Versailles và vệ sinh

Về Paris, ngụ nhà cô em ở Rueil Malmaison gần Versailles, nơi khi xưa mình hay đi vẽ ở đây nên nhớ đến những lớp về lịch sử kiến trúc pháp khi xưa. Đi lại con đại lộ Rivoli, ghé qua Place des Vosges, hay Palais Royal, đi lại Cour Carré, để nhớ lại những năm tháng ngày đi học. Lấy métro  xuống trạm Louvre, đi qua chỗ này rồi băng qua Passerelle des Arts, nhìn về La Cité, nơi mặt trời mọc trong sương mù phủ xuống dòng sông Seine. Đi qua vườn Tuileries để thấy Khải hoàn môn Austerlitz, đánh dấu ngày 2 tháng 12, 1805 của Napoleon mà mỗi năm đến ngày này thì vào 5 giờ chiều, mặt trời sẽ lặn ngay vào cái vòm của Khải hoàn môn này cũng như Khải Hoàn Môn lớn hơn ở công trường Étoile. Kéo dài về Versailles. Sau này họ có làm Khải hoàn môn khác ở La Défense. 
Khi xưa, hoàng tộc của Pháp sống ở trung tâm Paris, trong hoàng cung Palais Royal, gần vườn Tuileries, bên cạnh đường Rivoli rồi qua ở cung điện Louvres, cạnh bờ sông Seine. Sau đó vua Louis 14 xây cung điện Versailles, ở cách Paris độ 17 cây số, đẹp nguy nga, có thể xem là đẹp nhất Âu Châu. Mình đã viếng các lâu đài của các dòng vua khác ở Âu châu như nhà Hapsburg của Áo Quốc ở Wien, Hoà Lan, Anh quốc,…nhưng cung điện Versailles vẫn đẹp nhất.
Mel Brooks có làm một cuốn phim khiến mình tò mò hỏi vòng vòng; lâu đài Versailles to lớn nhưng không có nhà vệ sinh. Trong phim, có mấy cảnh, Mel Brook đóng vai nô bộc, cầm cái xô đi vòng vòng rồi mấy bà bận đồ đẹp, đứng nói chuyện rồi bỏ đi chỗ khác thì thấy một bãi cứt, Mel Brook đến gắp bỏ vào sô. Chán mớ đời.
Cho thấy vua chúa, hoàng tộc khi xưa cũng ỉa đồng, ỉa vất như người mình, chỉ có là bận đồ đẹp. Không biết mấy bà bận váy đầm, có mấy sợi dây thắt lưng chật bó để giúp đồ ăn đừng xuống, sợ đi cầu bất tử hay sao mà xem phim cứ thấy họ cột dây lại cho chặt cái bụng. Có bác gái nào giải thích cho em biết lý do nào ngày xưa mấy bà cột dây bụng lại. Nghe kể bà hoàng hậu Catherine de Medecis, bắt các người ra vào trong hoàng cung, bận corset vì bà ta ghét người mập. Từ đó áo quần mới có kiểu bó như đòn chả thủ.
Một ngôi lâu đài to lớn vậy mà không có nhà vệ sinh trong cung điện, hệ thống nước cho gia nhân, vua chúa, vì nước dùng của Pháp ngày ấy không được sạch thêm người ta chưa biết cách giữ ấm mấy ống nước vì khi trời lạnh thì ống nước bị đông lạnh và gãy nên vào thời ấy không có hệ thống nước trong lâu đài tương tự hệ thống thoát cống. Nói cho ngay dạo ấy chưa có kỹ thuật làm ống gan hay ống bằng đất sét như bây giờ.
Ở xứ nóng thì dễ như Cali, quanh năm không có tuyết nên hệ thống ông nước và ống cống không bị đông và bể, ngoài trừ các nhà trên núi có tuyết. Mình có mấy người bạn có nhà trên núi, về mùa đông cực lắm, phải chuẩn bị trước nếu không mùa đông hệ thống ống nước và ống cống bị đông lạnh rồi bể, hết mùa lại phải thay. Tốt nhất là mướn khi cần đi chơi thay vì mua, mệt và không có lợi. Chi phí bảo trì rất cao, thợ biết mình ở xa, vẽ đủ trò để mình gửi ngân phiếu.

Ở nhà mình, hệ thống nước có gắn cái bơm nước nóng còn lại trong hệ thống ống nước nóng, khi không dùng sẽ bị nguội nên khi tắm, phải mở nước xã cả 5 gallon nước còn đọng trong hệ thống mới có nước nóng chảy vào, do đó mình dùng cái bơm. Mỗi lần dùng nước nóng để tắm thì mình bấm cái App của công tắc điện của máy bơm thì sẽ bơm nước nguội trong ống qua máy làm nóng nước bằng ga của Nhật, có nước nóng ngay, đở tốn tiền ga và nước lại không phải đợi chờ nước nóng vì có liền.
Vua chúa muốn tắm thì gia nhân nấu nước như mình khi xưa ở nhà rồi đổ vào bồn tắm, sau đó quăng nước dơ qua cửa sổ. Ai may mắn đi ngang là có cơ hội tắm nước dơ miễn phí. Xong om.
Nhà vua và hoàng hậu thì có những cái ghế như khi chầu ở cung điện, có cái lỗ tròn để đánh bom khi đi vệ sinh rồi hầu cận, kéo cái nắp lên, mở cửa tủ ghế, lấy cái bô đi đổ. Xong om. Người ta kể là trong cung điện Versailles, có nhiều chỗ cứt, nước tiểu đầy, gia nhân phải chùi hoài, thối không thể tả vì khách đến,mót nên cứ bươn ra khi không chịu nổi. Có lẻ vì vậy người Pháp đã chế tạo nước hoa vì dạo ấy, chưa có vụ đánh răng súc miệng, tắm rữa còn hạn chế. Ông vua Henry đệ 8, bắt mấy cung nữ, không được tắm trong vòng 3 tháng trước khi động phòng với ông ta. Kinh hồn.
Ở điện Versailles, có một ngôi nhà nhỏ gọi Petit Trianon, nơi nhà vua kêu mấy cô hay bà mà vua thích ra đó vui chơi. Ngôi nhà có lẻ về kiến trúc được xem là đẹp nhất. Mình có đến và vẽ nhưng đi tìm cầu tiêu không thấy, lén lén ra bụi cây như vua chúa khi xưa. Chán mớ đời.
Vua ngồi tè hay đại tiện
Nghe kể, ông vua Louis 14, mỗi sáng đi cầu khó khăn, bác sĩ nhà vua đến phòng, thấy vua đang nhăn mặt thì hỏi “comment allez vous ce matin? “ nên từ đó người Pháp cứ gặp nhau là hỏi xã giao “comment allez vous?” Như hỏi đi cầu được chưa, mình mới qua tây cứ gặp tây đầm là hỏi câu này khiến họ cười nhăn mặt. Chán mớ đời. Cuộc đời Thái y chưa chắc là sung sướng, vua đi cầu không được cũng hành, kêu dậy nữa đêm.
Thật ra thì có đến 600 cái “commodes”, loại phòng nhỏ, có ghế lũng lỗ cho gia nhân, người ở trong cung điện nhưng vì người đông quá nên nhiều khi khách khứa đến cung điện, phải cho gia nhân tiền để họ cho mượn cái bô nên từ đó có lệ cho “pourboire” khi ai đó giúp mình đi cầu, người Việt bắt chước tây trong thời bị đô hộ, quen miệng kêu tiền Boa. Nói chung thì cung điện đẹp lộng lẫy nhưng hôi thối lắm.
Nước bị truyền nhiễm, người ta chưa biết cách lọc nước cho sạch nên cũng không có trong cung điện. Ngày nay du khách đến viếng nước Pháp cũng lâm vào cảnh không có nhà vệ sinh công cộng. Dạo mình đi học ở Paris thì có vài chỗ trên đường, hay công viên như vườn Luxembourg, gọi là Pissoire. Ghé lại tè cho thoải mái cuộc đời nhưng sau này, họ dẹp hết thay vào đó mấy cái nhà vệ sinh của nhà thầu Decault, phải bỏ tiền vào nhưng khổ cái là có tiền thì thiên hạ đập để lấy tiền như mấy cái điện thoại công cộng nên họ cũng dẹp luôn hay chỉ còn vài cái và người ta xếp hàng són đái luôn.
Vấn đề ở Versailles là mỗi ngày có ngàn người lui tới, mỗi khi có hội hè thì lên đến 5,000 người, do đó vấn đề vệ sinh rất khó khăn. Mình có coi một cuốn phim có Gerard Depardieu đóng vai một tên chuyên tổ chức tiệc tùng cho vua chúa, giai cấp quý tộc, mới hiểu một chút về lịch sử Pháp khi xưa. Vào thời ấy, có lẻ người ta không quan tâm lắm như ngày nay, trong nhà không có cầu tiêu và nhà tắm nên thiên hạ ra ao hay đi tìm lùm cây nào đó, hay đem theo cái cuốc, làm một lỗ rồi bỏ bom xuống rồi lấp đất lại, làm phân hữu cơ theo tư tưởng sinh thái hiện đại.
Paris khi xưa cũng hôi thối vì trong nhà không có ống cống thoát, có mấy chỗ tập trung đi vệ sinh. Có phòng tắm công cộng nhưng sau này nhà thờ cấm vì không muốn đàn ông và phụ nữ ở truồng tại một chỗ. Hôm nào, rảnh mình kể vụ này vì khá dài. Nói chung là sông Seine hôi thối vì ống cống khắp Paris đều chảy ra đây, dân thợ nhuộm vãi, đổ nước dơ ở đây, dân bán thịt thì quăn xương xuống sông. Đại khái như con suối giữa đường Phan Đình Phùng và Hai Bà Trưng khi xưa, dân chúng đem rác ra đổ đầy. Nhà vua đánh thuế những người đi lượm rác ven sông.
Dạo mình mới đến Paris, kinh đô ánh sáng, mướn căn phòng ô sin trên lầu 7, không có thang máy. Vệ sinh thì phòng nhỏ (2.5 m x 3.8m) nên không có phòng tắm hay lavabo, ngoài hành lang có cái bồn cầu thời Bảo Đại kiểu họ xuất cảng qua Việt Nam, ngồi chồm hổm như ở Việt Nam. Các ô sin ngày xưa, tắm rữa ở dưới nhà của chủ nên ngoài hành lang chỉ có một nhà vệ sinh và cái robinet. Mùa hè thì mình lấy cái sô hứng nước rồi tắm như kiểu ở Việt Nam, còn mấy mùa khác thì đi đá banh hay đi bơi rồi tắm trong đại học hay ghé lại ký túc xá của mấy thằng bạn để tắm.
Thật ra từ Đàlạt, qua Tây là đã thấy văn minh rồi. Đi Nhật thì mình thấy bồn cầu của họ, ngay ở phi trường là sạch sẽ nhất những quốc gia mình từng thăm viếng. Có hai loại bồn cầu: kiểu ngồi chồm hổm và kiểu ngồi đứng, về khách sạn thì có loại có máy rữa khu như bidet của Pháp nhưng tiện hơn, có nút nhấn là có nước ấm. Mình có gửi mua một cái gắn cho mụ vợ nhưng không dám gắn ở phòng tắm dưới nhà vì sợ khách đến rồi ngồi luôn trong.
Có lần đến nhà bạn, thấy thiên hạ đứng đợi ở ngoài phòng tắm, mấy bà vào trong lâu không thể tả. Hoá ra chủ nhà gắn cái máy rửa khu của Nhật, khiến mấy bà tò mò, ngồi thử, nhiều bà bị nước bắn ướt quần nên phải lấy giấy khăn để chùi.
Chán mớ đời

