Quê vợ là Phố Cổ

Hôm qua, đồng chí gái kêu chở lên Rosemead dự tiệc hội ngộ người đồng hương Hội An. Có nhiều người từ Việt Nam và các tiểu bang khác bay qua. Dân sinh sống khi xưa tại Hội an có rất nhiều người gốc Minh Hương, nay họ ở vùng này nhiều vì biết tiếng tàu. Có lẻ vì vậy họ tổ chức tại vùng này cho tiện người đi thay vì ở vùng Bolsa. Văn nghệ hát hò tiếng Việt là chính nhưng xen kẻ các bài hát tiếng Hoa. Không biết họ hát tiếng gì, Phúc Kiến, Quảng Tây hay Quan Thoại. Nghe nói tại Hội An, có 3 họ Tẩy, Ngô và Trương (tục gọi là TAM GIA), vượt biển đến Việt Nam vào thời Mãn Thanh. Về Hội An, mình thấy có chùa Phúc Kiến. Mấy người lớn tuổi ở HỘi An giải thích cho mình đó là văn hoá khi xưa ở Hội An là như ri. Mình viết về Đà Lạt nhiều, để mò mò thêm về lịch sử Hội An rồi kể cho vợ nghe.

Ban tổ chức bỏ rất nhiều công, rất ấn tượng giúp người đồng hương tìm lại chút gì thân thương bỏ lại. Ngoài cửa ra vào họ đã làm các lồng đèn Phố Hội để thiên hạ chụp hình. Bên trong có cái phông Chùa Cầu, ghe sông Hoài và các hình ảnh Hội An thay phiên nhau chiếu trên các màn ảnh truyền hình, giúp mình tìm lại những hình ảnh đã viếng thăm quê vợ. Không khí rất ấm cúng. Mình không có dính dáng gì về Hội An, chỉ ăn theo diện mụ vợ nhưng vẫn thấy ấm lòng trong những tiếng cười chào hỏi nhau với giọng Quảng Nơm.


“Eng là rể Hợi Ơn?” Đó là câu hỏi đầu tiên của anh ngồi cùng bàn hỏi. Mình gật đầu nên anh ta tiếp “nhìn là tui biết liền”. Anh này học trường Trần Quý Cáp, học với cậu mụ vợ là Hồ Đắc Cần. Đồng chí gái là gốc Các Mệ nhưng bố vợ mình vào làm việc tại Hội An khi cô nàng lên 1 tuổi và sinh sống tại Hội An đến 13 năm mới vào Sàigòn. Lý do là an ninh. Đêm đêm, Việt Cộng từ bên kia sông bơi xuồng qua, ám sát các viên chức Việt Nam Cộng Hoà. Đồng chí gái kể là có lần sáng thức dậy, ra sau nhà có bờ sông, thấy cánh tay của ai trôi dạt vào nên sợ mệt thở. 


Ông ngoại đồng chí gái là dòng Tôn Thất, làm quan còn bà ngoại dòng Hồ Đắc. Một trong những sáng lập viên của chùa Diệu Viên ở Huế. Nay họ vẫn để hình của bà trong chùa.

Ông bố vợ lại thuộc dạng công chức cao cấp của Việt Nam Cộng Hoà, phó tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam nên mẹ vợ kêu xin đổi vào Sàigòn sau Mùa Hè Đỏ Lửa. May chớ nếu ở lại 75 thì hơi mệt với nằm vùng. Ở Sàigòn đến 1985 mới vượt biển, rồi định cư tại Hoa Kỳ. Do đó có thể gọi mình là rể nuôi của Hội An đồng thời rể Trưng Vương vì mụ vợ vào Sàigòn thì học Trưng Vương.


Mình nhớ gặp người quen đầu tiên của gia đình bên vợ gốc Hội An, là anh Thái Tú Hoà, trưởng ban hợp ca nhi đồng của Hội An khi xưa. Anh này tính tình dễ thương, hình như gốc Minh Hương. Vợ chồng mình hay gặp vợ chồng anh ta mỗi lần lên khu gần Los Angeles. Anh ta biết nhiều tiệm ăn chay rất ngon. Có lẻ người đã kéo đồng chí gái về với Hội An là chị bạn thân của đồng chí gái thời ở Phố Cổ, trong ban hợp ca thiếu nhi. Một hôm, đang ngồi làm việc tại nhà, điện thoại reo thì nghe đầu dây bên kia giọng Hội An rất nặng, hỏi cho gặp vợ mình. Nói chuyện hỏi thăm tin tức bạn xưa nên mụ vợ mới chịu về Việt Nam lại. Đi tìm lại vết chân xưa của Phố Cổ quê hương tôi. Nơi không có chùm khế ngọt mà chỉ có Cao Lầu và bánh đập.

Hình chụp thời tây từ máy bay bà già. Thấy toàn Hội An và con sông Hoài. Theo đồng chí gái thì trước năm 1975, phía bên phải là vùng tạm chiếm của Việt Cộng. Đêm đêm buồn buồn, họ bò xuồng qua sông, tìm đến mấy nhà công chức Việt Nam Cộng Hoà để giết để không ai dám làm cho chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. Chuyện này tương tự ở Đà Lạt khi xưa, nằm vùng hay về giết trưởng Ấp hay khu phố trưởng, đặt chất nổ nhà ai không chịu cúng tiền cho cách mạng.
Bản đồ Hội An (Faifoo) thời Tây. Route coloniale No 1 là quốc lộ số 1 chạy vào Phố Cổ. Sông Hoài (rivière de Faifoo). Nhà đồng chí gái ở Phan Bội Châu, gần bờ sông, phía sau nhà là sông Hoài, hạ lưu của sông Thu Bồn.

Hội An khi xưa nhỏ và nghèo, nay được du khách chiếu cố về nét kiến trúc của phố cổ nên dân tình sống khá lên nhờ du lịch. Nhà cửa đa số làm thời Pháp, kiến trúc kiểu ở Nam Định. Nay nhà cửa tăng giá như điên, nghe nói cả triệu triệu đô không. Có người quen bên này cho thuê nhà ở Phố Cổ do bố mẹ để lại, khá bộn tiền, sống thoải mái. Các trung tâm nghỉ dưỡng thay phiên mọc lên như nấm ở Cửa Đại để tiếp du khách, vì muốn xem văn hoá, kiến trúc phố cổ. Mình có về đây ở mấy lần, biển đẹp.


Có một điểm khá độc đáo là ngày Rằm âm lịch, họ tắt điện hết, chỉ treo lồng đèn nên khá lạ, đưa du khách về thời xưa, chưa có điện. Đi bộ trong phố cổ khá lạ mắt. Ai muốn viếng thăm Hội An thì canh cho đúng ngày rằm ghé lại. Đi ngoài đường thấy các đèn lồng Hội An treo khắp nơi rất đẹp. Đồng chí gái có mua mấy lố về nhưng phong thuỷ không hạp nên mấy cây tre làm đèn lồng đều có rúm khô lại làm mất vẻ đẹp. Thấy đẹp nhưng đừng mua về Hoa Kỳ. Ở Việt Nam, nhiệt độ ẩm, khác với Cali.


Theo mình hiểu thì khi Chúa Nguyễn vào Nam, không biết nhờ ông Đào Duy Từ hay các quan khác gợi ý, mở cửa buôn bán với người ngoại quốc thay vì bế môn toả cảng như nhà Minh. Vùng này sởi đá không, khó mà sống Lạp ngập lụt. Nhà Minh bế môn toả cảng, không cho buôn bán trực tiếp với Nhật Bản và các nước khác nên người Nhật phải qua Việt Nam tại bến tàu Cửa Đại để buôn bán. Người tàu chở đồ xuống sông Thu Bồn, Hội An tạo thành 1 thương cảng phát triển rất nhanh. Nghe kể là có đến 80, 90 chuyến tàu hàng năm, ghé lại bán hàng rồi mua của người Việt chở về xứ họ. 

Mấy bà chụp hình tạo dáng là thời 60 năm về trước chùa Bà Mụ. Chị bạn gửi. Về hỘi An phải đi theo vợ nên không đi viếng mấy chỗ này được. Lần sau về, tìm cách đi riêng để tìm hiểu thêm. Kiến trúc khá kỳ lạ, khác với các chùa Việt Nam.

