá trị hay biến mất khi chúng ta nằm xuống? Những công thức để hạn chế bớt số thuế mà thân nhân phải đóng một khi chúng ta qua đời?
Ngay cả trước khi chúng ta qua đời, nếu chúng ta bị thưa kiện? Hoa Kỳ là xứ có nhiều nhất các vụ kiện trên thêm thế giới. Hàng năm biết bao nhiêu luật sư trẻ tốt nghiệp và đói? Họ sẽ tìm cách giúp những kẻ không ưa chúng ta để kiện ra toà, để tìm cách thương lượng, kiếm chút tiền.
Cách đây mấy năm có một văn phòng luật sư ở Cali, chuyên kiếm người đi thưa các tiệm Nail của người Việt làm chủ rồi thương lượng bắt các người chủ này trả một số tiền để khỏi tốn tiền luật sư phí.

1000 năm vẫn đợi

Hắn nhớ cách đây đúng 1,000 năm về trước, tình cờ đi chùa thì hắn phát hiện ra cô bé Răng Khểnh, đang lâm râm lạy phật nơi chánh điện. Hình ảnh của cô bé theo hắn đêm ngày như Nguyễn Nhược Pháp gặp cô bé đội nón quai thao đi hội chùa Hương. Hắn không biết thơ văn thi phú nên ngày ngày, cầu nguyện Phật tổ cho hắn được gặp lại cô bé dù chỉ một giây, một phút thì được biết hắn phải đợi 1,000 năm thì cái duyên kỳ ngộ mới trở lại theo chu kỳ của hàm số bậc duyên nợ.
Thế là hắn ăn chay niệm Phật trong suốt 1,000 năm để được nhìn lại cô bé Răng Khểnh. Nhờ ăn chạy niệm phật, làm điều lành trong suốt 1,000 năm qua, hắn đã được toại nguyện gặp lại thiên niên cố nhân và hạnh phúc hơn, hắn được Phật tổ cho hắn được se duyên cùng cô bé Răng Khểnh. Nhưng cũng bắt đầu cái nghiệp do hắn tự gây ra, gieo trồng từ 1000 năm qua.
Những năm đầu làm chồng cô bé thật là hạnh phúc. Cô bé Răng Khểnh cũng mặn nồng với hắn, luôn luôn xem sách, coi truyền hình để tìm kiếm những món ăn lạ để tập nấu cho hắn ăn. Tính cô bé làm điều gì là phải làm cho đến cùng, nên tập nấu món nào cũng phải là phải thử đủ trò ngoài công thức như đổi nước mắm Phú Quốc qua nước mắm Phan Thiết rồi mắm bò hốc kampuchia đến pha nước mắm Diệu Hà, bú xua la mua khiến hắn phải ăn đến tận cổ.
Với thời gian làm thùng nước gạo cho những thí nghiệm gia chánh của cô bé Răng Khểnh, hắn từ từ phát tướng, đi thử máu tại trung tâm CTVL, hắn được đổi tên cúng cơm thành Cao văng Mỡ nhưng hắn không dám ăn kiêng ở cử vì sợ cô bé buồn nên dần dần hắn thêm cánh cao đường và cao muối nên không còn khả năng nộp thóc cho cô bé khiến cô bé nổi điên mà bác sĩ gọi là tiền mãn kinh do ăn nhiều Vịt Tắt Kinh. Cô bé Răng Khểnh cũng theo thời gian, to béo như cái lu gạo nên hắn phải tự đấu tranh tư tưởng, khắc phục dang tay nối vòng tay lớn mỗi khi ôm nàng.
Cuộc sống khi xưa vui vẻ bao nhiêu thì nay như địa ngục thế là sau giờ làm việc, hắn nói dối cô bé là bận việc sở, phải làm thêm, bò vào cà phê Lú nhưng các cô ăn bận thiếu vãi cũng không chữa được những căn bệnh thời đại của hắn. Một hôm hắn đi ngang một toà nhà lớn thì nghe tiếng đàn bà la hét bên trong: "bố tiên sư nhà mày, bà đã bảo để bà ngủ nhưng mày cứ đút cái mả cha mày vào, giờ bà đau đẻ thì mày lại trốn đi cà phê Lú...." Hắn tò mò nhìn lên cái bảng hiệu thì thấy Xưởng Đẻ Từ Mẫu. Mẹ hiền sao có những câu nghe quái quái thế. Hắn bắt đầu nghiệm ra cái mầm mống của cái nghiệp mà hắn đã gieo từ 1005 nay.
Hắn chợt nhớ sư cụ khi xưa ở chùa bảo cuộc đời như 4 mùa, xuân hạ thu đông tương tự như sinh bệnh lão tử hay tứ diệu đế. Hắn thầm nghĩ sinh ra đã làm người đàn bà đau đẻ như sư cụ đã nói cái dục là khởi đầu của sự đau khổ của con người. Bổng hắn thấy một đoàn người khóc than đi sau chiếc xe mang cái quan tài tiến về nghĩa địa như nói lên cuộc đời vô thường, đời người như một giấc mơ mà hắn hay nhận imeo của đám bạn cùng lứa, khuyên ăn chay, niệm phật, buông bỏ hết nhưng hắn chưa giác ngộ được buông bỏ cái gì. Thời gian, thiên thu là gì trong phương trình e = mc2 của Albert Einstein. 1000 năm của loài người là 1 năm cho đám khủng long hay một giờ của kẻ đợi chờ hay một phút của kẻ sợ vợ hay một giây của cuộc tình đã lỡ.
