Cơ thể phụ nữ là gì ở thế kỷ 21

 Cơ thể phụ nữ là gì ở thế kỷ 21


Đi chơi với mẹ mình, mình chọc bà cụ là cả đời mẹ chỉ mang bầu, có thai đâu 14 lần, sinh được 11 người. Hỏi sao khi xưa thấy mẹ to nhỏ với mấy bà hàng xóm về Ogino, vòng xoắn chi đó. Họ ngưng đẻ còn mẹ thì cứ năm 1. Chán Mớ Đời 

Rồi Mình nhìn 8 cô em gái thì thất kinh vì cô nào cũng trai hay gái chỉ hai mà thôi có cô chỉ có một và cô thì nhìn đàn ông cứ lê la đầu đường hay trong các quán nhậu nên nhất định không lấy chồng. Rồi đồng chí gái lại ngưng sau khi sinh ra hai đứa con rồi mụ phán Không muốn đẻ nữa trong khi bà chị vợ lại muốn sinh thêm nhưng ông anh cột chèo mình kêu mệt quá, theo chế độ Đọt Chuối mỗi đêm nên cuối cùng bỏ mộng sinh thêm. 


Ngày nay thì phụ nữ không muốn đẻ bị gán thêm vụ nữ quyền nữ hành này nọ. Mình tự hỏi nếu mẹ mình khi xưa có đi học hiểu thêm về ngừa thai như mấy bà vợ công chức khi xưa thì có lẻ ít con hơn. Đời mẹ mình có thể bớt khổ hơn thay vì làm lụng nuôi đàn con 10 đứa lại thăm nuôi chồng ở trại cải tạo 15 năm thêm quà cáp cho ông bà nội mình ở quê. 


Từ ngày lấy vợ mình bị giam hãm trong chế độ chuyên chính nữ quyền, chỉ biết lâu lâu than thở “em như một người chồng, ăn xong lại nằm, anh như người vợ hiền tề gia và tùng quyền, nấu cơm rữa chén, giặt quần áo cho em rồi bọc tả cho con rồi  bó tay anh trói chân anh” nên rất ưa chuộng các sách báo nói về sự đàn áp của mấy mụ đàn bà. 


Nhìn mẹ thì mình đoán vì không được đi học nên không có lựa chọn cuộc sống cho mình. Cứ sống theo nề nếp văn hóa từ xưa do ông bà để lại, sống theo bổn phận khác với cô em mình thà không lấy chồng còn hơn làm tôi mọi cho thằng đàn ông tối ngày đi nhậu với bạn bè rồi phải cong lưng đi làm trả nợ cho chồng. Mệ ngoại nói với mình trước khi đi Tây; ráng học đi con chớ ngu như mệ cả đời khổ. 


Cuộc đời phụ nữ Việt Nam như mệ ngoại mình rồi bà cụ không được đi học nên khổ như thi sĩ Hồ Dzếnh thường nói:

Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi


Đàn ông Việt Nam cũng sống trong nền văn hóa phong kiến nên càng tạo dựng uy quyền càng gia trưởng cho nên cuộc sống gia đình không bao giờ thay đổi và đất nước cũng không bao giờ phát triển. Như ông Bùi Kiến Thành, cố vấn cho Hà Nội, tuyên bố là từ thời kim cổ đến nay, chưa có nước nào được xây dựng bởi thằng nghèo cả khi ông Phạm hùng sai đàn em qua Pháp gặp ông ta để xin cố cấn giúp Việt Nam thoát khỏi sự nghèo đói sau 10 năm hồ hởi ngăn sông cấm chợ. 


Nghèo là về trí tuệ. Mình đang viếng Tân Gia Ba. Trước 75 người giàu có ở xứ này bay qua Sàigòn để chữa bệnh mà ngày nay nước của họ tiến bộ văn minh quá mức. Chỉ trong vòng 50 năm mức lương của dân họ cao hơn cả người Mỹ. 


Buồn đời mình tìm tài liệu để đọc để hiểu thêm về vụ này thì khám phá ra một bà tên Margaret Atwood với tư tưởng khác biệt với những gì mình được học trước đây hay với những định kiến được khoát lên lớp suy nghĩ xưa nên xin tóm tắc về những gì đọc của bà ta:


Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của bà Margaret Atwood luôn quay trở lại một mối quan tâm chính là cơ thể phụ nữ như một không gian của quyền lực, sự kiểm soát và phản kháng. Vụ này thì mình nhất trí vì xã hội có những con buôn hiểu thị ý của dân chúng nên tha hồ họ bán cơ thể phụ nữ qua các thời trang, dinh dưỡng bú xua la mua để tạo dựng một hình ảnh người phụ nữ đẹp và sexy để đàn ông thèm muốn để họ kiếm tiền như ông thằng tổng giám đốc Louis Vuitton, Gucci trở thành tỷ phú nhờ bán thời trang cho mấy mụ đàn bà. 


