Tại sao người Pháp xây dựng Đàlạt thay vì Dankia

 Lý do Đàlạt ra đời #2

 Chế độ thực dân Pháp đã bỏ công và tiền bạc ra rất nhiều để xây dựng một vùng đồi núi thô sơ trở thành một trung tâm du lịch quốc tế. Việt Nam Cộng Hoà đã tiếp xây dựng thị xã Đà Lạt trở thành một nơi văn hoá cao nhất Việt Nam với các trường học và đại học danh tiếng để rồi ngày nay du khách đến đây chới với. Một thành phố trên đồi núi mà vẫn bị lụt, ngập hồ Xuân Hương, xây cất bừa bãi.


Tương lai Đà Lạt có thể bị du khách tẩy chay như đảo Phú Quốc. Nghe nói đã bớt du khách và kinh tế cũng đang xuống. Mình xem mấy video của một anh nào , đoán là cò địa ốc, cứ quay video Đà Lạt bỏ lên youtube khiến mình lo sợ cho thành phố, nơi mình sinh ra và có nhiều kỷ niệm.  


Đọc tài liệu của pháp để hiểu lý do khiến họ thành lập thành phố này để hiểu lịch sử và lo sợ cho tương lai của Đà Lạt. Mình kể từ từ.


Tại sao người Pháp xây thành phố nghỉ dưỡng tại Đàlạt thay vì Dan-Kia (Lang-Sa)

Đà Lạt nay mưa ngập luôn hồ Xuân Hương

 

Tháng 7 năm 1897, ông Doumer nhận báo cáo của các cố vấn y tế về các tiêu chuẩn căn bản để thiết lập trung tâm điều dưỡng lý tưởng cho binh sĩ và công chức pháp tại Đông Dương: cao độ tối thiểu 1,200 mét, có nhiều nước sạch, đất tốt, khả năng xây dựng một hệ thống truyền thông nhờ ở độ cao.

 

Dựa trên những yếu tố trên thì cao-nguyên Lang-bian hội đủ hết các tiêu chuẩn. Ông Yersin giải thích vùng này có nhiệt-độ trung bình như vùng Địa Trung Hải vào mùa xuân. Hy vọng chính phủ thuộc địa, có thể thực hiện chương trình của ông Doumer, thành lập một khu điều dưỡng trên cao nguyên, gần Sàigòn, và có thể di chuyển vài tiếng với không khí gần như ở Pháp, nhất là gần thành phố Nha Trang, nơi ông ta sinh sống và làm việc.

Các nhà khí tượng pháp đo đạt trong suốt hơn 1 năm trời (1899-1901) để so sánh với khu nghỉ dưỡng Raj, của người Anh Quốc bên Ấn Độ. Một thủ đô mùa hè của người anh tại thuộc địa. Kết quả cho thấy Lang-Bian là địa điểm lý tưởng cho đế quốc pháp tại Đông Dương.

 

Đầu thế kỷ 20, chỉ huy trưởng quân đội pháp tại Đông Dương, tướng Théophile Pennequin tìm cách lobby Paris ngân sách để xây dựng khu nghỉ dưỡng tại cao nguyên Lâm Viên. Ông này sinh năm 1849, từng tham dự chiến tranh Pháp-Phổ, tham gia chiến dịch bình-định tại Madagascar, và tham gia các cuộc bình định tại Việt Nam vào những năm 1882, 1888, 1889.

 

Ông tướng này cho biết binh sĩ mẫu quốc không hợp với phong thổ địa phương, mỗi ngày sức khoẻ sẽ giảm đi và nghĩ đáp án cuối cùng là thành lập một trung tâm điều dưỡng trên cao nguyên lâm-viên. Giúp phục hồi sức khoẻ và tinh thần binh sĩ và công chức nhanh chóng.