Hắn không hiểu 1000 năm đợi chờ để rồi vui vẻ hạnh phúc trong chốc lát để rồi cay đắng thất vọng thiên thu. Tưởng là hạnh phúc đó rồi cũng chính người mang lại hạnh phúc cho mình lại làm mình chán chường như kinh Bát Nhả, có đó rồi tan biến như hợp rồi tan. Hắn không hiểu tại sao đàn bà có can đảm, có thể đợi chờ 1000 năm thậm chí triệu năm để đì thằng chồng. Họ như những nhà kiểu mẩu, khi đi xem thì rất đẹp nhưng mua rồi dọn vào ở thì mới khám phá ra là "No Return" lại không có bảo đảm chất lượng, những tánh hư tật xấu đi chung với căn nhà. Nhưng đã lở rồi, đã leo lưng cọp thì phải chịu, nhảy xuống thì sợ té đau. Thầm gọi Âu cũng là số mệnh, cái nghiệp của mình tạo ra; vì mình muốn tu 1005 vẫn đợi. Cái nhân là lòng ham muốn của hắn, gặp lại cô bé Răng Khểnh để rồi Nhất nhật tại gia, thiên thu tại ngoại.
Một hôm, hắn lần thần, ghé lên chùa thăm sư cụ. Hắn hỏi sư cụ đạo Phật khuyên con người phải buông bỏ mọi thứ? Sư cụ bảo không đúng, buông bỏ để làm gì. Buông bỏ thì sẽ đem đến sự sụp đổ khiến hắn gãi tai, bức tóc. Sư cụ nói con đang cầm cái ly, nếu con buông bỏ thì sẽ làm cái ly rớt xuống đất, vỡ tan. Hắn hỏi thế hắn phải làm gì trong cuộc sống, khi hắn không còn hứng thú với hiện tại, phải sống trong cái vòng lẫn quẩn, chấp nhận cái nghiệp của hắn hay chăng?
Sư cụ nói nước trong hồ cá lâu ngày sẽ bị bẩn đục vì thế người ta phải thay cái nước dơ ấy. Chúng ta không buông bỏ nhưng hoán đổi hay thay thế. Hắn như bò đội nón, hỏi sư cụ xin thầy chỉ giáo. Sư cụ từ từ rót trà vào tách hắn, khi đã đầy sư cụ vẫn tiếp tục rót trà khiến hắn ngạc nhiên, nói sư cụ trà đã đã tràn ra ngoài. Sư cụ từ từ đặt bình trà xuống bàn rồi chậm rãi nói, tách trà của con đầy thì làm sao buông bỏ? Sư cụ cầm tách trà rồi đổ xuống đất rồi chế trà mới vào cái tách. Đấy là hoán đổi, thay thế.
Nếu con chán con vợ béo mập của con vì phải dang tay nối vòng tay lớn thì nên buông bỏ, về Việt Nam kiếm một cô chân dài, vì có một cô bé Răng Khểnh khác trẻ đẹp hơn cũng đã đợi con từ 1000 năm nay.
Thân tặng cô bé Bánh Căn và cô bé Áo Nâu và những cô bé thích những chuyện tình lẽng mẹn cho đàn bà con gái nhưng đau khổ cho phái đàn ông.
He he he.
Nguyễn Hoàng Sơn 

Chuyện tình máu lửa

Nhớ dạo ở Luân Đôn, tình cờ có người rũ đi nghe nhà văn Duyên Anh từ Ba Lê sang nói chuyện, nhưng vào giờ chót nhà văn mà mình ái mộ nhất thời còn bé không qua được khiến mọi người buồn nản kéo nhau ra về ngoại trừ vài người nên mình nán lại nghe họ đàm đạo.
Trong đám đa số là người đi từ miền bắc, có vài người thuộc loại văn sĩ gốc hoa, bị vc đuổi về tầu rồi họ trốn qua hongkong và bà Thatcher nhận cho quy chế tỵ nạn qua Anh quốc sinh sống. Mình ngồi nghe mấy người này nói chuyện, được xem là lần đầu tiên nghe người đi từ miền bắc nói chuyện về văn hoá miền bắc cũng là lần đầu tiên mình nghe những từ khắc phục, tranh thủ, nhất trí,..., khiến mình như bò đội nón, tự hỏi mình đã mất gốc hay sao mà không hiểu người Việt nói chuyện.
Trong số người này có một anh, không biết tên và nay cũng không nhớ. Sau vài chai bia, anh ta kể về cuộc tình máu lửa của anh ta rất cảm động rồi đọc cho bài thơ của anh ta làm, thương nhớ về người tình đã xa, sau đó mình qua New York làm việc nên cũng quên tuốc.
Một hôm có nhóm bạn rũ mình làm báo xuân bán để gây quỹ giúp các người Việt tỵ nạn đang còn lây lất ở các trại tỵ nạn ở Á châu. Đám bạn kêu mình viết cái gì đó để đăng nhưng mình thì không rành tiếng việt nên không rặn được một chữ.

Đà Lạt ngày trở lại *

Hắn trở lại Đà Lạt sau 18 năm. Ra cổng quan thuế của phi trường Tân Sơn Nhất, thấy một cửa lưới sắt to, rét rĩ, dài chắn ngang, bên ngoài tiếng người gọi nhau in ỏi trong cái nóng oi bức của Saigon. Hắn nghe tiếng mẹ hắn gọi tên hắn nhưng không biết từ đâu vì bao nhiêu cánh tay thò qua cửa sắt kêu gọi những hành khách đi chung chuyến bay với hắn. 