Nên nhớ trước đây phụ nữ Hoa Kỳ không được phép bận quần tây cùng như bị phạt nếu bận bikini. Họ được phép đi bầu chỉ độ 100 năm qua. 


Qua thi ca, tiểu luận, tiểu thuyết và các phát biểu công khai, Margaret Atwood cho thấy cơ thể phụ nữ không chỉ là một thực thể sinh học mà còn là chiến trường văn hóa và chính trị, nơi các chuẩn mực xã hội, hệ thống kinh tế và quyền lực thể chế cùng nhau tác động. Tác phẩm của bà phơi bày cách cơ thể phụ nữ bị khách thể hóa, quản lý và giám sát, đồng thời nhấn mạnh cuộc đấu tranh không ngừng của phụ nữ để giành lại quyền tự chủ đối với chính thân thể mình.


Ngày nay người ta rên về vấn nạn dân số giảm đưa đến sự tuyệt vong trong vòng 50 năm tới nếu phụ nữ không chịu đẻ. Robot thì không Đẻ được. Nhiều đàn ông muốn làm phụ nữ nhưng lại đẻ không được dù đã chuyển giới thì Chán Mớ Đời lý do chính là không có tử cung.


Chúng ta đang đứng ở ngưỡng cửa của sự diệt vong của thế giới Tây phương và Á châu vì phụ nữ được đi học nên không muốn làm máy đẻ nữa và kiến trúc sư sẽ không được thiết kế xưởng đẻ như xưa. Chỉ có Phi châu vùng phía dưới Sahara thì ít phát triển nên sinh con như gà thậm chí chúng bắt phụ nữ lùa đi đâu để hãm hiếp bắt họ đẻ giúp thêm binh lính. Mình đoán khi xưa khi các xứ đánh nhau chắc tư duy cũng như mấy ông Tây đen ngày nay.  


Một trong những văn bản thể hiện rõ nhất tư tưởng này là bài xã luận The Female Body. Bằng giọng điệu châm biếm, lạnh lùng và phi cảm xúc, bà Atwood mô tả cơ thể phụ nữ như thể đang nói về một món đồ tiêu dùng: có bộ phận, phụ kiện, công năng và hướng dẫn sử dụng. Chính bà ta đã lột trần thực tế rằng xã hội thường nhìn cơ thể phụ nữ như một vật thể, thứ có thể trưng bày, đánh giá và tiêu thụ thay vì là một phần không thể tách rời của con người.

Vấn đề mình thấy phụ nữ bị cuốn hút hay đúng hơn là bị tẩy não tốn tiền để làm đẹp, trùng tu nhân sắc hay Ây Ai để được tiếng khen không thật tình như người Mỹ hay nói chúng ta mua những thứ với tiền chúng ta không có để khoe mẻ với người chúng ta không thích. Đó là nghịch lý cuộc đời. 


Khi cơ thể được mô tả như đồ vật, bà Atwood cho thấy phụ nữ thường bị dạy phải nhìn chính mình từ bên ngoài, thông qua ánh mắt của người khác. Làn da, cái váy chiếc áo, sợ dây chuyền mái tóc để tạo sự chú ý. Mình vào vườn không gặp ai ngoài người nuôi ong hay coyote hay rắn nên chả cần lo chuyện thời trang. Sự phê phán của bà không chỉ nhắm đến chủ nghĩa phân biệt giới mà còn là sự tha hóa: phụ nữ bị tách khỏi quyền sở hữu đối với chính thân thể mình. Vô hình trung phụ nữ được cấy vào đầu phải làm đẹp để được người ta khen vô hình trung tự biến mình thành một vật thể cho đám đông và xã hội. Vấn đề là ngày nay về già chúng ta phát hiện ra là chả ai để ý đến mình nên chúng ta tự tạo ra một môi trường sinh sống trong ảo tưởng. Chỉ khi đi đâu, đồng chí gái bắt mình cạo râu, ăn vận chỉn chu để thiên hạ không cười mụ. Thế thôi nhưng thật ra chả ai để ý nên mình ít khi đến đám đông vì không quen ai. 


Mình thương mụ vợ vì tâm đồng chí gái rất tốt nên khi mụ cười là thấy hình ảnh rực nắng của mặt trời cách mạng. Khi ra đường thấy cô nào bà nào đẹp cũng thấy có gì giả tạo vì môi son, làn phấn, kem thoa mặt hay tóc giả. Không còn là sự trung thực của người phụ nữ nên có thể thích một tí ngắm như ngắm tấm ảnh hiện thực rồi thôi. Mình theo dõi mấy nhóm chụp hình để thưởng thức mỹ thuật về cấu trúc và cách nhìn qua ánh sáng. 