 

Năm 1902, trong một báo cáo, ông ta có nói đến thành lập một đơn vị quân sự tại cao nguyên Lâm Viên. Ông cho biết “ người Pháp chúng ta khó lập nghiệp và làm giàu lâu dài tại Đông Dương vì khí hậu quá cay nghiệt. Nếu một số người Pháp có thể thụ hưởng được khí hậu giống như ở mẫu quốc thì họ có thể làm việc hăng say, giàu có và ở lại đây mãi mãi.” 


Kiểu dân đi làm ở Alaska ở Hoa Kỳ, làm ăn một thời gian, như mì ăn liền, kiếm đủ vốn trở về mẫu quốc. Chính sách của ông ta là khuyến khích người Pháp sang đây lập nghiệp, ở lâu dài thì mới giúp cho đế quốc hùng mạnh. Tương tự người pháp sang Bắc phi lập nghiệp, sinh con đẻ cái mấy đời, mà người ta gọi là “Pied Noir” dân ở phi châu.


Cuộc cách mạng kỹ nghệ khiến Pháp quốc phải tìm tài nguyên trên các thuộc địa, để cung ứng cho các nhà máy kỹ thuật, để chạy đua với Anh Quốc.

 

Có lẻ vì vậy, trong thời chiến tranh, quân đội Mỹ hay lên Đàlạt để nghỉ dưỡng cũng như được bay qua Okinawa, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, những quốc gia sống và phát triển nhờ chiến tranh Việt Nam …để nghỉ dưỡng trước khi trở lại chiến trường.

 

Trên cương vị một vị tướng với chiến lược lâu dài, ông ta quan tâm đến sự sống còn lâu dài của người Pháp tại Đông Dương, một điều tiên quyết để giữ gìn lâu dài đế quốc Pháp. Nếu chính phủ có thể xây dựng một vùng nghỉ dưỡng với khí hậu ôn hoà như Âu châu, sẽ giúp người Pháp sinh sống tại đây, phát triển mạnh, sẽ giúp duy trì chính quyền thực dân tại Đông Dương. Do đó các bác sĩ pháp đã nghiên cứu ngay từ đầu về y tế cộng đồng nhằm giúp thành lập một trung tâm điều dưỡng và một vùng toàn là người Pháp ở để cai trị toàn cỏi Đông Dương.

 

Hình như có một cặp vợ chồng da trắng tên O’Neil (tên này thường là người Anh Quốc) sinh sống tại Đàlạt, mở nông trại, nuôi bò để cung cấp sữa tươi cho người Âu-chau tại Việt Nam. Mình có tấm ảnh chụp mộ bia của ông này nhưng nghe nói là sau vụ cái đập đầu tiên cạnh Thuỷ Tạ bị vỡ thì nhà cửa của nông trại tiêu tan và không bao giờ được làm lại.


Mình lại đọc đâu đó, ông O’neil được gửi sang làm việc cho chính quyền pháp, để giúp xây dựng Đàlạt. Cũng có thể sau đó ở lại Đàlạt luôn đến khi chết. Hoá ra ông Jean Oneil là một kiến trúc sư, được phái sang Việt Nam, phát hoạ phát triển thành phố Đàlạt.

 














Mình có thấy mấy tấm ảnh của nông trại của gia đình, gần cầu Ông Đạo ngày nay, không hiểu người Pháp họ làm cái gì. Sau này đọc thêm tài liệu thì mới khám phá ra vụ này. Hình mộ ông Oneil.

 

Các trường học như Petit Lycée Yersin, Grand Lycée Yersin, Couvent des Oiseaux,..được thành lập để giảng dạy cho con em người Pháp làm cho chính quyền thuộc địa hay con những tư nhân, công chức làm trong chính quyền thực dân tại Đông Dương. Thấy mấy tấm ảnh xưa ở Petit Lycee cho thấy toàn là con của người Pháp. 

 















Hình này chụp trường tiểu học Petit Lycee Yersin, vào năm 1948. Thấy đa số là Tây đầm con, lơ ngơ 1 tên mít con đứng một mình. Chỗ này là nơi mình ra chơi năm 8ème và 9 ème buổi chiều, gần 16 năm sau tấm ảnh được chụp.. Dạo ấy tây về nước nên không thấy đầm tây trong lớp nhiều.