Cuối cùng hắn đẫy xe hành lí ra ngoài cửa thì mẹ hắn hiện ra trước mặt. Hắn đứng sững không biết làm gì. Bên Tây gặp người quen thì hôn má bisou bisou mệt thở còn ở VN thì hắn chưa biết xử sự ra sao vì quá đột ngột mặc dù hắn vẫn mơ ước được giây phút này từ 18 năm qua rồi một lực vô hình nào đó đã xô đẫy kéo hắn ôm chầm lấy người mẹ xa vắng 18 năm qua.
Ngồi trên xe trực chỉ Đà Lạt, mẹ hắn kể lại những gian khổ mà bà ta đã trải nghiệm trong 18 năm qua, từ ngày đưa hắn ra phi trường Liên Khương đi Tây. Trước nhất là cả nhà suýt chết trong cuộc pháo kích của VC trên đường di tản về Phan Rang, Bình Tuy, Saigon, 30/4 rồi hồi cư thì cửa hàng, nhà cửa bị cướp sạch, phải làm lại từ đầu. Cha hắn bị bắt rồi đi tù 15 năm lao cãi. Mẹ hắn đi thăm nuôi, trời mưa bị té gãy cái xương chậu nên đi khập khểnh từ dạo đó. Nhà nước tịch thâu một cái nhà, hàng xóm CM30 tìm cách tống cổ gia đình hắn đi kinh tế mới để đoạt căn nhà cuối cùng. Em út đi vượt biên ra sao, đứa lập gia đình, đứa nào có con, hàng xóm ai sống ai chết, ai vượt biên,... Hắn ngồi nghe như cuốn phim 18 năm được chiếu lại cho hắn xem với tốc độ nhanh chóng mặt.
Đà Lạt thời mình trở lại lần đầu tiên, 1992 thiên hạ đi xe đạp, đi bộ, nhà cửa cũ kỹ.
Con đường Saigon Đà Lạt mà hắn đi qua vài lần, sau khi đậu tú tài năm 74 để xin du học ở Pháp nay vẫn vậy chỉ có hàng quán mọc lên hai bên đường khá nhiều. Không gian ngày xưa bổng nhiên nhỏ bé lại như nhìn qua một ống kính của máy quay phim. Xe chạy qua mấy tảng đá lớn nên hắn đoán là Định Quán, nơi mà khi xưa các xe đò hay ngừng lại để hành khách dùng bữa trước khi lên đèo. Hắn nhớ đến đĩa cơm sườn và ly trà đá độ ấy nhưng xe cứ tiếp tục vì hắn nóng lòng gặp lại cha hắn, mới ra khỏi tù sau 15 năm cải tạo học tập tốt. Hắn thường nghe họ thả những ai sắp chết về trước hạn tù để tránh những phiền phức chôn cất tù. Khi nghe cha hắn được thả, hắn xin nghỉ bay về thăm cha để sau này không hối hận.
18 năm qua hắn đều mong muốn trở về Đà Lạt dù chỉ một giây một phút. Các giấc mơ, nằm mộng trở lại quê hương của hắn đều có kết cuộc rất căng thẳng, hồi hộp vì luôn luôn kết thúc bởi hình ảnh công an bao vây nhà rồi hắn tỉnh dậy trong sự lo sợ mặc dù hắn chưa bao giờ sống một giờ, một phút với chế độ mới. Có lẻ hắn bị nhập tâm bởi cuộc lùng bắt cha hắn được các người em vượt biên sang kể lại. 
5 giờ sáng công an bao vây nhà, không cho ai đi ra hay vào rồi họ vào lục soát nhà, xé tung mền chiếu, tịch thâu sách vỡ ngoại ngữ của hắn khi xưa, nay được gọi là văn hoá đồi truỵ trong khi cả nhà phải ngồi yên nơi phòng khách. Rồi họ còng cha hắn dẫn đi và chỉ gặp lại ở toà án, ngày bị tuyên án 18 năm tù về tội phản động. Ông Nội của hắn từ quê, vào Nam khi được tin cha hắn còn sống cũng không được vào thăm người con trai, xa cách hơn 25 năm, dù là gia đình liệt sĩ vì hắn có hai ông chú sinh Bắc tử Nam. Ngoài quê tưởng cha hắn đã chết nên mỗi năm đều giỗ ngày cha hắn bỏ trốn vào Nam, khi bị các du kích ở làng lùng vây bắt.
Hắn đi theo mẹ hắn đến đồn công an khu vực, ngôi nhà của một người bạn học cũ để báo cáo xin ngụ lại nhà vài tuần. Mẹ hắn tặng mấy anh vài bao thuốc lá 555 mà hắn mua ở phi trường vì cha hắn khi xưa hay hút loại này và dúi chút tiền cho các Anh bồi dưỡng. Về đến nhà thì hắn thấy cha hắn vừa đi đâu về. Hai cha con nhìn nhau lặng câm sau 18 năm xa cách, cuối cùng cha hắn thốt lên "Sao trông giống Nhật Bổn thế" rồi ôm chầm lấy hắn. Hắn mơ giây phút này từ 18 năm nay, cứ tưởng tượng cảnh cha hắn sống trong lao tù. Hắn đọc đi đọc lại biết bao lần Quần đảo Ngục Tù của Aleksandr Solzhenitsyn, Trại Đầm Đùn của Trần Văn Thái, Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh, hay Thép Đen của Đặng CHí Bình. Sách báo do các nhân chứng của cuộc trả thù ghê rợn ghi lại để cố gắng tìm hiểu đời sống của cha hắn trong trại cải tạo.