Thương thuyền đầu tiên đến Hội An mà người tây phương gọi là Faifo, Hoài Phố, vì con sông Hoài nằm bên cạnh, hạ lưu của sông Thu Bồn. Không biết cụm từ Hội-An, có phải đến từ sông Hoài nhưng phát âm của người địa phương thành Hội An. Ai biết rõ Hội An đến từ đâu thì cho em xin. Từ Phố Hoài đến Hội An. Đọc tài liệu của người tây phương viếng thăm vùng này khi xưa thì được biết tàu bè đến từ Chàm, Nam Dương, Nhật Bản, Trung Hoa và Phi Luật tân. Có người kêu thời nhà Nguyễn có một xã mang tên Hội An nên sau này cứ gọi Hội An. Thấy thuyết này không có lý lắm. “Hội” có thể người địa phương phát âm Hoài thành Hội. Còn An thì không biết từ đâu. Có thể là chữ Hoài, họ đọc tách làm hai “Họ Ai” biến thành Hội An với giọng địa phương.


Các thương buôn hay tu sĩ người Bồ Đào Nha đến Việt Nam trước tiên. Họ có chữ cái là H nhưng không có PH như người Pháp nên Phố, họ có thể phiên am ra thành Foo nhưng họ có chữ cái H nên Hoài ra Fai thì hơi lạ. Có thể dạo ấy người gốc Minh Hương hay người Nhật Bản ở vùng này nhiều hơn người Việt và cách phát âm của họ khác với người Việt nên ra chữ Fai. Mình đọc đâu đó lâu rồi, họ cho biết là người Tàu đọc Phố Biển hay Hải Phố nên người ngoại quốc mới viết là Faifoo. Nam Cali có tiệm ăn Faifoo, chuyên bán các món Hội An, em của một chị bạn làm chủ.


Sau này, người Pháp sử dụng hải cảng Đà Nẵng mà họ gọi Tourane khiến Hội An mất ảnh hưởng vào thế kỷ 20. Có lẻ tàu bè quân sự không vào đây được so với Tourane, rộng lớn. Mẹ mình vào Đà Lạt lập nghiệp, phải đi tàu từ Tourane đến Phan Thiết rồi mới đi xe đò lên Đà Lạt.


Sau này, Chúa Trịnh đem quân đánh phá nên người Tàu dắt nhau vào nam, cũng có thể khi nhà Nguyễn đánh chiếm xứ Cao Miên nên khuyến khích dân vùng này vào miền Nam, xây dựng Chợ Lớn sau này. Mình đọc tài liệu nhưng chưa hình dung sự việc rõ ràng. Ai biết thì cho em xin. Tổ tiên họ từ Trung Hoa chạy sang lánh nạn tại Việt Nam, rồi 12 đời sau, lại dắt nhau chạy qua Hoa Kỳ. Không biết mấy trăm năm sau, con cháu của mình có bỏ nhà bỏ cửa chạy đi đâu lánh nạn không.


Do đó mới có chiếc cầu do người Nhật Bản xây còn sót lại mà người Hội An gọi là Chùa Cầu. Qua năm tháng được trùng tu bởi người gốc Minh Hương nên có hơi biến dạng. Chiếc cầu này, tây gọi là Le Pont Japonais, hay Pont Couvert. Tây đặt tên con đường dẫn tới chùa Cầu là rue du Pont Japonais. Mình thấy tấm ảnh chùa này lâu lắm rồi, thời đi học bên tây nên khi ghé hội An thì việc đầu tiên là chạy ra đây xem.


Thời đi học kiến trúc, thấy hình ảnh của tây chụp ở Việt Nam là mừng lắm. Khi ở Việt Nam đâu có đi đâu, quê mẹ chỉ là văn chương, qua câu ca dao mẹ ru hằng đêm. Nên mò vào viện bảo tàng á châu là sung sướng, như tìm được những gì về Việt Nam.