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 
Nguyễn Hoàng Sơn 

Biện luận = Bạo lực

Từ độ ông Trump làm tổng thống nhiệm kỳ đầu tiên, thiên hạ chửi nhau kêu Hitler đủ trò, nói chuyện phải cẩn thận vì sợ loạng quạng bị đấu tố là kỳ thị chủng tộc. Nhiệm kỳ 2 tương tự, cũng chửi nhau như điên. Trước đây họ kêu phải đi xe điện như Teéla để bảo vệ môi trường, bớt Global Warming này nọ rồi nay chống ông Trump thì đốt hay đâm thủng bánh xe Tesla. Cho thấy biện luận đưa đến bạo lực. Thay vì cãi nhau, tranh luận, họ đốt xe rồi có thể từ từ đến lấy súng bắn nhau. Cho thấy họ không kiên định về bảo vệ môi trường vì đốt xe làm ô nhiễm môi trường. 
Cứ tưởng tượng ông Elon Musk bỏ tiền ra mua Planned Parenthood, mấy người ủng hộ phá thai sẽ đốt phá các bệnh viện phá thai. Hay công ty của ông Musk đã đưa hai phi hành gia kẹt trên không gian về. Chắc mấy ông quan toà sẽ ra lệnh ông Musk đưa họ trở lại căn cứ không gian. Vì họ vào không gian không có giấy tờ, chiếu khán. Không kiên định lập trường. Hình như có lần giới bảo thủ lên án công ty Target, kêu gọi tẩy chay không mua nhưng không ai xúi dục dân bảo thủ đến đốt phá mấy tiệm này. Nói chuyện không được thì đánh lộn chớ còn phá xe, phá tiệm của người ta là không được dù Cấp Tiến hay Bảo Thủ, phải lên án.
Dạo này mình lo trên vườn để chuẩn bị bán bơ trước khi đi Tajikistan nên ít có thời gian lên mạng mà mở ra là thấy thiên hạ chửi nhau quá cỡ thợ mộc. Đột suất, ai cũng trở thành nhà ngoại giao đại tài, nhà tham mưu quân sự đại tài về cuộc chiến Ukraine. Hay nhà báo danh tiếng về vụ án tổng thống Kennedy mà có phim tài liệu chiếu trên Prime đâu 6 năm về trước, đã kêu đích tên ông Bush Cha, có dính liệu vào cuộc ám sát này từ lâu.
Dạo mình mới sang mỹ, đọc báo thấy người gốc Việt chửi nhau mệt nghỉ. Người thì lên án người kia viết như cục cứt, không đầu không đuôi, người thì chê người nọ vô học. Thậm chí họ còn đánh nhau giết nhau. Đọc kỷ lại thì thấy họ đều là nạn nhân của VC, bỏ nước ra đi nên mình hơi thắc mắc, cùng một lứa bên trời lận đận, tại sao họ không đồng tâm hợp lực giúp nhau như người Minh hương khi xưa, phản Thanh phục Minh, làm người Hảo Hớn, làm người Việt Tốt.
Mình làm nghề kiến trúc sư nên lâu lâu cũng phải đứng trong buổi họp trình bày công việc của mình. Một hôm, thằng boss nói với mình là mày cần phải tập luyện nói trước khi buổi họp, để diễn đạt ý của mày rõ ràng và ngắn gọn hơn. Anh ta khuyên mình nên gia nhập các nhóm Toatsmasters, để tập nói chuyện trước công chúng. Mình ghi danh đi theo nhóm ở nhà thờ Kiếng ở Garden Grove. Mỗi sáng thứ 3 vào 6:00 sáng tham dự với nhóm này được mấy năm để tập nói trước công chúng, để bỏ cái tính "xuất khẩu thành thơ", một trong những tố chất việt trong người mình. Nhóm chỉ cho mỗi người nói đúng 2 phút về một đề tài, rồi họ phê bình, góp ý để giúp mọi người nói khá, rành mạch hơn trong tương lai.
Có dạo mình xem cơ líp của buổi hội ngộ cựu học sinh Văn Học, có một anh lên sân khấu, nói "không biết nói gì hơn, tôi chỉ biết,..." Nhưng rồi anh ta vẫn cầm micro đến 10 phút và cứ lập lại đi lập lại "không biết nói gì hơn", mình đếm đến 6 lần trong 10 phút. Cứ nói xong câu này là anh ta lại lập lại những gì anh ta đã nói trước đó. Trường hợp của anh bạn này là tiêu biểu cho đa số người Việt mình, khi nói trước công chúng.
Mình nghĩ người Việt, đa số không biết truyền đạt tư tưởng của mình. Không phải dốt nhưng lối ứng xử bị ảnh hưởng của Nho giáo, không có sự đối đáp, chỉ có kẻ trên ra lệnh kẻ dưới phục tòng theo tinh thần gia trưởng. Cha nói thì con nghe, vua nói thì thần tuân, anh nói em phải nghe không được cãi. Vì không có đối thoại nên chúng ta không quen cách diễn đạt, biện luận để người khác hiểu rõ ý của mình, thêm tinh thần gia trưởng nên chỉ có cãi nhau, thoá mạ nhau dù có cùng một ý định, tư tưởng như nhau.
Từ nhỏ chúng ta đã được dạy, giáo huấn trong một môi trường không có đối thoại, dù biết cha anh, vua chúa là sai nhưng phải tuân lệnh nếu không sẽ bị chém hay đánh đập. Giáo dục ở trường cũng tương tự, thầy nói thì học trò bắt buộc phải nghe, không được cãi mặc dù thầy cô nói sai. Mình nhớ có lần gặp cô giáo của con gái, bà ta kể con gái mình 8 tuổi đã nói bà ta đánh vần sai, đã cám ơn con bé trước các bạn trong lớp. Nếu ở Việt Nam thì chắc đã bị trù dập, bị cô giáo hay thầy giáo tát tai đi bệnh viện.
Giáo dục của Việt Nam không có phần cho học sinh phát biểu, phản bác những gì thầy cô nói trong lớp nên học sinh không được tập luyện nói chuyện trước công chúng. Mình nhớ có lần con gái mình học lớp 5, đã được trường chọn với một học sinh khác thay phiên làm MC, điều khiển chương trình văn nghệ mà không thấy bóng dáng của cô hay thầy giáo. Trong lớp học, người ta khuyến khích học sinh có những tư tưởng khác lạ với số đông.
Người Việt mình vì không được tập luyện từ nhỏ về cách nói chuyện trước công chúng nên ra đời, khi phải nói chuyện trước công chúng thì họ rất ngần ngại. Đồng chí gái có ông anh họ, hội viên của một tổ chức y sĩ Việt Nam tại hải ngoại. Có dạo anh ta phải đọc diễn văn trong một cuộc họp mặt tất niên. Anh ta than là phải đọc hai bài diễn văn; một bằng tiếng Việt và bản dịch ra anh ngữ vì có một số y sĩ trẻ gốc Việt, không hiểu tiếng Việt.
Mình không hiểu tại sao phải dùng hai ngôn ngữ, đang ở Mỹ thì cứ sử dụng anh ngữ cho khoẻ. Anh ta gửi cho mình bài diễn văn của anh ta bằng tiếng việt rồi nhờ dịch ra anh ngữ. Đọc bản việt ngữ thì thấy anh ta chêm tiếng mỹ khá nhiều, viết cũng theo cung cách của một nho sĩ nên có những từ khó hiểu đối với mình. Ông anh vợ viết tiếng việt khá lộn xộn, đúng ra ông ta cần một người giỏi tiếng Việt, xem lại bài diễn văn này nhưng đối với ông ta bài diễn văn việt ngữ không quan trọng. Ông ta chỉ sợ bị chê là bài diễn văn bằng anh ngữ không hay.
Tại sao người ta xem thường chữ quốc ngữ nhưng lại sợ người khác chê mình viết tiếng mỹ dỡ? Tiếng mỹ là ngoại ngữ, viết hay nói sai thì đâu có thằng tây con đầm nào cười, chỉ có khi mình nói sai tiếng mẹ đẻ mới ngại. Thật ra người Việt với bản tính vọng ngoại, khinh thường những gì thuộc văn hoá Việt cho nên rất xuề xoà. Người mình trọng nể người ngoại quốc hơn dù những người này, thậm chí còn thua kém về mặt tri thức, tiền bạc,..., mà mình có dịp thưa trước.
Mình và đồng chí gái hay cãi nhau vì đồng chí gái cứ dùng từ việt ngữ sai hay nói chuyện cứ chêm tiếng mỹ vào, dù mụ vợ học trường việt, sống ở VN, nhiều năm hơn mình. Nhắn tin cho mình cứ viết tiếng Việt không bỏ dấu thêm tiếng Anh cho nên mình cũng chới với. Đang lái xe, nhận được nhắn tin của vợ thì hỏi Siri, đọc nhắn tin dùm thì con mụ Siri đọc lớ quớ chả hiểu gì. Chán mớ đời!
Làm sao người Việt có thể tự hào dân tộc khi họ xem thường tiếng mẹ đẻ. Nói hay viết tiếng Việt sao cũng được nhưng khi nói chuyện với ngoại quốc thì câm như hến vì sợ nói sai, nhờ người dịch dùm. Nói như vậy không có nghĩa chỉ có người Việt. Mình nhớ ông vua Maroc, Hassan II, có lần gửi thư cho tổng thống tây, than phiền là nước Pháp đã gửi nhiều thầy dạy Pháp Văn, đọc và viết sai văn phạm. Lý do các co-operant, những người thay vì đi quân dịch 1 năm thì đi sang các nước khác để dạy Pháp Văn, toán,.... Đa số những người này mới ra trường, nhiều khi không học về môn dạy Pháp văn nhưng là tây thì dạy tiếng tây, tương tự sinh viên mỹ, viết đầy lỗi chính tả, đi dạy tiếng Anh ở Á Châu vào mùa hè.
Đúng ra người Việt rất yếu kém về truyền thông, không biết diễn đạt được ý tưởng mình, thêm tinh thần gia trưởng, không cho đối thoại để đi đến trường hợp không ai nghe ai, chỉ có mình là tài giỏi, mọi người phải lắng nghe lời huấn dụ của mình. Chúng ta không có tinh thần tôn trọng người đối thoại, thương thuyết, thoả hiệp với đồng loại. Ai không nghe mình thì gọi là Phản Động, bán nước hay chụp cho họ những cái nón cối to tận trời xanh.
Mình thấy nhiều trường hợp trong gia đình, anh em gây gỗ với nhau vì mấy người em không đồng ý với ý kiến của người anh hay người chị là bị la mắng hỗn hào, bị đánh đập dù mấy người em đã lớn tuổi, có gia đình. Tinh thần gia trưởng khiến người anh hay người chị cảm thấy bị mất mặt, tức giận vì không biết cách diễn đạt, biện luận nên chỉ biết dùng võ lực để áp đảo những người khác không nhất trí với mình theo tinh thần của văn hoá võ biền.
Mình nhớ lần thứ 2, về thăm gia đình, mình ngồi nói chuyện với ông cụ thì thấy ông cụ nói bú xua la mua về nhiều vấn đề nên có giải thích những vấn đề đó thì ông cụ mình nổi giận, la mắng mình, bảo cho mày ăn học rồi ngày nay mày về Hà Nội, ngồi với mấy tên tai to mặt lớn rồi không coi ra tao ra gì. Thế là từ đó, khi gặp ông cụ, mình tránh nói chuyện có tính cách chiều sâu vì sợ ông cụ giận. Xem mấy ứng cử viên tổng thống mỹ của hai đảng, tranh luận ỏm cù tỏi nhưng khi đối thủ của họ thắng thì họ vẫn nói chấp nhận thua trước công chúng, chúc mừng đối thủ đã thắng họ.
Người Việt được dạy dỗ từ nhỏ về những anh hùng của đất nước. Đa số là những ông tướng, ông vua đánh đuổi ngoại xâm nhưng không bao giờ cho học sinh thấy gương một người buôn bán, một thầy giáo, một nhà thơ,..., như Nguyễn Du, Sử gia Lê Quí Đôn,.. được tuyên dương là anh hùng, một gương sáng đáng được noi theo cho nên từ bé chúng ta đã bị điều kiện hoá là muốn thành anh hùng, phải là dân võ biền, lính tráng mà tướng phải thắng trận, cho nên văn hoá ứng xử của chúng ta rất bạo hành. Trong lớp cãi nhau là dùng tay chân để xem ai là anh hùng. Dạo này có vụ cô giáo kêu học sinh đánh một học sinh trong lớp mấy trăm bạc tai để đạt thành tích thế giới 🙂 khiến học sinh phải đi nhà thương.
Nhớ có lần trong lớp, NM, xóm Cô Giang nói cái gì sai nên mình chỉnh lại hắn. Thay vì cám ơn hắn lại kêu mình xuống đường đánh nhau coi thằng nào hơn thì thằng đó đúng. Năm ngoái mình về Đà Lạt, NVT có gọi cho hắn, nay làm hướng dẫn viên du lịch đi xe máy vùng Đà Lạt. May hắn không nhớ đến mình.
Từ nhỏ mình đã học tôn sùng anh hùng Nguyễn Huệ, một người thất học, tài thao lược không bao nhiêu. Từ một tướng cướp biển với hai người anh, liên kết với đám cướp biển tầu, Chiêm Thành và bọn thảo khấu ở Lào, dần dần tạo nên thế lực hùng hậu trong khi Chúa Nguyễn suy kém vì loạn Trương Phúc Loan. Trong lịch sử họ ém nhẹm vụ ông ta sai con rể, giả dạng vua Quang Trung, sang Trung Hoa, cầu cống sau trận Đống Đa nhưng lại thần thánh hoá, kêu ông vua này muốn đánh Trung Hoa để đòi lại hai châu Quảng khiến mọi người tiếc rẻ nhưng không ai nghĩ đến là lấy quân đâu mà đi đánh, đối đầu với mấy trăm triệu lính tàu.
Họ bựa lịch sử như 10 người lính cầm cái khiên chống đạn và có tất cả 60 cái khiên hay 600 quân của Nguyễn Huệ. Trong một đêm đã đại phá 10 vạn (100,000) quân của Tôn sĩ Nghị. Thăng Long thời ấy chưa có tới 10,000 dân thì làm sao nuôi được 100,000 quân lính nhà Thanh. Những bài học này đã biến nhiều thế hệ trẻ Việt Nam chìm trong ảo tưởng, tự cho mình là hậu duệ của Nguyễn Huệ.
Người Việt tôn sùng bạo lực đến nổi phải thần thánh hoá Nguyễn Huệ, rất giỏi về những chương trình trị quốc dân an,... Vì nếu ông ta giỏi thì chắc chắn đã không cho đốt cháy hải cảng Hội An, nơi các tàu bè giao thương đem lại tiền bạc cho Chúa Nguyễn, khiến các thương gia ngoại quốc không dám trở lại buôn bán đến khi người Minh Hương sau này, bỏ trốn chạy tỵ nạn sang Việt Nam. Nếu khâm phục giặc Tây Sơn, các người dân miền nam đã không tá túc Nguyễn Ánh, giúp ông ta chạy trốn sang Tây cầu viện.
Dạo đó, dân số Việt Nam chưa đến 1 triệu người, nghèo đói thì tiền đâu đi đánh giặc mấy ngàn cây số phía Bắc với tuyết lạnh mà dạo ấy người việt, chưa bao giờ biết đến. Với văn hoá võ biển, không ăn học, đi ăn cướp từ thủa bé nhưng có một điều chắc chắn là ông ta rất giỏi võ cho nên mới được tôn thành đại ca của đảng cướp. Hà Nội có nhiều lí do để tôn sùng ông vua khát máu này.
Ngày nay, cháu mình học ngọn đuốc cách mạng, Lê Văn 8, do Hà Nội tự tạo ra huyền thoại này. Có thể chấp nhận trong thời kỳ chiến tranh, Hà Nội cần tạo dựng những chuyện này để động viên dân quân của họ nhưng một khi hoà bình đến thì nên giải mã những vấn đề này để tránh những đứa bé học cái sai từ bé, sẽ đào tạo những người sống trong ảo tưởng rất có hại cho đất nước sau này.
Đồng bằng Cửu Long có nguy cơ ngập mặn và biến thành sa mạc trong vài năm tới nhưng các lãnh tụ vùng này thi đua ra nước ngoài, học tập tổ chức bán vé số vì làm xổ số, sẽ gây ra công ăn việc làm cho người dân, bán vé số kiếm ăn và kiếm tiền cho tỉnh lị. Thật ra, khi xưa họ không có cơ hội đi học, lo đi làm cách mạng nên tầm nhìn của họ rất giới hạn trong địa đạo Củ Chi nên không ai thắc mắc vì sao Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Nếu không có 12 tỷ đô do người Việt ở nước ngoài gửi về giúp kinh tế gia đình hàng năm thì tình trạng Việt Nam còn thảm khốc hơn.
Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Đó là mấy câu thơ của ông Nguyễn Công Trứ mà hồi nhỏ mình học. Người Việt có đầu óc khoa bảng. Họ học để lấy bằng cấp cho oai. Ai dốt thì chạy chọt, mua bằng để có danh thiếp là tiến sĩ A, B,... Mình ít gặp người Việt học với tinh thần cầu tiến, để có kiến thức. Gặp nhiều người học chung khi xưa, cứ phan đại mình đậu tối ưu, tối ái vì tú tài IBM khiến thiên hạ đậu đông như quân Nguyên.
Có lần mình nói Kim Vân Kiều, Hồn Bướm Mơ Tiên,.., của Việt Nam, nếu so với những tác phẩm ngoại quốc thì không được hay lắm thì có người mĩa mai mình. Thời đại ông Nguyễn Du, có bao nhiêu người được đi học cho nên số người làm thơ rất ít ỏi do đó vào thời ông ta thì Kim Vân Kiều được xem là tuyệt tác của thời đại đó. Theo thống kê của một ông tây thì đầu thế kỷ 20, năm 1913 thì chỉ có 5% người Việt biết đọc nhưng trình độ của đa số chắc chỉ lòng vòng ở cấp tiểu học.
Mình thích đọc thơ Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh, Hàn Mặc Tử, Tô Thuỳ Yên hay Nguyên Sa ,..., khi chữ quốc ngữ bắt đầu thịnh hành, số người đi học cao hơn thì xuất hiện trên văn đàn Việt Nam rất nhiều nhà thơ, có nhiều bài thơ rất hay. Mình đọc Kim Vân Kiều bằng tiếng Việt, tiếng tây, tiếng mỹ nhưng không cảm được nhưng rất mê Illiad, Odyssey của Homer, giúp mình muốn đi giang hồ, tìm lại những nơi mà các nhân vật đã đi qua.
Người Việt thích bắt chước người xưa, cứ một hai Cổ Nhân đã nói, là coi như đinh đóng cột, không bao giờ suy nghĩ, nghiệm lại có đúng với thời nay. Ngày nay, một hai họ cứ kêu ông Hồ nói như thế này như thế nọ, kêu gào học tập đạo đức ông Hồ. Nếu xét về kiến thức ngày nay thì kiến thức của ông rất hạn hẹp. Qua lá thư do ông ta viết, xin người Pháp cho theo học trường Bảo hộ cho nên không thể nói là kiến thức của ông ta uyên thâm được. Nếu tốt nghiệp trường này thì trình độ tương đương bằng trung học, lớp đệ tam. Ông Trần Trọng Kim tốt nghiệp trường này nhưng ông ta tự học thêm nên kiến thức của ông ta khá hơn. Mình có đọc hầu hết những tác phẩm của ông ta còn những gì mà người ta gán cho hcm viết như Trần Dân Tiên, là đều do các tác giả khác được đảng chỉ thị viết, để đề cao ông ta cho mục đích tuyên truyền. Mình đọc tin tức của Hà Nội về vấn đề này.
Ông Hồ có tuyến bố: "Năm châu bốn bể là nhà, bốn phương vô sản đều là anh em" nhưng ông tàn sát những ai không chấp nhận lý thuyết cộng sản mà ông tôn sùng, ngay cả những người đã nhường chỗ ngủ, nuôi ông ta và bộ hạ khi ông ta làm cách mạng. Những người theo chủ thuyết cộng sản nhưng chống đối đường lối của Staline, đều bị ông giết hết nhưng ngày nay Hà Nội vẫn rêu rao học tập đạo đức của ông này, đưa đến hiệ tượng người ta đến đồn công an để tự tử. Ông ta có sang Tây nhưng không học được cách biện luận của người tây phương, chỉ dùng bạo lực để cướp chính quyền như Lê nin.
Mình thấy con mình học trung học thôi mà thấy kiến thức của chúng nhiều hơn mình khi xưa cùng tuổi. Có anh bạn học MIT, nói với trình độ của mình khi xưa thì chắc chắn ngày nay sẽ không được nhận vào MIT. Hồi nhỏ mình nghe người lớn nói ông này ông nọ giỏi lắm vì có bằng Primaire. Lớn lên mới hiểu bằng Primaire là bằng tiểu học. Kiến thức tiểu học có là bao nhưng vẫn được đề cao. Khi xưa, người ta ít được đi học nên kính trọng những người có học dù chút ít.
Chúng ta mang cái bệnh thần thánh hoá người xưa vì không tin tưởng vào chính cá nhân mình. Không tin tưởng vào chính mình thêm tinh thần nô lệ, chúng ta không tìm thấy những người tài giỏi ngay trong thời đại chúng ta. Lí do giản dị vì nếu mình không giỏi thì những người khác cũng ngu dốt như mình, không thể hơn mình được. Sông có cạn núi có mòn song chân lí ấy không bao giờ thay đổi.
Nhớ dạo mình nói với bạn học chung là có ước mơ đi du học khiến chúng đập bàn đạp ghế cười hố hố. Đến khi mình vào trường Cao Đẳng Quốc Gia Mỹ Thuật, học kiến trúc thì cũng có vài tên viết thư, bảo mày không giỏi toán sao lại theo học nghành kiến trúc. Sau này mình ra trường thì cũng mấy tên này nói móc phải gọi mình bằng “ông” kiến trúc sư vì họ bỏ học.
Chúng ta chưa biết nhận định rõ ràng về quá khứ, lịch sử cũng như tổ tiên. Cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng chúng ta nhưng không phải vì thế chúng ta phải vâng lời một cách tuyệt đối, khi nhận thức được song thân hay tổ tiên của chúng ta sai lầm, thì chúng ta phải lên tiếng như câu tục ngữ "con hơn cha nhà có phúc". Mình nhớ có lần đồng chí gái nói chi với bà ngoại. Bà ngoại chỉ mặt đồng chí gái và nói:" mi biết một, tau biết 10" rồi kêu câm đi.
Muốn xây dựng tương lai, chúng ta cần phải nhìn về phía trước như chạy xe, chúng ta cần phải nhìn về phía trước thay vì nhìn kính chiếu hậu như đa số vẫn nói "ôn cố tri tân", ôn lại chuyện xưa để hiểu chuyện ngày nay. Ngày xưa đâu có internet, đâu có những kỹ nghệ truyền thông như ngày nay. Tại sao ta phải đem chuyện xưa ra để so sánh với chuyện nay. Một sai lầm to lớn khi so sánh thời đại và không gian.
Với lí do đó mà Việt Nam luôn luôn nghèo, lạc hậu. Người ta vẫn đề cao Kinh dịch, bói toán Trần Hoàn,..., những câu hỏi được đặt ra từ mấy ngàn năm trước khi con người còn ấu trỉ, ăn lông ở lỗ. Ngày nay, những người học vấn đại học vẫn xem kính chiếu hậu, tôn thờ mấy cái lý thuyết quái gỡ này, đã là cản trở lớn nhất cho sự trì trệ của người Việt về mặt tư tưởng. Nghe nói một ông thầy dạy toán khi xưa ở Đàlạt, nghiên cứu tử vi, viết sách, khách hàng xem tử vi đông như quân Nguyên, đem tiền về Việt Nam làm ăn, thua lỗ 1 triệu đô la, ôm đầu máu chạy về Pháp. Hay ông thần in lịch Tam Tông Miếu, dạy người Việt ngày lành tháng tốt, làm video ca nhạc lỗ học máu, in lịch ở Việt Nam bị Việt Cộng gài thông tin cách mạng vào đành đem đi đổ. Chán Mớ Đời
Người Việt chúng ta không có tư tưởng, chỉ bắt chước của người Hoa rồi Tây phương. Khi học ông ba tầu thì một hai Khổng tử nói, Mạnh Tử cỏn, khi tây đô hộ thì bảo Jean Paul Sartre nói như thế này, bà Beauvoir địt như thế kia. Dạo mình mới sang mỹ thì có gửi mua sách của ông Kim Định. Ông này vì tinh thần ái quốc quá cao nên đã dùng những tư tưởng rất gượng ép. Đọc báo Việt Nam thấy Hà Nội bị phá sản về mặt tư tưởng, nên cứ phải nhai đi nhai lại học tập tư tưởng hcm nhưng mà ông này chả có tư tưởng gì cả, ngoài nghe Mao chủ tịch, Stalin vĩ đại giết người Việt cho đủ số để báo cáo.
Ông nhà thơ được xem là nhà tư tưởng lớn nhất của Việt Nam trong thời kỳ cách mạng làm được bài thơ "Đời đời nhớ ông":
Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Xít-ta-lin bên cạnh nhi đồng
Áo Ông trắng giữa mây hồng
Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười
Xít-ta-lin! Xít-ta-lin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Xít-ta-lin!
Hôm qua loa gọi ngoài đồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, Ông đã... làm sao, mất rồi!
Ông Xít-ta-lin ơi, Ông Xít-ta-lin ơi!
Hỡi ơi, Ông mất! đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười
Yêu con yêu nước yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!
Ngày xưa khô héo quạnh hiu
Có người mới có ít nhiều vui tươi
Ngày xưa đói rách tơi bời
Có người mới có được nồi cơm no
Ngày xưa cùm kẹp dày vò
Có người mới có tự do tháng ngày
Ngày mai dân có ruộng cày
Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai
Ơn này nhớ để hai vai
Một vai ơn Bác một vai ơn Người
Con còn bé dại con ơi
Mai sau con nhé trọn đời nhớ Ông!
Thương Ông mẹ nguyện trong lòng
Yêu làng, yêu nước, yêu chồng, yêu con
Ông dù đã khuất không còn
Chân Ông còn mãi dấu son trên đường
Trên đường quê sáng tinh sương
Hôm nay nghi ngút khói hương xóm làng
Ngàn tay trắng những băng tang
Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời!
(5-1953)
63 năm sau, thấy công an đánh người đi biểu tình ôn hoà khiến mình chợt nhớ đến bài thơ về Cải Cách Ruộng Đất:
Giết giết nữa bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng mau tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt
Người Việt ở hải ngoại có một số thành công nhưng có một số cũng te tua. Mình có biết vài người, sang đây, ăn trợ cấp, làm chui, rồi họp năm họp 7, sau vài chai bia, nói chuyện chính trị. Theo lời họ kể, mình có cảm tưởng nếu họ mà nắm quyền ngày xưa thay vì Nguyễn Văn Thiệu thì chắc ngày nay xứ mình đã phú cường. Họ sang đây mấy chục năm, cạy miệng không ra được một chữ ngoại quốc, ăn trợ cấp.
Loay hoay ở vùng Bolsa, không cần phải học tiếng Anh. Nhiều khi nghĩ nếu VC xụp đỗ thì giao quyền hành cho mấy người này thì chắc họ cũng tàn bạo như VC vì cái dốt. Thay vì đi làm họ khai man là bị khủng hoảng thần kinh chi đó để lãnh SSI rồi đi làm chui, lâu lâu để dành tiền được chạy về Việt Nam đóng vai Việt kiều, áo gấm về làng. Họ cũng sống trong ảo tưởng của người Việt Nam nói chung. Họ kêu bọn VC nay giàu có, xài tiền như nước. Họ nghĩ với sổ thông hành, hộ chiếu của Hoa Kỳ là tự động họ có đẳng cấp hơn người Việt tại Việt Nam.
Mình may mắn được đi du học, đi làm việc nhiều nơi trên thế giới, tiếp xúc với nhiều loại người, giúp mình nhận ra những cái xấu của DNA trong chính mình và tìm cách luyện tập những kỷ năng để thay đổi tính nết, tư duy hầu thay đổi cuộc đời mình như người Mỹ thường nói "you change your habits, your habits will change your destiny" . Nếu chúng ta nhận thức ra cái hay và cái xấu của mỗi cá nhân và tìm cách sửa đổi để tự hoàn thiện cá nhân thì khi mọi người Việt đều làm như vậy thì dân giàu nước mới mạnh, Việt Nam mới có một tương lai sáng lạng.
Nhs

Nghe mẹ kể chuyện xưa

Mỗi lần mình gặp lại mẹ thì hay ngồi nghe mẹ kể chuyện ngày xưa, phần nào chưa nghe thì mình mở iphone ra thâu. Câu chuyện mẹ mình kể thường được chia thành 2 phần; thời sau 30/04/75 và thời con gái. Khi kể thì mẹ mình ít khi ngừng như sợ quên câu chuyện. Từ hai năm nay, mình bắt đầu nhận thấy trí nhớ mẹ mình bắt đầu có những ngắc khoảng nên càng muốn nghe mẹ để sau này khi mẹ mình có trả nhớ về không thì không tiếc nuối.
Mấy cô em mình ở Việt Nam, nghe kể hoài nên khi mẹ mở đài phát thanh là mấy cô cười rồi biến mất, còn lại mình ngồi nghe. Mình xa mẹ gần hai thập kỷ mới gặp lại rồi địa lý xa xôi nên chỉ gặp nhau 2, 3 năm một lần. Từ ngày ông cụ mất thì gặp mỗi năm. Mấy cô em không hiểu nên cứ cành nanh, cho rằng mẹ mình thương mình nhất. Mẹ đều thương mọi người như nhau nhưng thích gặp mình để kể chuyện đời xưa, mình ngồi nghe mẹ, lâu lâu thì nhắc tên ai đó ở trong họ hay ở Đàlạt để mẹ moi trong ký ức, kể thêm chi tiết cuộc đời của mẹ.
Mình cảm thấy may mắn, bằng tuổi mình vẫn còn có cơ hội đi chơi với mẹ nhất là còn có thể nói chuyện với mẹ. Có nhiều người bạn tâm sự là khi xưa, bận lo con cái, công việc đến khi rảnh rỗi thì bố mẹ đau ốm hay đã qua đời.
Mình có anh bạn, bác sĩ than là mỗi lần về Việt Nam, không nói chuyện được với mẹ anh ta. Mẹ anh ta với thói quen hàng ngày, đi mót củi, nấu ăn,… trong khi anh ta thèm được nghe mẹ kể về cuộc sống, những mơ ước hay nghe anh ta kể về cuộc sống bên mỹ,… anh ta xa nhà từ năm lên 13 tuổi, được một gia đình mỹ nhận làm con nuôi, đem về Hoa Kỳ sau Mậu Thân, gặp lại gia đình sau 30 năm. Anh ta xây nhà cho mẹ ở quê, lo đầy đủ về vật chất nhưng không đả thông tư tưởng được với mẹ anh ta, cho thấy có mẹ là may mắn mà nói chuyện được với mẹ là một hạnh phúc vô biên.
Ông Trần Trung Quân có kể câu chuyện về một người bạn, nói thời ông ta xa nhà, có lẻ đi bộ đội rồi sau này trở về thì mẹ ông ta bị lẫn nên có làm bài thơ “trả nhớ về không” kể lại câu chuyện này, rồi có ai sáng tác ra nhạc nhưng quên tên. Nghe rất thấm vào những chiều nhớ tới mẹ.
ngày xưa chào mẹ, ta đi
mẹ ta thì khóc , ta đi thì cười
mười năm rồi lại thêm mười
ta về thì khóc, mẹ cười lạ không
ông ai thế ? Tôi chào ông
mẹ ta trí nhớ về mênh mông rồi
ông có gặp thằng con tôi
hao hao...
tôi nhớ...
nó ...người ...như ông.
mẹ ta trả nhớ về không
trả trăm năm lại bụi hồng...
rồi..
đi...
ĐỖ TRUNG QUÂN
Bài thơ này cũng nói lên tâm trạng mình. Khi mình chào bà con, bạn bè ở Đàlạt, đi du học thì mẹ mình hay quay mặt đi để dấu những dòng nước mắt, trong khi mình vui vẻ, cười sung sướng khi mộng đi du học được toại nguyện. 10 năm rồi lại thêm 10, gần 20 năm sau mình mới trở lại Đàlạt.
Mình may mắn không như ông bạn của nhà thơ Đổ Trung Quân là khi mình về lại Đàlạt thì mẹ mình vẫn còn minh mẫn. Mình ngồi nghe mẹ kể chuyện, những khó khăn trong cuộc sống dứoi thời cách mạng, không ở bên cạnh giúp mẹ, ngoài những thùng quà.
Hình ảnh của mẹ dạo ấy mất đi cái tính đài cát của cô gái Huế. Thay vì bận áo dài như xưa, nay bận áo bà ba, đi khập khiễng, hỏi ra mới biết là những ngày đi thăm nuôi ông cụ mình ở trại cải tạo, bị té gãy xương hông. Mùa đông lạnh, đau, chỉ biết khóc, chịu đựng, tảo tần nuôi con và thăm nuôi chồng.
Sau này, cô em ở Pháp bảo lãnh mẹ sang Pháp để giải phẩu vì Hoa Kỳ chưa có bang giao với Việt Nam. Nhìn mẹ đi đứng lại bình thường, mẹ kêu thuốc tiên khiến mình muốn khóc.
Chuyến đi thăm vùng Đông Bắc kỳ này, chỉ có mình đi với mẹ vì đồng chí gái bận đi làm. Mẹ mình có cái bệnh là hay bị chóng mặt khi đi xe nên mình tính đi xe lửa để mẹ mình khỏi chóng mặt và biết xe hoả ở xứ mỹ này ra sao nhưng nghĩ lại bất tiện vì xứ mỹ không có xe thì như què nên phải mướn xe nên lâu lâu hỏi mẹ có mệt không.
Mẹ có cái bệnh là khi được hỏi có mệt không thì câu trả lời luôn luôn là không dù là đang bị chóng mặt,… cứ thấy trạm “rest area” thì ngừng xe cho mẹ đi vệ sinh. Tình mẹ lạ lắm, cứ hy sinh cho con cho chồng, không than van, không bao giờ đòi hỏi gì cả ở con cái. Đó là hình ảnh người mẹ ưu tú, người vợ nhân dân. Bạn bè hẹn thì cứ 5 phút lại gọi, hỏi đi đến đâu rồi. Không dám lái xe nhanh thêm phải ngừng dọc đường cho mẹ bớt chóng mặt.
Lên xe là mẹ bắt đầu kể chuyện cho tới khi xe ngừng. Câu chuyện lúc nào cũng khởi đầu bằng “Con ơi! Thời cách mạng vào Khổ lắm con”. Hai tiếng “con ơi” tuy ngắn gọn nhưng hàm chứa đầy uẩn ức của một thời, có lẻ gian nan nhất cuộc đời mẹ. Sau đó là mẹ kể đến những thống khổ của mười mấy năm trường, chắt chiu để nuôi con, thăm nuôi chồng ở trại cải tạo. Những người CM30, tìm cách lập công, tống cổ gia đình mình đi kinh tế mới, bỏ thư nặc danh phản động,…vì sự sống con người trở nên tàn ác với đồng loại.
Có lẻ những người sống trong chế độ cộng sản thích được kể về gian nan của họ cho những người may mắn như mình, không biết mùi cộng sản. Kể cho những người cùng cảnh ngộ không phê bằng những người không đồng cảnh. Mình nhận thấy bạn bè, người thân thích kể thời bao cấp cho mình như được trải lòng những uẩn ức trong tâm can.
Rồi đến buôn bán, làm ăn được ơn trên phù hộ nên có tiền để nuôi 9 đứa con, cho hai đứa đi vượt biển. Ngày đi buôn đi bán, tối lại phải đi học tập khu phố,.. Bị dân CM30 gài những câu hỏi về phụ nữ Việt Nam, con người mới của xã hội chủ nghĩa,… những câu trả lời của mẹ mình khiến mình thán phục vì mẹ mình cả đời chưa bao giờ được đi học. Ôn ngoại đi kháng chiến, mệ ngoại nuôi một đàn con, chạy tản cư. Mẹ được xem là đầu vì người chị đầu đã vào Sàigòn giúp việc cho ông cậu, chăm sóc đàn em và giúp mệ ngoại buôn bán ở chợ Vỹ Dạ.
Mẹ mình không được đi học nhưng ôn ngoại mình lại nuôi hai người cháu ăn học, làm đến chức thanh tra giáo dục của VNCH xưa. Mệ ngoại mình cũng không biết chữ. Khi xưa mình hay đọc sách, kinh phật cho mệ ngoại nghe, đi xi nê thì đọc phụ đề việt ngữ cho mệ, bị khán giả xung quanh cứ kêu suỵt suỵt hoài. Có lẻ vì vậy, sau này mình đọc sách nhiều như thể đọc dùm cho mẹ và mệ ngoại, hai người đàn bà mù chữ thân thương của mình.
Chồng tôi đã sai đường lạc lối, được cách mạng cho đi học tập cải tạo, tôi hy vọng một ngày trở về, chồng tôi thành một người công dân của xã hội nghĩa. Riêng tôi, cũng dạy 10 con của tôi thành cháu ngoan của bác, trò ngoan của thầy. Riêng tôi, cố gắng thành một phụ nữ của xã hội chủ nghĩa. Chị em ta ở đây, cũng cực khổ, buôn tảo bán tần để kiếm ký gạo về nuôi con, cũng dành 5, 10 phút để khuyên chồng con đừng có đi sai đường lạc lối của cách mạng”. Mỗi lần mẹ kể lại những câu trả lời, bị dân 30 gài khiến mình ngạc nhiên vì mẹ chưa bao giờ cắp sách đến trường mà có thể trả lời theo văn thể cách mạng. Nhiều khi mình ước gì được thừa hưởng cái trí óc của mẹ, chắc cuộc đời mình đở vất vả hơn.
Hết chuyện đói khổ, cách mạng thành công thì mẹ kể chuyện ngày xưa, thời còn bé ở Huế, chạy tản cư ra sao rồi được người bà con, đem vào Đàlạt giúp việc nhà, làm ô sin. Đi xe lửa từ Huế ra Đà Nẳng rồi đi tàu thuỷ đến Phan Thiết rồi xe đò lên Đàlạt. Người bà con có tiệm buôn bán nên học tập cách buôn bán rồi ra riêng, đi buôn đi bán, lập gia đình....
Cuộc đời lạ! Khi xưa lúc còn bé, mẹ hay kể chuyện để ru mình và mấy người em ngủ rồi khi lớn lên, mình ít khi nghe mẹ lắm, nay lớn tuổi thì lại thèm được mẹ kể chuyện đời xưa như dạo còn bé. Chỉ khác là ngày xưa mình nghe để hướng tới tương lai còn nay thì để trở về quá khứ như con cá hồi bơi ngược dòng sông, con suối để trở về nơi chúng đã được sinh ra.
Mình chỉ mong được mẹ kể chuyện hoài, không bao giờ ngưng nghỉ.
Con đi đâu, con về đâu
Cuộc đời của mẹ là câu trả lời
Xong om

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen 
Nguyễn Hoàng Sơn 

7 ngày trong tuần

Mình thuộc dạng ngu lâu dốt sớm nên từ bé, đi học được thầy cô, bạn học xem là cực ngu vì mình hay hỏi bậy bạ, thầy cô hay tránh trả lời. Điển hình là tại sao người ta gọi những ngày trong tuần như thứ 2, thứ 3, thứ 4, thứ 5, thứ 6, thứ 7 rồi ngày Chúa Nhật hay Chủ nhật … nên hay bị bạn bè học chung kêu sao mày dốt thế, thậm chí ngày nay gặp lại bạn học xưa, chúng vẫn còn kêu mặt mày sao ngu lâu thế như đã ghi khắc trong tâm khảm chúng.
Mình tự hỏi tại sao người ta gọi thứ 2, 3, 4, 5, 6, 7 mà không bắt đầu bằng Ngày Thứ 1 rồi ngưng ở Ngày Thứ 7 thay vì chơi Chúa Nhật hay Chủ Nhật. Lớn lớn một chút thì bắt đầu phân biệt có người theo đạo Phật như gia đình mình, cũng có nhà theo đạo chúa nên họ gọi Ngày Chủ Nhật, (ngày tự chủ) thành Ngày của Chúa để nhắc họ đi Lễ, cầu nguyện Chúa. Sau này đi kiếm vợ thì gặp cô nào kêu Chúa Nhật là biết ngay em là người có đạo nên tìm cách trốn ngay, nếu không lại nghe giảng mình là đứa con hoang đàng của Chúa, bỏ chúa, phải trở về đạo.
May mình được đi Tây nên hỏi lòng vòng thì thầy giáo hay bạn bè, hình như họ có sự đồng thuận, mình hỏi cái gì thì họ trả lời nếu biết còn không thì kêu mình kiếm tự điển mà tra, không suy diễn như người Việt, kêu mình là đồ ngu, ăn chi mà ngu rứa. Chán Mớ Đời

Cờ bạc hay số mệnh

Nhớ dạo đi làm ở New York, có tên quen rủ đi xuống thành phố Atlantic, tiểu bang New Jersey. Thành phố này nổi tiếng về các sòng bài lớn ở vùng Đông Bắc tương tự như Las Vegas nhưng nhỏ hơn. Dạo đi viếng Venise, mấy tên tây đầm học chung rũ đi Lido, vào casino nhưng cả đám không được vào vì phải bận áo quần sang trọng như tuxedo, váy đầm dài nhất là họ biết sinh viên đói meo tơi.
Ngược lại ở Hoa Kỳ thì sòng bài rất bình dân, thiên hạ ăn bận xập xìn, miễn có tiền để đánh. Có thể có những chỗ đánh bài của dân giàu có, hội viên của sòng bài thì chắc phải ăn bận đàng hoàng. Mình không đánh bài nên không biết.
Đi lòng vòng với anh ta trong casino vì lần đầu tiên trong đời được mục thị sòng bài thì gặp khá đông người Việt, có vài đám quen tên này.
Có một cặp vợ chồng người Việt đang đứng xếp hàng để rút tiền ở máy ATM. Cô vợ chào anh ta rồi nói nhỏ là em phải đi theo, bỏ con ở nhà để cản anh chồng, đừng thua ngày chưa đủ tranh thủ thua đêm, đánh nhiều thua nhiều trong khi anh chồng thì mặt mày hung tợn, hình sự như Toshiro Mifune trong phim Rashomon, cầm thẻ tín dụng như cây đao, tường như muốn chém ai, chờ đợi đến phiên mình rút tiền.
Hình ảnh cô vợ buồn bả khiến mình nhớ đến bà cụ mình, một thời khổ vì chồng đánh bài thua, còng lưng trả nợ cho chồng, nuôi 11 đứa con. Mình hay nói với mấy người em, Mẹ mình cái gì cũng biết ngoại trừ hạnh phúc.
Nhìn lại bến bờ thì mình may mắn, được du học nên tiếp cận được nền văn hoá sở tại để có cái nhìn, so sánh với nền văn hoá Việt, nơi mình sinh sống được 18 năm. Trong đầu mình cứ thắc mắc vì nghe thầy cô giảng dạy, người Việt rất thông minh nhưng không hiểu tại sao người Việt mình nghèo. Hết bị nô lệ thằng tàu rồi đến thằng tây rồi đánh giặc dùm cho Nga Tàu, tư bản Mỹ để chúng thử khí giới, bán cho các quốc gia khác trên thế giới làm giàu. Học lịch sử thời Pháp quốc đến chiếm đóng, đô hộ dân An Nam, có mấy thằng Tây xuống thuyền cầm 3 khẩu súng Mousqueton, bắn vài phát thì cha con trên thành sợ quá, xin đầu hàng.
Về Việt Nam thấy mấy tên đường là lạ mang tên Lê Văn 8, Võ Thị 6, hỏi người địa phương thì họ cũng không biết luôn, nói chắc là những người có công với cách mạng. Sau này đọc tài liệu Hà Nội thì được biết Lê văn 8 chỉ là hư cấu, họ chế ra vị anh hùng này để động viên các dân quân lên tinh thần để đánh đuổi Pháp, dành độc lập. Dành độc lập xong thì cũng nên thú thiệt với dân chúng, đây họ bươn lên, vung vít cho to như Thánh Gióng ngày xưa.
Học sử Việt Nam khi xưa có kể ông thần này, cả ngày chả nói gì cả, chắc đói nhưng khi cho ăn một nồi cơm là lớn như diều, cởi ngựa ra trận đánh tan giặc Ân. Đọc lại lịch sử thì hoá ra chả có bao giờ giặc Ân bò sang Việt Nam. Họ ở tít phía bắc của sông Hoàng Hà, bên Tàu, cách bờ cỏi Việt Nam đến hơn 2,000 cây số, có đánh phá người Tàu. Mấy ông nho sĩ gốc Việt, không có gì để nổ nên mượn của người ta về, chế lại làm của mình, kiểu hậu thế chế Lê Văn 8, Trần thị 9. Xong om.
Nhìn lại thì câu chuyện Thánh Gióng đã nói lên tư tưởng của người Việt. Có ăn thì mới làm việc, như “có thực mới vực được đạo”. Quân giặc đến cướp bóc, bắt người dân làm tù binh, nô lệ, không ai thèm chống cả. Khi được ăn thì đứng lên ra trận. Có bà dân miền Nam quen, nay ở Mỹ kể: khi xưa, tối nó bò về giữa khuya, dựng cổ mình dậy kêu mình nấu cơm vì nó đói. Nay lên phường nhờ nó ký cái giấy để đi đường lên Sàigòn thăm cháu thì nó kêu để đó trên bàn. Đả đảo Thiệu Kỳ mua cái gì cũng có, hoan hô Bác Hồ, mua cái đinh cũng xếp hàng. Nếu Quốc Gia mà trở lại, nó có núp trong đáy quần tui, tui cũng đứng dậy giủ cho nó lọt ra để lính quốc gia bắt nó.”
Gặp bạn bè, người Việt thì ai cũng nói mình ngu lâu dốt sớm, thậm chí 40 năm sau gặp lại, mấy tên bạn khi xưa vẫn kêu cái mặt mày sao ngu lâu thế. Vẫn không hút thuốc, không uống rượu, không cờ bạc như chúng. Vẫn ngố ngố như xưa khiến đồng chí gái buồn, bỏ công sức gần 30 năm mà vẫn chưa cải tạo được thằng chồng thuộc giai cấp nguỵ quân nguỵ quyền, con cháu địa chủ. Chán Mớ Đời
Mình không hiểu lý do anh chồng đi Atlantic City nướng tiền mà anh ta khổ nhọc làm trong tuần. Có thể anh ta muốn kiếm thêm tiền để nuôi vợ con so với đồng lương ít ỏi của mình hay bị ảnh hưởng của văn hoá Việt, vẫn còn ở trong nhà tù của ký ức, cho rằng đàn ông biết cách sống, phải trải nghiệm Tứ Đổ Tường.
Hồi nhỏ nghe người lớn nói Tứ Đổ Tường nhưng không hiểu gì cả, chỉ nghe mang máng là đánh bài, gái gú chi đó. Thấy đàn ông chiều chiều ngồi nhậu kêu dzô dzô cái gì đó. Sau này ra hải ngoại, mò mò tìm tài liệu đọc về văn hoá Việt thì mới hiểu chút chút.
Người xưa gọi Tứ Đổ Tường với những định nghĩa: Tứ là 4, Đổ là vách, Tường là bức tường, nôm na là 4 vách tường bao kín không lối thoát.
Người tây phương có một điển tích về mê cung Labyrinth. Tại đảo Creta mà mình có viếng thăm cách đây 35 năm, có một con thú, đầu bò thân người, ăn thịt người tên là Minotaur (bò của Minos) . Ông vua Minos sai một ông nào và người con, xây một cái labyrinth để nhốt con thú trong đó, để nó khỏi chạy lọt ra ngoài, ăn thịt dân chúng, nhất là dụ dỗ vợ ông ta. Cuối cùng, có ông Theseus chui vào trong hang giết chết con thú, phải đeo dây thừng nơi người, để sau đó còn tìm lối ra. Có dịp mình kể chuyện thần thoại, khá hay. Có thể xem Tứ Đổ Tường là Mê Cung của người Việt.
Mấy người biết đọc chữ Hán khi xưa hay nghêu ngao: 酒色財氣四堵牆 (Tửu sắc tài khí tứ đổ tường). Để giải thích, so sánh bốn bức tường kín mít ấy với bốn điều tệ hại: Tửu, Sắc, Tài, Khí, mà hễ con người đam mê dấn thân vào đó thì như lọt vào bốn bức tường không lối thoát, mê cung, chịu chết trong đó luôn, hư hỏng cả cuộc đời, uổng phí một kiếp ba sinh.
1. Tửu: rượu. Uống rượu, nhậu nhẹt say sưa, cuồng tâm loạn trí, trí não hư hỏng, tinh thần suy nhược, hết biết phải trái, không còn phẩm hạnh con người. Người xưa hay nói: Tửu nhập tâm như hổ nhập lâm, (rượu nhập tâm như cọp vào rừng), hay Tửu nhập tâm như cẩu cuồng tọa thị (rượu nhập tâm như chó điên ngồi tại chợ).
Hồi nhỏ có đọc truyện cổ tích nói về một ông nào đó, làm gì sai quấy nên bị bắt, buộc phải chọn lựa 1 trong 3 điều nếu không thì ở tù: 1/ uống rượu, 2/ giết người chị, 3/ giết bà mẹ. Ông ta chọn giải pháp thứ nhất: uống rượu. Một hôm, say rượu về nhà, la hét bị bà chị cự nự, ông ta lấy dao chém chết tươi. Bà mẹ thấy thế than trời cũng bị ông ta hưa một dao theo ông bà.
2. Sắc: sắc đẹp của phụ nữ. Ham mê thú vui xác thịt nam nữ, chơi bời hư hỏng, phạm tội tà dâm, thần hồn mê muội, bỏ bê gia đình. Cho nên người xưa có câu: Sắc bất ba đào dị nịch nhân: Sắc đẹp phụ nữ không có sóng mà dễ nhận chìm người. Mình đoán là cho người giàu có, chớ nghèo như mình thì không có chân dài nào chịu theo.
3. Tài: cờ bạc. Ham mê cờ bạc, liều mạng, bán đồ bán đạc, ăn cắp để có tiền nhập sòng, tan nhà nát cửa. Cho nên người xưa nói: Cờ bạc là bác thằng bần. Mỗi lần Tết đến, ở ngoài Phước Lộc Thọ, khu Bôn Sa, có tổ chức đánh bài, mình thấy dân tình đánh bạc kinh hoàng.
4. Khí: hút thuốc phiện, chích các chất ma túy, nghiện ngập, thân thể bịnh hoạn, mất hết nhân phẩm, trộm cắp hay cướp giựt để có tiền mua thuốc, hút hít cho thỏa cơn ghiền. Trong xóm mình khi xưa có thằng Độ, trốn lính, ghiền sì ke, hay đi bắt gà của nhà mình và hàng xóm ban đêm để hút.
Hoá ra Tứ Đổ Tường là 4 cái truỵ lạc mà người xưa khuyên con cháu không nên rờ đến nhưng có lẻ ít học hay không được đi học nên người ta hiểu sai nên ngâm nga những câu “Nam vô tửu như kỳ vô phong”. Nhiều khi mình nghĩ câu nói này có thể là “nam vô tử như kỳ vô phong”, đàn ông không có con trai nối giòng như cờ không có gió rồi mấy ông đệ tử lưu linh nào đó, rung đùi sửa lại “tửu” thay vì “Tử” cho đúng gu của mình. Người Việt mình có tính cả tin, có lẻ ít học nên cứ nghe thiên hạ nói, thấy chí lí trong trường hợp của mình là cứ áp dụng, tương tự ngày nay, tuy có học vấn nhưng nghe nói cái gì hoặc đọc cái gì trên mạng, hợp với tư duy của mình, cho rằng đúng, không cần kiểm chứng.
Đọc tài liệu của Tây thì khi họ chiếm Việt Nam thì đầu thế kỷ 20, chỉ có 5% người Việt là biết đọc chữ Hán, còn hiểu rõ Tứ Thư Ngũ Kinh là chuyện khác. Ngay mình đi học cả 20 năm trời, đọc mấy cuốn này còn hiểu sai đủ thứ. Đọc mấy cuốn sách của ông Nguyễn Hiến Lê, đọc tới đọc lui vẫn chưa giác ngộ cách mạng được.
Về Việt Nam, thấy nhiều người giàu có thì mừng cho Việt Nam nhưng hỏi ra thì không phải nhờ tài năng, trí thông minh của họ mà nhờ có đảng tịch, quen biết, móc nối. Cán bộ thì ăn hối lộ, chả có tài gì cả, bằng cấp toàn là dỗm như người ta mới khui ra ông tướng nào lo về an ninh, không biết sử dụng máy điện toán,… cô giáo thì kêu học sinh lên vã mồm học trò rồi cô cho cái tát ân huệ đi nhà thương để được phong hiệu trường chuẩn. Chán Mớ Đời
Mình thấy có đến 124 cụm từ ghép với động từ “ăn” trong tiếng Việt, cho thấy người Việt chỉ lo vấn đề ăn chớ về mặt tinh thần thì không. Người Việt kêu: “Tôi ăn nên tôi hiện hữu” khác với Descartes cho rằng “tôi tư duy nên tôi hiện hữu”.
Dạo mới bắt đầu học lại tiếng Việt thì mình nghe mấy người nói về Chí Phèo, Thị Nở vì khi xưa học việt văn, chỉ có học về cuốn tiểu thuyết “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh năm lớp 11B nên tò mò tìm đọc sách của nhà văn Nam Cao. Qua những truyện của ông này thì mình bắt đầu cảm nhận về cái nghèo của người Việt và lý do tại sao không bao giờ dứt.
Một truyện ngắn của Nam Cao, nói về một anh vác củi, được tiền lương xong thì chơi một bữa cơm thịt chó, còn lại thì vào sòng bài. Thua. Thở dài, đi về, kêu tại cái số mình không giàu được.
Mình lại nghe người lớn hay kêu “nhịn thuốc mua trâu, nhịn trầu mua ruộng” mà người Việt mình có tiền là ăn cái đã rồi còn bao nhiêu chui vào sòng bài rồi thua hết. Đi về.
Họ xem cuộc đời là một canh bạc, không phải một cuộc xây dựng từ bé. Một bên là cuộc đời là sự may rủi, một bên là một quá trình học tập, xây dựng lâu dài. Họ không nghĩ đến ngày mai, đầu tư cho tương lai. Mình đoán là ảnh hưởng Nho giáo đến tâm khảm của họ. Những Kinh Dịch, bói toán tử vi, thêm cái nghiệp của Phật giáo đã huỹ hoại tinh thần, ý chí hay tư duy của họ.
Hồi nhỏ đi học, có bài hát “cái nhà là nhà của ta, ông cố ông cha làm ra, các em nên gìn giữ lấy,…” có lẻ ông bà sợ con cháu sau này phá hết gia tài theo kiểu “ai giàu 3 họ, ai khó 3 đời” nên dạy con cháu đừng bán nhà, cố gắng giữ lấy bằng mọi cách, ở một phạm trù to tát hơn là đất nước.
Hồi nhỏ bà cụ có xem tử vi cho mình, nhớ máng máng là số mình thất học, ngu lâu dốt sớm. Bà cụ mình thì cả đời không bao giờ được đến trường thì thầy bói nhìn vào là đủ biết tương lai hậu vận của mình, thêm mặt mày của mình thì đen như cột nhà cháy. Từ đó như bị nhập tâm, cứ đinh ninh mình là ngu lâu dốt sớm, chả thích học hành gì cả, phá làng phá xóm chơi như buổi tối sau khi ăn cơm, thay vì học mình lấy ná bắn đá lên mái nhà hàng xóm xa xa, đá rơi nghe lon ton trên tôn nhà họ, nghe như tiếng ai thổn thức trong đêm.
Đến năm 11B, viếng thăm thầy Nguyên, thầy kêu em có khả năng đi du học nên từ đó mới chịu khó học hành rồi như thầy tin tưởng, đặt hy vọng vào mình, 2 năm sau mình lên máy bay chuyển hộ khẩu sang Tây. Sau này, lấy vợ, mình thú thật với đồng chí gái là muốn mua nhà cho thuê thì đồng chí gái hỏi tiền mô, như thể hỏi thầm “mi ăn chi mà ngu rứa” còn mấy người bà con của vợ, đập bàn cười nức nở như nghe Chí Phèo đòi lấy Thị Nở.
Cách tiêu tiền của người Việt mà ông Nam Cao diễn tả khi xưa, không khác gì với ngày nay. Về Việt Nam, vẫn thấy người Việt chén chú chén anh rồi dzô, dzô. Mình có hẹn vài người bạn học cũ gặp nhau. Có nhiều người đến tham dự mà mình không biết vì không có học chung hay đã rời trường khi mình vào, không biết nói gì với họ, như chia sẻ những kỷ niệm thời học sinh với những người nào có học chung.
Mình thấy họ cứ ngồi uống lu tu rồi hút thuốc, hỏi ra thì họ đã hưu trí sớm ở tuổi 60. Không biết làm gì ngoài uống rượu và hút thuốc. Có nhiều tên còn dụ mình đi tăng 3 nhưng xin kiếu. Hoá ra người Việt chỉ loay hoay lo ăn, hút rồi cờ bạc, gái gú không có ai chia sẻ với mình là mới đọc cuốn sách này hay hoạch định những chương trình này nọ, ngoại trừ một anh bạn thân ngày xưa, không thích uống rượu, chí thú làm ăn, về hưu nhưng vẫn giúp vợ khuyếch trương công việc tại nhà. Chia sẻ với mình những tài liệu mà anh ta nghiên cứu.
Trong những câu chuyện của Nam Cao, diễn tả cách xài tiền của người Việt. Mới đầu có thể hiểu là tâm lý nóng khi thua,thiếu suy nghĩ nên chơi xả láng, nhưng đã tố cáo một sự thật là đa số người Việt không làm chủ được đời mình. Cái nghèo đeo đuổi nên không bao giờ nghĩ đến sẽ thoát khỏi nó. Sự giàu có chỉ là ý tưởng xa lạ, nên khi có tiền là xài bậy bạ cho hết như đánh bài, tố hết để 1 ăn 10 bù. Đằng sau thói vung tay quá trán ấy là một sự bi quan tuyệt đối trước đời sống.
Mình may mắn ở hải ngoại nên tiếp xúc được người ngoại quốc, như ông Rich Dad của mình, chưa học đến lớp 12, nhưng vẫn thành đại gia nhờ chịu khó chắc chiu, đầu tư để thay đổi đời ông ta và con cháu.
Khác với người Việt là cứ đem “Mệnh” trong văn hoá truyền thống, để giải thích về những hành động, quyết định của mình. Khi xưa, ảnh hưởng Nho Giáo nên người Việt đều cho rằng “ sống chết có số, phú quý do trời” hay “đại phú nhờ vào mệnh, tiểu phú nhờ vào cần”, ai cũng có vận mệnh của mình như giày đều có số. Đi xa hơn thì họ đổ lỗi cho tiền nhân, tiêu diệt chũng tộc Chiêm Thành hay Cam Bốt nên kiếp này phải trả nợ.
Họ kêu thầy Mạnh Tử nói: “Mạc chi vi nhi vi giả, thiên dã; mạc chi trí nhi chí giả, mệnh dã“ (Tạm dịch: Việc mình không có ý làm, mà thành, đó là do ý trời vậy. Việc gì mình không mong cầu mà tự nhiên tới, đó là do mệnh trời vậy.) Kiểu nói mình không muốn thua bài nhưng vì ý trời bắt mình thua bài. Bù trớt. Nếu mình không đánh bài thì đâu có thua bài, đó là ý mình. trong khi người ngoại quốc thì kêu “Thất bại là mẹ thành công”, không đổ lỗi số mệnh gì cả. Chán Mớ Đời
Ở hải ngoại, khi về hưu, người ta hoạch định thực hiện những gì khi còn đi làm kiếm cơm họ không có thời gian. Như đi học lại, đi du lịch, giúp nhà thờ, hội từ thiện. Theo dõi mấy lớp học trên mạng, mình thấy có nhiều ông bà, tóc bạc ngồi lấy notes. Có thể ở Việt Nam, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý đời họ từ 1975 đến nay nên khi ngưng lao động ở cơ quan, họ bổng như một chiếc xe không người lái, mất định hướng, không có chỉ nam nên chỉ biết nhậu và hút thuốc. Mỗi tháng đến sinh hoạt với chi bộ đảng.
Mình và vài người bạn thì mỗi tuần, tuỳ thời khoá biểu vào các trang của đại học như Harvard, MIT, Yale để theo học các lớp miễn phí về những đề tài mà mình không biết, hay khi xưa thích nhưng không có thời gian học tập. Mình rất mê theo dõi lớp “Justice” (Công Lý) của giáo sư đại học Harvard, Michael Sandel. Dạy về đạo đức, triết học từ Utilitarianism của Jeremy Bentham, đến John Stuart Mill, hay Robert Nzick, lòng vòng qua Aristotle, Immanuel Kant… cho thấy bể học mênh mông. Dạo này mình đâm mê đọc sách về y khoa, mà mình ngỡ là không có khả năng hấp thụ thông tin này như thầy bói đã từng tuyên bố với bà cụ. Tính sang năm ghi tên học về lớp dinh dưỡng trên mạng.
Mình lên diễn đàn Văn Học thì thấy đa số làm thơ, ít có người nào viết chia sẻ những kỹ niệm hay những suy tư về cuộc sống. Bạn bè trên mạng thì đưa các tin tức để câu “Like”. Có thể sống trong xã hội chủ nghĩa, con người không muốn chia sẻ tâm tư của mình vì dễ bị báo cáo như nước Đông Đức khi xưa có nhiều Stasi. Mình không sống ở Việt Nam nên khó mà có một câu hỏi hay trả lời chính xác.
Có một cô bạn khi xưa ở Đàlạt, i-meo hỏi mình ngày xưa học ban toán sao nay lại kể chuyện đời xưa. Cho thấy tư duy của người Việt không được nới rộng như tại hải ngoại, cứ quen với ý niệm đời người đã được cơ cấu bởi Đảng, Chúa hay ông Phật.
Mình quen tác giả “Le Dragon d’ Annam”, ông này mỗi tuần gặp cựu hoàng Bảo Đại để hỏi chuyện xưa để viết cuốn sách này. Ông ta chưa học xong trung học, đi lính sang Việt Nam. Sau này theo nhóm OAS, ám sát hụt tổng thống De Gaulle, ở tù. Trình độ hiểu biết của ông ta rất cao hơn những người Tây có bằng cấp đại học vì ông ta tự học, đọc sách nhiều. Mỗi lần gặp ông ta là mình mê, ngồi nghe cả 4, 5 tiếng đồng hồ, được ông ta giải thích về lịch sử Pháp, âu châu, nghệ thuật…rồi mình bắt chước, kiếm sách để đọc thêm về những đề tài mình thích. Dạo còn sinh viên, không có tiền ăn chơi, mình vào thư viện trốn cái lạnh, đọc trung bình 1 cuốn sách mỗi tuần.
Ở Hy Lạp có thi sĩ Homer, có viết hai tác phẩm nổi tiếng từ mấy trăm năm trước Chúa giáng sinh như Illiad và Ulyssus, dễ đọc dễ nhớ, được truyền tụng qua văn chương truyền khẩu như truyện Kiều dễ nhớ của người Việt mình. Cũng nhờ những thi ca này mà các tác giả hậu thế dùng làm căn bản cho những đối thoại, biện chứng mà ông Socrates nêu ra sau này, đã giúp người Tây phương tạo dựng cách viết và các hệ thống tư tưởng, ý thức hệ giúp họ tiến xa về mặt tri thức, kinh tế và nhân bản.
Trong mấy truyện của Nam Cao mà mình được đọc, có một nhân vật dám kêu bán cái nhà đang ở để lấy vài trăm bạc, ném vào canh bạc để rồi kéo con cái ra đường. Cho thấy nhân cách tha hoá, con người cay cú, ngu dại, vô trách nhiệm với gia đình vợ con, xa hơn là đối với làng xóm, quốc gia.
Không chỉ có đàn ông đánh bài, mà trong truyện của Vũ Trọng Phụng, hay Nam Cao cũng có nhắc đến các bà vợ, đùa vui với những tên đánh bài khác. Ông Nguyễn Ngọc Ngạn có viết một câu truyện ở Gia Nã Đại, quên tên, kể về một thiểu số người Việt vượt biển sang, chưa bỏ được tập quán tư duy của người Việt. Có tên nào chuyên đánh bài rồi một cô đánh bài thua, lên giường trả nợ. Người ta đánh bạc như ma xui, quỷ dẫn đường.
Tệ nạn này vẫn còn tiếp tục đến ngày nay, người ta cập nhật hoá đánh bài trên mạng. Cá độ các trận banh. Xem đá banh trên truyền hình, thấy toàn quảng cáo xung quanh sân cỏ các tổ chức cá độ.Phụ nữ vẫn tự xem thân gái 12 bến nước, đi chài các đại gia. Cũng có thể họ sống trong một môi trường không có lối thoát, thay vì trong mê cung Tứ Đổ Tường, họ lại sống trong một Mê Cung to lớn, vĩ đại hơn nên cắn rằng làm dâu xứ Hàn, xứ Đài hay qua Cam Bốt, Tân Gia Ba, Mã Lai làm điếm quốc tế, kiếm tiền trả hiếu cha mẹ.
Khi đứa bé mới sinh ra tại Việt Nam, người ta đã dạy chúng là công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Xem như báo chúng là đã mắc cái nợ to tát ấy. Mình và đồng chí gái hò giã gạo, đưa đến hệ quả có con, do đó mình phải có bổn phận lo cho mấy đứa con. Khác với tư tưởng xưa là sinh con để nhờ vả sau này về già hay để làm ruộng vì thêm người thêm của.
Tương tự một đứa bé ở tây phương, mới lọt lòng, họ đã kêu chúng có tội lỗi rất nhiều, phải rữa tội vô hình trung cấy vào đầu con nít cái mầm là người có tội, nên cả đời phải bám vào cố đạo để được xưng tội, giải thoát cái mặc cảm như thể Cộng Sản phê trong lý lịch của mấy người em mình là con cháu nguỵ quân nguỵ quyền, xem như toi đời về tương lai. Muốn sống thì phải học tập, khắc phục làm cháu ngoan của bác, trò ngoan của thầy. Có chị bạn hay gọi mình sau khi đọc mình kể chuyện, kêu mình vô thần. Không! Mình vẫn tin vào tôn giáo, đạo thờ bà, mụ vợ mà vui vẻ thì đó là Thiên Đường, còn ngược lại là Địa Ngục.
Văn Học có 2 thầy dạy toán hình học. Mình học với thầy Nguyên, không tin tử vi, kêu mình chịu khó học để đậu cao đi du học, đổi đời. Còn một ông thầy dạy toán khác, viết sách tử vi, nghe nói nổi tiếng lắm. Mình có đọc sách của thầy, dùng phương trình toán học để giải các sao,… nghe nói thầy đem tiền về Việt Nam làm ăn rồi bỏ của chạy lấy người. May mà mình không học với thầy viết sách tử vi nếu không chắc ngày nay, hàng ngày ngồi hút thuốc, cà phê, tứ đổ tường bú xua la mua ở Việt Nam.
Cali đang mưa, chả biết làm gì viết loạn cào cào.
Chán Mớ Đời

Nguyễn Hoàng Sơn 

Quê hương của ký ức

Tuần vừa rồi đi tập võ, thấy một anh tập chung, cạo râu tỉa ria, cắt tóc nên hỏi đi ăn cưới hay sao mà tổng vệ sinh hình thể thế. Anh trả lời là sắp đến ngày lễ tưởng niệm 30/ 4, phải bận quân phục để chào quốc kỳ. Câu trả lời của anh ta làm mình kính phục vì sau hơn 40 năm, những người lính VNCH cũ vẫn còn tưởng nhớ đến những ngày tháng hành quân bên đồng đội, chiến đấu cho Lý tưởng Tự Do trong khi đại đa số dường như đã quên Tháng Tư Đen.
Có ai từng nói: " Mình là những gì mình nhớ." Những gì mình nhớ tạo nên ý nghĩa cho những gì mình làm hoặc chứng kiến trong quá khứ hay hiện tại. Nếu những quân nhân cán chính của VNCH không nhớ đến ngày 30/4 thì cuộc chiến đấu khi xưa của VNCH do họ đại diện không có ý nghĩa, họ sẽ không có quá khứ, ký ức của họ chỉ là hư không.
Hà Nội có thể xoá những dấu tích của chế độ VNCH như nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, các tượng lính VNCH khi xưa, cấm nhạc vàng, sách bá kền Nam ...nhưng họ không thể xoá được ký ức của mỗi người đã từng sống tại miền nam trước 1975.
Bà nhạc của mình năm nay đã trên 94 tuổi, không còn nhớ đến ai nữa. Vài năm trước, khi bắt đầu lẫn, bà ta hay nói với con cháu đưa bà về thăm Ao Hồ, quê quán của bà ở Huế nhưng nay thì ít nói, cả ngày cứ ngồi nhìn về một chốn xa xăm, trả nhớ về không như không còn quá khứ. Đồng chí gái mỗi chủ nhật đến thăm, đưa mẹ đi ăn phở. Ngồi nhìn vợ mình đút cho mẹ ăn như ngắm một bức tranh hiện thực rất đẹp. Trời sinh rất hay, từ từ con người bị lão hoá, lú lẫn khiến con cháu cũng từ từ quen sự mất mát trong tâm khảm để rồi một ngày nào bà sẽ vĩnh viễn ra đi, giúp con cháu bớt đau khổ vì mồ côi.
Khi bà cụ nhớ đến Ao Hồ, hình ảnh của căn nhà khi xưa ở Huế, nơi cụ đã sinh trưởng là nguyên liệu đầu tiên giúp tạo ra chính hình ảnh của cụ, bản thể của cụ; một phụ nữ miền Trung nên khi cụ lẫn, không còn nhớ đến hình ảnh xưa thì không còn nhận ra chính mình là ai, mất đi cái căn cước của chính cụ. Nhiều khi nghe cụ hỏi "tui tên chi?" làm mình cũng không biết cụ nói tên cụ là Chi hay hỏi con cháu tên cụ là gì vì tên cúng cơm của cụ là Tôn Nữ Cẩm Chi,...
Sau biến cố 30/4/75, nhiều triệu người VN bỏ xứ ra đi tìm chỗ dung thân trên khắp thế giới. Mình có gặp một anh tỵ nạn đạp xe đạp, bán chả giò ở Dakar, thủ đô của nước Sénégal, Phi Châu. Các lưu dân bỏ nước ra đi, định cư tại một quốc gia khác nhưng vẫn bị các ký ức, kỷ niệm của thời lớn lên tại VN níu kéo, so sánh. Có người hoà đồng nhanh chóng vào nền Văn hoá địa phương nhưng có người vẫn bị những ký ức của VN lôi kéo họ về dĩ vãng khiến họ lơ lững ở hai vùng ranh giới của văn hoá của nước sở tại và văn hoá của nơi họ vừa từ bỏ.
Những thập niên đầu ở hải ngoại, người gốc Việt hay tụ tập với nhau dưới danh nghĩa quân nhân cán chính, các đảng phái dưới thời VNCH nhưng dần dần các hội thân hữu ra đời, mang tên hội Thừa Thiên, Huế, hội Quảng Nam Đà Nẳng, hội thân hữu Đà Lạt, hội Sóc Trăng,.....hình như con người càng lớn tuổi thì họ trở về ký ức của nơi họ sinh trưởng hay đúng hơn tìm về Quê Hương của Ký Ức, của những kỷ niệm thời xưa.
Mình hay ăn sáng mỗi thứ 6 với vài tên bạn mỹ già, trên mình 20 tuổi thì có tên kể hắn đi dự hội ngộ 40 năm của trường trung học của hắn thì không nhận ra ai. Có một tên ngồi kể chuyện ngày xưa hắn và tên bạn hay phá phách nhưng hắn cố moi óc nhưng vẫn không nhớ đến tên kể chuyện. Hắn chỉ nhớ thời đó, mỗi sáng phải dậy sớm đi bỏ báo, kiếm tiền để bảo trì chiếc xe hơi của hắn vì trong trường dạo đó ít học sinh có xe hơi. Hắn nhớ đến những cô gái mà hắn có dịp chở đi chơi thôi. Tương tự khi nói về ký ức Đà Lạt mình nhớ nhiều nhất về hai năm học Văn Học còn Yersin thì nhớ về thời học tiểu học .
Mình nhớ dạo mới sang Văn học thì cũng tụm 3 tụm 4 lại với mấy tên khi xưa học ở Yersin, tuy không cùng lớp nhưng biết mặt nhau như Võ Hoàng Đa, Nguyễn Đình Tài,.. Mấy cô thì có Mai Anh, Ngọc Chân, Anh Đào, Thu Thuỷ, Nguyệt Thu,... Có lẻ vì nhóm này có chung một ký ức tập thể của Yersin? Ký ức cộng đồng của trường Tây? Dần dần cũng bắt đầu quen một số học sinh chương trình Việt nhưng dù sao vẫn cảm thấy thoải mái hơn với đám từ Yersin sang. Sau này gặp lại Võ hoàng Đa ở Cali, ngồi nói chuyện thì có nói khi học Yersin thì mình cảm thấy không thoải mái lắm thì anh chàng giải thích đa số là con nhà khá giả của Đàlạt mới học trường Tây nên tụi mình không thoải mái với đám này nên khi sang Văn học thì Châu về hiệp phố.
Mình thì nghĩ khác. Mình nhớ khi còn học vườn trẻ Ấu Việt, nghe kể về nhà mình nói tiếng Tây như con của mình ngày nay xổ tiếng Mỹ. Sau này sang Yersin thì nói tiếng Việt hơi ngọng tương tự con mình khi nói chuyện với bà Nội, bà ngoại. Dần dần bắt đầu suy nghĩ, nghe kể những chuyện kháng chiến chống Tây, thực dân đô hộ dân mình nên có thể bị khủng hoảng bản thể, không hiểu tại sao phải học trường Tây. Dạo đó tây về nước nên có rất nhiều thầy cô người Việt nhưng lại nói tiếng Tây trong lớp nên mình đâm hoang mang. Khi sang học chương trình Việt thì mình cảm thấy thoải mái hơn vì thầy giáo nói tiếng Việt khiến đầu óc mình bớt lộn xộn.
Năm vừa rồi khi tìm lại một số bạn học xưa ở Đà Lạt thì mình có nhu cầu viết về những ký ức của thời gian sinh sống tại Đà Lạt. Cả đời mình chẳng bao giờ viết nên Thiên Hạ đọc kêu sai lỗi chính tả, dấu hỏi, dấu ngã bỏ sai loạn xà ngầu nhưng mình cứ vô tư vì chỉ muốn viết cho chính mình, cho con cháu sau này đọc tương tự như mình thích nghe Ông cụ kể chuyện thời xưa ở quê.
Mình viết như sợ nguồn suối của ký ức sẽ ngưng, như sợ những kỷ niệm kia sẽ chìm biến trong dĩ vãng. Càng viết thì mình càng thấy rõ hình ảnh của Đà Lạt khi xưa, những tên học chung, những cô gái mà mình thích nhìn trộm, những bản nhạc của bang nhạc Phượng Hoàng,.. mà mấy chục năm qua không để ý, nay nghe lại thì phảng phất đâu đây những tình cảm dào dạt khi xưa, như giúp mình sống lại thời trước 75. Bao nhiêu ký ức được cuộn về như dòng suối được cha con Jean De Florette, khai thông sau khi đã dập tắc để mua đất rẻ từ cha của cô gái tên Manon trong truyện "Manon des Sources" của Marcel Pagnol.
Có cái gì lôi cuốn mình tìm hiểu nơi nào xuất phát ra gia đình, dòng họ, nên đọc hối hả, đọc gia phả rồi nhờ người ta dịch ra việt ngữ, nhờ tiệm in cho ông cụ đem về làng tặng trong họ. Về quê Nội, mình có thăm viếng cái đình làng, chùa Thầy, nhà thờ họ,.. tuy nhỏ bé nhưng mình vẫn thấy có cái gì thiêng liêng buộc mình vào không gian ấy. Mình tìm hiểu lí do ông tổ từ Nghệ An lại trôi dạt về vùng sông Đà núi Tản, lập nghiệp bên dòng sông Đuống,...
Mình hiểu ông thần Nhị Anh khi dùng phần mềm, sưu tầm tài liệu để vẽ lại cái chợ Đà Lạt khi xưa trong không gian ba chiều như Marcel Proust đi tìm lại những dấu chân xưa vì ký ức của anh chàng cũng lấp lánh những tia sáng của ký ức của chính mình. Có một Chị ở bên Đức, tìm kiếm những dư âm, hình ảnh xưa để làm những video như tạo dựng lại một vùng ký ức của thời mang guốc đến trường.
Khi nói đến một kỷ niệm dù riêng tư nhưng vẫn liên đới đến một người bạn hay một nhóm nào khi xưa, quyện theo thời gian và không gian cho nên ký ức của mình vẫn dính dấp đến ký ức của tập thể. Khi ngồi kể chuyện thời xưa, như ban nhạc của Văn Học trình diễn ở trường Trí Đức thì Hùng Con Cua có những kỷ niệm của hắn, Nguyễn đình Tài có kỷ niệm riêng tư của hắn ngay chính mình lúc đó là trưởng lớp cũng có vài kỷ niệm như Trần Thiện Tân chơi guita Bass nhưng không quen đàn 4 giây của ban tổ chức nên đánh loạn cào cào khiến Tài, Hùng hoảng cả lên nên khi ngồi chung kể lại kỷ niệm xưa thì những kỷ niệm xưa ấy được hiện tại hoá, được kể lại sau 40 năm, khi mỗi người trong chúng ta đã trưỡng thành và quan sát hay đón nhận những ký ức với một lối nhìn, cảm nhận khác.
Mình ít thấy mấy người bạn học xưa còn sinh sống tại VN, lên tiếng trên diễn đàn Văn Học. Có lẻ họ vẫn sinh sống tại Đà Lạt nên ký ức của họ rất khác với mình. Họ nhìn thấy sự thay đổi của Đà Lạt trong đời sống hàng ngày trong suốt 40 năm qua cho nên ít lưu luyến đến quá khứ trước 75. Việt Nam, Đà Lạt là cả cuộc đời của họ trong khi đối với người sinh sống tại hải ngoại, Đà Lạt là một đoạn phim ngắn của cuộc đời họ thuộc về quá khứ. Lâu lâu có người tải hình con cháu lên diễn đàn còn ngoài ra thì họ i meo riêng cho mình. Có thể đó là đặc tính của người Việt, không muốn tiết lộ tình cảm hay ý tưởng cá nhân cho mọi người? Có thể vì sống trong môi trường chính trị không cho phép họ tự bạch? Nói chung thì trên diễn đàn, đa số là dân hải ngoại chia sẻ cho nhau bài thơ, video, giúp các bà trị bệnh không nghe lời của chồng,... Cãi nhăn, cãi cuội, chọc phá nhau như thời còn ngồi ghế nhà trường như Kim Dung nói cải lão hoàn đồng, càng già càng trở nên con nít.
Cho thấy sống tại hai nơi, hải ngoại và trong nước, mọi người đều có những ký ức chung của thời niên thiếu nhưng khó định nghĩa được sự trân trọng về một thời chung bước đi chung một quảng đường đời. Ở Việt Nam, nhiều người bạn học cũ nay đã là đảng viên nên ngại tham gia diễn đàn, sợ diễn biến hoà bình, sợ bị đảng khai trừ nên khi gặp lại ở Việt Nam, ai nấy cũng dè dặt từng câu nói, như có một cái màn vô hình ngăn chia giữa mình và các người bạn đảng viên. Hỏi thăm nhau về gia đình nhưng không dám hỏi về đời sống tinh thần,…
Sau biến cố 30/4, mấy triệu người Việt chạy tản mác ra hải ngoại, đa số chưa thể chối bỏ được nền văn hoá, ký ức của VN, Đà Lạt nên tình cảm của chúng ta vẫn lãng vãng ở làn ranh văn hoá địa phương và VN. Có lẻ vì chúng ta còn nhiều ký ức, kỷ niệm vì đó là quê Hương của chúng ta. Về VN, đi thăm viếng Đà Lạt nhưng chúng ta thất vọng, không tìm lại được những hình ảnh, kỷ niệm của thời thơ ấu, những chén chè Mây Hồng, những ly sửa đậu nành nóng vừa uống vừa thổi về đêm ở đường Minh mạng, những lần chen lấn mua vé đi xem xi nê ,...chúng ta như Từ Thức trở lại quê, không còn nhận ra những dấu tích xưa nên tiếc nuối thời kỳ mới lớn, thời kỳ tập tành yêu đương, mỗi người ấp ủ một hay nhiều hình bóng hình Hoàng thị Ngọ để rồi nhớ đến vô không.
Trên diễn đàn Văn Học, có lẻ mình cảm nhận được tình cảm hay ký ức của các diễn đàn viên khác. Tuy chưa bao giờ gặp mặt nhưng vẫn cảm thấy gần gũi vì diễn đàn tạo nên một không gian để trao đổi những lấp lánh của ký ức của bạn học xưa, tạo nên một ký ức tập thể để giúp chúng ta, những người mất quê tìm lại chút gì của quê hương bỏ lại hay nói cách khác là tìm lại quê hương của ký ức.
Anh bạn tập chung cũng như những người còn nhớ đến ngày 30/4, hàng năm gặp nhau để chào cờ, làm lễ truy điệu các người đã nằm xuống trong cuộc chiến như tìm lại ký ức, nhớ về cội nguồn vì chúng ta là những gì chúng ta nhớ, tìm lại ký ức của cộng đồng, của tập thể người Việt hải ngoại như tìm về Quê Hương của Ký Ức.
Sơn đen
30/4/14

Ơi vợ

Sau hai năm đăng kí quản lý đời đồng chí gái, đả thông tư tưởng bằng mồm với vợ, đánh nhau bằng chim bướm thì hắn đã quán triệt chủ nghĩa Tập Trung Dân Chủ của đồng chí gái phát họa cho cuộc sống tự do độc lập của hai vợ chồng; đồng chí gái lãnh đạo, hắn được tự do hoan hô người vợ vô vàn kính yêu muôn năm. Trong nhà hết xào xáo, cùng nhau tiến bước trên con đường xây dựng Dân Chủ Tập Trung, vợ nói chồng hoan hô.
Nhớ dạo sang Vancouver thăm ông anh họ của đồng chí gái, vợ rên về thằng chồng nhân dân có tư tưởng phản động, hay có ý kiến chống đối cách mạng, không tuân thủ sự lãnh đạo sáng suốt của đồng chí gái thì ông anh họ kêu: "nhưng hắn được cái lỗ miệng". Ở nhà cãi nhau như mỗ bò nhưng ra đường, hắn vẫn là mẫu mực người chồng nhân dân, người cha ưu tú, đầy tớ trung kiên, 25 năm tuổi đảng sợ vợ, tiền hô hậu ủng đồng chí gái.
Hắn như nhân vật Pavel trong cuốn sách "thép luyện tôi thế đấy" của nhà văn Nicolai Óstrovsky, từ bỏ tất cả, bạn bè nhân tình nhân ngãi để phấn đấu trở thành người chồng nhân dân gương mẫu, đi theo lý tưởng sợ vợ. Sống lâu với đồng chí gái, hắn được dạy dỗ nên người, bị tiêm nhiễm tư tưởng tiểu tư sản, mua hoa tặng vợ, nịnh vợ, bỏ các thói quen phong kiến tiềm tàng trong máu ngu lâu của hắn.

Lần đầu đi xi nê với gái

Hắn nhớ mãi lần đầu tiên đi xi nê với con gái, đúng hơn với một chị hàng xóm, lớn hơn hắn 2,3 tuổi chi đó. Chị H rất xinh, học trường Việt Anh, hay đi theo bà mẹ đến nhà hắn chơi vào buổi tối, sau này mới biết là bà mẹ đến nhà mượn tiền bà cụ hắn. Một hôm, chị ghé nhà rũ hắn đi xi nê. Chị H muốn đi xem phim Summer '42, có tài tử Jennifer O'Neil đẹp như thiên thần, tại rạp Ngọc Lan nhưng ngại đi một mình nên rũ hắn đi cùng.
Hắn không nhớ rõ chi tiết về chuyện phim, chỉ nhớ mùi hương nơi tóc của chị H quyện bên hắn bổng chị H bảo hắn đổi chỗ. Hoá ra có hai tên nào ngồi phía sau gác chân qua hàng ghế khiến chị H bực mình. Tên ngồi phía sau lại lấy chiếc giày khèo khèo sau lưng ghế của chị H khiến chị nổi quạu.
Hắn đứng lên kêu tên ngồi phía sau ngưng khèo khèo. Như phép lạ hai tên phía sau bổng đứng dậy đi chỗ khác. Hắn ngồi xuống bổng nhiên tim hắn đập đập rầm rầm, khó thở. Chị H ghé tai hắn thì thầm cảm ơn hắn, kêu hắn gan ghê. Hắn thú thật với chị H là tim hắn còn đang đập rầm rầm như tiếng trống Tây Sơn khi thấy hai tên lính của đại đội trinh sát 302, ngồi phía sau đứng dậy. Đến hết phim hắn không thấy Jennifer chi cả, trong lòng chỉ lo và sợ, chỉ nhớ tên nhóc con theo Jennifer O’Neil, bỏ chạy như bị ma rượt. Hắn cũng muốn bỏ chạy ra khỏi rạp sớm, trước khi hạ màn để khỏi bị hai trên lính 302, chận lại đập cho một trận để bỏ cái tật xía vào chuyện thiên hạ.

Chị H

Kể chuyện Lá Diêu Bông thì nhận được i-meo của vài tên hơi hơi ganh tị, kêu ước gì khi xưa có bà nào vỗ đầu sai đi tìm lá Diêu Bông, khiến mình nhớ lại hơi hơi chuyện đời xưa, kể thêm cho chúng tức, chúng thèm. He he he.
Sau Mậu Thân, có lẻ vì an ninh, chính phủ VNCH thuyên chuyển Khu Công Chánh Cao Nguyên Trung Phần từ Ban Mê Thuột về Đà Lạt. Trước đó Đà Lạt chỉ có ty Công Chánh, ở đường Pasteur, cạnh sở Pasteur, nơi ông cụ làm việc từ khi giải ngủ. Mình không rành lắm nhưng DGT, có ông bố làm lớn ở Khu Công Chánh có thể bổ túc thêm. Khi Khu Công Chánh từ Ban Mê Thuột chuyển về Đà Lạt thì xóm mình rộ lên vì có 5, 6 gia đình dọn về, con nít đông hơn, trung bình mỗi hộ có từ 6 đến 10 người con. Trong những gia đình đó, 2 nhà có con gái rất đông và xinh còn mấy gia đình kia thì con gái không được xinh lắm.
Một gia đình có đến 7 cô con gái xinh nức nở, một trong những cô ấy mình có kể rồi là cô "Ừ trời Mưa". Cô này có cô chị hơn mình 2 tuổi, học Văn Học xinh đẹp nhất xóm dạo đó. Kể sau.