Cha hắn rất già hơn xưa, tóc bạc, gầy guộc, răng rụng gần hết. Hắn gặp mặt lần đầu tiên hai cô em út vì sinh sau ngày hắn đi Tây. Anh em trùng phùng nhưng có cái gì chưa bắt được nhịp cầu vì năm hắn ra đi, mấy người em còn bé hoặc chưa ra đời nay có một tên xa lạ vào nhà được mọi người nói là ông anh đầu bên Tây về như cuốn phim bị gián đoạn 18 năm nay được chắp nối lại một cách vội vã mà các diễn viên không biết vai mình phải diễn ra sao trong sự ngỡ ngàng.
Hình ảnh của Đà Lạt thủa về lần đầu tiên nay thì chịu 
Hắn ngồi nghe mấy người em kể chuyện thời Tem Phiếu, cuộc sống ăn cơm độn, bị cô lập hoá bởi hàng xóm, không ai dám liên hệ với họ vì lí lịch gia đình trong khi cha hắn bóc gói kẹo m&m, bổng cô em út nói 7.000 đó cha khiến cha hắn vội vàng rút tay lại khi đưa tay lấy thêm một gói kẹo khác, buột miệng kêu Ối trời ơi! Đắt thế à! Sau khi ra trại cải tạo, mỗi tuần phải đi trình diện công an khu vực, không giấy tờ chính thức nên không thể đi đâu xa chổ ở, không được đi làm để kiếm tiền.
15 năm qua cha hắn chỉ biết lao động là Vinh Quang, mong sớm giác ngộ cách mạng, nay ra tù sống nhờ cậy vào vợ nên rất hãi khi nghe đến giá tiền của gói kẹo nhỏ 7.000 đồng trong khi một tô phở chỉ có 2000-3000 đồng. Hắn nói với cô em để cha ăn. Cha hắn tự cô lập vì không dám làm phiền hay gặp người quen, sợ công an làm khó dễ họ. Mỗi lần khai báo cho công an đều ghi không có tiếp xúc với ai trong tuần ngoài vợ con như tạo một cái chuồng vô hình để tự khép mình trong cuộc sống mới.
Như các người thành công mà ông Stephen Covey đề cập trong cuốn "the 7 habits of highly effective people", cha hắn đều ghi lại những gì đã làm trong ngày để khi làm việc với công an khu vực, có thể nhớ đã làm gì trong tuần, chỉ có khác là cha hắn không thể phát hoạ tương lai của mình, những gì sẽ làm vào ngày mai. Cha hắn không nói đến những năm tháng dài lao động trong tù, có lẻ chỉ muốn giữ cho riêng mình như con thú bị thuơng tìm một chổ nào xa vắng, mong thời gian sẽ làm lành vết thương. Hắn nghe kể mỗi tháng bà cụ đi thăm nuôi, gánh mấy cây số vì xe vào trại không được nhưng ông cụ lãnh quà xong thì chia cho các tù khác không được thăm nuôi còn mẹ hắn bồi dưỡng các cán bộ nên sống sót đến ngày nay.
Hắn đem va li quà mà vợ hắn dặn tặng cho ai đem ra chia cho các em và cha mẹ hắn rồi đưa tiền cho mọi người còn lại thì giao cho mẹ hắn quản lí bồi dưỡng trong những ngày hắn ở Đàlạt. Hôm sau hắn theo mẹ hắn đi thăm những người bà con rồi có người nghe hắn về, đến nhà thăm. Ai đến thăm cũng kể về thời Tem Phiếu-Bao Cấp mà họ đã trải qua, không đá động gì về chuyện bên Tây bên Tàu, như áp suất của cái nồi nấu sôi được mở hé nên họ tuôn ra hết cho thỏa những ấm ức, buồn chán, gian khổ đã chịu đựng từ 75 đến giờ. Hắn chỉ ngồi lặng yên như ông cha cố nghe con chiên xưng tội, nghe họ hàng kể thời kỳ trước khi "Đổi Mới" như một bị can đang bị toà án lương tâm lên án hắn không ở lại VN để cùng chung hửởng nổi đau của cuộc đổi đời với họ. Mẹ hắn rút tiền lì xì cho các người bà con, thân hơn thì thêm cây son, gói kẹo.
Hắn đang nằm ngũ vì trái múi giờ thì cha hắn kêu dậy nói có Anh gì đến thăm rồi nói nhỏ bên tai công an khu vực. Hắn ngạc nhiên vì đâu có hẹn với ai, ra chào khách lạ nhưng không biết là ai, hôm qua đã gặp khá đông các anh ở đồn còn anh này đem theo đứa con gái rồi hỏi hắn chuyện bên Tây bên Đông. Hắn trả lời theo kiểu xã giao, ngại ngùng, e ngại, bên tây cũng phải lao động vinh quang chớ không sung sướng gì đâu. Cuối cùng hắn chạy vào phòng lấy mấy bao kẹo m&m ra tặng cho đứa bé gái thì Anh khách lạ cũng xin phép về, chúc hắn vui chơi trong những ngày thăm quê hương.
18 năm qua hắn mơ trở lại Đà Lạt, để đi thăm đó đây để tìm lại những kỷ niệm của thời mới lớn nhưng hai tuần qua hắn chỉ ở rút trong nhà, không bước ra đường ngoại trừ đi lên mả thánh, chùa thắp hương cho hai người em chết sớm và mấy người bà con như ông bà Nguyễn Văn Phúng, ông bà Võ Quang Tiềm. Thời gian và không gian bổng như lắng động, từ từ từng bước, từng khắc, từng giây như cô động lại như tra tấn hắn khác hẳn với không khí náo động của New York, Cali. Hắn cảm thấy như một kẻ bên lề, người ngoại cuộc của cuộc sống gia đình, bà con thân thuộc trong suốt những năm tháng đi qua. Dù họ có tả ăn bo bo, cơm độn ,... thì hắn cũng biết vậy thôi vì như ai đã nói: "nghe thì biết, thấy thì nhớ, làm thì mới hiểu". Hắn không kinh qua những hệ lụy này nên không thể hiểu được, để những đớn đau thấm nhập qua các tế bào trong tâm khảm của hắn.
Một người bạn học rất thân năm xưa khi hay tin hắn về, đã ghé nhà thăm. Người bạn này khi xưa học rất giỏi, đậu bình thứ tú tài Pháp trong khi hắn phải nhảy sang trường Việt; ngày nay anh bạn chạy xe ôm. Người bạn này rất hiền, chỉ biết học chớ không biết xoay sở mánh mung như những người cùng tuổi nên không thể nào ngất đầu lên trong xã hội mới. Hắn hỏi thăm về những người bạn học xưa thì đa số cùng chung số phận ngoại trừ một thiểu số có cha mẹ nằm vùng khi xưa thì khá khá một chút. Hắn đi với người em đi xuống Hồ Than Thở để kiếm nhà một người bạn học cũ nhưng người nhà nói anh ta đang chạy xe hàng ở Hà Nội, ghé qua đường Nguyễn Du chụp vài tấm hình nhà thầy CBA. Nhà này khi xưa mình rất mê, đẹp lộng lẫy nay là hợp tác xã, thấy heo gà chạy vòng vòng kêu in ỏi nên cũng không biết tìm ai thêm rồi quay lại nhà ngồi bó gối không muốn gặp lại ai.
Mấy người em kế của hắn đã vượt biên sang định cư ở nước ngoài, mấy người sau vì sợ gặp hải tặc nên mẹ hắn không cho đi. Vì lí lịch gia đình hắn nên mấy người em sau không được học tiếp đại học dù đậu khá cao. Đứa thì đan len chui vì lí lịch gia đình, tính ra chưa tới $10/ tháng, đứa thì học nghề thợ may xong thì ngồi bó gối ở nhà vì đâu có ai có tiền để may đồ. Con trai thì la cà quán cà phê hi vọng có tin tức làm ăn để mánh mung kiếm chút tiền chợ. Một cô em ra chợ phụ mẹ hắn buôn bán. May là nhà cầm quyền đang cho thi hành chính sánh "Đổi Mới" nên 3 người em sau được phép học đại học nhưng ra trường không biết có việc làm vì chính sách Hồng hơn Chuyên thêm lí lịch gia đình thuộc dạng 13.
Hắn lấy can đảm ghé thăm vài người hàng xóm khi xưa. Họ cũng sống lây lất có khi còn te tua hơn gia đình hắn vì không buôn bán, một số có con vượt biên đang đợi giấy tờ bảo lãnh đoàn tụ qua Mỹ, một vài người cùng trạc tuổi với hắn đã vượt biên nhưng gia đình không có tin tức gì từ ngày đi, một số khác thì chết khi đi Thuỷ lợi hay Kampuchia. Có người ngạc nhiên vì hắn còn nói được tiếng Việt vì nghe nói có một số vượt biên hay đi đoàn tụ mấy năm trước nay trở về thăm xóm, nói tiếng Việt như ông Tây bà đầm. 
Nhà cửa trong xóm trông rất tiêu điều, rong rêu không được sơn phết từ 18 năm qua. Hắn nhớ khi xưa, vào tháng chạp là mỗi nhà trong xóm, cho người đến quét vôi để ăn Tết nhưng 18 năm qua không tu bổ, bảo trì thì cả Đà Lạt trông rất cũ kỉ như khuôn mặt của một người đàn bà già, đói khổ không màng gì đến son phấn.
Rồi đến ngày hắn lại ra đi như 18 năm trước. Hắn ôm từng đứa em trong nước mắt, biết đâu 18 năm nữa hắn sẽ trở lại hay không bao giờ. Ngồi trên máy bay, vang vãng bên tai hắn:
Một ngày về trên quê hương
Tôi muốn nấc lên đau thương
Tôi muốn khóc cho tủi hờn
Tôi muốn ôm em vào lòng
Từng cuộc đời trôi qua đây
Tôi muốn hát em lời hay
Lời vô nghĩa cho từng kiếp đọa đày
(Những đứa bé/Phan văn Hưng-Nam Dao)
Sơn đen

Brushing

Có hiện tượng lạ là người Mỹ hay nhận được nhiều hàng hoá gửi từ Trung Quốc mà họ không bao giờ gửi mua như trường hợp mình, đồng chí gái và cô Celina Salas. Cô ta kể là cách đây 3 năm, cô ta nhận được một bưu kiện, mở ra thì thấy một cái đồng hồ rẻ tiền bằng nhựa, được sơn màu vàng và không hoạt động được, madze in China. Cô ta tưởng bà mẹ mình gửi để chọc ghẹo cô ta, tặng cái đồng hồ để giúp cô ta thức dậy sớm.
Tuần trước mình cũng có nhận một gói hàng từ bên tàu gửi mà chưa bao giờ đặt hàng, chắc họ lấy địa chỉ của mình khi mụ vợ mua đồ chi trên mạng. Mở ra thấy cái đồ treo chìa khoá nên quăn thùng rác ngay. Chán Mớ Đời
Cô ta gọi bà mẹ thì được biết không phải bà mẹ gửi nên càng phân vân hơn vì sau đó cô ta càng nhận được những món hàng rẻ tiền, vô bổ, không sử dụng được từ Trung Quốc gửi sang vì địa chỉ người gửi viết bằng tiếng tàu.
Cô Salas cũng như bao nhiêu người đã từng mua hàng qua Alibaba, một công ty bán hàng của Trung Quốc tương tự Amazon của Hoa Kỳ, nhận hàng vớ vẫn này đều đều. Người ta gọi những món hàng ma như Tshirt giả của Nike, đèn pin,…nói chung là những món hàng rẻ tiền sản xuất từ Trung Quốc như những đồ chơi con nít được nhận từ các tiệm ăn MacDonalds…

Nô lệ da vàng thế kỷ 21

Cuối tuần qua, đọc một lèo bộ 3 tác phẩm của Kevin Kwan, kể những nổi khổ, đời sống của người Tàu giàu có ở Tân Gia Ba, Hương Cảng và Trung Cộng thì cảm thấy an ủi vì được biết người giàu cũng có nổi khổ của họ, còn nghèo như mình thì không lo lắng gì cả, để đồng chí gái lo. Họ sung sướng về vật chất nhưng cũng có những đói khát về tinh thần. Càng giàu càng khổ, càng nghèo càng khổ hay giàu vừa vừa thì khổ vừa vừa, nghèo vừa vừa cũng khổ vừa vừa rốt cuộc là “giàu mà sung sướng còn hơn là nghèo mà khổ”.
Tác giả kể đời sống của những người Tàu giàu có tại Á Châu, mình cảm thấy người Á châu đang bắt kịp kinh tế người Tây Phương nhưng tư duy của họ vẫn còn bị nô lệ, hậu quả của những thế kỷ bị thực dân Tây Phương đô hộ, chưa gột bỏ, xoá mờ được do đó bình minh văn hoá của người Á Châu vẫn còn xa xôi. Tác giả cho thấy đa số người giàu ở Tân Gia Ba đều theo đạo Tin Lành, sinh hoạt như ở xứ Tây Phương.
Nhớ dạo đi học ở Paris, lâu lâu có người nhờ mình đem sổ thông hành, ra tiệm Hermes để mua đồ cho du khách Nhật vì họ bị giới hạn mỗi người chỉ được mua một cái nên họ đưa tiền cho mình mua rồi trả huê hồng tiền, đâu 100 quan. Mất 5 phút mà được 100 quan tương tự làm bồi 5-6 tiếng trong tiệm ăn Việt Nam. Mấy xe buýt chở du khách Nhật, đậu xuống để họ tủa ra như đoàn kiến, chạy vào các tiệm thời trang ở quận 8. Ngày nay các du khách Nhật được thay thế bởi các đoàn quân tàu cộng mà báo chí tây phương có lên tiếng chê bai, thậm chí khinh bỉ.
Dạo ấy, các nhà thiết kế thời trang đều là người Pháp, Ý như Yves Saint Laurent, Versace,… được ưa chuộng khắp thế giới nhưng ngày nay có những nhà thiết kế gốc Á Châu như Jimmy Choo, Vera Wang,….được thế giới ái mộ nhưng trong 3 cuốn sách của Kevin Kwan, không thấy đề cập giai cấp giàu có Á Châu mua sắm thời trang do họ thiết kế, chỉ nghe kể đến các nhà thiết kế thời trang của Pháp, Ý, Anh quốc,…
Tác giả kể là những người giàu có này bay sang Paris, London, Milano,…để mua sắm áo quần thời trang của các nhà thiết kế danh tiếng tây phương, tuyệt nhiên không ai mua thời trang được thiết kế bởi các tác giả thời trang gốc á đông. Tương tự một người Mỹ gốc Á đông sang á châu dạy Anh ngữ, được trả rẻ hơn một người Mỹ da trắng cho dù người gốc Á châu có bằng cấp cao hơn, nói tiếng anh như người Mỹ.
Có lẻ người á đông bị người tây phương đô hộ từ mấy thế kỷ trước, người thuộc địa với tinh thần nô lệ như đã ăn vào DNA của họ. Họ mơ tưởng, ao ước được sống hình ảnh giai cấp thực dân da trắng đô hộ mình và chỉ muốn đạt được cuộc đời của những người cai trị, chủ nhân của mình trên xứ sở của mình. Hay là ảnh hưởng Nho Giáo từ ngàn xưa đã để lại tinh thần thờ phụng người đã đô hộ mình, như các quan triều đình từ mấy thế kỷ qua.
Có lẻ vì vậy mà người á đông xem người tây phương là tuyệt đỉnh, là nơi họ phải đạt như nhuộm tóc vàng, đeo contact lenses cho mắt mình trở thành màu xanh, sửa mũi cho cao, chỉ tội là chân vẫn thấp.
Muốn cai trị các thuộc địa của mình, người thực dân da trắng cần có một lực lượng người sở tại để giúp họ cai trị và giai cấp người bản địa thường được gọi là thầy thông ngôn, thầy ký. Giai cấp này thèm thuồng mơ ước cuộc sống của người thực dân nên họ bắt chước nhảy đầm, ăn bận áo quần thời trang của chủ nhân mình, tự phong mình là giai cấp thượng lưu và xem thường người cùng chũng tộc là tầm thường, thiếu văn minh.