Trên thực tế thì cũng có những ý-kiến đối nghịch, chống đối sự thành lập khu nghỉ dưỡng Lâm-Viên. Một chuyên gia trắc địa tên Bernard Lazare lên tiếng phản đối chương trình này vì năm 1898, được cử lên đây xem xét khả năng để xây tuyến đường xe-hoả đến Lang-Bian.

 

Vào tháng 11 năm 1898, khi ông ta đến Lang-Bian, có viết thư cho bố mẹ: thất vọng về dự án xây dựng một trung tâm nghỉ dưỡng tại đây. Ông ta kể ngay người Việt còn bị bệnh tại đây, chỉ có đâu 8, 9 người Pháp, toàn là những nhà đi khảo sát, đặt chân đến thiên đàng trên quả đất này. Năm 1901, ông ta có viết một bài đăng trên Revue de Paris, nói về các dự tính xây dựng Lang -Bian.

 

Ông ta cảnh báo người Việt sẽ đuổi người Pháp ra khỏi xứ họ như đã từng làm với người Tàu, người Mông Cổ. Ông ta cho rằng tuyến đường xe hoả của Paul Doumer là một sự thất thoát, phí tiền đóng thuế của người Việt. Ông ta tiên đoán xe hoả sẽ chạy với ít hành khách vì chỉ có độ 68 đồn điền trên toàn cỏi Bắc kỳ và Nam Kỳ. Xét về kinh tế thì xây dựng tuyến đường này là thất sách. Lịch sử đã chứng minh là ông này đúng.


Cái này thì đúng vì mình nhớ khi xưa, còn bé đi Thái Phiên hay đâu đó với ông cụ. Sau này xe hoả dùng để chở rau cải bán cho người Mỹ. Anh bỏ tiền ra xây dựng một tuyến đường xe hoả chỉ kéo được bài toa xe lửa, chạy chậm như rì. Xây đường quốc lộ chạy lên rẻ và nhanh chóng hơn. Mình đoán là ông Yersin là nhân viên của một công ty hàng hải Pháp, mướn ôn gia đi thám hiểm xem có hầm mỏ gì để báo cáo lại, nên mới đề suất chương trình để công ty cua rông ta làm việc được thầu để thức hiện. Chán Mớ Đời 


Gần đây, mình đọc báo chí Việt Nam, cho biết Hà Nội đang dự tính làm lại tuyến đường này để triển khai du-lịch Đàlạt sau khi bán nữa triệu đô la cho Thuỵ-sĩ. Đi xe xuống hay lên đèo Ngoạn Mục là đã buồn ngủ huống chi xe chạy răng cưa, 10 cây số một giờ trong thời đại 5 Gờ. Kinh




 



















Ông ta chỉ trích bác sĩ Yersin, bằng cách đưa ra các khám phá mới của Laveran (khôi nguyên Nobel) và Blanchard của người Pháp, Grassi và Celli của Ý Đại Lợi, Ross của Anh Quốc và Koch của Đức quốc có thể giúp chúng ta có cái nhìn rõ hơn về bệnh sốt-rét và muỗi lây bệnh khi chích một bệnh nhân và lây Lan qua người khác. Sự chống đối chỉ trích của ông này đã làm ngừng trệ sự thành lập Đàlạt đến 20 năm sau.

 

Có lần về Đàlạt, mình có đi Song-Pha thăm một trại mồ côi mà Bút Nhóm Lửa Việt bảo trợ. Tài xế chạy con đường qua đèo Ngoạn Mục. Dạo ấy, Việt Cộng họ đang làm nữa chừng rồi ăn hết tiền nên thấy xe máy cày bỏ bên đường mọc rong rêu, đường xá thì ổ gà, xình lầy không như khi xưa mình có đi qua đây, Tết năm 12 B, 1973.