Margaret Atwood nhiều lần phân tích cách sự khách thể hóa này dần dần trở thành một phần của ý thức phụ nữ. Trong The Robber Bride, bà viết rằng phụ nữ thường mang trong mình “một người đàn ông đang nhìn một người phụ nữ”. Hình ảnh ẩn dụ này diễn tả việc phụ nữ liên tục tự quan sát bản thân: cách họ trông ra sao, cử động thế nào, già đi thế nào, và chiếm giữ không gian như thế nào trong xã hội. Mình không hiểu lý do mụ vợ cứ hỏi được không khi bận áo quần đi đâu. Cứ phải kêu được để mụ đi thay bồ đồ khác cho đến khi không muốn thay nữa thì ra xe. 


Sự giám sát nội tâm này là một hình thức kiểm soát tinh vi. Cơ thể phụ nữ trở thành sân khấu nơi các chuẩn mực xã hội được trình diễn. Theo Margaret Atwood, sự tự kiểm soát này hạn chế tự do không chỉ bằng luật lệ bên ngoài mà bằng sự tự kiểm duyệt, khiến phụ nữ điều chỉnh cơ thể mình để tránh xấu hổ, bị loại trừ hoặc trừng phạt. Mình chưa bao giờ gặp một nông dân hay thợ kêu mình bận đồ làm vườn xấu. Chán Mớ Đời 


Tác phẩm nổi tiếng nhất của bà Atwood về chủ đề này là The Handmaid’s Tale. Trong tiểu thuyết, cơ thể phụ nữ, đặc biệt là khả năng sinh sản bị nhà nước, xã hội chiếm đoạt hoàn toàn. Những người phụ nữ còn khả năng sinh con bị giản lược thành chức năng sinh học, bị tước đoạt danh tính cá nhân và mất quyền quyết định đối với việc mang thai và sinh nở. Như các luật lệ một con tại Trung Cộng cũng như trai hay gái chỉ hai mà thôi. Thậm chí ngày nay, Trung Cộng mươi ra đạo luật không cho phép người phụ nữ ly dị chồng được sở hữu các vật hể của chồng. 

Nhớ có lần thượng viện chất vấn bà Mỹ đen nào được ông Biden hay ai đứng sau lưng,  chọn để trở thành thành viên tối cao pháp viện. Khi được hỏi định nghĩa của bà về một người Đàn bà thì bà này ú ớ khiến dân bảo thủ cười ngây ngất nhưng nếu họ nghiện cứu hay đọc sách báo của bà Atwood thì sẽ hiểu lý do bà kia ú ớ tương tự nếu ai hỏi mình đàn ông là thì thì mình sẽ trả lời “đàn ông được thương đế sinh ra để làm ô sin cho phụ nữ” 24/24.


Bà Atwood nhiều lần nhấn mạnh rằng không phải là khoa học viễn tưởng thuần túy mà là sự tái sắp xếp của các thực tế lịch sử. Mọi hình thức kiểm soát cơ thể trong tác phẩm đều từng tồn tại ở đâu đó trong lịch sử loài người. Qua đó, bà khẳng định rằng việc kiểm soát cơ thể phụ nữ luôn là một công cụ quyền lực trung tâm. Khi phụ nữ mất quyền kiểm soát sinh sản, họ cũng mất quyền định đoạt tương lai, lao động và vị trí xã hội của mình.


Vụ này chúng ta thấy ở bên tàu khi xưa phụ nữ bị bó chân từ bé để biến thành công cụ cho đàn ông sử dụng hạ bên Nhật Bản phụ nữ được huấn luyện từ bé làm ô sin máy đẻ cho chồng. Không sinh được con trai là cuộc đời te tua như đời cô lựu. 


Trong các bài tiểu luận và phát biểu công khai, Atwood cho rằng việc cưỡng ép sinh nở biến phụ nữ thành tài nguyên sinh học thay vì những công dân có quyền. Với bà, quyền tự chủ thân thể là nền tảng của phẩm giá con người. Tương tự nếu tuân theo chỉ thị của chế độ một con bên Trung Cộng bắt phụ nữ phá thai ở tháng 9 trước khi sang vì bí thư làng xã không muốn bị la lối. Mình xem các phim tài liệu phỏng vấn mấy bà người Tàu ở làng kể chiến dịch này kinh hoàng vì sau đó họ bị trầm cảm.  



Bà Atwood không lý tưởng hóa cơ thể phụ nữ. Trong nhiều tác phẩm, cơ thể hiện lên như một thực thể dễ tổn thương: già đi, chảy máu, bệnh tật và hữu hạn. Bà viết thẳng thắn về kinh nguyệt, bệnh tật, bạo lực tình dục và cái chết, những chủ đề thường bị xem là khó nói hoặc cấm kỵ. Chính sự từ chối lý tưởng hóa này mang tính chính trị sâu sắc, khi Margaret Atwood phản kháng lại những khuôn mẫu đòi hỏi cơ thể phụ nữ phải luôn trẻ trung, đẹp đẽ và sẵn sàng phục vụ. Vụ phục vụ thì mình không chắc phụ nữ ngày nay phục vụ đàn ông nếu có là đàn ông cực kỳ giàu có chớ nghèo như bông dân thì phải phục vụ đồng chí gái. 


Đồng thời, bà thừa nhận nỗi sợ: sợ bị tổn hại, sợ mất kiểm soát, sợ bị giản lược thành sinh học thuần túy. Trong The Female Body, cơ thể được mô tả như một gánh nặng tiềm ẩn nguy hiểm. Bà Atwood vì thế đã nắm bắt được nghịch lý mà nhiều phụ nữ trải nghiệm: cơ thể vừa là bản ngã, vừa là nguồn rủi ro.


Dù các mô tả của bà Atwood đôi khi u ám, bà không xem cơ thể phụ nữ chỉ là nạn nhân. Bà nhấn mạnh nhận thức, ngôn ngữ và ký ức như những công cụ phản kháng. Việc gọi tên những gì xảy ra với cơ thể nói về ham muốn, nỗi đau và sự kiểm soát chính là cách thách thức những hệ thống quyền lực vốn tồn tại nhờ sự im lặng.


Có lẻ các bà đầm ở Tây khởi đầu ở Ukraina phanh ngực viết chi trên ngực bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của bà Atwood khiến xã hội như mình hiểu lầm là điên nhưng sau khi đọc tư tưởng của bà Atwood thì mới giác ngộ cách mạng lý do mấy bà phanh ngực. Phải công nhận khi mấy bà phanh ngực thì Chán Mớ Đời không muốn gì nữa. 


Trong The Handmaid’s Tale, những hành động nhỏ như ghi nhớ và kể lại câu chuyện của chính bà ta trở thành một hình thức nổi loạn. Cơ thể có thể bị kiểm soát, nhưng ý thức thì không dễ bị khuất phục. Với bà Atwood, giành lại quyền đối với cơ thể bắt đầu từ việc giành lại quyền định nghĩa và kể về nó như mấy bà đầm phanh ngực là một lốở định nghĩa không cần che dấu để tạo gợi cảm thèm muốn của phái nam giữa họ tự giải thoát Định nghĩa từ ngàn năm qua về thân thể người phụ nữ của phái nam. 


Tư tưởng của Margaret Atwood về cơ thể phụ nữ gắn chặt với những suy tư rộng lớn hơn của bà về quyền lực, ngôn ngữ và tự do. Bà vạch trần cách cơ thể phụ nữ bị khách thể hóa, giám sát và điều tiết, không phải như những bất công cá biệt mà là cấu trúc nền tảng của xã hội. Tuy nhiên, bà Atwood cũng khẳng định khả năng phản kháng thông qua nhận thức, kể chuyện và khẳng định quyền tự chủ thân thể.


Đối với bà Atwood, cơ thể phụ nữ không bao giờ chỉ là sinh học. Nó là chính trị, biểu tượng và cá nhân nơi lịch sử in dấu và nơi sự phản kháng âm thầm bắt đầu.

J



Nếu còn sống lâu chúng ta sẽ thấy sự thay đổi tư duy của xã hội về thân thể phụ nữ như cách đây 50 năm, xã hội Tây phương bắt đầu chấp nhận từ từ giới đồng tính và ngày nay giới chuyển giới. Xã hội chính trị cũng như thương mại đã sử dụng thân thể người phụ nữ để bán son phấn và thời trang vì nếu chúng ta bỏ củi này thì mình hoàn toàn đồng ý vì mụ vợ khỏi phải đi mua sắm áo quần mới. 


Một tên nông Dân có bận áo quần hàng xịn vào thì càng lòi ra cái dốt và cái xấu như mình nên không mua áo quần cho cho tốn tiền. Và khi chúng ta không còn định nghĩa về thân thể phụ nữ cũng như phái nam thì có lẻ nhân loại sẽ không tiến bộ vì không có ai chịu khó bỏ thời gian thiết kế thời trang và dần dần sẽ sống trong u mê tăm tối vì không còn muốn vượt qua những gì mình đang có và sẽ trôi theo dòng luật của tự nhiên và thiên nhiên. 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Đền Phật giáo và Ấn Độ giáo

 Borobudur và Prambanan tại Java

Nhớ năm đầu tiên ở trường cao đẳng quốc gia mỹ thuật Paris, giờ lịch sử kiến trúc thế giới là mình mê nhất như thể được đi du lịch qua hình ảnh cấu trúc và văn hóa các nước trên thế giới. Cứ mơ một ngày nào đó sẽ được viếng mấy chỗ này. 


Chuông như vậy suốt 3 tầng. Sẽ kể trong bài tới

Có hai ngôi đền thờ 2 tôn giáo lớn tại châu Á mình học là Borobudur và Prambanan được xem là hai quần thể kiến trúc tôn giáo vĩ đại nhất của Indonesia, đồng thời cũng là hai biểu tượng tiêu biểu của Phật giáo và Ấn Độ giáo tại Đông Nam Á. Được xây dựng vào thế kỷ VIII–IX tại Trung Java, hai công trình này chỉ cách nhau khoảng 40 km, một khoảng cách tương đối gần nếu xét theo quy mô và tầm vóc của chúng nhưng đi xe hôm qua thì mất 94 phút với đường giao thông hiện nay. Đến đây mùa mưa nên lạy trời mưa đừng mưa trong khi ở Cali thì lại ngược lại. 

Bas relief trên tường của Borobodur 


Mình mướn tài xế đón ở phi trường cả ngày để anh ta chở đi cho chắc ăn. Giá cả ngày độ $60 cho 4 người. Phục vụ rất tốt. Đảo Java là đảo có đông người theo hồi giáo nhất thế giới. Theo thống kê là 105 triệu người. Đảo Bali thì lại có đến 75% dân số theo Ấn Độ giáo. Cho thấy có đi viếng thì mới hiểu được sự tình chớ đọc sách hay học lịch sử khi xưa thì rất khiếm khuyết khiến cho mình có những định kiến lộn xộn. Nổi buồn chiến tranh dâng lên lại kêu thiên hạ ra chửi. 


Trong mỗi cái tháp chuông có một vị Phật 

Vì ở lại đảo có hai ngày nên mình đặt phòng tại một khách sạn do người Thụy sĩ đầu tư và thiết kế dựa theo Phật giáo và đền Borobodur cách đền thờ độ 10 phút lái xe. Tại vùng này có nhiều đền đài nên mình chọn thêm đền Prambanan của Ấn Độ giáo để viếng, cách Borobodur độ 50  km nhưng đi xe mất 90 phút.  



Đền Prambanan 

Khi xưa cứ nghe nói là Phật giáo xuất xứ từ Ấn Độ giáo nhưng sau khi viếng thăm hai đền Borobodur (Phật giáo) và Prambanan (Ấn Độ giáo) cách nhau độ 50 km thì giác ngộ một điều là khác với những gì mình được hiểu đến giờ. Buồn đời Mình đọc thêm tài liệu của hai ngôi đền thì thất kinh,  xin tóm tắc sau cuộc viếng thăm dưới cơn mưa rào rồi tạnh rồi mưa nhưng phải công nhận là tuyệt đẹp. 


Sự gần gũi về địa lý nhưng khác biệt về tôn giáo đã đặt ra nhiều câu hỏi cho giới nghiên cứu về kiến trúc vì khác biệt nhưng vật liệu thì tương đồng: Vì sao hai công trình thuộc hai truyền thống tín ngưỡng khác nhau lại được xây dựng trong cùng một không gian và thời gian? Mối quan hệ giữa hai đền này phản ánh điều gì về xã hội và tư tưởng Java cổ đại?


Mình đi du lịch khá nhiều nước và có viếng nhiều đền thờ tôn giáo như nhà thờ ở Âu châu, Mỹ châu, chùa ở Nhật Bản,…nhưng phải công nhậm Borobudur và Prambanan rất độc đáo. 


Trong giai đoạn từ thế kỷ VIII đến X, Trung Java là trung tâm chính trị, kinh tế và tinh thần của các vương triều Java cổ. Khu vực này sở hữu đất đai màu mỡ nhờ tro núi lửa từ núi Merapi, hệ thống sông ngòi thuận lợi cho nông nghiệp và giao thương, cũng như mật độ dân cư cao. Việc xây dựng các công trình tôn giáo lớn tại đây không chỉ nhằm mục đích thờ phụng mà còn là cách để các vương triều khẳng định quyền lực và tính chính danh của mình.


Trong tư duy Java cổ, quyền lực hoàng gia luôn gắn chặt với trật tự vũ trụ. Có vẻ như khổng giáo VỚi tư tưởng vua là thiên tử.  Nhà vua không chỉ là người cai trị trần thế mà còn là cầu nối giữa con người và thế giới thần linh. Do đó, việc dựng nên các công trình linh thiêng đồ sộ ngay tại trung tâm quyền lực mang ý nghĩa vừa chính trị vừa tôn giáo.


Borobudur được xây dựng dưới triều đại Sailendra, một vương triều theo Phật giáo Đại thừa, vào khoảng năm 780–825. Ngược lại, Prambanan được khởi công khoảng năm 850 dưới triều đại Sanjaya, vốn theo Ấn Độ giáo, đặc biệt là Shiva giáo. Các nghiên cứu gia trước đây từng xem hai vương triều này như những thế lực đối lập. Tuy nhiên, các bằng chứng khảo cổ và sử liệu cho thấy họ không hoàn toàn thù địch mà có khả năng đã cùng tồn tại, thậm chí có quan hệ hôn nhân chính trị. Phật giáo nói chung không phải một tôn giáo nên không tranh dành ảnh hưởng hoặc chống đối nhà cầm quyền. 