Ngày xưa, các người tự nhận là có học thức, kẻ sĩ, tôn thờ chữ Hán, thơ Đường còn tiếng Nôm thì khinh miệt “Nôm na là cha mách qué”. Sau này đến thời Tây thuộc thì họ lại ca tụng ngôn ngữ Phú Lăng Xa, cứ xổ Lamartine, Beaudelaire bú xua la mua… Có một người bạn kể khi cô ta đến Đài Loan, leo lên Taxi thì nghe bản nhạc “Nắng Chiều” của Lưu Trọng Nguyễn bằng tiếng Quan Thoại. Người Nhật mê nhạc Trịnh Công Sơn nhưng tại sao người Việt lại cứ thích nghêu ngao, làm nhạc theo người Kim Chi, hay tàu…
Có lần một tên gốc Việt Nam, lên thành phố kiếm số điện thoại và gọi hỏi có phải mình vẽ và xây căn nhà ở Fountain Valley, đường J… mình nói phải. Hắn kêu không ngờ có một người Việt Nam vẽ nhà đẹp như vậy. Hắn ở mỹ từ lâu mà đầu óc vẫn khinh thường người Việt, vô hình trung cũng tự xem thường hắn. Hắn kêu là muốn mua căn nhà đó nhưng đã có người khác mua nên muốn nhờ mình vẽ y chang lại căn nhà đó thì mình đồng ý, chỉ cần copy lại rồi lấy tiền, khỏi tốn công nhưng sau đó không xây vì người Việt chỉ thích rẻ nên chạy trước.
Mình nhớ có dạo một tên Mít ở Bolsa quen, muốn về Việt Nam đầu tư 25 năm về trước, hắn kêu một tên mỹ, làm thợ sửa ống nước, làm công cho hắn. Bận đồ veste vào, hắn in cho cái danh thiếp Chủ tịch công ty địa ốc ở Bolsa rồi 2 thầy trò về Việt Nam. Tên Mỹ, thợ sửa ông nước cứ ngồi ăn uống bia trong khi tên Mít bàn chuyện. Lý do là người Việt chỉ tin và nể người tây phương còn người Việt thì họ chê. Nhớ dạo công ty của mình làm, có đám Tân Gia Ba mướn vẽ một công trình ở Đàlạt ở Suối Vàng. Mình là người thiết kế chính nhưng khi gặp đám Việt Nam ở Đàlạt thì họ cứ nghĩ mình là thợ cho tụi mỹ và cứ xì lô xì la với mấy tên phụ tá của mình còn mình thì họ không đếm xỉa. Rút kinh nghiệm sau này về Việt Nam chơi, ở khách sạn hay tiệm ăn,..phi trường là mình xổ tiếng ngoại quốc tuỳ hứng khi thì chơi tiếng tây khi tiếng Đức vì nếu mình nói tiếng Việt là họ không tiếp mình, làm ngơ.
Ngày xưa, bạn học mình đều kêu mình thuộc dạng ngu lâu dốt sớm, 50 năm sau gặp lại họ vẫn nói cái mặt mày sao ngu ngu thế. Có lẻ vì vậy mà mình có bạn ngoại quốc nhiều hơn người Việt. Mỗi lần không hiểu mình hỏi đám bạn ngoại quốc thì họ đều bình tỉnh, giải thích lại chậm chậm cho mình còn đám người Việt thì nêu hỏi thì họ nhăn mặt, kêu sao ngu vậy.
Dạo mình học cao học về phát triển đệ tam thế giới, mình có làm luận án ra trường về phát triển Nhật Bản dưới thời Minh Trị Thiên Hoàng. Họ chỉ cho người lớn tuổi có gia đình, kinh nghiệm làm việc đi du học, ngoài ra thì họ mời giáo sư, kỹ sư sang Nhật Bản dạy mà tài tử Chamberlain đóng trong phim bộ Shogun. Lý do là cho du học sinh trẻ tuổi đi thì tuổi đời chưa chính chắn, học xong về nước là chỉ áp dụng phương cách của tây phương thay vì sử dụng những gì đã có tại Nhật để phát triển đất nước nhờ đó mà Nhật Bản đã tiến lên hàng cường quốc trên thế giới.
Lấy thí dụ; nếu sau khi tốt nghiệp, VNCH không bị VC chiếm thì mình trở lại Việt Nam làm việc. Mình chả có thực nghiệm gì về Việt Nam, tiếng Việt cũng lọng cọng. Những hiểu biết của mình về kiến trúc là những gì đã học tại Pháp, sẽ vẽ những chương trình kiểu Tây nhưng chưa chắc đã áp dụng được tại Việt Nam vì phong thổ địa lý khác nhau. Dạo sinh viên, mình có nghiên cứu về những cách xây dựng của phi châu, các xứ nóng ở vùng nhiệt đới như Nam Dương, Thái Lan …
Năm ngoái mình về Việt Nam, ở nhà chị bạn, vùng Sàigòn Pearl gì đó. Nghe nói căn nhà hơn 1.5 triệu đô (vâng đô la) nhưng vào nhà là oải vì nóng. Kiến trúc thì cứ như tây nhưng không áp dụng cách xây dựng vật liệu cho hợp phong thổ ở Việt Nam. Nóng mà dùng máy lạnh thì cũng chỉ trong phòng, đi ra ngoài cầu thang là xem như vào lò lửa. Việt Nam chỉ copy lại nhưng không hiểu lý do vì sao người Tây phương xây như vậy.
Họ xây mái nhà hình chữ A vì có tuyết đọng trên mái nhà nên nếu để mái thấp sẽ nặng khi tuyết phủ, làm xụp mái nhà. Người việt mình lại bắt chước làm mái nhà kiểu tây, gặp mùa mưa thì nước chảy mệt thở. Vào nhà ở Việt Nam, là thấy bị ẩm ước vì cách xây dựng theo kiểu Tây nhằm chống lạnh vào mùa đông lại đem áp dụng ở Việt Nam là xứ nóng mệt thở. Đáng lẻ họ phải làm kiểu nhà sàn. Nhà sàn với cái mái phía trên có lỗ thông hơi được gió thông qua, phía dưới cũng có gió thông qua, giúp cái sàn và cái trần nhà thì sẽ giúp căn nhà mát liền, không cần quạt máy hay máy điều hoà không khí.
Cái nguy hiểm khi còn giữ tinh thần nô lệ da vàng, chúng ta như con thú ở trong chuồng, nay được thả nhưng vẫn cứ loanh quanh cái chuồng vô hình, sẽ cản trở chúng ta nhận thức ra cái tinh thần tự do, tự nhận mình cũng bình đẳng không thua gì với người da trắng. Ngày xưa đi học, mình thấy Tây đâu có hơn mình, thậm chí mình còn khá hơn chúng.
Người da trắng hiểu điều đó nên vẫn quảng bá, sử dụng tinh thần thực dân để bán hàng của họ. Họ thiết kế nhưng rồi kêu người da vàng làm, may vá để rồi bán lại cho người da vàng, kiếm tiền, thậm chí nhiều khi chính những nhân viên của họ, gốc da vàng vẽ. Các công ty thời trang tây phương giàu có lên là nhờ khách hàng á đông. Mình nhớ tiệm Louis Vuiton mà mình đi mua đồ dùm cho du khách nhật khi xưa bé xíu ở quận 8, nay nằm ngay đại lộ Champs Elysees, to đùng. Kỹ nghệ thời trang của Pháp hàng năm lên đến 150 tỷ Euro, và họ xuất cảng lên đến 33 tỷ Ẻuro trong khi thời trang của nước Ý đại lợi đã chiếm 17% GDP của xứ này.
Công ty Ralph Lauren với nhãn hiệu Polo, bán áo Polo quá phổ thông sau đó họ nghĩ thêm cách làm tiền nên chế thêm công ty Chaps, cũng quần áo đó nhưng chỉ bỏ cái hiệu Chaps vào là bán lời gấp đôi. Rồi khi giới Á Đông giàu lên họ cho ra đời công ty Club Monaco, bán giá trên trời nhưng người giàu có lại đâm vào mua, làm giàu cho người Tây Phương. Nhớ dạo ở Hong Kong, mình mua đồ về làm quà, thấy áo Lacoste bán ngoài đường, thấy rẻ đâu $1/ 1 cái, lấy lên thì hoá ra họ đưa mình cái áo và con cá sấu riêng vì sợ gắn vào thì bị bắt. Hôm trước đồng chí gái xem phim gì trên youtube, thấy người Việt ở Việt Nam, bận áo có cái logo to đùng như sợ người ta không biết áo Polo. Chán Mớ Đời
Vào những thập niên 60, Nhật Bản bắt đầu sản xuất xe hơi rẻ tiền, thiên hạ chê lên chê xuống nhưng họ vẫn tiếp tục, ngày nay xe của họ được xem là bền nhất thế giới. Thời trang Nhật Bản có những nhà thiết kế rất đẹp như Katsura, Tsumori, Kotsino,… người tây phương rất ưa chuộng nhưng người á đông thì chê.
Đạo diễn Akira Kurosawa của Nhật, người làm phim 7 hiệp sĩ đạo, được người tây phương ưa chuộng, phong là phim hay nhất của điện ảnh của thế kỷ 20 nhưng người nhật vẫn chê ông này.
Người á đông mà muốn thoát khỏi cái vòng Kim Cô, với định nghĩa cái gì của người tây phương là nhất, là tốt, là bền thì họ luôn luôn vẫn là kẻ nô lệ cho người da trắng dù họ đã trả lại cho chúng ta nền độc lập từ hơn nữa thế kỷ. Ngày nào mà người á đông tìm kiếm mua áo quần, đồ đạt do chính người á châu thiết kế thì lúc đó chúng ta mới có thể nói đến người á châu thật sự được tự do và độc lập.
Chán mớ đời.
Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 
Nguyễn Hoàng Sơn 

Đầu năm 2019

Năm 2019, khởi đầu lắm trò. Chính phủ liên bang đóng cửa trên 1 tháng vì lập pháp và hành pháp không đồng ý về xây dựng vạn lý trường thành mỹ tại biên giới Mễ để chống lại sự xâm nhập các nhóm dân di dân lậu. Hạ viện không mời tổng thống đọc diễn văn tại quốc hội thường niên, để nói về các chương trình của chính phủ trong năm,…. Rồi vụ Venezuela,…
Khi đi học về thương lượng, người ta dạy là phải tìm cho ra lý do người chủ nhà muốn bán nếu không thì khó mà mua được nhà với giá rẻ. Lý do là ai cũng nêu ra lý do chính đáng, khả tín và dấu đi sự thật, lý do chính mà họ phải bán. Vụ ông Trump và bà Pelosi gờm nhau có lẻ vì chuyện khác rồi đùng một cái ông Roger Stone, người đã giúp ông Trump đắc cử bị kêu tên thì như phép lạ, ông Trump ký ngay lệnh mở cửa lại cơ quan chính phủ liên bang. Hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều chi tiết hơn.
Đa số dân di dân lậu, vào Hoa Kỳ qua ngỏ du lịch nhiều nhất. Được chiếu khán du lịch, vào mỹ, lấy chồng hay vợ rồi ở lại mỹ luôn. Tuần này, họ bắt một đường dây của người Tàu, qua Hoa Kỳ sinh con để có quốc tịch mỹ. Mình có biết vài người đi du lịch rồi ở lại, lập gia đình với người có quốc tịch Mỹ rồi vào dân mỹ, ly dị đem gia đình sang. Còn cái tường là cái cớ vì họ đào đường hầm để đi chuyển ma tuý qua biên giới như chơi. Chỉ là cái cớ để thương lượng.