 

Xe xuống đèo khiến mình mường tượng đến những người việt đã chết khi xây tuyến đường này và xe hoả. Khởi đầu con đường từ Phan Rang lên Lâm Viên, gây ra nhiều cái chết cho người da trắng. Nội tháng 4 năm 1900, có 20 người Âu châu và 100 người Việt tháp Tùng, làm cu-li khiêng đồ như du khách đi viếng Machu-Pichu ở Peru, có người dân địa phương, gánh đồ, nấu cơm, dựng lều,.. mấy người da trắng đi thám hiểm, đều có phu khiêng kiệu như bên tàu, lên vạn lý trường thành.

 























3 tháng sau, có 4 ông Tây chết và 8 người nằm nhà thương, còn 80 người Việt mất tích hay chết. Cọp vồ ban đêm. Kinh

 

Trong một chuyến đi khác, bác sĩ Sebastien Tardif cho hay nếu uống Quinine thì đỡ hơn nhưng cũng có 4 người Tây bị chết và nằm dưỡng sức 4 ngày vì bị lên cơn sốt. Điều ông ta lo ngại nhất là ngay các cu-li Việt Nam cũng bị bệnh lên cơn sốt.

 

Ảo tưởng về xây dựng một thành phố trên cao nguyên Lâm Viên bắt đầu ít được người tán thành.

 

Vào đầu thế kỷ 20, bệnh sốt-rét là vấn nạn lớn cho các đế quốc Tây phương khi họ chiếm đóng các lãnh thổ ở vùng nhiệt đới, đầy tài nguyên. Lý do là phải trả giá rất đắt về nhân sự, chết vì cơn bệnh này. Anh Quốc đã tìm ra Simla, Raj mà chúng ta hay thấy trong các phim Ấn Độ.

 

Ông chuyên gia về bệnh sốt rét ở viện Pasteur Sàigòn, Joseph Emile Borel, tiếp tục dẫn chứng là khi lên cao độ của Lâm-Viên thì các hiệu chứng của bệnh này ngừng ngay. Họ cho biết muỗi gây bệnh Sốt rét dừng ở 800 mét cao độ. Cái này thì mình không tin vì ông cụ mình ở Đàlạt, hay bị lên cơn sốt rét, rên hừ hừ, kêu mình lấy thuốc Quinine để bố uống mới từ từ đỡ lại.

 

Đó là sự tranh chấp giữa hai trường phái y-khoa. Cuối cùng thì chính phủ pháp nghiên về nhóm của bác sĩ Yersin, ý định quân sự, Lâm-viên có thể giúp người Pháp chiếm đóng Đông Dương lâu dài, nếu không bệnh tật, và có thể thành lập thủ đô Đông Dương ở đây để cai quản vùng này.


Đàlạt thuộc vùng Annam, xem như tự trị của triều đình Huế. Tham vọng của tham mưu trưởng quân đội viễn chinh pháp là thành lập một địa điểm, thành phố có thể giúp người da trắng cai trị Đông Dương lâu dài.


Có lẻ vì vậy mà khi họ đem ông BẢo Đại về nước làm vua, ký sắc lệnh biến khu vực Đàlạt thành Hoàng Triều Cương Thổ, để người Pháp có thể cai quản.


Tục lệ từ xưa đến nay là đưa thái tử qua nước họ để nuôi nấng luôn tiện làm con tin như Attila. Attila thì thông minh, nghiên cứu hành chính quân sự của La-mã để sau này về nước, ông ta đánh quân đội viễn chinh la-mã tời bời. Do đó sau này, người ta chỉ lựa thái tử ngu ngu một tí, đem qua Tây cho ăn chơi mệt thở. Sau này về nước cứ nghe lời Tây. Còn mấy ông vua như Duy Tân, HÀm Nghi, còn nhỏ đã được lên ngôi thì cũng là bù nhìn cho mấy quan trong triều cho nên không thể nào nói họ này nọ.


Mình có anh bạn học cũ dòng Nguyễn Phúc, kể là ông nội, lúc còn bé chơi với ông Bảo Đại. Sau vua Khải ĐỊnh, vô sinh, mình nghe nói là đồng tính nên triều đình nhận Bảo Đại làm con nuôi của Khải Định, thay vì ông nội của anh ta. Bố anh ta là dòng Ưng, còn anh ta là dòng Bửu, trong khi ông Bảo Đại là Vĩnh. Vai vế trong dòng họ thấp hơn anh ta vì Vĩnh sau Bửu dựa theo bài thơ đế hệ thi của vua Mênh Mạng.


MIÊN HƯỜNG ƯNG BỬU VĨNH

BẢO QUÝ ĐỊNH LONG TRƯỜNG

HIỀN NĂNG KHAM KẾ THUẬT

THẾ THOẠI QUỐC GIA XƯƠNG

 

Lúc đầu, họ tính thành lập khu nghỉ dưỡng tại Dankia nơi ông Yersin đề nghị nhưng sau này họ lại thành lập tại Đàlạt ngày nay. Mình thắc mắc lý do nhưng không ai thuyết phục được mình cả vì họ chỉ nói khơi khơi không bằng chứng. Mình đoán là các người này ăn lương cua mấy công ty Pháp về xây cất nên muốn lobby để thắng các chương tình xây cất. Có ông tây dạy pháp văn tại Đà Lạt, viết một bài để giải toả vấn đề; người ta nghi ông Yersin là ấu dâm. Có nhiều người việt nói to nhỏ về vấn đề này thậm chí người Pháp. Cuối cùng ông ta đọc bà nào làm việc với ông Yersin khi xưa, kêu ông này không lấy vợ vì thích đọc thân và không ấu dâm. Chấm hết.

 

Paul Doumer nghe lời Yersin thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng cho người Tây phương, tạo thành một tiểu Pháp quốc, mang tên Lang-Sa. Người việt gọi nước pháp France là Phú-lãng-Sa, tầu gọi là Pháp Lan, nên sau này người Việt gọi tắt là Pháp. Có bài ca dao về nước pháp như sau:

 

Từ ngày có Phú Lãng Sa

Văn minh thì ít, trăng hoa thì nhiều

Văn minh khắp cả Tây, Tàu

Ông sư cũng húi cái đầu năm xu

Văn minh khắp cả gần xa

Sư ông xe đạp, sư bà xe tay

 

Lang-Bian là một cao nguyên rộng lớn, dự tính là địa điểm thành lập trung tâm điều dưỡng như ông Yersin đề nghị. Một tiểu Pháp quốc như Doumer khởi xướng với tên là Lang-Sa (Pháp). Khởi đầu năm 1897 là một nông trại mẩu, một đài khí tượng và một đồn lính được thành lập gần làng thượng Dankia.

 


Khu vực Dankia thời Tây mới đến


Cách địa điểm này 13 cây-số về phía Tây-Nam, có một vùng đông dân cư hơn. Một căn nhà được xây cất cùng năm tại địa điểm được gọi là Đà-LẠt, ngọn suối của người Lạt, bộ lạc người thượng sinh sống tại đây.

 

Ngoài con suối thì khu vực này có những lùm cây thông mà đại uý Guynet, người dẫn đầu cuộc xây dựng con đường vào năm 1899, xin thêm tiền để thành lập con đường nối liền Dankia và Dalat, để khi toàn quyền đến thăm sẽ di chuyển dễ hơn. Ông Doumer ra lệnh xây dựng một căn nhà dài 50 mét để gia đình ông ta lên đó viếng thăm để lấy quyết định xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng (LangBiang Hotel). Ta thấy toàn đến chơi vài ngày mà xây khách to lớn, với tiền thuế của người Việt. Có lẻ ông Guynet này thích vẽ đẹp của khu vực Đàlạt hơn Dankia.