Việc hai công trình không bị phá hủy hay thay thế lẫn nhau cho thấy Java cổ không áp dụng tư duy độc tôn tôn giáo. Trái lại, Phật giáo và Ấn Độ giáo được xem như hai con đường tinh thần song song, cùng tồn tại trong một không gian văn hóa chung. Sự gần gũi giữa Borobudur và Prambanan vì thế phản ánh một xã hội đa nguyên, nơi quyền lực chính trị có thể được củng cố thông qua nhiều hệ tư tưởng tôn giáo khác nhau. Khi đi du lịch các quốc gia nằm trên con đường lụa khi xưa thì mình có viếng vài ngôi chùa Phật giáo tại các nơi được xem là người dân theo hồi giáo. 


Borobudur không phải là một ngôi đền theo nghĩa thông thường, mà là một mandala ba chiều khổng lồ. Công trình gồm mười tầng, tượng trưng cho hành trình tu tập của con người từ thế giới dục vọng (Kamadhatu), qua thế giới hình tướng (Rupadhatu), đến cảnh giới vô tướng (Arupadhatu). Khi vẽ ngôi chùa ở Connecticut mình có nghiên ngồi đền này để phát họa phần tứ diệu đế.  Người hành hương không bước vào bên trong mà đi vòng quanh công trình theo chiều kim đồng hồ, vừa di chuyển vừa chiêm nghiệm các phù điêu mô tả cuộc đời Đức Phật và các tiền thân của Ngài. Quá đẹp!


Borobudur nhấn mạnh trải nghiệm nội tâm. Quyền lực hoàng gia gắn liền với lý tưởng giác ngộ, trí tuệ và từ bi. Nhà vua, thông qua việc bảo trợ công trình này, được xem như người góp phần duy trì trật tự đạo đức và vũ trụ.


Chỉ xui là trời mưa nên không ở lâu được thêm có bà cụ mình nên leo trèo khó nên đành để bà cụ ở ở tầng 1 rồi đi lên nên không ở lâu được. Có lẻ mình sẽ kể lại vụ này với hình ảnh để giải thích. Đây chỉ nêu lên thắc mắc là tuy khác tôn giáo người ta vẫn sống yên lành bên nhau như khi xưa do Thái giáo, thiên chúa giáo, hồi giáo sống yên lành bên nhau ở Tây Ban Nha dưới thời đô hộ của người hồi giáo đến khi thiên chúa giáo đánh chiếm lại vùng đất này và bắt mọi người trở về đạo nếu không thì rời khỏi nước Tây Ban Nha. 


Trái ngược với Borobudur, Prambanan là một quần thể đền thờ mang tính hướng thượng rõ rệt. Công trình được thiết kế theo mô hình núi Meru ngọn núi thiêng trong Ấn Độ giáo, nơi cư ngụ của các vị thần. Đền Shiva cao 47 mét vươn thẳng lên trời, tạo ấn tượng mạnh mẽ về sức mạnh và uy quyền thần linh.


Sự khác biệt khi viếng thăm đền này là cảm nhận khác với Borobudur là tại đây các kiến trúc tạo dựng một cái gì quyền uy trong khi ở Borobudur thì mình cảm nhận tinh thần nhẹ nhàng. Đặc biệt mình nhận thấy các chi tiết như để nước mưa trôi xuống rất hay và đến nhà nay vẫn tiếp tục hoạt động hữu hiệu và cách họ thực hiện rất hay. Các miếng đá lót nền được thiết kế theo hình L nên không bị trồi lên hư hao. Sẽ kể rõ hơn khi có dịp. 


Các phù điêu Ramayana trên tường đền không chỉ mang giá trị tôn giáo mà còn truyền tải những chuẩn mực đạo đức, trung thành và trật tự xã hội. Thông qua Prambanan, quyền lực của nhà vua được hợp thức hóa như một quyền lực mang nguồn gốc thần thánh, gắn liền với luật Dharma.


Dù khác biệt về hình thức và triết lý, Borobudur và Prambanan đều dựa trên một nền tảng chung: vũ trụ quan Java cổ. Cả hai đều coi núi non, thiên nhiên và con người là những yếu tố liên kết trong một trật tự hài hòa. Việc xây dựng chúng gần nhau không phải là mâu thuẫn, mà là sự bổ sung cho nhau trong một cảnh quan linh thiêng rộng lớn.


Sự song tồn này cho thấy Java cổ đại không đặt Phật giáo và Ấn Độ giáo vào thế đối đầu, mà cho phép cả hai cùng hiện diện để phục vụ những mục đích tinh thần và chính trị khác nhau.


Borobudur và Prambanan, khi được nhìn nhận cùng nhau, không chỉ là hai di sản kiến trúc riêng lẻ mà là minh chứng sống động cho sự đa nguyên tôn giáo và tư duy khoan dung của Java cổ đại. Việc chúng được xây dựng gần nhau phản ánh một xã hội nơi quyền lực, tín ngưỡng và văn hóa đan xen hài hòa. Trong bối cảnh lịch sử thế giới, sự song tồn này là một ví dụ hiếm hoi cho thấy các nền văn minh tiền hiện đại có thể chấp nhận và dung hòa khác biệt tôn giáo mà không cần đến xung đột. Chính điều đó đã làm nên giá trị đặc biệt và lâu dài của Borobudur và Prambanan trong lịch sử Đông Nam Á.


Đi chơi chuyến này rất vui vì đã đến những nơi mình mơ ước một thời nhất là được hiểu thêm về Ấn Độ giáo. Đồng chí gái rất ngạc nhiên đến thăm chỗ này nhất là được chụp hình tỏa nắng trong cơn mưa tầm tả.  Phải mất 50 năm mới thực hiện được giấc mơ. Thà trễ cò hơn không. Cô bạn đầm mới nhắn tin hỏi có nên viếng chỗ này vì khi ghé qua Cali, ở nhà mình cô ta có xem cuốn sách 100 kỳ quan thế giới về kiến trúc trên thế giới. Hai đền thờ này có hình và tóm tắc lịch sử mà mình hay mở ra xem khi buồn đời Sơn bán bơ. 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Ra giêng bán thận cưới em

 Ra giêng anh bán thận cưới em


Đến Bali mình có đặt qua Viator cho người đón gia đình về khách sạn. Đi một mình thì mình kêu gờ ráp hay Uber chớ đi với đồng chí gái và mẹ thì phải chịu khó đặt trước. 

Lên xe mình hỏi rảnh ngày mai không thì mình mướn anh ta chở gia đình đi chơi cả ngày trong suốt thời gian ở Bali. Anh ta nhất trí. Hỏi thăm tình hình xem cách làm ăn ra sao ở xứ này. Mình hỏi anh ta nhận được bao nhiêu % từ Viator. Anh ta cho biết chỉ có 35% vì trên anh ta có đến 3 người khác ăn trên đầu anh ta. Khi nhận đón gia đình mình thì xem như không nhận ai khác và chỉ ra phi trường ngồi ngáp đợi gia đình mình. Ở Phi Luật Tân thì người chạy xe Grab cho biết là công ty vớt 35% còn anh này chỉ lãnh được 35%. Chán Mớ Đời 


Mỗi nhà anh ta đem xe đến đón theo giờ giấc của mình kêu rồi đưa về lại khách sạn. Thật ra đi chơi với bà cụ thì khó đi xa. Có mấy chỗ mình muốn viếng nhưng giao thông rất khó vì đảo này có 5 triệu dân cư và đường xá thì cổ lổ xỉ nên chạy rất chậm. Sợ bà cụ mệt nên đi gần gần. Mấy chỗ khác dù có 100 cây số nhưng phải chạy 2.5 tiếng như viếng núi lửa còn hoạt động. 


Đồng chí gái hay hỏi mấy vụ lấy vợ lấy chồng nên khám phá ra anh ta có người yêu quen qua mạng xã hội và muốn lấy cô ta nhưng không có tiền. Hỏi cô này làm gì thì được biết đang học đấm bóp để sang thổ Nhĩ kỳ làm việc khiến mình thất kinh. Lý do là khi đi chơi với đồng chí gái có lần chả biết làm gì thì hai vợ chồng vào xì-pa thì được một anh tẩm quất gia người Bali và một bà phụ luật tân tẩm quất. 

Hỏi han tình hình thì khám phá ra dân á châu gốc hồi giáo sang Thổ Nhĩ Kỳ làm việc đông như quan hồi giáo. Hỏi hai người là vợ chồng thì họ nói không.  Anh tài xế 26 tuổi buồn vì biết em đi bỏ lại con đừng rồ em lấy chồng Thổ vì trường hợp xảy ra 90% các cuộc hôn nhân xứ này có vơi đi là ở Thổ Nhĩ Kỳ. 


Bà phi luật Tân kể là có chồng ở phi luật Tân nhưng không có việc làm nên bà bò sang đây và lấy chồng ở xứ Thổ, làm giấy tờ ở lại luôn. Đàn ông thổ nổi tiếng ở Âu châu rất khỏe như Tây hay nói “fort comme un turc “. Ông nào ở Việt Nam đừng có cho vợ đi lao động quốc tế ở Thổ Nhĩ Kỳ vì 100% mất vợ vì phụ nữ đã lên giường với tên Thổ Nhĩ Kỳ là mê mùi ăn thịt cừu rồi dê như Thổ Nhĩ Kỳ. Anh chàng cũng buồn không muốn cô bồ ra đi nhưng kinh tế xứ này yếu hơn Việt Nam nghèo hơn Việt Nam. người Việt còn thi nhau đi lao động quốc tế huống chi dân Nam Dương.  


30 năm về trước có tên bạn quen ở Cali, luật sư. Không nhớ hắn qua Cali mấy tháng để làm gì chỉ nhớ gặp nhau ở một khóa hội thảo về xuất nhập cảng vì khi xưa có tên đồng nghiệp gốc Đài Loan rủ làm ăn xuất nhập khẩu về á châu và Việt Nam. Đợi Clinton bỏ lệnh cấm vận. Hắn có mời mình về Nam Dương thăm dò tình hình nên có về khi ghé Hà Nội dự khóa hội thảo phát triển Việt Nam sau lệnh cấm vận. Mình thấy chế độ gia đình trị độc tài của tổng thống xứ này rồi chả hiểu sao có con nên chả muốn đi xa vợ con nên bỏ mộng xuất nhập cảng làm giàu. 


Anh ta buồn đời kể là tính bán một lá thận để có tiền cưới vợ. Hỏi bao nhiêu kêu $8,000. Kinh. Khi xưa mình cưới vợ tốn có $2,000 tiền mua nhẫn và bông tai chi đó. Nhà hàng thì huề vốn, thân hữu đi  trả đủ nợ nhà hàng. Xong om

Vợ mình kêu không được khiến mình lạ vì khi. Xưa nếu mình nó bám lá thận để cưới đồng chí gái là cô nàng chịu ngay vì quá ế, họ hàng kêu sao không lấy chồng nên nhắm mắt lấy mình để được đưa qua sông. 


Mình nhớ thầy Phạm Văn An khi xưa trong lớp khi thầy giảng vụ ra Loan ra tòa về cách thức tố tụng ở tòa. Thầy kể lúc đầu đi học luật khoa rất mong sau này giúp cãi cho người nghèo cô thế, nhiều lý tưởng của tuổi trẻ đến khi ra tòa lần đầu tiên thì chính quyền kêu xâm mồm khi được xử cãi cho một Việt Cộng năm vùng bị bắt. Trong đầu thày nghĩ cách cãi này nọ nhưng chưa kịp nói câu nào đã nghe tòa phán 15 năm tù. Chán Mớ Đời  nên đi học thêm văn khoa về đi dạy. Thầy nói là muốn cải thiện đời sống kinh tế con người thì phải làm chính trị vì các mô hình hay chính sách sẽ dẫn quốc gia giàu mạnh còn làm luật sư bác sĩ thì chỉ cứu được vài mạng người trong đời còn chính trị thì giúp cả một dân tộc. 


30 năm về trước mình thấy Nam DƯơng tương đối khá hơn Việt Nam ở thời kỳ đổi mới nhưng ngày nay thì vẫn thấy họ ỳ ạch như vậy trong khi Việt Nam tương đối khá hơn xưa dù được Việt Cộng cai trị. Qua Tân Gia Ba thì thấy họ vượt trội Việt Nam trong vòng 30 năm thậm chí nay còn còn giàu hơn Hoa Kỳ. GDP cho dân tình mỗi năm là trên $90,000 trong khi Hoa Kỳ chỉ có đâu $67,000.


Anh tài xế kể là năm lên 5 tuổi thì trời mưa bóng bóng phập phồng  bà mẹ bỏ lại anh ta và 6 anh chị khác để đi lấy chồng khác. Ông bố có 3 bà vợ, mế mẫu không thương gì con chồng nên cuộc sống te tua. Lý do là phụ nữ theo Ấn Độ giáo có quyền bỏ lái này nhảy qua lá nọ. Không có con với chồng mới nên khi về già theo liên lạc anh em của anh ta để xin cứu trợ vì bệnh hoạn. Cho thấy ở xã hội nào muốn sống còn người ta bỏ chồng bỏ con đi tìm cuộc sống sung túc hơn. Anh ta không khá giả gì, rời làng ra đây mướn căn phòng nhỏ để chạy xe đưa khách. 


Chế độ nào mà cứ bám chặc quyền lực thì sẽ không khá cho người dân thường chỉ có giới cầm quyền là vơ vét hết. Trường hợp Tân Gia Ba thì là một nước cực nhỏ chưa bằng quận Cam Cali nên độc tài dễ kiểm soát hơn và thi hành chính sách quốc gia hơn chớ to lớn như Việt Nam thì khó thực hiện còn Nam Dương thì càng khó vì có trên 17,000 hòn đảo khó kiểm soát. 


Ai đi du thuyền đều thấy nhân viên trẻ thuyền đa áo là người phi luật Tân và Bali nhiều nhất. Họ làm việc cả năm trên tàu mươi được về phép 1,2 tuần. Đi chơi như vậy chỉ biết thay vì mướn qua công ty thì mướn thẳng anh ta, anh ta chỉ chia với chủ xe. Được cái là xăng xứ này rẻ hơn Việt Nam vì có dầu lửa nhà không biết ai hưởng mấy tài nguyên quốc gia này. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn