Chùa Linh Sơn

 Hôm trước, xem lại mấy tấm ảnh Đàlạt, có chùa Linh Sơn, nơi mình có nhiều kỷ niệm của thời con nít, nói theo ngôn ngữ thời A còng là Sữu Nhi. Nhớ nhất là dạo chùa đúc cái chuông mà khi về Đàlạt, mình có ghé lại để xem, để ở ngoài hiên, ngay bên phải chánh điện và Ăn cơm Chùa theo nghĩa đen.

Mình không nhớ rỏ năm nào, chỉ nhớ thằng Dư, hơn mình đâu 2, 3 tuổi, anh con Thuý, cạnh nhà, dẫn mình đi qua chùa vào buổi tối. Trong khi người lớn ê a cầu nguyện trong chùa, con nít ở trước sân chùa, được xem phim trắng đen của hai tên hề 1 béo 1 gầy Laurel & Hardy khiến con nít cười ồ, khá vui. Đó là lần đầu tiên mình xem phim lộ thiên ở Đàlạt.

Nếu mình không lầm hồi nhỏ có ông đẩy xe đạp đi trên đường Hai Bà Trưng, có màn trả ông ta tiền rồi đưa cái đầu vào chỗ ông ta trùm cái bọc lên đầu, xem phim khi ông ta quay vòng cuốn phim. Lớn lên sau Mậu Thân không thấy ông ta nữa. Mình chỉ thấy con nít lối xóm có tiền, thò đầu vào coi. Rồi chúng nói đủ trò khiến mình thèm nhỏ nước miếng.

Trước sân chùa, họ căng tấm vãi trắng, từ hai cây, không nhớ máy để ở đâu. con nít lao nhao đến khi trời tối hẳn mới được chiếu phim. Sau này, ra hải ngoại, xem lại mấy phim này nhưng không thấy vui bằng khi còn bé.

Hai tài tử Laurel và Hardy đã đem đến những nụ cười tuổi thơ của mình tại sân chùa Linh Sơn

Chùa Linh Sơn, được xây cất trên ngọn đồi ở gần cuối đường Hàm Nghi, khúc Võ Tánh và Phan đình Phùng. Đất do ông bà Võ Đình Dung tặng. Ông bà cũng tặng và cúng dường để xây chùa Linh Quang ở Cây Số 4 ở trên đường Hai BÀ Trưng. Nghe người lớn kể, ông Võ Đình Dung đi thầu, bị người ta ghét, trả bằng tiền giả. Sử dụng tiền giả là tội hình sự.

Hình này chụp từ nhà thờ Tin Lành, nhìn xuống đường Hàm Nghi, phía bên phải thấy ngọn đồi, sau này là nơi toạ lạc chùa linh Sơn, đất do ông bà Võ Đình Dung tặng. Thấy dãy nhà của cư xá chạy xuống đường Phan Đình Phùng, mình cố tìm ra căn nhà của Bích Thuỷ nhưng chịu, không nhớ rỏ căn nào. Dù khi xưa, chạy ngang đây, hay đưa cô nàng về. Chán Mớ Đời 

Tối đó, bà Dung nằm mộng thấy có ai mách, khó ngủ nên thức dậy, mở cái cặp đựng tiền mà ông Dung đem về tối qua, thấy bạc giả nên đem đốt. Mới 6 giờ sáng, mật thám của tây bao vây nhà, vào xét, không thấy bạc giả. Hú vía. Mình đọc tài liệu tây về thời này, được biết ông Võ Đình Dung có chân trong hội đồng thị xã, tranh đấu cho quyền lợi người Việt sinh sống tại đây nên bị Tây ghét. Điển hình là trong thiết kế của người Pháp, các lô đất của người Việt chỉ có 2 mét x 6 mét, sau ông ta đòi nên họ mới đổi thành 3 mét x 10 mét trong khi các khu nhà của người Pháp thì mỗi lô đất to rộng, xây được biệt thự như ở đường Hùng Vương, Trần Hưng đạo.

Ông ta thầu rẻ hơn thầu khoán tây nên lấy được nhiều công trình xây cất từ người Pháp như ga xe lửa Đà Lạt. Tương tự ông Xu Tiến, người thầu xây Nha Địa Dư. Mình nghĩ mấy ông xu như Xu Tiến, Võ Đình Dung, chống pháp ngay ở thành thị trong buôn bán, thương mại, khó hơn là vào rừng làm kháng chiến.

Sau vụ này, ông bà hiến đất để xây chùa Linh Sơn và trường học Bồ Đề, rồi ngưng làm ăn, lo tu hành. Khi họ cũng hiến tặng cho người Đà Lạt đất Mả Thánh để làm nghĩa địa, đến trường Việt Anh, cho người ta thuê làm vườn thì đi làm chi nữa cho cực đời. Có thể xem như gia đình ông bà Võ Đình Dung có công rất lớn đối với người Đà Lạt. Chỉ tiếc mình không có tài liệu về ông bà này để viết lên đây, để mọi người biết. Ai có tài liệu thì cho mình hay, liên lạc với con cháu họ.

Chính điện, mình và con gái đứng trú mưa ở đây, phía bên phải là nơi để cái chuông, mà khi xưa, mình có lên đây chơi khi họ đúc chuông. Mệ ngoại mình tặng một chỉ vàng khi họ đi quyên, bỏ vào lò luôn. Thấy hai con lân hai bên cầu thang. Mình nhớ là từ dưới đường lên cũng có nhưng nay mất tiêu.
Hình này chụp sau 75, trước kia thấy chữ Linh Sơn Tự, dọc mấy thang cấp đi lên, theo trí nhớ của mình có mấy con rồng mà mình hay leo lên chơi, bị người lớn chửi, kêu mi đòi cởi rồng à. Giao thừa, bố mẹ mình hay dẫn đi lễ chùa, sau đó về, phật tử xúm nhau bẻ cây, bẻ cành xem như hái lộc chùa. Sau đó thì mấy cây te tua, trụi lá, thiên hạ kéo gọi la hét in ỏi. Hình như bên tay trái cổng đi vào chùa, là vườn chè.

Mình đọc đâu đó là trường Việt Anh, khởi đầu do con trai của ông bà Võ Đình Dung xây cất, sau này, thầy Lê Phỉ mướn lại đến năm 1975. Ngoài ra, ông có một cô con gái đi du học bên pháp, lấy chồng cũng du học sinh. Sau 1954, đem con về Đàlạt, giao cho ông bà nuôi, rồi tập kết ra Bắc để xây dựng xã hội chủ nghĩa, theo tinh thần của trí thức ở âu châu thời đó. Sau 1975, về lại Đàlạt, và qua đời vì bệnh ung thư.

Hình này chụp sau 75, bên tay phải lối vào chánh điện, là nơi có cái chuông mà khi xưa, còn bé, mình có đến đây khi họ tổ chức đúc chuông đồng.
Chỗ này chụp nơi con đường nhỏ từ đường Hàm Nghi, chạy lên chùa. Chỗ này khi xưa, mình thấy xe GMC chở cảnh sát dã chiến đến đây, rồi họ nhảy xuống xe, chạy đi bắt sinh viên học sinh, do Việt Cộng chủ động, biểu tình, bắt loa, kêu gọi đem Nguyễn Cao Kỳ lên đoạn lầu đài.

Nhật Bản khi xưa, không cho các sinh viên trẻ đi du học. Lý do là trí óc non nớt sẽ bị ảnh hưởng của văn hoá nước ngoài. Họ chỉ cho các người đã học xong tại Nhật Bản, đi làm có kinh nghiệm, rồi cho đi tu nghiệp. Các sinh viên Việt Nam rời Việt Nam còn trẻ, nhiều khi dưới 18 tuổi nên dễ bị ảnh hưởng của văn hoá âu châu. 

Hình này chú thích năm 1957, phía tay phải, sau dãy nhà cư xá công chức ở đường Hàm Nghi, thấy cổng chùa Linh Sơn và các thang cấp dãn lên chùa. Phía xa xa là ấp Mỹ Lộc và cuối cùng là Núi BÀ.


Điển hình ngày nay, người Việt ở Hoa Kỳ, chia nhau ra hai phe: theo đảng Dân Chủ và phe theo Cộng Hoà. Thậm chí người Việt tại Việt Nam, cũng có người theo ông Trump, có người chống ông Trump, dù chả có dính dáng đến Việt Nam. Báo chí cứ tung lên để bán quảng cáo.


Khi xưa, thời mình qua tây, 25% người Pháp là cử tri của đảng cộng sản Pháp nên các sinh viên hay người Việt tại đây, dễ bị ảnh hưởng của chính trị của nước họ đang đi học hay làm việc. Không hiểu rỏ tình hình ở miền nam, quay sang chống đối, dẫn đến sự sụp đỗ chính phủ miền nam nhanh chóng hơn. Ông Hoàng Đức Nhã, cựu học sinh Yersin Đà Lạt, có thời làm tổng trưởng Dân Vận, mà trong hồi ký của Kissinger có nhắc đến ông ta, là một người khó thương lượng, có tổ chức các chuyến viếng thăm Việt Nam trước 75 cho sinh viên và kiều bào nhưng hơi trễ.

Mình có người quen, đi du học bên tây thời còn học sinh đệ nhất cấp. Có về thăm gia đình năm 1973, theo đảng cộng sản Pháp, quốc tịch tây nhưng toà đại sứ Việt Nam Cộng Hoà vẫn cho về thăm. Theo lời ông ta là người đầu tiên phá cửa toà đại sứ Việt Nam Cộng Hoà ngày 30/4/75. Sau này được Hà Nội cho về thăm Đàlạt, được xem là phái đoàn Việt kiều đầu tiên ở pháp về thăm Việt Nam. Trở về tây, ông ta kể cho mình là nhà cậu, mà Việt Cộng mỗi ngày cứ đi vào, ngồi cả ngày. Đi đâu cũng phải xin phép, khác với thời Việt Nam Cộng Hoà cách đó 3 năm. Ông ta buồn cho tuổi trẻ của mình bị lợi dụng, sau này qua đời.

Nhớ sau 1963, có mấy cuộc chỉnh lý, sinh viên và học sinh Đàlạt, kéo vào chùa Linh Sơn, mở loa kêu gọi đem “ông nguyễn Cao Kỳ lên đoạn lầu đài”,… rồi lựu đạn cay, cảnh sát dã chiến đổ bộ từ xe GMC, vào bắt thiên hạ. Sinh viên, học sinh bỏ chạy như ong bị  hun khói.

Mình có gặp và nói chuyện với hai anh sinh viên của đại học Đà Lạt thời đó, sau này ra trường đi dạy tại các trường trung học ở Đàlạt. Họ kể hồi đó đâu biết gì, bạn bè rủ thì đi cho vui. Ở nhà, mình nhìn sang thấy vui lắm. Mình có anh bạn, cháu của ông thầy Từ Mãn, kêu ông này mà tu gì. Ông tu ở chùa Linh Sơn nhưng ăn mặn khi đến nhà anh bạn ở Đàlạt. Sau này mới hiểu Việt Cộng cài người vào các chùa để chống đối chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. Chán Mớ Đời 

Có lần về Đàlạt, mình đi bộ với con gái lên chùa. Đi kiếm nhà thằng Khoa, và Phan thị Thu Thuỷ để chụp cho cô nàng không ra. Nay họ đập phá xây lại hay lên tầng. Mình tính chụp ảnh nhà xưa rồi gửi cho cô nàng nhưng tìm không ra, hỏi thiên hạ thì họ nhìn mình như bò đội nón. Cô nàng kể là chính cô nàng còn tìm không ra huống chi mình.

Đi viếng phía sau chùa thấy bé nhỏ không như xưa khi mình đi chùa với Mệ Ngoại. Có một nhóm gia đình phật tử từ Đắc Nông về chùa, cắm trại. Họ hát những bài ca sinh hoạt hướng đạo, khiến con gái mình hát theo. Nó nói ở đây người ta hát vui ghê sao ở mỹ, tụi con đi hướng đạo hát mấy bài này chán như con gián. Cho thấy chúng ta cho con theo văn hoá Việt Nam ở mỹ, là một vấn đề. Chúng hát nhạc sinh hoạt nhưng không hiểu lắm nên Chán Mớ Đời.

Trời bổng nhiên đổ mưa kinh hoàng, gia đình phật tử, đang sinh hoạt, bỏ chạy như đàn kiến. Hai cha con đứng núp mưa, mình nhìn xuống đường dốc Hàm Nghi, thấy nhà đối tượng một thời. Có ông thần nào đọc bài mình kể chuyện đời xưa, nói là mê cô nàng rồi cứ lên chùa, nhìn xuống nhà cô nàng. Không thấy mưa tạnh, đành gọi taxi đến đón, đưa về nhà. Trong những giây phút đợi Taxi, mình kể cho con gái lại thời gian còn con nít, đến đây xem phim, hay đi chùa với mệ ngoại. Nó nhìn mình như bò đội nón nhưng mình kể cho chính mình.

Trong khi trú mưa, mình nhớ khi xưa, cứ rằm là đi theo Mệ Ngoại lên chùa Linh Sơn, và chùa Linh Quang. Mình xách cái giỏ đựng hoa quả. Lên tới chùa, Mệ đưa cho mấy người ở chùa rữa trái cây rồi bỏ lên bàn Phật. Mình được họ kêu vào thọ trai. Ăn cơm chùa thấy ngon kể gì. Sau đó, mệ ngoại, ra ngồi vấn an thầy trù trì, rồi đưa cho ông cái phòng bì. Có lần, Mệ kêu mình phụ chị người làm, khiêng cái bàn Phật xuống đường Hai Bà Trưng, rồi bắt mình phải canh vì sợ con nít chôm mấy trái cây. Rồi đi lên Núi Bà, lấy nước suối về, vì có Phật Bà hiện về. Có dịp mình sẽ kể vụ này khá vui. Đều do Việt Cộng xúi dục cả.

Mệ ngoại mình hay cúng tiền cho chùa, rồi kêu mẹ mình đưa tiền trả cho thầy như cái bàn thờ cho chùa khá bộn tiền. Sau này, mẹ mình cũng hay hỏi mình tiền để cúng tổ đình chi đó. Hôm nào Chán Mớ Đời, mình sẽ kể về Tổ Tiên CHính Giáo ở Đà Lạt.

Thấy trên Facebook có bài này, mình xin phép đem về đây cho thiên hạ đọc vì khá chi tiết, khỏi mất công viết: https://www.facebook.com/MocDalatLuquan/

Chùa Linh Sơn

1/ Vị trí:

Chùa Linh Sơn là một trong những ngôi chùa lớn và lâu đời ở thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Chùa nằm trên sườn ngọn đồi thấp tại số 120 đường Nguyễn Văn Trỗi – phường 2, và cách trung tâm thành phố khoảng 700m về phía Tây Bắc.

Chùa được xây năm 1938 theo đề nghị của bà Từ Cung (thân mẫu vua Bảo Đại) với Giáo hộ Tăng già Trung Phần từ năm 1936, sau lần bà từ Đà Lạt trở về kinh đô Huế, và hoàn thành năm 1940 (Hòa thượng Thích Trí Thủ trụ trì). Chùa mang tên một ngọn núi ở Ấn Độ, được nhiều lần trùng tu tôn tạo. Chùa Linh Sơn nằm trên ngọn đồi gần 4 ha, là quần thể gồm nhiều công trình kiến trúc có quy mô lớn nhỏ khác nhau. (Phần này mình thấy không đúng lắm, có dịp sẽ nói rỏ chi thiết hơn)

2/ Kiến trúc:

Chùa do ông Võ Đình Dung đứng ra điều khiển kỹ thuật và ông Nguyễn Văn Tiếng cùng với công đức của thập phương bá tánh. 

Chính điện ngôi chùa được thiết kế theo lối kiến trúc Á Đông giống như các chùa cổ ở Kinh Thành Huế. Trên đỉnh mái chùa có đắp đuôi rồng uốn lượn theo thế “lưỡng long triều nguyệt”.

Thông thường cổng chùa thường xây theo cổng tam quan. Song cổng vào chính điện chùa Linh Sơn chỉ xây hai vách cao 4m, cách nhau 5m có mái lợp, bậc cấp được xây bằng đá, cửa cổng có thể hiến cho du khách một chỗ tạm nghỉ chân mà không sợ mưa nắng (?). Đường vào chùa được dẫn lên nhiều cấp, hai bờ đường là hai hàng cây thông, bạch đàn, sao, cao vút quanh năm thì thào với gió núi mây ngàn. Đêm về những ngọn đèn bên ngoài tỏa sáng mông lung trong sương lạnh điểm tiếng chuông ngân nga vang vọng làm cho cảnh trí Linh Sơn thêm phần trầm mặc, u nhàn.

Trên lối đi trước sân chùa cách cổng chính 30m có dựng một bức tương Quán Thế Âm Bồ Tát màu trắng đứng trên đài sen cao, khói hương nghi ngút, nơi chiêm bái của tín đồ và du khách vì tinh thầncứu khổ độ sinh là bản nguyện của Ngài. Hướng bên phải là một bảo tháp ba tầng hình bát giác, mái ngói cao 4m. Bên trái là hồ nước, những cụm giả sơn và cây cảnh rất đẹp.

Ngõ vào phía đông Chùa được xây theo lối tam quan truyền thống kết nối với con đường lát đá, tráng nhựa là đường dành cho xe cộ từ ngoài vào bọc quanh sân chùa, chạy qua sau lưng bức tượng và trước sân chùa rồi rẽ phải lên đến sân của cánh hậu tòa viện. Bên phải phần cuối con đường này là giả viên Lâm Tỳ Ni được trang trí rất nghệ thuật, có các giả sơn, có các thảo mộc quý. Giữa đám xanh của cây cỏ là một cái ao nhân tạo bên trong có hoa súng và cá vàng.

Qua sân cỏ là đường dẫn đến cầu thang có mười ba bực lên đến hành lang Phật đường. Hai bên cầu thang có bể nước trong đó nhô lên hòn non bộ có các cây kiểng gợi cảnh thiên nhiên. Xuôi theo cầu thang là cặp Rồng lớn há miệng được điêu khắc một cách nghệ thuật làm vị song thần gìn giữ ngôi chùa.

Bên trong chính điện chùa Linh Sơn ở Đà Lạt bài trí nghiêm trang, tiền đường có bốn trụ gỗ lớn chạm khắc đôi câu đối bằng chữ Nho sơn son thếp vàng mang nặng ý nghĩa tâm linh:

Sơn sắc đạm tùy nhân nhập viện

Tùng thanh tĩnh tính khách đàm phiền.

Tạm dịch là:

Màu núi nhạt theo người vào viện

Tiếng tùng im nghe khách bàn thiền.

Trên điện Phật thờ tượng đức Thích Ca Mâu Ni bằng đồng xanh đang tham thiền nhập định trên một tòa sen đúc bằng đồng, nặng 1.250 kg, được đúc năm 1952.

Bên trái chính điện là Tổ đường - nơi thờ Đạt Ma Sư Tổ, ngoài cái trống lớn có đường kính 0m75 thì đây cũng là nơi đặt bài vị các vị sư đã viên tịch và những người đã khuất mà thân nhân họ đưa vào chùa với niềm tin “để linh hồn được hưởng hương khói và nghe kinh mỗi ngày”.

Bên phải chính điện là tượng Hộ pháp Di Đà, gần đó đặt khung gỗ quý treo “Đại Hồng Chung” nặng 450 ký. Lầu chuông và lầu trống được bố trí cách nhau 12m trước Phật đường. Quả chuông đúc vào năm 1950, cao 1m80 cân nặng 40 ký do các nghệ nhân “Phường Đúc Huế” tạo thành. Phía trái là ngôi tháp ba tầng đứng trên một nền cao 14m, hình bát giác góp phần vẻ tôn nghiêm, mỹ thuật cho chùa. 

Hiện nay, chùa Linh Sơn là nơi đặt văn phòng của Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng.

3/ Đôi dòng ghi lại những cảm xúc … khi Vãn cảnh Chùa:

Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm!

Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa!

Giữa phố thị Đà Lạt với vô vàn sắc thanh hỗn tạp, người đang có chuyện ưu tư hay phiền não khi nghe tiếng chuông Linh Sơn tự cũng thấy vơi nhẹ trong lòng, xua tan đi tất cả những vấn vương tục luỵ, những nỗi trần tâm. .

….

Sư VIÊN TRÍ cảm khái viết:

Khách trần ai viếng Linh Sơn tự

Hồn tục lâng lâng khỏi xứ phiền”

Chất liệu khiến “hồn tục lâng lâng” khi viếng “Linh Sơn tự” hẳn là hương vị giải thoát lan tỏa từ dòng nước từ bi, trí tuệ ở “đỉnh Linh Sơn” hơn 2500 năm trước. Cảm thức thoát lụy liên đới mạnh mẽ với cảm thức cội nguồn khiến thế nhân dường như không hề khởi niệm phân biệt xưa và nay. Vì rằng giây phút lìa xa ái thủ là giây phút con người tìm thấy bản lai diện mục của mình ở đấy mọi ý niệm không và thời gian đều vắng bặt. Có lẽ trong ý nghĩa như vậy mà Linh Sơn đã hiện ra không khác một Linh Sơn Ấn Độ trong lòng nhiều thế hệ Phật tử Việt Nam.” 

… 

Thi sĩ VIỆT TRANG trong một Mùa Báo Hiếu ghé thăm chùa Linh Sơn cũng cảm hứng đặt bút viết xuống những vần thơ và trịnh trọng ghi tiều đề là “Ánh Đạo Vàng”:

Trời thanh gió tịnh nét minh quang

Ánh đạo Linh Sơn, ánh đạo vàng

Giác Ngộ hồi chuông reo Phật pháp

Ưu Đàm tiếng kệ vọng Tăng đường

Chơn Tâm trì hướng lên Tam bảo

Thiện Trí chan hòa với Thập phương

Thân giữa đường trần bao ấm lạnh

Sáng ngời đuốc tuệ, cọng trầm vương.

Dù cho kiến trúc và quy mô không được bề thế như Thiền viện Vạn Hạnh, Thiền viện Trúc Lâm, không có lịch sử lâu đời như Tổ đình Linh Quang hay những chùa triền khác ở Đà Lạt nhưng chùa Linh Sơn vẫn là điểm đến chính của du khách khi đến Đà Lạt.

4/ Đôi nét về thầu khoán Võ Đình Dung:

Võ Đình Dung quê ở Thừa Thiên-Huế. Khi người Pháp chiêu mộ lao công từ miền Trung vào Đà Lạt xây dựng nhà cửa, công sở... ông đến Đà Lạt lập nghiệp năm 1930. Ban đầu ông làm thợ xây cho những nhà thầu người Pháp. Một thời gian sau, khi tay nghề vững vàng, ông đứng ra nhận thầu khoán lại một phần công trình. Nhờ làm ăn uy tín, từ từ ông được giao thi công nhiều ông trình tại Đà lạt như: Ga xe lửa, Dinh Bảo Đại, Đâị học Đà lạt cùng nhiều khu biệt thự Pháp ở Đà Lạt.

Nhờ nghề thầu khoán, ông Dung giàu lên nhanh chóng. Ông mua đất cất nhiều dãy phố cho người Hoa thuê buôn bán quanh khu Hòa Bình, dọc đường Trương Công Định và 3/2 ngày nay. Khu đất từ bùng binh 3/2, chạy dọc hai bên đường Hải Thượng vòng qua Hai Bà Trưng đều của ông Dung.

Tuy giàu có nhưng đời sống của ông là đời sống rất mực thanh đạm của một cư sĩ, tu tại gia, làm nhiều việc nhân đức. Khu Mả Thánh, phần nghĩa địa với diện tích rất rộng lớn cũng do ông cúng dường cho âm linh của thành phố. Mả Thánh là một nghĩa trang Phật Giáo được thành lập năm 1938 trên một quả đồi gần cây số 4, trên đường đi Suối Vàng.”

Ông đã cúng tiền và bỏ công sức xây chùa Linh Sơn. Trước đó vợ chồng ông cũng cúng tiền để cùng với bà con phật tử Đà Lạt xây dựng Tổ đình Linh Quang.

5/ Về Đức Từ Cung:

Từ Cung Hoàng thái hậu tên thật là Hoàng Thị Cúc (黃氏菊), người ở làng Mỹ Lợi, Phú Lộc, Thừa Thiên-Huế[1]. Thân sinh của bà là ông Hoàng Trọng Tích (黃仲錫), từng đậu Tú tài làm Tri huyện Hòa Đa (Bình Định), mẹ của bà là bà La Thị Sơn (羅氏山).

Sinh ra trong một gia đình quan Tri huyện, nhưng từ nhỏ, Hoàng Thị Cúc đã sống cuộc sống hết sức vất vả, khó khăn. Ông bà Tri huyện mất sớm, khi Hoàng Thị Cúc còn nhỏ tuổi, phải sống nhờ gia đình người anh trai cả là Hoàng Trọng Khanh. Bà Hoàng Thị Cúc được đưa vào làm cung nữ hầu hai bà Thánh Cung Nguyễn Hữu Thị Nhàn và Tiên Cung Dương Thị Thục – vợ góa của vua Đồng Khánh[2].

Từ đây, bà dần tiếp xúc với ông Phụng Hóa công Nguyễn Phúc Bửu Đảo (奉化公阮福寶嶹), con của bà Tiên cung.

Lúc quen biết ông hoàng, thì ông đã có vợ chính là bà Trương Như Thị Tịnh, con gái đại thần phụ chính Trương Như Cương, nhưng cả hai chung sống không hòa thuận và cũng không có một mụn con nào. Đầu năm 1913, bà mang thai với ông Phụng Hóa công. Ngày 22 tháng 10, năm 1913, bà hạ sinh hoàng nam Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy.

Năm 1916, Phụng Hóa Công lên ngôi, tức Hoằng Tông Tuyên hoàng đế (Vua Khải Định), bà được phong là Tam giai Huệ tần (三階惠嬪), qua năm 1918 thăng lên Nhị giai Huệ phi (二階惠妃), đứng thứ 2 trong Hậu cung của ngài, sau bà Ân phi Hồ Thị Chỉ. Tước Hoàng quý phi ông vẫn dành tặng cho bà Tịnh, dù bà đã xuất gia và từ chối nhận phong.

Năm 1923, tháng 2, nhân vì Vĩnh Thụy phong làm Thái tử, Huệ phi Hoàng thị được phong làm [Nhất giai Hậu phi; 一階厚妃][3].

Năm 1945, Vua Bảo Đại thoái vị, bà Từ Cung cùng bà Nam Phương hoàng hậu và con cháu hoàng thất dọn ra cung An Định ở.

Những năm 1949 - 1954, khi Vua Bảo Đại trở về làm Quốc trưởng bà Từ Cung trở lại Hoàng cung, ở tại cung Diên Thọ. Năm 1954, khi Vua Bảo Đại qua Pháp lưu vong bà lại phải ra khỏi Hoàng thành về sống ở cung An Định.

Năm 1955, khi Quốc trưởng Bảo Đại bị lật đổ, Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng thì chính quyền miền Nam Việt Nam không cho phép bà Từ Cung ở lại trong cung An Định. Trong tình cảnh này bà đã mua lại ngôi nhà của bà Ân phi Hồ Thị Chỉ, là nhà 79 phố Phan Đình Phùng và ở đây cho đến ngày cuối đời. Trong thời gian chiến tranh loạn lạc, mọi hoạt động cúng bái các bậc tiên tổ, hội họp Nguyễn Phước Tộc đều diễn ra tại căn nhà này. Cũng trong thời gian này bà hoàn toàn mất liên lạc với Vua Bảo Đại.

Bà Lê Thị Dinh là người phục vụ bà Từ Cung hơn 60 năm, là người cung nữ cuối cùng triều Nguyễn phục vụ cho Từ Cung Hoàng Thái hậu[4]. Bốn cung nữ hầu Hoàng Thái Hậu gồm: bà Lê Thị Dinh (nhiệm vụ là trang điểm cho đức Bà, là người hầu hạ Đức Bà tới lúc cuối đời), Lê Thị Tìm (đọc truyện cổ tích và tụng kinh cho Đức Bà nghe hàng đêm), Nguyễn Thị Vân và Trần Thị Vui. Đây là bốn cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là những cung nữ cuối cùng của Việt Nam đang sống vào thế kỷ XXI[5].

Năm 1980, Từ Cung thái hậu qua đời, thọ 90 tuổi, bà được an táng gần Ứng Lăng tại xã Hương Chữ, Hương Thuỷ, Thừa Thiên-Huế. Căn nhà 79 Phan Đình Phùng mà bà đã ở những ngày cuối đời hiện nay được tu bổ trở thành điểm tham quan cho khách du lịch.

Theo "Bức Tâm Thư" tức "Di Chúc" của đức Đoan Huy Hoàng Thái hậu - Từ Cung thì ngôi nhà của Bà sau khi Bà qua đời, sẽ là nơi thờ phụng "Liệt Thánh" (tức Tổ Tiên nhà Nguyễn) và thờ Bà. Ngôi nhà của Bà sẽ giao cho Hội Đồng Hoàng Tộc Nguyễn Phước (gọi tắt là Hội Đòng Nguyễn Phước Tôc) quản lý và sử dụng làm Văn phòng của Nguyễn Phước Tộc để đón tiếp bà con và sinh hoạt Hoàng tộc. 

Từ Cung Hoàng Thái hậu rất trọng đạo Phật và chú tâm đến việc thờ cúng các vị vua triều Nguyễn. Bà được coi là người có công lớn trong việc chấn hưng Phật giáo thời Nhà Nguyễn. Chính bà đã khuyên vua Bảo Đại dành nhiều tiền đóng góp cho An nam Phật giáo Hội, vận động Bảo Đại góp tiền xây chùa và phát triển Phật giáo.

Bà chưa khi nào rời khỏi Kinh thành Huế . Bà nguyện sống cả đời ở đây để giữ gìn nơi thờ phụng các bậc tiên đế, các bảo vật của triều Nguyễn. Bà nói: Ta sinh ra ở đâu thì sẽ chết ở đó. Tổ tiên Nhà Nguyễn còn ở Huế thì ta còn phải ở lại lo chuyện thờ cúng, chăm sóc lăng mộ các bậc tiền nhân. Nhà Nguyễn đã cho ta hưởng lộc cả đời. Ta có chết cũng chưa báo đáp hết được. Bà chưa bỏ một lễ giỗ nào, kể cả khi tiền bạc gần như đã suy kiệt hoàn toàn.

Dù thời thế đổi thay, Từ Cung Thái hậu vẫn luôn mang theo bên mình tất cả những bảo vật của triều Nguyễn và cả những bộ y phục mà nhà vua đã từng mặc trước đây. Để có thể duy trì cuộc sống, bà đã phải bán dần từng món đồ trang sức mà mình có. Phần lớn tài sản mà Từ Cung Thái hậu mang ra khỏi cung Diên Thọ bà dùng để phục vụ cho việc thờ cúng,[6]. Theo một tài liệu Cao Đài, cuối năm 1971, bà nhập đạo và được cơ bút phong chức Phối sư THÁNH DANH hương cúc.[7]

Lúc còn sống trong cung, Từ Cung Thái hậu đã ăn uống rất đơn giản, bà ăn chay 10 ngày mỗi tháng và hiếm khi dùng sơn hào hải vị. Sau khi Nhà Nguyễn mất, càng về già, Từ Cung Thái hậu càng ăn uống đơn giản hơn bao giờ hết. Y phục bà mặc và những thứ đồ dùng của bà cũng hết sức giản dị. Đức Từ Cung Thái hậu là một người nghiêm cẩn, khoan dung, độ lượng.

19/10/2018 

Thông Đà lạt #mocdalatluquan

“Mộc Đà lạt lữ quán” hỗ trợ cho bài viết.

https://www.facebook.com/MocDalatLuquan/


Bên cạnh chùa Linh Sơn, có trường trung học Bồ Đề, học sinh hay bận áo len đen thì phải. Mình nhớ có một trường bận áo màu nâu nhưng không nhớ rỏ trường nào. Thằng Khánh Ù , ở xóm Thi Sách khi xưa, đi ăn cắp buồng chuối với mình, học ở trường này. Sau này làm đến chức hiệu trưởng. Kinh

Hình như mình có một tấm ảnh khác của trường, để hôm nào tìm lại sẽ bổ túc sau.
Đây tấm ảnh mới tìm thấy, rất mờ, chụp trường Bồ Đề, từ nhà ai ở Phan Đình Phùng. Ai biết thì cho em xin. 

Hình em tải lên đây cho bà con, không phải của em, không biết tác giả nên xin phép đăng.

Nguyễn Hoàng Sơn