 

Bác sĩ Tardif , một thành viên của nhóm ông Guynet cho rằng khu vực Đàlạt cao hơn Dankia đến 50 mét, gió thoáng và sạch sẻ hơn. Làm như vậy là chống chọi lại nhóm ông Yersin, của viện Pasteur. Ông Yersin nổi tiếng khiến toàn quyền phải nghe lời viếng thăm Dankia theo lời đề nghị. Cuối cùng đồng ý về địa điểm Đàlạt ngày nay thay vì Dankia.

 

Cùng năm ấy, Guillaume Capus giám đốc canh nông và thương mại Đông Dương, nghe lời đề nghị của Guynet và Tardif, chọn địa điểm Đàlạt thay vì Dankia. Ông ta cho rằng càng cao độ càng tốt cho sức khoẻ (50mét) và các rừng thông khiến ông ta nhớ về quê mình.

 

Ngày 24 tháng 1, năm 1901 tòan quyền Doumer viết cho bộ trưởng thuộc địa, ông ta muốn đem gia đình lên cao nguyên Lâm viên chơi một thời gian, yêu cầu xây dựng một dãy nhà để cho gia đình và đoàn tuỳ tùng ông ta ở, sau đó sẽ biến thành khách sạn. Khách sạn Langbian sau này đổi tên Palace.

 

Cuối cùng thì hai bác sĩ Haueur và Tardif tin rằng khu vực Đàlạt hiện nay cao hơn, có thể dùng để thành lập căn cứ quân đội tốt hơn Dankia. Ông ta cho biết có mấy người nông dân Pháp đã định cư tại vùng này từ 4 năm nay và rất khoẻ mạnh. Má hồng lại thấy tráng kiện. Không thấy muỗi Anopheles tại vùng này và căn cứ đóng quân không thấy bệnh sốt rét lây Lan. Không vợ chồng O’Neil có trong số này hay không.

 

Mình phục người Tây phương là khi họ thực hiện chương trình gì thì đều điều nghiên kỷ càng, không bộp chộp như người Việt. Họa đồ tái phát triển Đàlạt, họ cứ làm đại, kêu thằng thợ vẽ Tây nào ra đứng lớ quớ, làm như Tây là giỏi hơn kiến trúc sư việt. Họ để cho người Tàu làm cái cầu kính, không giấy phép khơi khơi ỏ đập Đa Thiện, rồi hợp thức hoá.

  












Phối cảnh do kiến trúc sư phát họa về Đàlạt với khách sạn xung quanh hồ trước khi cái đập bị phá vỡ vì lụt năm 1932.


 Ông Doumer cử bác sĩ Yersin qua Nam Dương để tham quan các khu nghỉ dưỡng trên núi đồi do người Hoà Lan thực hiện. Nam dương là thuộc địa của người Hoà Lan.

 

Ngoài ra có những địa danh như Simla ở Ấn Độ thành lập năm 1831, Baguio ở phi Luật Tân vào cuối thế kỷ 19. Fernand Bertrand được toàn quyền Đông Dương gửi đi xem xét các chương trình điều dưỡng của NAm-Dương do người Hoà Lan chiếm đóng. Ông ta viết trong Revue de Paris, cho rằng người Hoà Lan, kêu họ không muốn tốn tiền để xây dựng thêm các trung tâm điều dưỡng ở cao nguyên vì kết quả không rõ rệt lại phải chi tiêu hơn 6 triệu francs. 

 

Ông Doumer mê giấc mộng xây một thành phố để đời đã nướng 20 triệu quan pháp hơn 3-4 lần người Hoà LAn ở NAm Dương. Ông Bertrand tìm cách loại bỏ chương trình xây dựng khu điều dưỡng trên cao nguyên thì phái chuộng như ông Vassal, lấy địa điểm Baguio của Phi lUật Tân được người Mỹ xây dựng vào cuối thế kỷ 19.

 

Năm 1916, toàn quyền Đông Dương Ernest Roume, gửi một phái đoàn đến thăm viếng nghiên cứu Banguio. Bản báo cáo cho thấy người Mỹ chịu khó thành lập khu nghỉ mát. Họ nhận thấy các người da trắng được gửi lên đây tịnh dưỡng, lấy lại sức khoẻ để làm việc tốt hơn.