Chùa Cầu thời pháp thuộc

Có điểm lạ có hai bức tượng con thú ngồi hai đầu cầu, hai đầu nổi nhớ. Một là tượng khỉ và một là tượng con chó, ngồi sau cái bát nhang. Tò mò mình hỏi dân ở đây thì không ai biết sự tích nên bắt chước ông NGuyễn Du, 100 năm trong cỏi người ta, cái gì không biết tra gú gồ. Theo truyền thuyết của người Nhật Bản thì có con thuỷ quái Mamazu đầu thì ở Nhật Bản, đuôi ở Ấn Độ Dương và thân thì ở Việt Nam. Mỗi khi cựa mình là gây động đất và thuỷ triều, sóng thần dâng cao nên người ta để thần chó và thần khỉ để trấn yểm con quái vật.
Theo thiên hạ giải thích về hai con thú này dùng để yểm con thủy quái. Mình đoán là do người Tàu mà ra chớ người Nhật Bản không tin phong thủy lắm. Tại vì cái chùa được xây sau này nên người Minh Hương mới nghĩ như vậy.

Theo mình hiểu lúc đầu, chỉ có chiếc cầu lợp bằng ngói để dân tình đi qua, có thể trú mưa nên người dân địa phương gọi là Cầu Ngói. Ở Huế có cầu ngói Thanh Toàn, ngoài bắc, mình cũng có thấy mấy chiếc cầu lợp ngói. Có dịp về Bắc, sẽ ghé thăm viếng. Nghe nói họ trùng tu lại. Về sau, người ta lập một đền thờ Phật trên cầu nên được gọi là CHùa Cầu. Ngôi chùa nhỏ được gọi là Bắc Đế Trấn Vũ, thờ một ông tướng tàu nào bên Tàu. Hàng năm họ cúng ông ta vào 20 tháng 7 âm lịch.

Đường chính trong Phố Cổ, tây gọi Rue du Pont Japonais. Nhà cửa được xây khá nhiều thời Pháp thuộc, mình thấy tương tự như các dãy phố ở Nam Định

Được biết là vào thế kỷ 16, Phố Hoài có hai khu vực riêng biệt; một khu vực người Hoa và một khu vực người Nhật, chia cách nhau bởi cái chùa Nhật Bản. Hình như sau này, quân của Nguyễn Huệ đến vùng này đốt cháy, cướp bóc khiến người Nhật Bản bỏ chạy về xứ, còn người hoa vẫn còn sống sót. 3 anh em họ Nguyễn, đọc đâu đó là hậu duệ của Hồ Quý Ly, chạy vào nam, xuất thân từ nghề thảo khấu, đánh phá cướp bóc ven biển này. Dần dần tiến lên làm vua. Mình có đọc một bài viết và xem mấy tấm tranh nói về vụ cháy ở Hội An thời đó do người Nhật Bản cư trú tại đây kể lại. Chỉ đọc lướt nên không nhớ đọc ở đâu.

Theo bản đồ này thì thấy Chùa Cầu băng qua con suối đến khu phố người Nhật còn phía bên này thì phố người Tàu. Mình có đọc tài liệu về Hội An. Hôm nào rảnh mình kể lại. Nếu có dịp đi lại Hội An mình sẽ lần mò tìm hiểu hơn về Phố Cổ, quê vợ. 
Đầu cầu đi vào
Cầu làm bằng gỗ rồi kết hợp thêm ngôi chùa nhỏ chỗ ông thần đứng, thờ ông tướng nào bên tàu. Hình này chắc chụp lúc sớm mai, lúc mình đi qua đây, du khách đông hơn quân nguyên.
Đây là bản vẽ, đo đạt lại. Thấy cầu gỗ, ở hai đầu là con linh ứng (khỉ và chó) để yểm cái gì đó, nối liền sau này ngôi chùa nhỏ. Nghe nói nay phải trả tiền để vào. 

Có lẻ vì vậy mà hậu duệ người Nhật Bản không còn tại Hội An, ngược lại người Hoa thì nhiều vì họ di tản, vượt biển khi Nhà Thanh lên ngôi. Họ được gọi là người Minh Hương, người có quê hương nhà Minh. Người nổi tiếng nhất ông Mạc Cửu ở miền Nam. Chạy sang Việt Nam, với tinh thần Phản Thanh Phục Minh. Nhà Minh đa số là người Hán nên ai theo phong trào này được ví như Hảo Hán, người Hán tốt. Theo những gì mình đọc thì nhóm kháng Thanh này bán thuốc phiện để gây quỹ làm cách mạng khiến người Tàu từ từ bị nghiện thuốc phiện đưa đến bị người tây phương chiếm đóng xứ Trung Hoa. Tương tự sau này dân kháng chiến ở Nam Mỹ buôn cocaine để gây quỹ. Làm tiền nhiều quá nên quên luôn vụ phục Minh hay làm cách mạng.

Hình từ Chùa Cầu
Chợ Hội An thời Pháp Thuộc. Ai đến Hội An đều nghe đến món ăn Cao Lầu. Lần đầu tiên mình ăn tại Hội An thì không thấy ngon như mì tàu. Sau này có mấy người bạn Hội An làm tại Hoa Kỳ thì ăn rất ngon. Mê luôn vì nhờ rau. Mấy người bạn kể về Hội An, họ chỉ mua cao lầu khô đem qua mỹ để dành ăn. 
Chú bé này chắc gốc Minh Hương vì tóc để như người Tàu.
Bến tàu ven sông Hoài. Đường Bạch Đằng
Hội An có rất nhiều người gốc Hoa nên nhiều nhà thờ của họ. Mình có thấy mấy nhà thờ tổ khi viếng Hội An. Người Việt cũng có nhà thờ tổ ở đây. Đền Hàng Cung (Chùa Ông) thờ Quan Công trên đường Pont Japonais
Chùa Bà Mụ. Về Hội An không thấy chùa này. Chắc phải đi đâu xa, không nằm trong phố cổ. Thấy cái tường có hình tròn khá lạ mắt.




Tấm ảnh này mình có trải nghiệm khi Hội An bị lụt, đi ghe ra tới nơi cao nhất Hội An, nhảy xuống ghe lên xe chạy mất dép ra phi trường Đà Nẵng. Hết dám về Hội An. Ai mua nhà ở Hội An thì nên kiếm nhà trên cao, không sợ bị lụt mà mua cả khi nước ngập thì hư nhà hết.

Họ cũng gây quỹ kháng chiến tại Việt Nam nên người Việt cũng bị nghiện thuốc phiện. Khi tây sang Việt Nam thì đọc tài liệu của họ được biết 55% người Việt dạo ấy nghiện thuốc phiện nên họ dành luôn phần bán thuốc phiện và rượu để bán kiếm tiền. Một mặt ru ngủ lòng yêu nước của người Việt luôn, không chống đối. Anh chống đối gì khi anh nghiện rượu và thuốc phiện, chỉ biết nàng tiên nâu và ba xị đế. Mình nghe kể ông Nguyễn Hải Thần, ở biên giới Việt Trung, hút thuốc phiện mệt thở, trong khi các đồng chí của ông đi quyên tiền chống tây ở Việt Nam, bị tù đầy,… không biết có phải tuyên truyền của Hà Nội nhưng theo lời kể của nhạc sĩ Văn Cao mà mình đọc đâu đó, ông ta là đại uý đặc công, được lệnh giết mấy đảng viên như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ông có kể vào một nhà thuốc phiện giết ông nào, cũng chống tây nhưng mê thuốc phiện hơn. Xem hình của ông mình đoán việc khi xưa ông ta sát thủ các nhân vật đối lập, có ảnh hưởng về sau.


Mỗi lần về Việt Nam với đồng chí gái thì đều ghé thăm Hội An, để mụ vợ gặp lại bạn xưa. Lần chót về, có mẹ mình đi theo, bà cụ kêu đi chơi như chạy giặc. Lý do là về mùa mưa. Chiều xe chở về khách sạn trong thành phố. Mình thấy khách sạn gì mà đi vào cửa phải leo mấy bực thang độ 1.5 mét chiều cao. Sáng hôm sau mới hiểu vì nước dâng lên đến cửa. Muốn ra phố phải đi ghe ra. Từ lễ tân bước qua ghe rồi họ chở ra phố cổ khiến mình mới hiểu phim Áo Lụa Hà Đông, khi bà vợ hỏi đặt tên con là gì. Ông chồng nhìn quanh thấy toàn nước lụt nên bảo đặt tên Lụt. Mụ vợ như sống lại thời xưa nên khi ghe không chịu đi nữa thì đành xuống bộ, lội nước. Mụ đi giữa đường vì thường là nơi cao nhất của con đường trong khi mình dẫn mẹ già lội nước. Trời hành cơn lụt mỗi năm, cứt nổi lình bình chảy đầy Hội An. Kinh


Cuộc hội ngộ đồng hương Hội An trên 400 người vì nghe nói ban tổ chức có 400 quà cho mỗi người nhưng cuối cùng có nhiều người không nhận được. Có lẻ giờ chót nhiều người đến đông hơn dự liệu. Mình dân Đà Lạt nên nghe được giọng Quảng. Lý do là dân Thừa Thiên và Quảng vô Đà Lạt sinh sống đông nên dân Đà Lạt nói giọng hơi quảng quảng. Có chị bạn kể lấy chồng gốc Hội An. Chị ta gốc bắc kỳ nên khi ông chồng đưa về nhà ra mắt bố mẹ chồng gốc Vĩnh Điện. Chị ta cứ nhìn trơ trơ bố mẹ chồng tương lai khi họ hỏi khiến anh chồng phải thông dịch mệt thở. Đồng chí gái khen thức ăn ngon. Mụ vợ rất kén ăn, hay chê này chê nọ.

Nhóm đồng hương Hội An tụ tập mỗi tuần tại một quán cà phê ở Garden Grove. Đa số lái xe từ Los  Angeles xuống. Uống cà phê nói chuyện đời xưa, gặp ai mới và trẻ thì hỏi: “mi con ơi?”. Có anh chàng trẻ, di tản năm 75, tiếng Việt không rành, lấy một cô vợ nói đặc tiếng Quảng nên học tiếng Việt hơi khó. Mỗi lần dân Hội An gặp mặt nhau là thấy anh ta ngồi nhìn mọi người cười cười như mấy ông chồng mỹ lấy vợ việt. Ngay mình khi nghe họ dùng âm ngữ và danh từ riêng của vùng miền này cũng chới với huống chi người không rành tiếng Việt.


Không hiểu sao dân Hội An mà đồng chí gái quen, đa số hát rất hay nhưng họ không hát giọng Quảng. Họ hay tụ tập thay phiên mỗi nhà mỗi tháng để hát hò. Đa số họ rất hiền, nhẹ nhàng, sợ mình bị lạc lõng giữa rừng tiếng Quảng nên hay bắt chuyện, kể về Hội An giúp mình hiểu thêm về quê vợ. Đa số là gốc người Minh Hương nên họ rất thân thiện với nhau như mấy cái bang của người Tàu. Vợ mình nói hội Thừa Thiên mất tích luôn khi mấy người lớn tuổi qua đời. Khi xưa, mình hay đi xem ngày nhớ Huế, ăn cơm tàu vì tổ chức tại nhà hàng tàu, không có cơm hến, bún bò chi cả. Chán Mớ Đời 

Tôi về phố cổ Hội An

Một chiều đầu tháng ngập tràn nắng xuân.

Khách nơi xa lẫn khách gần

Cảnh quan đô hội níu chân từng người.

Trên sông cô gái mỉm cười

Con đò chờ đón đưa người qua sông.

Thu Bồn – dòng nước xanh trong

Còn in kỷ niệm trong lòng không phai

Ra về lưu luyến cùng ai!

Hội An phố cổ – nhớ hoài không quên.

(Tác giả: Đức Trung)


Tuần tới người gốc Đà Lạt có tổ chức ngày nhớ Đà Lạt. Để mai mình liên lạc xem có vé để đi dự.

Một số hình ảnh mình lấy từ trên Internet, vài tấm từ trang Nhạc Trịnh ở Việt Nam.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn