khôi phục lại cuộc sống của con người

 Chiến Tranh và Hoà Bình


Dạo này dân cư mạng ồn ào trên các mạng xã hội. Người nguyền rủa Hoa Kỳ bán đứng Ukraine như Việt Nam Cộng Hoà, Á-Phú-Hãn, các đồng minh. Người thì hoan hô, kêu cuộc chiến không phải của người Mỹ hay người Pháp. Bên pháp số chống đối tổng thống Macron thì kêu ông Macron hân hoan tuyên bố sẽ cung cấp 100 chiến đấu cơ Rafale cho Ukraina trong vòng 10 năm nữa, khiến cổ phiếu công ty chế tạo máy bay này tăng vọt lên 10% trong khi ngân quỹ không được quốc hội duyệt phê. Họ kêu thu thuế được 18 tỷ mà phải xài đâu 30 tỷ (không nhớ số chính xác, chỉ lướt qua). Dân tình kêu tiền đâu, bán cho Ukraine, họ hết tiền, hết người để đánh. Chết rất nhiều. Mình theo dõi bên ủng hộ Ukraina, bên ủng hô Puchin thì cả hai bên chết rất nhiều và đào ngủ cả hai bên cũng nhiều. Mình thích đọc tài liệu của hai bên để có một nhận định ít bị tuyên truyền.


Khi xưa, còn bé mình nghe đài Sàigòn buổi chiều kêu Việt Cộng bỏ lại mặt trận 120 xác chết, và bao nhiêu bị thương rồi buồn đời tối mình mở đài Hà Nội ra nghe thì cũng cùng trận đánh, phe ta diệt 400 tên lính nguỵ,… cho nên mình thất kinh từ đó, không bao giờ tin vào một tin tức.

Trên tờ Foreign Affairs, có đăng vụ phụ nữ Nga hối hả lấy chồng, đối tượng là những chàng trai sắp sửa được đưa ra lò nghiến thịt. Lý do là những người tử trận được tiền đền bù khá nhiều và có thể được trả lương cả đời nhằm khuyến khích họ ra đi. Họ sẽ hát ngày thành hôn tôi bận đồ hành quân …. Cho thấy người Nga vẫn vui khi có chiến tranh vì được lãnh tiền vì chiến tranh.


Mình thích sự trào phúng của người Pháp vì có nhiều người đưa thí dụ như: hội phụ huynh muốn gây quỹ nên mua bột mì, đường bú xua la mua rồi bỏ công làm bánh này nọ, sau đó đem bán rồi cúng hết tiền cho chương trình. Chính phủ Macron nói bán 100 chiến đấu cơ Rafale nhưng Ukraine không có tiền thì xem như cho không. Tạo công ăn việc làm và làm giàu cho công ty chế tạo Rafale, đã giúp ông ta lên ngôi tổng thống.


Nhớ khi xưa, học lịch sử Hoa Kỳ, sau khi Hitler tự tử, nay lại nghe tin tức ở Á Căn Đình cho rằng ông này đã chạy sang Á Căn Đình sống đến chết. Quân đội đồng minh chiến thắng thì có chương trình MArshall nhằm tái thiết Tây Âu lại. Cứ tưởng tượng đang đứng giữa trung tâm một thành phố châu Âu năm 1945. Không có tiếng xe cộ. Không có tiếng rao buôn bán. Chỉ có mùi khói, những bức tường cháy xém, và tiếng bước chân nặng nhọc của những con người đang cố gắng sống sót sau một cơn ác mộng kéo dài sáu năm. Những cây cầu gãy đôi, những trường học chỉ còn là đống gạch. Những nhà máy không còn máy móc và tệ hơn tất cả: không còn hy vọng. Có thể nói là tuyệt vọng.



Hình ảnh này mình đã nhìn thấy năm Mậu Thân, khi lên phụ gia đình dì Ba Ca, xây lại căn nhà, dấu vết bom napalm vẫn đầy , nghẹt mùi cháy của bom phosphore. Hình ảnh dượng Ba Ca đứng nhìn căn nhà gỗ đã tương. Dượng và mấy người con trai mỗi ngày làm hắc-lô để xây lại. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã tài trợ một số tiền. Hình ảnh hoang tàn của chiến tranh khiến mình hoảng sợ, chả muốn đánh nhau, tham dự cuộc chiến.


Hình ảnh mình đã thấy ở Số 4 sau khi Việt Cộng rút lui và trận mưa bom napalm mà ngã từ khu vực nhà mình đứng thấy rõ các cuộc oanh tạc. Lúc đầu thấy máy bay bà già này vòng vòng rồi nghe cái tạch, rồi thấy đạn khói bay xuống đất khói bay lên rồi vài phút sau là khu trục cơ bay đến thả bom. Dạo đó chưa học hyperbol nhưng sau này lượn lên học là hiểu liền nhờ chứng kiến thật khi xưa. 


Trong bối cảnh Tây Âu thời ấy, xuất hiện một nhân vật, dáng khắc khổ, ít khi cười, nói chuyện thẳng nhưng rất chậm rãi, không ồn ào phô trương. Tên của ông là George Catlett Marshall. Trong chiến tranh, ông từng quản lý hơn tám triệu binh sĩ, nhiều hơn cả lực lượng của Mỹ ngày nay.

Ông góp phần định hình chiến lược đánh bại phe Trục. Tướng Eisenhower, cựu tổng thống Hoa Kỳ  từng nói:“Marshall là người đàn ông vĩ đại nhất tôi từng gặp.”


Nhưng điều khiến ông Marshall trở nên độc nhất không phải là khả năng chỉ huy chiến tranh mà là khả năng nhìn thấy hòa bình khi thế giới chỉ thấy tro tàn. Tương tự ngày nay, dân cư mạng cứ hô hào Ukraine phải đánh tới người dân cuối cùng. Mình xem biểu đồ ngân sách của âu châu và Hoa Kỳ viện trợ cho Ukraine từ khi cuộc chiến khởi đầu thì thất kinh, người Mỹ đóng góp rất nhiều mà nay âu châu kêu gọi đóng góp thêm khiến người Pháp kêu trời. Tiền đâu ra.


Ông Trump lên kêu không cung cấp viện trợ nữa thế là ngọng. Mình nghe nói nhưng chưa có tin chính thức là chính quyền Ukraina cũng tham nhũng lắm. Đồ viện trợ qua tay chính phủ Ukraina rồi trở lại các tay khác ở Âu châu và Hoa Kỳ. 


Trong một buổi điều trần tại thượng viện, tướng George C. Marshall ngồi im lặng trong khi các thượng nghị sĩ tranh luận, giọng nói của họ vang lên khi họ cố gắng biến chiến thắng khó nhọc của Thế chiến II thành sự trả thù. Đó là năm 1947, và châu Âu đã tan vỡ. Các thành phố nằm trong đống đổ nát, người dân chết đói, và trật tự chính trị từng gắn kết lục địa này đang sụp đổ. Toàn bộ các quốc gia đứng bên bờ vực hỗn loạn. Các người dân địa phương trả thù nhau vì tội làm pháp gian, đức gian, ý gian,… thêm Stalin cắt đất, khiến nhiều dân tộc phải rời bỏ chốn chôn nhau cắt rốn đi về một xứ nào đó họ chưa bao giờ biết. Như trường hợp bà Inge, sinh ra trong vùng đất ở Ba Lan, sau đệ nhị thế chiến bị tống cổ về Đức quốc.


Hoa Kỳ đã có thể quay lưng. Họ có thể tuyên bố chiến thắng của mình và bỏ mặc châu Âu chịu đau khổ. Nhiều người trong Quốc hội mong muốn điều đó. Nhưng George Catlett Marshall, hiện là Ngoại trưởng, lại có một tầm nhìn khác. Ông đề nghị một điều mà ít ai có thể tưởng tượng được: tái thiết chính những quốc gia mà nước Mỹ đã chiến đấu chỉ hai năm trước đó như Đức quốc và Nhật Bản thêm Ý Đại Lợi.


Ngày 5 tháng 6 năm 1947, ông đứng trên bục giảng tại Đại học Harvard, đọc bài diễn văn tốt nghiệp chỉ kéo dài chưa đầy mười phút. Không có những khoảng lặng kịch tính như mình học ở hội Toastmasters hay những lời kêu gọi cảm xúc, không có những lời hoa mỹ để nhận được tràng pháo tay. Thay vào đó, Marshall nói một cách thẳng thắn, thực tế về sự tàn phá ở châu Âu và trách nhiệm của những người đã thoát khỏi nó. “Chính sách của chúng ta không nhằm vào bất kỳ quốc gia hay học thuyết nào,” ông nói, “mà là chống lại nạn đói, nghèo đói, tuyệt vọng và hỗn loạn.” Ai buồn đời thì nghe bài diễn văn của ông ta:


https://youtu.be/dg9_GqXa770?si=Xc6IxauqhZcY-PX3


Đằng sau những lời lẽ bình tĩnh ấy là một người đàn ông đã chứng kiến ​​chiến tranh sâu sắc hơn bất kỳ ai. Với tư cách là Tổng Tham mưu trưởng Lục quân, Marshall đã chỉ huy lực lượng quân sự lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, hơn tám triệu quân dưới quyền. Ông đã giám sát mọi hoạt động, mọi kế hoạch, mọi cuộc di chuyển từ Bắc Phi đến Normandy. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ tìm kiếm sự chú ý.


Khi Tổng thống Roosevelt đề nghị ông cơ hội lãnh đạo cuộc đổ bộ của quân Đồng minh vào châu Âu, Marshall đã từ chối, chỉ nói: “Tổng thống phải quyết định nơi nào tôi hữu ích nhất.” Ông hiểu tầm quan trọng của sự lãnh đạo, nhưng ông cũng biết khi nào nên để người khác chỉ huy. Roosevelt đã chọn Eisenhower cho Ngày D, và Marshall ủng hộ quyết định này mà không hề phàn nàn. 


Giờ đây, khi sự tàn phá của chiến tranh lan rộng từ chiến trường đến sinh mạng của hàng triệu thường dân, ông Marshall nhận thấy rằng việc giành lại hòa bình sẽ đòi hỏi cùng một kỷ luật và sự hy sinh đã giúp giành chiến thắng trong chiến tranh. Ông đề xuất cái mà sau này được gọi là Kế hoạch Marshall là một nỗ lực to lớn để tái thiết Tây Âu, không phải thông qua chiếm đóng hay trừng phạt, mà thông qua viện trợ. Kế hoạch này sẽ tiêu tốn 13 tỷ đô la, một số tiền tương đương hơn 170 tỷ đô la theo giá trị hiện đại.


Kế hoạch này kêu gọi thực phẩm, máy móc và chuyên môn của Mỹ đổ vào các nền kinh tế đang bị tàn phá của châu Âu. Kế hoạch này sẽ giúp xây dựng lại các nhà máy, khôi phục nông trại và ổn định chính phủ. Nó cũng sẽ gắn kết tương lai của châu Âu với Hoa Kỳ, tạo ra mối liên kết tin tưởng thay vì oán giận. Nhờ đó mà kinh tế và kỹ thuật Hoa Kỳ phát triển rất nhanh sau cuộc chiến khiến khắp nơi thế giới, ai nấy đều có nhà và xe hơi. Một nhân công mỹ có thể nuôi một vợ và con, có chiếc xe hơi.


Trong nước, ý tưởng này đã vấp phải sự phản đối dữ dội. Những người chỉ trích cáo buộc Marshall lãng phí tiền của Mỹ, "nuôi dưỡng người nước ngoài" khi các cựu chiến binh Mỹ vẫn cần sự giúp đỡ. Tương tự ngày nay, người ta hô hào ủng hộ Ukraine đánh Puchin nhưng chả thấy ai tự nguyện lên đường sang Ukraine đánh Puchin. Một số người thậm chí còn gọi kế hoạch này là phản quốc, cho rằng nó sẽ củng cố sức mạnh cho những kẻ thù cũ như Đức và Ý. Tại Thượng viện, cuộc tranh luận trở nên gay gắt. Tuy nhiên, Marshall vẫn giữ bình tĩnh. Ông không tranh luận hay biện hộ. Ông chỉ đơn giản nêu ra sự thật và để logic của lòng trắc ẩn tự lên tiếng.


“Hoa Kỳ sẽ giúp tái thiết toàn bộ châu Âu.” Không chỉ giúp một nước, không chỉ giúp đồng minh, mà là toàn bộ lục địa chìm trong bóng tối. Ông không hứa cứu trợ nhân đạo đơn thuần mà đề nghị một phương thuốc chữa tận gốc: giúp các quốc gia tự đứng vững. Một phóng viên đã viết “Marshall không nói bằng lửa, mà bằng sự tỉnh thức.” Và chính sự tỉnh thức ấy đã thay đổi thế giới.


Trong vòng bốn năm, kết quả là không thể phủ nhận. Sản lượng công nghiệp của châu Âu đã tăng hơn 35%. Nạn đói giảm, chính phủ ổn định, và những kẻ thù cũ trở thành đồng minh. Kế hoạch này không chỉ tái thiết các thành phố mà còn xây dựng lại niềm tin vào nền dân chủ, vào sự hợp tác, và vào chính nước Mỹ. Như chúng ta thấy Tây Đức và Nhật Bản, phát triển thậm chí ngày nay người Nhật và người Nam Hàn làm cái tượng của tướng McArthur.


Công nghiệp Tây Âu vượt mức trước chiến tranh. Người dân có việc làm trở lại. Nhà cửa được xây mới. Hệ thống dân chủ được củng cố. Các quốc gia kề vai hợp tác thay vì nghi ngờ. Ngay cả những nước từng là đối thủ trong chiến tranh cũng nhận viện trợ. Marshall hiểu rằng: Hòa bình bền vững không thể xây trên lòng thù hận. Chỉ có thể xây trên thịnh vượng chung.


Do đó khi nghe thiên hạ chửi nhau này nọ. Quá dễ vì họ không phải hy sinh nhân mạng, tài chính nên tha hồ hét bus xua la mua đến tên cuối cùng cũng đánh. 


Kế hoạch Marshall trở thành nền tảng cho Cộng đồng Kinh tế châu Âu, rồi Liên minh châu Âu sau này. Kế hoạch Marshall cung cấp 13 tỷ đô la, một con số khổng lồ thời bấy giờ. Nhưng số tiền ấy vẫn chưa phải là điều đặc biệt nhất. Lần đầu tiên trong lịch sử, một cường quốc chiến thắng chọn xây dựng thay vì trừng phạt. Có lẻ ông ta học được bài học thế chiến thứ nhất, khi quân chiến thắng trừng phạt Đức quốc khiến phòng trào Đức quốc Xã lên ngôi và tìm cách trả thù.


Họ gửi lúa mì đến nuôi dân đói, gửi than để sưởi ấm mùa đông, máy móc để dựng lại nhà máy. Gửi vốn để mở lại thương cảng và gửi cả niềm tin rằng tương lai có thểtốt hơn. Một nhà sử học viết: “Kế hoạch Marshall không chỉ mang hàng hóa đến châu Âu. Nó mang lại hy vọng.”


Khi George Marshall nhận giải Nobel Hòa bình năm 1953, ông trở thành người lính chuyên nghiệp đầu tiên làm được điều này. Đứng trước khán giả ở Oslo, ông đã nhận giải thưởng với cùng một sự khiêm nhường lặng lẽ đã định hình cuộc đời ông. "Hòa bình", ông nói, “Tôi là một người lính. Tôi hiểu chiến tranh tàn phá thế nào và tôi biết hòa bình đáng giá ra sao.” Ông không nói về chiến thắng, không nói về vinh quang. Ông nói về điều duy nhất khiến chiến thắng có ý nghĩa: khôi phục lại cuộc sống của con người.


Không lâu sau đó, ông từ giã sự nghiệp chính trị. Không giống như nhiều người cùng thời, ông không viết hồi ký, không có bài phát biểu nào để tôn vinh thành tích của mình, và cũng không tìm kiếm chức vụ chính trị nào. Ông chưa bao giờ đấu tranh để được công nhận, mà chỉ đấu tranh vì kết quả. Khi ông qua đời vào năm 1959, không có tượng đài cá nhân hay lời tri ân nào được viết ra - chỉ có một di sản được khắc trên những con phố được xây dựng lại của châu Âu và sự ổn định của một thế giới mà ông đã góp phần cứu vãn.


George C. Marshall đã dành cả cuộc đời để làm chủ nghệ thuật chỉ huy, nhưng hành động lãnh đạo vĩ đại nhất của ông không đến trong chiến tranh mà là trong hòa bình. Vào thời điểm thế giới sẵn sàng trừng phạt, ông đã chọn tái thiết. Vào thời điểm cơn giận dễ dàng đến, ông đã chọn lòng nhân từ.


Ông đã chứng minh rằng sức mạnh thực sự không phải là sức mạnh hủy diệt, mà là lòng can đảm để khôi phục lại những gì sự hủy diệt đã lấy đi. Một nhà ngoại giao châu Âu từng nói: “Nếu không có Marshall, có lẽ châu Âu vẫn còn chia rẽ, đói nghèo và sợ hãi.”

Khi mình ở Pháp quốc, có viếng vùng Normandie, nơi có mấy nghĩa trang quân đội Hoa Kỳ, đã nằm xuống để “giải phóng” nước pháp. Ngược lại người Pháp rất ghét người Mỹ kêu “les amerloques” này nọ, chửi Hoa Kỳ không thương tiếc. Nếu không có người Mỹ nhảy vào cuộc chiến thì có lẻ ngày nay người Pháp nói tiếng đức. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn

Chú cứ quảng cáo chị hoài

 Chú cứ quảng cáo chị hoài

Hôm nay đi tập, gặp một hội viên đã trên 8 bó mà sáng nào, 5 giờ sáng cũng chịu khó tự lái xe, đến Đông Phương Hội tập. Chị ta chịu khó nên sau hơn 1 năm thấy chị ta khoẻ hẳn ra. Hôm trước, chị ta cầm cuốn niên giám và với hai tay không tự xé cuốn niên giám. Về nhà thử lại xem có làm được không thì thấy xé niên giám dày hơn nên mừng lắm. Cảm ơn Khoa ná thở. Ăn ngủ được, đêm chưa qua mà trời sao vội sáng. Hôm trước, thấy chị dẫn một chị bạn đến Đông Phương Hội tập nhưng sau một ngày thì chị này trốn luôn. Mình kể về sự thành công của chị sau 18 tháng tập với Đông Phương Hội. Tình cờ chị ta có đọc bài nên kêu mình quảng cáo chị hoài. Mình nói đồng chí gái mê ăn hồng mà chị cho hồng nhà chị nên phải cảm ơn lăng-xê chị một tí để đồng chí gái được ăn lộc hồng.

Mình tập với Đông Phương Hội đã trên 18 năm nên thấy thiên hạ đến tập đông như quân Nguyên nhưng chỉ có ít người trụ lâu lắm. Thêm Khoa cũng không muốn lớp đông quá vì khó theo dõi, hướng dẫn họ. Hướng dẫn không lấy tiền nên cũng chọn lựa người tập. Có người tập mấy tháng, xin tập tiếp nhưng Khoa từ chối. Lý do là mới tập mà đã quay video, hướng dẫn thiên hạ trên mạng. Vụ này nguy hiểm vì khiến người xem hiểu sai cách tập. Mình tập đã trên 20 năm mà vẫn chưa đúng lắm vì cơ địa thay đổi khi tập theo thời gian. Khoa sửa hoài nhưng đó là cái may vì càng tập càng thấy mình chưa đúng. Cần tiếp tục tới khi không còn tập được nữa. Khi thì ngón tay hơi bị cứng vì gồng nhưng từ từ nhả được, tay nhẹ nhàng như phát lực ra được nếu cần.


Có ông Mỹ tập Vịnh Xuân Quyền, chuyển đến Quận cam nên đi kiếm võ đường tập Vịnh Xuân Quyền nên mò đến tập. Kể là lúc đầu tập Vịnh Xuân Quyền nhưng dần dần Khoa cho tập Nội Công Hồng Gia và Thái Cực Quyền là chính, chỉ tập riêng Vịnh Xuân Quyền với Khoa. Có lần ông trở lại thăm võ đường xưa, giao thủ với các sư huynh khi xưa. Ông ta ngạc nhiên là ông ta đàn áp các sư huynh khi xưa, từng khệnh ông ta. Trên nguyên tắc thì các sư huynh này cũng tập rất nhiều nhưng không áp đảo được ông ta như xưa. Cho thấy phương pháp Khoa cho tập tại Đông Phương Hội rất hiệu nghiệm.


Hôm trước, có một hội viên kêu người ta nói già không nên đi bộ khiến mình buồn cười, nói là họ lười nên nói vậy. Nếu mở YouTube hay mạng xã hội sẽ thấy các guru về sức khoẻ dinh dưỡng kêu không nên đi bộ mà chỉ tập mấy thế của họ chỉ để họ được lãnh tiền của mạng xã hội. Họ đánh vào tâm lý con người, thích làm theo năng suất hưởng theo nhu cầu nên bú xua la mua, tạo lòng tham con người. Trên thực tế thì đói thì vào bếp.


 Khoa giải thích cho anh ta là đi bộ thì trọng lượng cơ thể sẽ đè xuống hai chân và sẽ có một phản lực từ dưới chân bật lên lại. Lâu ngày sẽ làm đau đầu gối hay hông này nọ. Nhưng nếu chúng ta đi với tư thế như cái lò-xo thì trọng lượng cơ thể của chúng ta sẽ được giảm nhẹ và ít tác động vào đầu gối. Mình tập leo núi với cách đi như vậy thêm Khoa chỉ mình cách thở khi đi bộ cũng như khi tập nội công Hồng Gia và Thái Cực Quyền. Kết quả là mình đi hành hương bên Ý Đại Lợi tháng 9-10 vừa qua, 325 cây số không mệt, mỗi ngày đi bộ từ 30-40 cây số, không cần nghỉ ngơi, ăn gì cả. Chỉ ngưng lại mỗi tiếng để uống 2-3 ngụm uống nước như ông thần người nhái mỹ chỉ mình khi tập luyện trước cuộc hành hương. Mất độ 1 phút để uống nước. Nhất là leo núi vùng Toscana mỗi ngày leo độ 3,000-4,000 cao bộ. Đi xong chuyến này mới thấy tập theo phương pháp của Khoa quá hay. Mình thấy đa số người đi hành hương, đi nhanh hơn mình nhưng họ ngưng khá lâu để ăn snack và uống nước nên cuối cùng về đến nơi cùng lúc với mình. Mình thì đi chậm theo hơi thở vì hơi thở càng chậm thì càng ít mệt. Không bị áp huyết lên cao này nọ.


Sáng thì ăn sáng ở khách sạn, nhà nghỉ, nhiều chỗ ăn ngon nhiều chỗ cho ăn ít. Nên đi một lèo từ 8-9  giờ sáng đến, 3, 4 giờ chiều, có khi đến 5 giờ chiều vì đường lên núi khá cao và dài. Đến nơi tắm rửa xong thì lại phải đi vòng thăm quan thành phố vì tiệm ăn mở cửa vào lúc 7 giờ tối nên thêm vài cây số. Ăn tối thì mình ăn đầy đủ, như món xà-lách mixta trước, rồi salame, prosciutto, …. Sau đó đi một vòng vài cây số rồi về nhà nghỉ ngủ.


Có vài người còm hỏi mình về tập Nội KÌnh Nhất Chỉ Thiền thì mình có mời họ đến võ đường để giải thích rõ ràng. Lý do là đọc bài thiên hạ viết trên mạng rất khó nhận ra. Chỉ có so tay, giao thủ mới giải thích cho họ hiểu được lực từ đâu đến. “toi co tap nhiet than phap 1-2 nam . nhung Khong nam duoc. yeu linh

de dat ket qua tot. xin. anh son cho biet o dong Phuong hoi , khi tap” hay có người kể là có đọc bài ai viết trên diễn đàn kỹ thuật khi xưa

 “HOI 2005 , TOI CO LEN DIEN DAN THAI CUC DOC BAI , LAM QUEN DUOC

VOI 2 MASTER NGUOI THU 1 VIET BAI NGU HANH TRAM TRANG CONG

CO TEN LA MOTGIOT , NGUOI THU 2 CO TEN LA TVTT , HINH NHU LA

THAN VO TRAM TRANG , NHO 2 MASTER NAY MA TOI HIEU THAU VA

TAP THANH TRAM TRANG CONG.

SAU DO NHU GIAO LUU VOI TVTT TREN EMAIL , TOI NGO DUOC CHU

KHONG VA DI VAO DUOC THIEN SHITANKAZHAI CUA NHAT.

SAU VI CHICH THUOC COVID 19 , NGUOI TOI MAT HOA NHIET ,

BAT BAU LANH LAI . TOI MOI TAP NGHIEM TUC LAI TU THANG 3

CHUYEN GI DUNG THI TOI NOI RA , TVTT CUNG LA 1 GIAO SU GIOI”.


Mình trả lời đến Đông Phương Hội để Khoa giải thích nhưng ông ta kêu già rồi, chỉ hỏi cho biết. Còn người thứ 2 kể thì mình thất kinh. Ông ta cho biết ngộ được qua email với TVTT. Ông thần võ, ngày nay bị gắn mấy cái stent, khi xưa là một võ sư giỏi nhưng sau này bị trật cột sống nên không biết có tập hay không, chỉ theo dõi thì được biết anh ta trẻ hơn mình, vào nhà thương mấy lần, bị gắn mấy cái stent. Nên chắc cũng không tập luyện gì nữa, ngoài bàn phím. Phương pháp nào cũng hay mà nếu không tập thì bù trớt.


Khi xưa mình cũng mê đọc bài của ông thần này lắm. Anh ta có dạy mình bài Bạch Hạc Triều Dương, nhờ anh ta mình mới gặp được Khoa và tập với Khoa từ 18 năm qua. Có ngưng vài năm vì gia đình con dại và covid. Khi mình tập bài Tiểu Niệm Đầu của Vịnh Xuân Quyền, thay vì 5 phút, có hôm Khoa kêu tập 45 phút thì mới cảm nhận cơ thể mình, các đốt xương từ tay, chân đều liên kết, nối kết với nhau như các bánh xe của cái đồng hồ, xoay chậm chậm rồi từ từ đổi kim đồng hồ.


Hôm đó mình giác ngộ một điều là nên bỏ đọc những gì trên diễn đàn võ thuật mà chú ý, để ý đến cơ thể mình khi tập. Lý do là họ chưa tập tới đó nhưng nghe Kim Dung hay ai đó nói nên viết lại theo sự hiểu biết của họ nên sẽ khiến người ta đi xa rời thực tế vì tập luyện mỗi ngày như sắt phải nung lửa đỏ rồi lấy búa đập cho dẹp uống nắn theo ý của mình. Còn mấy vụ thiên hạ kể trong truyện kiếm hiệp thì quên đi. Như tập Thái Cực Quyền mình cũng chả nhớ tên mấy thế tập nữa chỉ chú vào hơi thở, chân bước, trọng lực cơ thể,… Từ từ mới nhận ra hơi thở là nguồn chính để tạo lực. Cách chuyển động eo chân tay mới tạo ra lực. Nếu trong tích tắc hơi thở mình bị ngưng thì lực cũng bị ngưng. Càng tập Khoa càng chỉ ra những điểm hay trong cơ thể mới từ từ hiểu được Hàm hung bạc bối là sao, hư linh đỉnh kình. Lực như dòng nước chảy chậm hay nhanh tuỳ cơ thể dao động.


Dạo này mình tập lại bộ nội công số 1 thì cảm nhận cơ thể khác với khi xưa tập. Nếu mình không tập đơn nội công Hồng Gia đúng thì bộ nội Hồng Gia có tập cũng không hiệu nghiệm gì cả. Chỉ là múa cho vui đời cô lựu khóc Út Trà Ôn tình anh bán chiếu. Hơi thở phải đi liền với cử động mới tạo được lực, không bị mất vì khi ngưng thở trong giây lác là ngọng cũng như cơ thể có thể bị cứng, gãy ở các khớp xương như ở vai, cổ tay là hết tạo lực. Do đó mài hơi thở rất quan trọng. Mình đi bộ cả ngày leo núi mà không mệt nhờ mài hơi thở.


Có lần mình mới vào võ đường, Khoa kêu mình lại rồi nhờ một anh tập chung, nghe nói 4 đẳng Hiệp Khí Đạo, anh ta có dạy vào cuối tuần cho hội đoàn nào, mình không rõ. Nói anh ta tìm cái khoá tay mình, mình chả biết ất giáp gì cả, thấy anh ta khoá tay thì mình nương theo lực của anh và xiả ngón tay như Nội Kình Nhất Chỉ Thiền thì anh kia chới với mình rút tay về. Sau mới hiểu là cuối tuần vừa qua, anh ta trả tiền đi học seminar họ dạy về cách khoá tay khoá cẳng thiên hạ. Khoa giải thích là không nói trước để xem mình có thể phá được không. Vì nếu nói trước thì mình sẽ cẩn thận hơn. Để xem mình phản ứng thế nào.


Nếu anh là bác sĩ mà không đi thực tập lâm sàng thì có đọc sách nghiên cứu cả ngàn cuốn sách cũng không cứu được bệnh nhân. Anh là kỹ sư mà không đi thực tế thì cũng khó mà rút kinh nghiệm để trở thành kỹ sư giỏi. Vì lý thuyết đến thực hành là một trời một vực. Thêm nếu anh có học đủ thứ mà không có thể lực thì cũng bỏ đi. Có ông thần nào ở võ đường Hồng Gia Việt Nam cứ đi mấy võ đường thách đấu. Có lần ký giấy tờ đấu với võ sĩ Phan Nam, ông Nam này thấp bé hơn nhưng thể lực mạnh nên sau vài phút là đo ván ông thần chuyên môn đi thách đấu, nghe nói nay bỏ nghề thách đấu.


Mình theo chủ nghĩa tắm heo, cứ tập đều đặn mỗi ngày thì được sức khoẻ. Còn muốn trở thành cao thủ bàn phiếm thì để ai đó làm để thoả mãn cái tôi của họ. Có lần mấy hội viên mời ông sư nào đến nói về thiền và ý chí. Ông ta cho biết phải luyện ý chí để vượt qua đau đớn, biến đau thương thành hành động cách mạng. Đến khi ông ta nhờ Khoa chẩn lại xương cốt vì đau. Khoa mới vặn có chút xíu là ông ta dãy nãy kêu đau đau thầy. Cho thấy nói là một việc, ai cũng nói được nhất là những người có khoa ăn nói nhưng đụng chuyện thì vẫn Chán Mớ Đời 


Có nhiều người rên là tập từ 5:30 sáng mỗi ngày ở Đông Phương Hội quá sớm cho họ nên có anh tập chung là võ sư lâu năm sẽ bắt đầu hướng dẫn lớp khí công ở Huntington Beach vào chiều thứ tư mỗi tuần tại Murdy Community Center, xin liên lạc với anh Dennis Lam 714-262-8274.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Sơn tinh và Thuỷ tinh thời A-còng

 Sơn tinh và Thuỷ tinh thời A-còng



Xưa thật là xưa, dưới thời A-còng có một ông vua rất thương dân, quý dân và làm đày tớ nhân dân. Ông ta có 1 hoàng tử rất cá tính, thông minh, tuấn tú. Học cực giỏi dù chả chịu học nhưng thi đâu đậu đó vì các giáo sư không dám cho điểm thấp, sợ bị chém đầu. Tốt nghiệp phổ thông thì hoàng tử muốn đi du học bên tây. Sang đây hoàng tử quen một cô trong nhóm Femen, cứ chạy ra đường ở Paris , phang ngực, viết gì trên người chả ai hiểu. Từ từ hoàng tử học được tinh thần cách mạng của thực dân tây như ông cố khi xưa, về nước tự nguyện sẽ làm cách mạng như các nhà yêu nước khi xưa, đi tây học làm cách mạng rồi về Việt Nam, thực thi những gì ông tây bà đầm dạy để trở thành một Femen tại Việt Nam.

Thấy ảnh trên mạng thì đẹp như ứng dụng mà khi công an dìm hàng là ngọng. 

Về nước, chả làm gì vì hoàng tử đâu có học bên tây đâu, tối ngày cứ chở cô đầm ra đường phanh ngực. Một hôm đột phá tư duy ra sao, hoàng tử nhưng lại muốn đi thi hoa hậu hoàn vũ để cho thế giới biết người Việt chúng ta rất đổi mới, tiếp cận với tư duy hoành tráng của tây phương nên thưa với hoàng hậu thế là hoàng hậu kêu nô tỳ, đăng ký và cho hoàng tử đi viện thẫm mỹ cực kỳ nổi tiếng tại xứ @ Lisa-Tomorrow. Sau vài tiếng đồng hồ hoàng tử đẹp như tây đầm, được đại diện xứ @ đi thi hoa hậu hoàn vũ.


Đi thi không hiểu sao chúng đánh rớt ngay vòng thứ 1 nên hoàng tử buồn đời, kêu công an bắt vợ chồng tên viện thẩm mỹ đã tân trang tune-up cho mình khiến rớt ngay vòng đầu tiên. Hoàng tử Chán Mớ Đời kêu vua cha muốn lấy chồng khiến vua cha cứng họng nhưng chiều con nên hạ lệnh tuyển chọn phò mả. Thế là cả nước reo mừng được nghỉ lễ, đi xem diễu hành, dân tình từ khắp nơi của xứ @, kéo nhau về để xem nhà vua tuyển chọn phò mả.


Nghe tin hoàng tử kén phò mả nên ai cũng nô nức về thủ đô xem nhà vua kén chồng cho hoàng tử. Trong số dự thi có hai ông thần đại gia tên Sơn Tinh, con của Hoàng Liên Sơn, vua núi và Thuỷ Tinh, con của Hà Bá, vua sông ngòi. Nghe tin hai ông đại gia này tham gia nên các thí sinh, con cháu cán bộ cao cấp đều rút lui để hai ông này so tài để làm phò mả làm chồng hoàng tử.


Vua cha kêu hai khanh đều tài ba, con nhà có lý lịch 3 đời trích dọc trích ngang quá chuẩn nên ta không biết chọn ai. Vậy thì theo truyền thống của người tây phương, nguyên tắc “first come first serve” sẽ được thi hành. Sáng mai mặt trời mọc ai đến trước, đem sính lễ dâng cho ta, sẽ được hoàng tử chọn là phò mả, rước dâu.


Nhà Sơn Tinh trên núi, bố hắn lâu nay đốn cây chặt rừng để xây thuỷ điện, đem điện nước đến cho dân tình và luôn tiện làm giàu vì trên núi khó mà tiếp cận đến các mặt hàng khác. Nghe tin con muốn làm phò mả nên bố Sơn Tinh ra lệnh chặt cây để làm đường Prenn, hắn tức tốc chở 12 chiếc xe tải, đựng các tấn gỗ lim đã được người dân trên núi chặt suốt mấy năm qua, làm sính lễ để vua xây cung điện hoàng cung. Còn Thuỷ Tinh thì sống ở biển nên tương đối dễ, chỉ lấy ca nô chạy cái vèo là về thuỷ cung. Kêu quân lính đi bắt hải sản để sáng mai chở mấy container vào hoàng cung dâng lễ. 


Tối đó, Thuỷ Tinh buồn đời vì ngày mai phải giả từ đời con trai, mộng ước thật nhiều để đi lấy vợ, nghe một tên cận thần kêu rằng ngày mai ngài đi lấy vợ, làm phò mả thì tối nay chúng ta cùng nhậu một bữa không say không về. Sau màn nhậu, lại hát karaoke thêm tăng 3, 4 gì nữa nên mệt quá ngủ đến trưa hôm sau.


Khi thức giấc thì Thuỷ Tinh nổi giận kêu lính hầu ra chém, bảo sao không kêu tao dậy rồi 3 chân 4 cẳng chạy ca-nô, kéo mấy chiếc tàu đầy container vào thủ đô. Vì để thuỷ sản trong container đến trưa nên bốc mùi khiến dân tình đứng xem, nghe các diva nghệ sĩ nhân dân ưu tú hét “ô kìa ai như hoàng tử đi với ai giống như Sơn Tinh…” thở không được nên bỏ chạy tán loạn hết.

Thấy họ đăng kêu là đường xe lửa nên hơi căng. May quá tính về Việt Nam đi xe lửa từ Nam chí BẮc.

Thuỷ tinh vội vàng chạy vào hoàng cung thì than ơi đã thấy Sơn tinh đang tay bế tay bồng hoàng tử lên xe SUV hiệu Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen chạy về núi. Thuỷ Tinh réo gọi ơi hoàng tử sao bỏ anh ra đi như thuyền ra cửa biển để cho lòng anh tan nát như cái bánh bao chiều.


Tức giận vì bị phổng tay trên nên Thuỷ Tinh thắp ba cây hương khấn nguyện tổ “Phong Thuỷ” làm mưa làm gió để cho lụt căn nhà ngoại ô của Sơn Tinh giúp cho hắn và kẻ bội tình chết luôn. Mưa khiến nước dâng nên bố của Sơn Tinh sợ vỡ đập nên kêu tên quan Quy Trình xả lũ thế là con dân miền đồng bằng đồng núi gì bị ngập nước tới nóc. (Còn tiếp)


Chán Mớ Đời 

Lũ lụt Đà Lạt Lâm Đồng - 2025

 Lũ lụt và xây dựng

Mấy tuần nay thấy tin tức ở Việt Nam bị lụt khắp nơi nhất là miền trung. Sáng nay thấy hình ảnh lũ ở Đức Trọng khiến mình chới với. Các hình ảnh thật đau lòng mà cũng có nhiều người muốn làm tiền nên bựa thêm mấy cái clip AI khiến thiên hạ không biết đâu là sự thật. Làm tiền trên sự đau khổ của thiên hạ. Đà Lạt thì thấy đèo Prenn bị đất trùi hay đường xuống Nha Trang cũng banh ta lông dù mới làm. Vụ này thì mình không ngạc nhiên vì mấy lần trước về Đà Lạt, anh bạn học xưa đón ở phi trường Liên Khương rồi chạy lên Đà Lạt, và nói đèo Prenn mới làm khiến mình thất kinh. 

Đường đèo Prenn mới xây xong cách đây đâu 2 năm hay 1 năm
Chúng ta thấy bờ talus được xây để  chấn đất ép từ đường đèo rất ngắn. Xem hình dưới sẽ thấy talus đường đèo khi xưa do người Pháp hay đệ nhất cộng hoà thực hiện dù đường nhỏ hẹp hơn hiện nay. 
Chúng ta thấy talus được xây cất thời Pháp hay Việt Nam Cộng Hoà. Tường talus rất cao. Họ phá núi, lấy đá làm tường talus tại chỗ. Nếu để ý phía sườn núi, đồi có cái mương để hứng nước mưa chảy xuống và được thoát qua các ông cống thóat nước, được chôn dưới mặt đường thông qua để đổ nước xuống bên kia, tránh đất trùi, không thấy trong hình

Trước đó mấy tháng mình có đi mấy nước của Liên sô cũ thấy họ làm đường ở mấy đường núi như đèo Prenn. Bên sườn núi thì hơi xây một cái mương rất lớn để hứng nước mưa chảy trên cao xuống. Ngoài ra còn có phủ lưới trên sườn núi để tránh đá rơi xuống lăn ra đường có thể gây tại nạn cho xe đang lưu thông trên đường. 




Từ mấy cái mương như vậy thì cứ độ 100 thước là có một ông cống thoát nước to đùng được đặt sâu dưới đường qua phía bên kia đường. Ở đèo Prenn thì mình không thấy họ gắn mương xi măng ven sườn núi. Cố xem có ống thoát nước phía bên kia đường cũng không. Có thể có nhưng rất ít nên không thấy. 


Trong vườn mình nằm trên đồi nên ngay con đường chính cắt ngọn đồi làm hai cũng phải làm mương dọc theo đường này và cứ cách độ 50 thước đều có cái hố thấp để nước hai bên sườn đồi chảy xuống và được nối với ống cống thoát nước được chôn dưới đường băng qua đường để đổ nước chảy từ trên đồi xuống. Năm nay, mình kêu họ đổ thêm mulch ở vườn rồi dùng Bobcat, chở rãi bên sườn đồi để chận nước và dưới chân các cây bơ, giúp làm đất mát, không bị nắng làm khô thêm lâu ngày sẽ ran rã để thành phân bón. Có nhiều công ty họ chặt cây, cưa cây rồi nghiền nát lá và cành cây cũng như thân cây rất nhỏ. Thay vì đem đến bãi đỗ rác phải trả tiền, mình kêu họ đem lại vườn mình đỗ giúp họ tiết kiệm tiền và mình có phân bón hữu cơ.


Hồi mình mới mua cái vườn, trận mưa đầu mùa thấy đất cát trên đồi công viên của quận Riverside nằm ngay phía sau lưng vườn, nước mưa chảy như thác kéo theo phù sa làm nghẹt mấy cái công thoát nước xuống vùng sâu. Bùn lầy làm ngập con đường của khu dân cư phía dưới khiến mình ngọng. May là họ không bắt mình đền. Không phải lỗi mình, HOA đi réo thành phố bù lại tiền cho họ. Từ đó mình đi mua bao cát với xin báo cát ở các trạm cứu hoả. Xúc đất cát bỏ vào rồi chấn lại thành mấy cái đập nhỏ nên nay hết nạn này, thêm mình lấy mulch miễn phí đắp phủ lên cả vườn nên hết sợ thằng tây nào.


Ai muốn xin mulch ở miền nam Cali, có một website hay nhiều nơi mình chỉ biết một, vào đó ghi tên xin rồi họ đem lại nhà bỏ trên Driveway cho. Miễn phí.

Đây hình ảnh bên sườn đồi ở Ý Đại Lợi thấy khi đi hành hương 325 km trên núi. Họ lấy cây để chèn làm talus chống đất bị trùi. Như vậy có không gian để nước rỉ qua không phá vỡ bức tường này. Rất giản dị.

Mình xem lại những tấm ảnh đèo Prenn trước 1975 thì thấy các talus mà người Pháp hay Việt Nam Cộng Hoà xây cất thì thấy rất cao trong khi ngày nay, độ 1.5 mét hay ngắn hơn nên khi mưa nước đọng lại là  banh ta lông. Có lần về Đà Lạt, mình đi Phan Rang để thăm cái làng cô nhi, tài xế sợ không dám chạy đường xuống đèo Ngoạn Mục nhưng nể tình mấy ông cha ở Lạc Dương nên nhận tiền chở mình đi. Lý do là sợ xe hư vì đường đang được thi công và bị bỏ dỡ, đợi đội vốn. Khúc đường nào mà Hà Nội làm thì đều bị ổ gà trong khi khúc do người Pháp xây thời tây thì không gì cả, chạy xe sướng. Mình nhớ khi xưa đi NInh Chữ với bạn học 2 lần, đường ngon ơ lắm. Chỉ khi họ muốn nới đường rộng hơn là có chuyện. Thấy các xe máy cày dùng để bừa các con đường mới bị quăng một đống bên đường. Nghe nói đường này dã được làm lại ngon như đường cao tốc Đà Lạt-Nha Trang.


Mình xem lại hình ảnh thời tây và dưới thời Việt Nam Cộng Hoà thì nhận thấy thời tây, Đà Lạt chỉ có đồi núi nhiều như đồi Cù. Đọc đặc khảo địa lý về Đà Lạt thì khám phá ra dưới thời đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà có chương trình trồng cây và bảo vệ rừng, gắn với mục tiêu biến Đà Lạt thành “thành phố nghỉ mát kiểu châu Âu” của miền Nam Việt Nam như người Pháp đã thiết kế.

Chính quyền Đệ Nhất Cộng Hoà ban hành nhiều sắc lệnh về bảo vệ rừng ở cao nguyên Lâm Viên, do lo ngại: nạn phá rừng lấy gỗ thông, cháy rừng mùa khô, nguy cơ xói mòn đất quanh hồ Xuân Hương, hồ Than Thở. Sau 75, họ có vét hồ Xuân Hương một lần.


Tại Đà Lạt, chính quyền địa phương và Nha Kiểm Lâm thực hiện những việc sau: Trồng mới các đồi thông quanh Trại Mát, Chi Lăng, Cam Ly và đường lên Lang Biang. Phủ xanh lại những sườn đồi trọc bị đốt rừng trước 1954. Lập các khu vực rừng phòng vệ để bảo vệ nguồn nước cho hồ Suối Vàng và hồ Đan Kia.

Nhiều người lớn tuổi còn sống tại Đà Lạt ngày nay vẫn nhớ các phong trào “Tuần lễ trồng cây” và “Thanh niên trồng rừng” thời đó. Để mình kiếm mấy tấm ảnh này tải lên đây vì có thấy.

•..

Trong giai đoạn Đệ Nhất Cộng Hoà (1955–1963), Đà Lạt không chỉ được coi là trung tâm nghỉ dưỡng cao nguyên mà còn là hình mẫu của một “thành phố vườn” (cité jardin) như người Pháp đã khởi đầu với làng Decoux ở gần trường Trần Hưng Đạo. Nơi cảnh quan thiên nhiên gắn liền với định hướng phát triển đô thị của chính quyền Ngô Đình Diệm. Từ nhu cầu bảo vệ rừng thông vốn là “linh hồn” của thành phố, cho đến tham vọng quy hoạch Đà Lạt theo tiêu chuẩn châu Âu, thời kỳ này đánh dấu nhiều chương trình trồng cây quy mô, để lại dấu ấn kéo dài đến tận ngày nay.

Khi xưa thời ông Diệm có chương trình trồng cây 

Sau 1954, làn sóng di cư từ đồng bằng và miền Bắc theo đường quốc lộ 20 đưa hàng nghìn người lên vùng cao. Việc mở rộng đất ở, khai thác gỗ, đốt nương xảy ra nhanh hơn khả năng kiểm soát của chính quyền. Những năm 1956–1958, Sở Kiểm Lâm báo cáo: nhiều khu đồi quanh Trại Mát – Cam Ly bị đốt trọc. Theo mình hiểu thì sau khi ông Diệm bị đảo chánh thì người Đà Lạt tiếp tục chặt cây làm củi trong núi Cam Ly. Việt Cộng đóng quân ở đây và thu thuế dân làm củi. Có đụng độ sau Mậu Thân, một tiểu đoàn Biệt Động Quân, bị phục kích khiến có 25 chiến sĩ tử thương đem về nhà xác của nhà thương Phương Lan. Mình có kể vụ này rồi. Rừng thông ven hồ Xuân Hương bị chặt lấy củi, nguy cơ xói mòn đất đe dọa các hồ nước nhân tạo, vốn là điểm nhấn của Đà Lạt từ thời Pháp.


Tình hình này khiến chính quyền Ngô Đình Diệm coi việc trồng mới và bảo vệ rừng là nhiệm vụ cấp thiết để ổn định cảnh quan, nguồn nước và du lịch. Chính quyền Ngô Đình Diệm đặt mục tiêu làm Đà Lạt thành “thành phố vườn”, theo mô hình French Alpine towns mà người Pháp để lại như: Trồng cây xanh dọc các trục đường trung tâm: đường Yersin, Duy Tân, Hàm Nghi, Trần Hưng Đạo. Tăng diện tích công viên: Công viên Bích Câu, công viên quanh hồ Xuân Hương. Trồng hồng, mimosa và anh đào Nhật Bản (một số giống du nhập từ thời Pháp, nhưng mở rộng thời Diệm). Mình có chị bạn, bố mẹ chị ta quên bố mẹ mình khi xưa, có vườn hồng ở đèo Prenn. Hình như ở gần hãng cưa Xu Tiếng, có một vườn hoa hồng bán cho Sàigòn.


Mình đọc đâu đó, khi ông Diệm lên Đà Lạt kinh lý thì thấy cây bị chặt nên tra hỏi mới khám phá ra ty kiểm lâm chặt mấy cây gần dinh Bảo Đại đề phòng cháy rừng.


Dù nghề trồng hoa đã có từ thời Pháp, bố một anh bạn học, được người Pháp đưa từ Hà Nội vào Đà Lạt để trồng hoa và rau quả, ở ấp Hà Đông nhưng đến thời chính phủ Ngô Đình Diệm: có chính sách hỗ trợ nông gia trồng hoa, đặc biệt ở Thái Phiên và Trại Hầm; phát triển mô hình “Đà Lạt – thành phố hoa” để thu hút du khách và giới chức nước ngoài. Điều này giúp mở rộng nghề trồng hoa cúc, lay ơn, hồng và mimosa.


Tổng thể kế hoạch khai phá Tây Nguyên của chính phủ Ngô Đình Diệm, có các trại canh nông, có mấy đồn điền của người Pháp, vẫn tiếp tục ở lại Đà Lạt làm ăn đến khi Mậu Thân thì sợ quá bỏ chạy hết ngoại trừ gia đình Farault. Các khu định cư người Việt di dân lên cao nguyên, đa số là người bắc di cư vào nam năm 1954. Chương trình phủ xanh đất trống, đặc biệt bằng thông 2 lá và 3 lá. Trong đặc khảo có nói đến vụ này nhưng rất dài nên bác nào tò mò thì kiếm đọc.


Nhiều khu thông ngày nay quanh đèo Mimosa, đèo Prenn và hướng Trại Mát, Trại Hầm là kết quả giai đoạn này. Thậm chí trên đồi của dinh tỉnh trưởng, xem các hình ảnh cũ của Đà Lạt thấy lơ thơ vài cây nhưng sau chương trình này cây thông mọc um tùm. Mình đi thăm mộ ông cụ ở nghĩa trang ở Trại Hầm thì thấy thiên hạ đốn khá nhiều cây thông. Để làm nhà, nghe nói nay họ cấm khu vực này. Nhưng vẫn thấy thiên hạ đốt rể của cây để kêu cây chết nên phải chặt.


Theo tài liệu đọc được thì Chiến dịch Trồng rừng và Bảo vệ rừng (1958–1963) của chính phủ Ngô đình Diệm, được phát động nhiều đợt: Tuần lễ trồng cây, Phong trào thanh niên trồng rừng, Ngày thông non, do các đoàn thể như Hướng đạo, Thanh niên Công giáo, Nữ sinh Bùi Thị Xuân và Trần Hưng Đạo tham gia. Không thấy tên các trường tư lập. Các đồi thông ngày nay trên đường đèo Prenn, Mimosa, hướng Trại Mát và Liên Khương đều xuất phát từ các đợt trồng rừng giai đoạn 1950–1960.


Các khu vực được phủ xanh mạnh nhất: Đồi thông Cam Ly, dốc Chi Lăng – Trại Mát, vùng ven hồ Xuân Hương, đồi ven đèo Prenn và Mimosa, sườn núi Lang Biang.

Cây trồng chủ yếu: thông 2 lá (Pinus merkusii), thông 3 lá (Pinus kesiya), một số đợt thử nghiệm thông Đà Lạt lai giống do chuyên viên lâm nghiệp Pháp để lại. Mỗi năm hàng chục nghìn cây giống từ Trại Thực nghiệm Lâm sinh được đem trồng. Xin nhắc lại hàng  chục nghìn cây giống.


Chính quyền thiết lập khu rừng phòng vệ Suối Vàng – Đan Kia nhằm giữ nguồn nước cung cấp cho toàn bộ Đà Lạt. Người dân bị cấm xâm canh, đốt rừng trong phạm vi gần hồ và các thượng nguồn.


Nghề trồng hoa vốn hình thành dưới thời Pháp được chính quyền Ngô đình Diệm hỗ trợ bằng: khuyến khích mở rộng diện tích hoa cúc, lay ơn, hồng, hỗ trợ giống và phân bón cho nông dân Thái Phiên – Trại Hầm, các cuộc triển lãm hoa dịp lễ Quốc khánh hoặc lễ hội mùa xuân.

Nhờ đó Đà Lạt dần trở thành “thành phố hoa”, nổi tiếng với mimosa và dốc anh đào mỗi độ tết đến. Mình xem hình xưa thì đường Lê Đại Hành hình như mới tròn cây Mai mà đến gần Tết là nở rộ hoa Mai, thiên hạ ngày nay kêu hoa Anh Đào. Mình có thể loại này tại Seattle. Mình nghe kể này mỗi lần có festival hoa ở Đà Lạt thì lại đi mua hoa ở mấy thành phố khác để cán bộ có cơ hội bỏ túi. Em nghe từ cán bộ có trách nhiệm, làm festival.


Vấn đề là đến khi ông Diệm bị lật đỗ thì Đà Lạt bắt đầu te tua. Có thể đổ lỗi cho chiến tranh nhưng theo mình thì chế độ đệ nhị Cộng Hoà, có nhiều quan chức tham nhũng như khách sạn Mộng Đẹp và nhà hàng La Tulipe rouge, không có trong quy hoạch thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn duy Đức, người thiết kế chợ Đà Lạt và kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, thiết kế hai dãy phố dưới chợ Đà Lạt, và hai cầu thang nối khu Hoà BÌnh với Chợ Mới. Theo bản vẽ thiết kế thì hai khu vực này là vườn hoa, công viên. Sau 1963, thầu khoán Nguyễn Linh Chiễu chạy chọt sao được mua đất và xây khách sạn Mộng Đẹp còn không biết ai đã mua đất xây vũ trường La Tulipe rouge (có thời mang tên Maxim’s).

Đây là quy hoạch của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ xung quanh khu vực Chợ Mới Đà Lạt. Không có khách sạn Mộng Đẹp và nhà hàng La Tulipe rouge

Nghe kể ông Trần VĂn Phước, cựu thị trưởng Đà Lạt, người đã đứng ra đi vay tiền để xây chợ Đà Lạt. Sau 1963, bị câu lưu điều tra có ăn hối lộ, tham nhũng nhưng sổ sách rất rõ ràng. Thời ông này làm thị trưởng, Đà Lạt được xây cất nhiều nơi, phát triển rất hay. Sau 1963 xem như Đà Lạt hết phát triển. Nhà cửa xây bú xua la mua không còn như kiểu xưa, được người Pháp chỉ định. Như khU Hoà BÌnh, chỉ có hai 2 tầng, sau 1963 thì xây lung tung xèng.

Thiết kế quy hoạch lúc đầu, khu vực khách sạn Mộng Đẹp và nhà hàng La Tulipe Rouge, được sử dụng làm công viên để người Đà Lạt có thể ghé lại ngắm hoa và ngồi ghế đá công viên để trai Đà Lạt sẽ không bao giờ hát anh còn nợ em công viên ghế đá như ngày nay.

Ngoài ra có một số lâm tặc Đà Lạt, ăn thông cúng tiền cho Việt Cộng để chặt cây đem bán cho Nhật Bản. Tạo dựng vài đại gia Đà Lạt khi xưa. Không dám nêu danh. :)


Thêm chính quyền Sàigòn đưa thương phế binh lên Đà Lạt, khiến họ cắm dùi, rồi dân tình bắt chước cắm đùi đủ trò. Còn ngày nay về Đà Lạt thì họ chỉ chặt cây chớ không có trồng.


Mình tiếc cho Đà Lạt là các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở để phát triển du lịch, giúp du khách đến Đà Lạt an toàn nhưng không hiểu lý do họ không làm đúng quy trình, hay kỹ sư không giỏi nên tính toán không đúng. Có người nói là ai đó ăn quỹ xây dựng nên nhà thầu phải làm dối. Tiền xây dựng là tiền của người dân đóng thuế nên nếu làm lại thì chịu khó làm chi đúng quy trình, nghiên cứu kỹ càng, làm sao để nước thoát khi mưa vì Đà Lạt có mưa 10 tháng mỗi năm. Vì cứ sửa chửa lại không đúng thì 1, 2 năm sau lại phải làm lại, lại tốn tiền của dân Đà Lạt.

Thấy hình ảnh hôm nay họ đang sửa đường đèo Prenn. Phải chi khi làm họ dùng mấy cột sắt to đùng dài như vậy để nhấn xuống đất làm bờ kè thì đâu đến nổi tốn thêm tiền. Ở Hoa Kỳ hư như vậy, nhà thầu chỉ có nước đi ăn mày 
Mới đọc bài trên Dân Trí, họ cho thấy tấm ảnh này ở đèo Prenn, chả thấy lớp cát đá ít nhất là 3 lớp. Nhìn cái talus nhỏ nhắn là thua non rồi. Chán Mớ Đời 


Gần nhà mình, vì trên đồi, có hai vụ đất bị trùi. Có một lần trên đường Cannon, nhà thầu xây cái tường chắn (talus) cái đồi, cao độ 2 tầng nhà, và độ nghiêng đâu 45 độ. Mình thấy xây kiểu mới có cỏ hoa mọc thấy hoàng tráng lắm. Xui cái là năm đó Cali bị El Nino nên mưa ná thở suốt hai tháng, khiến ngập này nọ. Cái tường talus này bị trùi, nội thêu người đến dẹp đất và vật liệu bị hư đem đi quăng là tốn đâu 1 triệu đô cách đây 20 năm. Rồi phải xây lại mất thêm $3 triệu thời đó, nay chắc là 10 triệu. Cho thấy làm đúng lần thứ nhất là khoẻ. Tên thầu khoán làm sao lộn xộn bị đền, tên thầu khoá lại quay qua thưa tên kỹ sư đã tính toán không đúng. Tên kỹ sư quay qua kiện tên làm các khúc xi-măng tiền chế. Cả hai phải bỏ tiền, may là có bảo hiểm đền vì họ mua bảo hiểm nếu không chỉ biết phá sản.


Tương tự ở các vùng như Hội An, Huế, cầu nguyện các thầu khoán xây dựng sửa chửa làm đúng theo quy trình, không ăn gian vật liệu. Nếu không thì người dân làm lụng cả năm rồi của cải tài sản chìm theo lũ lụt thì cả đời cũng như đời con cháu cũng không bao giờ khá được vì mất mát mỗi năm. Chỉ có nước vào Sàigòn bán vé số. Hình như mình ít thấy người bán vé số ở Hà Nội.


Không lẻ năm nào cũng xả lũ theo quy trình khiến dân tình mất hết rồi ăn mì gói mau chết. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Như