 

Họ kể Baguio, có những biệt thự đầy hoa Hồng, hình ảnh của quê mẹ. Năm 1923, lãnh sự pháp tại Tân Gia Ba báo cáo là khu nghỉ dưỡng của người Hoà Lan ở  Brastagi, vùng Sumatra, khiến các đại diện thuộc địa Anh Quốc từ MÃ-Lai, và Tân Gia ba kéo nhau đến đó nghỉ dưỡng khiến tòan quyền nức nở, lại càng mong muốn xây dựng Đàlạt.

 

Cuộc tranh luận giữ hai nhóm chống đối và thuận cho công trình xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng quốc tế tại cao nguyên chưa ngã ngủ thì năm 1913, một bác sĩ quân y tên Dourne, đặt câu hỏi về các phương thức của bác sĩ Vassal, cho rằng chỉ có vài người Tây phương trông rất khoẻ mạnh, má đỏ môi Hồng. Ông ta ghi là về mặt y-tế không có gì lạ, ngoài trừ các thắng lợi cá nhân. Nếu xây cất thì những người này vớt khá nhiều tiền vì sẽ được ban cấp đất hay tham dự các chương trình xây cất.  

 

Vào những năm 1920, các nghiên cứu tại các thuộc địa Anh Quốc cho thấy muỗi Anopheles không lên tới cao độ 1,500 mét là sai. Thậm chí ở Quito, Ecuador, cao 2,742 mét vẫn bị sốt rét. Shillong gia tăng sốt rét. Chán Mớ Đời

 

Chỗ hồ Xuân Hương, được xây khách sạn Lang-Bian, sau đổi thành Palace, có những chỗ đọng muỗi và các khu phố người Việt chỗ cầu Ông Đạo, gây thêm muỗi giúp bệnh sốt rét gia tăng. Nhưng họ lại khám phá ra khu người Tây phương có nhiều muỗi hơn là khu người Việt. Khu đất trũng cạnh hồ, nơi phố người Việt khởi đầu, đã được dời lên khu phố Hoà BÌnh ngày nay, khiến bệnh sốt rét giảm rất nhiều.



 













Nhà thương được người Pháp xây cho việc điều trị và tịnh dưỡng. Vùng của người da trắng còn người dân sở tại thì ở các vùng thấp như khu Phan Đình Phùng. Có dịp mình sẽ bỏ lên bản đồ thiết kế của người Pháp, chia các khu vực indigènes chớ không đề huề như họ kêu gào.


Họ cho biết là các trâu bò của người thượng là nơi giúp người Lạt không bị bệnh vì muỗi hút máu trâu bò no hơn. Nhưng khám phá khoa học này chứng minh các ghi chép của ông Yersin hay những người tiền vệ, rất sai khi nói là khu vực này sạch sẽ, không bị ô nhiễm, muỗi,… 

 

Năm 1937, vụ dịch sốt rét xảy ra tại Djiring và Dran (Đơn Dương) khiến trưởng cơ quan y tế khám phá ra muỗi Anopheles. Ông ta phán là vô lý đưa các bệnh nhân này lên Đàlạt, rồi muỗi chích, đem vi trùng đó lây Lan. Tốt nhất là để họ về Nhà Trang, Phan Thiết.

 

Dạo ấy, hải quân pháp mới chế ra chiếc tàu ngầm đầu tiên nên Hải quân của Pháp quốc muốn có một trung tâm nghỉ dưỡng cho họ nên đề nghị xây một trung tâm nghỉ dưỡng tại Đàlạt. Xem hình cũ thì mình đoán trên đồi, cạnh bờ hồ mà sau này người ta gọi là Nhà Lao, trung tâm cải huấn. Thấy dãy nhà dài trên đồi. Mẹ mình bị mật thám Tây bắt và nhốt tại đây mấy tháng, bị trấn nước mệt thở. May được thả ra trước khi Tây đem bắn 20 người tại Cam Ly.




(Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn