Cách mạng tháng 9 hụt
Hôm qua lên vườn xong, phải chạy về sớm, đi kỵ người anh họ của vợ ở chùa. Gặp thầy trù trì nói chuyện, thầy kêu chùa ở miền trung Việt Nam nay trống hoang vì dân tình bỏ vào miền nam kiếm ăn. Cho thấy Việt Nam đang trên con đường kỹ nghệ hoá, nông dân không đủ sống nên bò vào thành phố sinh sống, đổi đời.
Bà cụ mình có lần nói, nơi mô có lúa bồ câu đậu. Phật cũng phải dời theo dân tình vào nam theo tiêu chí “con ở đâu Phật ở đó”. Mình thấy chùa ở vùng này mọc như nấm mùa mưa. Chán Mớ Đời
Đi kỵ ở chùa, mình thấy dạo này ai trên 60 tuổi đều ngồi ghế khi thầy làm lễ, không còn như xưa, quỳ hay ngồi xếp bàn dưới đất, trước cuốn kinh. Có vài người cảm thấy ngồi trước Phật đài chưa đủ nên mở điện thoại ra lướt sóng lên Niết Bàn chấm còm nhanh hơn là tụng kinh Bát Nhã cầu siêu cho người thân quá cố. Lâu lâu, kêu ai đó trong tiếng kinh cầu của thầy để chụp hình. Chụp hình để xeo phì đã có đến tham dự kỵ nhưng hồn vía đang được thuật toán hoá.
Có thể trong tương lai, kỵ giỗ người thân, người ta sẽ Streamline qua Skype hay chi đó, khỏi mất công tới chùa, ăn uống cho mệt như mấy đài truyền hình Mễ và Mỹ, giảng đạo mỗi ngày, giúp con chiên, khỏi cần đến nhà thờ, bận xà lỏng ở nhà cầu nguyện chúa. Nếu mình là người quản lý chùa, sẽ gắn video rồi làm streamline kiếm thêm tiền cho chùa, giúp họ hàng không đi được có thể tụng kinh hay chia sẻ tâm tình lấy thêm $500/ giờ.
Trong nhà, bàn thờ sẽ được thay bằng cái máy truyền hình thông minh, trên đó người ta bỏ hình ông bà, cô chú bác, người thân đã qua đời, chạy liên tục 24/24 thêm Phật đủ loại,… cúng dường sẽ là hình ảnh hoa quả, thức ăn,…mà thiên hạ tải hàng ngày trên mạng, khỏi cần đốt vàng bạc hay xe cộ, thẻ tín dụng,…vì người quá cố cũng từng sử dụng và có tài khoải cá nhân trên các mạng xã hội,…
Khi xưa, họ hàng khi có giỗ, gặp nhau, nấu món của ôn mệ khi xưa thích ăn, đem lại rồi người lớn kể chuyện đời xưa, giúp mình hiểu thêm về dòng họ bên vợ, nay con cháu hay rể dâu không tham dự như thể chuyện bên gia đình vợ hay chồng không dính dáng gì đến họ. Chẳng bù lại khi xưa, lấy vợ lấy chồng là lấy cả tông ty họ hàng. Quay qua quay lại, có lẻ chỉ có mình là rể trong họ đến dự vì dâu, rể ruột trong nhà 3 đời thấy vắng mặt.
Khi xưa, bên vợ mỗi lần kỵ giỗ có trên 100 người nay chỉ độ 30 người lớn tuổi đến và vài đứa cháu ruột. Thế hệ thứ 1 đi tây phương cực lạc khá nhiều, còn nhóm trên 70, không lái xe được nữa, con cháu không chở thì bù trớt. Trước kia, kỵ giỗ đều làm ở nhà, nay thì cúng ở chùa rồi mua cơm chay đãi khách cho khoẻ, khỏi phải tốn công sức, nấu nướng, giản tiện hoá cuộc đời.
Chúng ta còn giữ ý niệm nhưng hình thức đã phôi phai, mất dần lý do của sự tồn tại văn hoá. Một ngày nào đó, không có đám tang vì thân thể đã cho khoa học. Không có sự khóc lóc, không có ngày kỵ giỗ, có lẻ đó là cái tốt nhất cho cuộc sống không phiền hà người thân, bạn bè,… như thầy phó tụng kinh Bát Nhả, thầy chính bắt đầu thấy mệt mõi của năm tháng chồng chất của đời người, chỉ đọc tên người quá cố và danh sách người thân gia đình. Thầy không thuyết pháp như xưa, chỉ tụng kinh hồi hướng xong tuyên bố chấm dứt buổi lễ nhạt nhẽo. Không hiểu là vì mình đã thay đổi hay phật pháp tại Hoa Kỳ đã bị thuật toán hoá.
Văn hoá truyền thống từ từ biến chất, không biết đó là điềm mừng hay buồn. Dân tộc Do Thái không bị tiêu diệt dù họ lê la khắp thế giới làm người vô tổ quốc trên 2000 năm nhưng nhờ giữ gìn văn hoá cổ truyền và Do Thái Giáo đã giúp dân tộc họ sống sót đến ngày nay.
Về nhà, nằm ngủ xong thì chít chát với cô hàng xóm ngày xưa ở Việt Nam, mới tìm lại qua Phây búc, hỏi thăm ai còn ai mất thì đồng chí gái kêu thay áo quần đi. Mình hỏi đi đâu? Cô nàng kêu cô nàng phải đi dự buổi gây quỹ cho phái đoàn y tế về Việt Nam còn mình thì phải đi theo cặp vợ chồng hàng xóm đến quán Biễn Nhạc chi đó, đợi cô nàng xong bên kia thì sẽ đến sau.
Vợ mình rất năng động, giúp chương trình trình diễn áo dài do cô bạn tổ chức. Trước đây, vợ có làm phần trình diễn áo dài cho buổi gây quỹ hướng đạo nên quen việc nên hay bị bạn bè nhờ phụ giúp. Mình khi xưa, cũng có bệnh vác ngà voi nhưng từ khi lấy vợ thì máu địa chủ trong người mình phát sinh trở lại, theo chủ thuyết có tiền mới làm, biến chất thành “Libertarian Capitalist”, không xía vào chuyện thiên hạ đại sự. Ai nhờ cái gì cũng không làm, thậm chí có người đưa tiền mình cũng không nhận làm nên đồng chí gái đành kêu: “Ôn cứ thương tui, còn thế giới để tui lo”. Khoẻ đời.
Mình xin ở nhà nhưng đồng chí gái không chịu, đành phải thay đồ lên xe hai vợ chồng hàng xóm đến chở đi. Vừa chào hỏi xong, ông chồng hỏi anh Sơn dạo này còn trả bài cho vợ không. Mình nói vẫn đều đều tuần 1,2 bữa nộp thóc tuỳ nhu cầu của đồng chí gái. Cô vợ kêu sao ít vậy, tụi em làm hàng ngày, và nhiều lần khiến mình thất kinh, ngơ ngác nhìn cặp vợ chồng mới về hưu. Anh chồng như hiểu tâm trạng mình nên bồi tiếp.
Anh chồng kể lúc tụi em mới cưới nhau thì tụi này làm tình đủ nơi. Hứng lúc nào là đè nhau xuống hò giã gạo; trong xe, trong nhà bếp như trong phim “The Postman always rings twice”, trong rừng, gọi là đủ trò. Sau có con thì tụi em kín đáo hơn, chỉ làm chuyện ấy trong phòng. Nay con cái lớn hết đi làm xa nên tụi em lại tiếp tục như thời mới lấy nhau nhưng khác là chỉ làm ở Hallway.
Mình thích hóng chuyện thiên hạ nên u chau u chau, hay hè hay hè, kể tiếp. Cô vợ kêu về hưu nên cứ gặp mặt nhau hoài suốt 24 trên 24 nên Chán Mớ Đời. Mỗi lần đi qua Hallway trong nhà thì bao nhiêu bực bội trong người thoát ra, em kêu chồng “Fuck you”, anh chồng cũng không thua, chửi lại “No, Fuck you” do đó dạo này tụi em chỉ làm tình kiểu “Hallway Sex”. Chán Mớ Đời
Người Mỹ định nghĩa có 5 loại “sex”:
1/ honeymoon sex ; khi đi hưởng tuần trăng mật, người ta làm tình đến xanh mặt như xì Trum.
2/ kitchen sex ; khởi đầu cuộc sống lứa đôi, làm tình bất cứ nơi đâu. nhất là ở bếp, đang nấu ăn nhưng cơn thèm lên là đè nhau xuống giã gạo.
3/ Bedroom sex; lấy nhau lâu rồi nên chỉ hạn chế trong phòng ngủ, thường được xem làm cỏ vê, phục vụ vì nhiệm vụ.
4/ hallway sex ; vài chục năm Chán Mớ Đời, gặp nhau nơi hallway trong nhà rồi kêu “screw you”.
5/ courtroom sex; khi ra toà ly dị, vợ “screw” ông chồng trước mặt mọi người.
Đến nơi, phải đóng $7/ người, mình đóng cho vợ luôn, thêm đem khay đu đủ khô bò mà dân Đàlạt gọi Xắp Xắp cho mọi người bồi dưỡng. Hoá ra nhóm bạn mượn chỗ này để tổ chức văn nghệ, hát hò múa kép múa đôi thay vì làm tại nhà. Họ lấy $7 để trả tiền mướn chỗ.
Có lần đồng chí gái dẫn mình đi một chỗ khác, cũng trả $7, được ăn tô bún riêu và chai nước. Cũng toàn là dân trên 50 tuổi hết, bò lại đây để tìm lại chút hương xưa, hay ai đã đắp mộ 1, 2, 3 cuộc tình thì hy vọng tìm được đối tượng mới để đăng ký chuyến đò lấp mộ cuộc tình kế tiếp. Có nhiều người về già, tình duyên dang dỡ, có mấy vụ họp mặt này cũng hay trong cộng đồng.
Mình thắc mắc sao họ làm ra tiền. Căn phố cũng độ 1,200 sq.ft mà trong vùng gần Bôn Sa thì ít lắm cũng phải trả $2,000/ tháng thêm điện nước. Thấy có bảng dạy khí công trong tuần, thì ra trong tuần chỗ này được dùng để dạy khí công. Cuối tuần cho mướn hát văn nghệ.
Mình ngồi đợi vợ nên lấy iphone ra, nhấn nhấn kể chuyện tào lao xịt bột vừa mới nghe trên xe cả để lâu lại quên, xong âm thanh ồn quá nên ra ngoài cho mát. Gặp mấy ông bạn, bị vợ kéo tới chầu mấy bà hát đứng ngoài, trao đổi kinh nghiệm về đối luyện sự áp bức của vợ nhà. Mình hỏi anh bạn người nam, tuần này vợ có thử nấu món mới không, anh ta nói không, tui đi công tác mới về. Hú vía
Mấy tên chồng họp kín, đòi làm một cuộc cách mạng vì Lê Nin nói chỗ nào có áp bức chỗ đó có đấu tranh. Có vài người đề suất 1 kiến nghị; tụi mình đi cà phê lú, bia ôm trong khi mấy bã ré trong kia, đấp mộ mấy cuộc tình say nắng ngày xưa của họ.
Có tên đề nghị đi cà phê chi có số 8, 168 hay 398 chi đó. Đang bàn cãi thì bà hàng xóm “hallway sex” chạy ra, nói mấy bà trong kia đang đi kiếm, hỏi chồng tui đâu, dôn tui mô nên cả đám đành tiêu nghiểu, tự dẫn độ vô phòng nghe mấy bà xeo phì làm ca sĩ viện dưỡng lão. Mình chợt hiểu lý do người dân Hương Cảng, xuống đường chống lại luật dẫn độ của Trung Cộng.
Có Vợ không độc lập quý hơn tự do gì .
Đúng lúc, đồng chí gái đến thế là cuộc cách mạng cà phê Lú chưa bùng phát đã bị dập tắt.
Chúc các bác một tuần lễ vui vẻ.
Chán Mớ Đời
Những ngày xưa thân ái
Những ngày xưa thân ái
Tuần này, bổng nhiên có người còm, kêu đã nhận ra “Sơn con Thím Đoài”, khiến mình thất kinh vì ít ai biết tên cúng cơm ông cụ. Bạn học khi xưa, chỉ có Đinh đóng Guốc là nhớ. Ngạc nhiên và biết chắc người này rất thân với gia đình mình nên hỏi “ai rứa” thì được trả lời “Tí Em”, cô hàng xóm khi xưa ở cạnh nhà, cùng tuổi với mình, học sinh Bùi Thị Xuân, có học Hội Việt Mỹ chung vài khoá.
Nhận ra cô nàng khiến bao nhiêu kỷ niệm của một thời mới lớn ở Đàlạt bổng từ đâu quay về như bão Dorian đang càn quét ở vùng Trung Mỹ.
Mình sinh ra ở Ấp Ánh Sáng, suýt chết, được mấy tháng đã té xuống giường một mình cạnh lò lửa. Mấy chục năm sau, người dì chăm sóc mình khi mới sinh, cứ tự hỏi dạo ấy mình chưa biết bò, biết lật lại lọt xuống đất mà không rơi vào cái lò than bên cạnh giường. Dì ở ngoài nhà nói chuyện với ai, hàng xóm. Tội nay dì mới qua đời hồi đầu năm. Có lẻ vì vậy mà bà cụ bán vía mình cho am Mệ Cai Thỏ ở ấp Hà Đông.Học lớp vỡ lòng ở trường Ấu Việt, cạnh nhà, gần cầu Bá Hộ Chúc, nằm dọc theo con suối từ hồ Xuân Hương, đập nước cầu Ông Đạo chảy về Cam Ly, đối diện qua con suối là đường Cường Để. Khi mình vào học Petit Lycée, nhà dọn về đường Hai Bà Trưng, cư xá công chánh. Ông cụ giải ngủ, thi vào làm công chức cho ty công chánh, đứng thứ nhì sau ông Đượm, được ty công chánh cấp cho căn hộ, khỏi phải thuê nhà ở Ấp Ánh Sáng.
Xóm Công Chánh mình ở gồm có 7 căn hộ nối liền nhau. Căn số 47/1 có vợ chồng ông Hai lục lộ ở, có cái sân to đùng. Ông này là bạn nhậu của ông Đỗ Cao Lụa, bố của tướng Đỗ Cao Trí. Cứ chiều chiều, tài xế chở ông Lụa đến nhà ông Hai nhậu, lâu lâu có ông Hiển, có bà vợ chuyên cho vay 2 phân, ngày ngày xách cái giỏ, ra chợ thâu tiền lời, hàng xóm bên kia dốc, nhậu ké. Mấy ông này người Nam nên chơi với nhau. Mình nhận thấy dạo ấy mấy ông công chức người Huế thì húp bún bò với nhau, người nam thì nhậu với nhau còn bắc kỳ như ông cụ thì đánh chắn, tổ tôm với nhau.
Căn thứ nhì, 47/2 gia đình mình ở, kế bên là căn 47/3 là gia đình Bà Thường, gốc Bắc 54, hai chị em lấy chung một chồng. Ông chồng Kim Trọng lấy cô chị, không có con nên giải phóng mặt bằng cô em vợ, làm mẹ mấy đứa con ông ta nên sau này mấy người con gọi bà lớn là Mẹ còn bà nhỏ là Đẻ, người sinh ra họ. Không có vụ ghen tương, đánh ghen, vợ lớn vợ nhỏ. Cái này hay à. Muốn lấy vợ nhỏ thì nên lấy em vợ, khỏi lộn xộn.
Căn thứ 4 là 47/4 có gia đình ông Khoa, bố của anh Bình, bị bắt đầy ra Côn Đảo, sau này về dạy học lớp mầm non trong xóm, tên cúng cơm là Lê Minh Sớm được ghi trên mộ, mình có thắp hương cho anh Bình khi về thăm nhà lần đầu tiên, tại nghĩa trang Du Sinh khi viếng mộ 2 người em đã qua đời.
Căn thứ 5 là 47/5 là nhà ông bà Kiếm, làm ty Kiến Thiết, người Quảng Trị, bố mẹ của thằng Sữu, sau này làm nghề sửa xe Honda.
Căn thứ 6 là 47/6, nhà thằng Dư, con Thuý.
Căn cuối là 47/7 là nhà của chị em con Oanh.
Cuối cùng là nhà xí cho cả xóm, gồm 3 cầu xí, 2 bồn nước để giặt quần áo, và 2 phòng tắm nước lạnh. Hồi nhỏ, thằng Dư, thằng Sữu hay đánh lộn với đám xóm Địa Dư, bị chúng rượt, trốn vào nhà xí, bị liệng đá, khiến mái ngói nhà xí bị bể nên mùa mưa đi cầu xí là mưa lộp độp, phải bận áo mưa, đội nón lá.
Vấn đề là lâu ngày ống nước bằng gan, làm từ thời Tây, bị sét rỉ nên nước chảy như thằn lằn đái nên không ai giặt áo quần ở đây hay tắm nhất là nước đỏ vì ống nước sét rỉ. Có lần mình thấy bà Kiếm giặt ở đây thì áo quần trở thành cờ hồng. Kinh
Sau này, ông cụ mình làm cho ty Công Quản Nước Đàlạt, cho bắt ống nước mứoi nên cả xóm có nước xài, khỏi phải đi gánh nước như xưa ở giếng ông Ba Tây trên đường Thi Sách hay giếng ông Ba Đà, làm vườn, gần ngã ba chùa.
Bà Hai thì mình ghét lắm, có thể nói là căm thù vì bà ta hay đánh mình. Trưa mình không ngủ, chạy chơi ngoài sân, la hét dang nắng cho đen người như Nùng Trí Cao, khiến bà ta không ngủ được. Có lần, mình bắt chước đại tá Nguyễn Chánh Thi, mình mục kích cầm cờ nhảy dù ra khỏi máy bay, đáp trên đồi Cù, mình leo lên mái nhà rồi cầm cờ Việt Nam, nhảy xuống mái nhà, té vào thang cấp, u đầu, nay vẫn còn cái xẹo to đùng ở trán. Bà cụ mình gọi ông Thi bằng Bác họ, ông ta giúp ông cụ mình giải ngủ. Khi làm lớn ở Huế, ông ta có về làng làm cái cổng to đùng mà dân làng hay kể.
Bà Hai này có lệ buổi chiều ra sân, thắp hương nên mình hay leo cây Mai, nấp trong cành lá để khi bà lạy tứ phương 8 hướng là phải lạy mình, làm khỉ ngồi trên cây Mai để trả thù cho những trận đòn roi mây. Có lần trời chưa chạng vạng, bà ta bắt gặp chửi mình như điên khùng. He he he. Lạ! Khi xưa mình hay bị thiên hạ đánh, bà cụ mình còn cảm ơn đã giúp bà cụ dạy dỗ mình. Kinh
Sau này, nhà mình dọn qua nhà bà Hai thì mình lại bắt chước bà Hai, mỗi chiều thắp hương đến khi đi Tây và xem có thằng nào con nào ngồi trên cây mai. Cây Mai này lạ lắm, có gì khiến mình thích nó.
Năm Mậu Thân, mình đứng dưới cây Mai với mấy người lạ, xem trực thăng bắn hoả tiển, đại liên 60 về phía Số 4 hay Domaine de Marie. Chắc nhờ mình hay thắp hương mỗi ngày nên có ai nói bên tai, kêu mình vô nhà. Mình mới bước tới dưới cái hiên nhà thì một loạt võ đạn đại liên M60 rơi xuống ngay chỗ mình mới đứng dưới cây Mai. Có một tên đứng đó, cạnh mình mấy giây trước đó, bị lũng đầu, phải đem lên nhà thương. Máy bay thường thường bay đến chỗ trường Nữ Công Gia Chánh thì bắn nên võ đạn rơi theo đường Parabol xuống vùng nhà mình. Kinh
Ông bà Hai không con, có một người con gái nuôi ở Biên Hoà, hè hay dẫn đàn con nữa tá lên Đàlạt. Mình thấy mấy đứa con gái Biên Hoà hay múa hát sau cơm chiều nên mình qua nhà đứng phía ngoài xem cọp.
Chúng hát múa Má Tía em hừng đông đi cày bừa rồi quơ tay quơ cẳng khiến mình chả hiểu cày bừa ra sao. Cái đám miền nam lạ lắm, chúng ăn cơm với đường. Sáng mình thấy họ nấu cơm, rồi bỏ đường lên ăn như người Lào ăn phở với đường. Kinh
Sau này, ông Hai Lục Lộ mua hay chiếm đất ở góc đường Nguyễn Trãi và đường Yersin lên Grand Lycée, đoạn trạm xe đò Chi Lăng ngừng cho học sinh xuống, kêu bà bạn ở Sàigòn, có con học Couvent des Oiseaux xây hai căn; một cho ông bà và một cho bà bạn. Bên có đất bên có của rồi hai ông bà dọn về đó.
Sau này mình học Grand Lycée hay ghé thăm, xin nước uống khi đợi xe đò Chi Lăng thì khám phá ra bà ta ăn cắp cái kéo y tá của ông cụ mình, gia tài sau bao nhiêu năm chinh chiến làm y tá quân y nên mình thuồng về lại. Từ đó mình mất tin tưởng vào người lớn, bà ta đánh mình, dạy mình không được ăn cắp nho của bà trồng nhưng lại vớt đồ của ông cụ và cũng không bao giờ gặp lại hai ông bà.
Mình có kỹ niệm khá vui với bà này. Bà ta thích cải lương nên chiều nào cũng mở đài Sàigòn nghe cải lương. Mình nghe ké nên riết rồi mê Út trà Ôn luôn. Một hôm, có đoàn cải lương Hương Mùa Thu của bầu Thu An và đào Ngọc Hương lên Đàlạt, hát ở rạp Ngọc Hiệp. Trong ngày đoàn cải lương mướn chiếc xe Lam, gắn cái ống loa lên mui xe rồi chạy khắp phố Đàlạt, ngang cùng ngỏ hẹp để quảng cáo tuồng cải lương. Hình ảnh này mình thấy lại khi xem phim La Strada của Federico Fellini do Anthony Quinn đóng với bà vợ của ông Fellini, Giulietta Masina.
Bà Hai nghe oang oang tiếng loa xe Lam bên đường Phan Đình Phùng nên kêu mình chạy xuống đường đợi xem họ hát tuồng gì để bà ta đi xem. Mình chạy xuống đường, đợi xe Lam chạy từ Phan Đình Phùng, qua Số 4 chạy về Hai BÀ Trưng. Khi xe đến xóm, mình và mấy đứa trẻ khác chạy theo xe Lam.
Dạo ấy chạy theo xe Lam với khói xăng dầu, biểu tượng của thành phố, của văn minh hiện đại, mình vừa chạy vừa hít khói xăng thấy phê không thể tả nhưng chạy theo không lại tụi con nít ở dưới đường Hai Bà Trưng, xóm Địa Dư nên chúng lượm hết mấy tờ chương trình, in đỏ xanh tím vàng mà tên trên xe tung xuống đường như rãi truyền đơn. Mình chỉ kịp nhìn hai cái panneau gắn hai bên hông xe Lam, nói về tuồng hát đêm đó.
Mình hồ hởi, chạy về khoe bà Hai. Vừa thở vừa mệt, mình kêu họ hát tuồng “Hai Lan Thu Hen” khiến bà Hai đứng như bò đội nón, hỏi lại tuồng gì mình kêu “Hai Lan Thu Hen”. Mặt bà Hai vẫn như ngỗng ị bị thằn lằn đái vào mặt. Bổng nhiên con Thuý, hàng xóm làm tài khôn chu mõ vào kêu: không phải, người ta hát “Hai Lần Thu Hẹn”. Thế là từ đó mình mang tiếng thông minh nhưng học ngu.
Nói đến rãi truyền đơn, mình nhớ dạo ấy có trò máy bay bà già, cất cánh từ phi trường Cam Ly, hay bay qua vùng nhà mình, số 4, rãi truyền đơn, kêu gọi cán binh Việt Cộng hồi chánh. Nhớ dạo ấy đài Sàigòn cứ rao rão tiếng ông nào giọng miền Nam “tôi là Nguyễn Văn Bé hiện còn sống đây,…”. Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ cho in truyền đơn hình ảnh ông Bé này, được Hà Nội vinh danh là liệt sĩ như anh hùng Lê Văn 8. Con nít như mình chạy đi lượm truyền đơn mệt thở, riết không biết làm gì nên cũng chán. Vài năm sau, có tên trên xóm Thi Sách, hay chơi bắn bi với mình, lớn hơn đâu 3 tuổi, học trường Trần Hưng Đạo, bị còng đầu vì theo Việt Cộng. Có lần mình được ba thằng Hùng chở lên trung tâm thẩm vấn, thấy tên này ngồi trong ca sô. Kinh
Ông Đỗ Cao Lụa rất ghét nghệ sĩ Hùng Cường nên mỗi lần đài phát thanh bài hát gì mà ông Hùng Cường ré “Tôi đi giữa hoàng hôn chi đó” là ông Lụa kêu tắt tắt tắt. Bà Hai mê radio, chìu khách quý đành phải tắt.
Nhà bên cạnh số 47/3 là nhà bà Thường, có 5 người con gái và một trai. Cô Oanh, con đầu sau này lấy chồng ở Nha Trang, ông thần này thổi sáo hay lắm, tối hai người ăn xong là ra ngồi nơi bậc thềm đá, trước sân để ông chồng thổi sáo nên sau này khi nghe ca sĩ Lê Dung, hát bản nhạc “mặt trời bé con” của Trần Tiến , khiến mình nhớ lại những đêm trăng nghe tiếng sáo của chồng cô Oanh. Hình như sau này chồng cô Oanh chết trận thì phải. Lâu quá không nhớ, vì cô dọn về gia đình chồng ở Nha Trang.
Khi cô Oanh sinh con so, bà Thường sáng nào cũng vác cái lon Guigoz sang nhà mình, bảo tè vào để cô Oanh uống. Có lần mình dậy sớm, đi tè đến khi bà Thường sang, bắt mình tè nhưng mồm bà ta cứ xi xi, vòi nước mình vẫn ngoan cố, không chịu tè. Bị chửi một tăng. Cô thứ nhì quên tên, đi du học ở Nhật Bản, học nghề cắm hoa, sau về nước, dạy tiếng Nhật ở Sàigòn.
Căn nhà 47/3 này, tính ra có 3 người đi du học. Hình như trước khi gia đình bà Thường đến thì có gia đình chú Kỳ ở. Chú kỳ đậu tú tài rồi đi du học bên tây, cho mình mấy cuốn Spirou, Lucky Luke,.. mình không bao giờ nghe tin tức chú lại, người em tên Lộc thì phải, sau này đi lính có ghé thăm nhà mình khi về phép.
Cô thứ 3 lấy chú Minh, trung uý quân cụ, đóng trong ấp Sòng Sơn mà mình có kỹ niệm khá kinh hoàng với cặp vợ chồng này. Mình có thằng bạn học Thái Cực Đạo ở Lasan Adran, tên Lê Công Hùng, con ông Lê Công Oai, công an, chuyên bắt Việt Cộng nằm vùng, nhốt ở trung tâm thẩm vấn ở đường Bá Đa Lộc. Nhà nó đối diện với nhà trung tá Tốn trên đường Thi Sách.
Một hôm, tên này xuống nhà mình chơi, không biết chơi cái gì nên mình rũ nó leo lên trần nhà. Cư xá có 7 căn nhà nối liền thì trên trần nhà có một lỗ hổng để thợ sửa chửa điện,…có thể đi ăn thông tới cuối dãy. Mỗi căn đều có một cái nắp đậy nơi trần nhà, để leo lên phòng khi sửa điện hay trốn trên đó nếu Việt Cộng về ban đêm. Thường được gắn ngay nơi độ cao nhất của mái nhà để lúc lên không đụng đầu.
Mình leo lên, khá tối nhưng cũng có chút ánh sáng từ các khe ngói rọi vào, mình dặn thằng Hùng là cẩn thận cái nắp nhà bà Thường ngay đường đi. Thằng Hùng mò đi theo mấy cái đà đi, mỗi nhà thì tường làm bằng hắc lô, cao đến nóc nhà, có cái lỗ vuông, ăn thông qua căn bên cạnh. Mình leo qua cái lỗ nhà chú Mãn, rồi nhà bà Thường, đến khi leo qua lỗ nhà ông Tước, số 47/4. Tên này mập như con heo, chui qua không lọt lại làm rơi cục gạch bên cạnh xuống trần nhà nghe cái độp. Mình nghe dưới trần nhà tiếng Tí Chị kêu “Tèo làm gì đó? ngủ đi” khiến hai thằng hoảng vía. Mình ra hiệu thằng Hùng trở lui thì nghe cái RẦM rồi loảng choảng, leng cheng…..
Thằng Hùng quay lại, hoảng vía quên tránh cái nắp trần nhà của nhà bà Thường, thế là nó đạp bố lên cái nắp và rơi xuống trần nhà qua cái lỗ vuông. Mình tá hoả tam tinh nhìn qua cái lỗ thì thấy cô Minh và ông chồng quân cụ đang ngủ trưa, mặt xanh như đít nhái, tưởng Việt Cộng nằm vùng núp trên trần nhà đột kích xuống, bắt trung uý quân cụ nên mình dọt về nhà luôn.
Thằng Hùng là công giáo nên không tin bàn thờ ông bà tổ tiên chi đó nên khi nó rớt xuống trần nhà, lại nhắm ngay cái bàn thờ gia tiên bà Thường, kê ngay dưới cái lỗ leo lên trần nhà vì có cái bàn thờ nên leo dễ hơn, làm rớt chân đèn bát hương, chuối bông đủ trò. Nó bò về nhà mình, mặt như người ngoại cảm, xanh còn hơn đít nhái, miệng cứ hỏi tao ăn cơm chưa tao ăn cơm chưa. Mình nói mày mới ăn hết nồi cơm nhà tao. Kinh
Thằng này, thuộc loại thấp, to con, lại béo, ăn nhiều kinh hoàng. Mỗi lần nó đến nhà mình mà lỡ mồm rũ nó ở lại ăn cơm là nó chơi 5 bát cơm một lèo, mình phải nhường phần cơm của mình cho nó. Nó nhờ mình xin ông Ưng Quyền, bác của ông Bửu Ngự, con chó cho nhà nó nuôi, ai ngờ gia đình nó làm thịt cầy, còn mời mình ăn. Nhờ thằng này mà mình biết mùi vị thịt cầy. Kinh
Bà Thường, sau khi hoàn hồn, tưởng Việt Cộng nút trên trần nhà, chạy qua nhà chỉ mặt nó chửi đồ mất giày mất dép trong khi nó lại hỏi bà Thường cháu ăn cơm chưa, con ăn cơm chưa, lại khiến bà này điên lên kêu ăn cái mã cha mày. Tối đó bà Thường qua nhà mắng vốn với ông bà cụ mình. Chán Mớ Đời
Bà Thường có người con trai tên Dũng, học Yersin trên mình đâu 5 lớp. Mỗi lần mình cúp cua đi đá banh ở sân Cô Giang là nhờ ông thần này viết thư xin phép. Ông thần này cho mình xem báo Playboy, hình mấy cô đầm ở truồng khiến mình đã ngu lại càng ngu bền vững. Ông thần này có lần, trong Gala trường Yersin, có đóng kịch, vai Thân trong “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh, bị Loan đâm cho một cái kéo chết không kịp hét. Sau này về Sàigòn học sư phạm, dạy pháp văn. Mình có ghé thăm một lần ở Sàigòn.
Cô Bích là út, mình không nhớ có gì đặc biệt cả ngoài đeo kính cận.
Nhà bên số 47/4 là nhà ông Khoa, làm ty kiến thiết, bố của anh Bình. Anh này theo Việt Cộng chi đó, bị bắt đày đi Côn Đảo, sau về lại, đổi tên, giấy khai sanh, dạy học ở nhà, làm ông giáo mầm non. Sau này bị động viên, đi Địa pHương quân, làm ở lao xá, nhà tù ở gần hồ Xuân Hương.
Anh Bình này, có dạo nổi điên, lấy áo quần cô em tên Cúc, cắt xé hết còn giày dép, lấy búa đập nát hết. Cô Cúc sảng hồn, chạy qua nhà mình núp, khóc hu hu. Số là thằng con anh Bình đau, anh nhờ cô Cúc đưa nó đi bác sĩ, cô bận chi đó, không đi khiến anh ta nổi điên, biểu lộ tinh thần gia trưởng trai việt bất diệt.
Nói đến cô Cúc mình nhớ có lần đang làm bài ở nhà, cô sang nhà chơi, hỏi mày học hành ra sao rồi lấy cặp của mình ra kiểm điểm. Bổng mình nghe cô Cúc hét to, ré lên rồi té cái bịch, mặt xanh như tàu lá chuối. Hoá ra trong cặp của mình, có một ngăn mà mình ít khi mở ra có mấy con chuột con đỏ hỏm mà mình không biết. Kinh
Được cái là anh Bình và mình hay tụ nhau, đấu láo về đá banh. Ông cụ mình mua báo Thao Trường nên mình đọc mệt thở, rồi gặp anh Bình, bàn tán về trung phong Chiêu, Phạm Huỳnh Tam Lang, hay trung phong Yamamoto của Nhật Bản,…dù chưa bao giờ hiển thị, xem họ đá ra sao, chỉ trong trí tưởng tượng.
Dạo VNCH thắng giải túc cầu Merdeka ở Mã Lai. Mình, anh Bình, thằng Đắc, con anh Bình ngồi dán cái lỗ tai vào cái radio rè rè, nghe phóng viên Huyền Vũ, tường trình từ Mã Lai. Khi trung phong Nguyễn Văn Chiêu đá lọt bàn, cả đám nhảy hét om xòm, hát như có chính phủ Nguyễn Cao Kỳ trong ngày vui đại thắng.
Cô Cúc, có dạo đi chơi với ông tây nhà đèn, lái chiếc xe 2CV. Một hôm, mình thức dậy sớm, thấy chiếc xe đậu ngoài sân nhà bà Hai nên tò mò rờ xe. Thấy có cục gạch để chấn cửa nhà mình, bị ai lấy chắn dưới bánh xe sau nên mình gở cục gạch, lấy lại đem vô nhà cất. Mình đang hồ hởi lấy lại được cục gạch thì tái mặt khi thấy chiếc xe đậu trên dốc, không thắng, bị lấy cục gạch chêm.
Mình và cô em kế, nhìn chiếc xe 2 CV từ từ lăn bánh chạy lui không người lái, lọt xuống mương, nghiêng qua một bên khiến hai anh em sợ quá, chạy vô nhà núp dưới giường suốt 2 tiếng đồng hồ, trong khi ở ngoài thiên hạ la bãi bãi, hò dô ta kéo chiếc xe khỏi mương. Tối đó, hai anh em bị bà cụ tẩm quất một trận bằng chổi lông gà. Kinh
Nhà ông Khoa còn có chú Sanh đi Võ Bị, chú Hành hay chỉ bài tập cho mình, học không lưu, làm cho phi trường Tân Sơn Nhất. Sau này ông Khoa về hưu, trả nhà lại, dọn về Ba Ngòi ở. Gia đình anh BÌnh cắm dùi miếng đất, đầy hoa quỳ sau cầu xí của xóm, xây căn nhà gỗ ở đó. Nhà này lạ, bị kẹp giữa cầu xí và chuồng heo nhà bà làm vườn, bị mình và thằng Khánh Ù, ăn cắp buồng chuối, chửi cả xóm mấy ngày mấy đêm.
Ai mà tin phong thủy là không khá. Cứ tưởng tượng, nằm trong nhà nghe heo nhà bà làm vườn ọt ẹt rồi bên kia cầu xí có người thả bom. Sau này có tiền thì xây gạch. Nay vợ anh Bình vẫn còn ở đó với cô con gái út. Mình có ghé thăm, mấy đứa em của thằng Đắc không biết mình là ai, nghe nói cô Kim đã bị lẫn.
Căn 47/5 là nhà của ông bà Kiếm, người Quảng Trị. Bà Kiếm hay nhờ mình xỏ kim chỉ cho bà ta vì tra nên mắt không còn sáng nữa. Nhà bà này, chiếm đất trước nhà ông Khoa, trồng mía, cây bưởi và cây ổi. Mình hay ăn cắp, chặt mía của bà ta, ăn gãy răng. Họ kêu mía lau chi đó màu đen, cứng kinh hồn.
Ông bà Kiếm có thằng con tên Sữu, hơn mình đâu 4 tuổi chi đó. Lớn lên chơi sì ke, lấy con ông bán thịt trong chợ đối diện hàng bà Phòng bán trà. Nó sửa xe Honda, bán cho ông cụ mình chiếc xe Bridgestone đỏ, để mình chạy. Tên này cưa ống bô nên kêu to kinh hồn. Sau này bà cụ bán, mua cho mình chiếc xe honda dame, kêu bớt du côn hơn.
Sau này ông Kiếm về hưu, dọn về quê ở Quảng Trị rồi mình không biết tin tức gì cả. Thằng Sửu, sau này mình có gặp lại nó một lần ở tiệm chè Mây Hồng, đường Tăng Bạt Hổ nhưng nó chơi sì ke quá độ nên không nhớ hàng xóm khi xưa bắn bi với hắn nên sau này mình cũng chả chào.
Cạnh đó là nhà của thằng Dư, học chung lớp với thằng Sữu, anh con Thuý. Mình không nhớ bố con Thuý là ai, chỉ biết là mẹ nó bán cơm ở chợ Đàlạt. Đến mùa chợ đêm Tết thì thằng Dư và mình hay đi chung, xách đồ từ chợ về nhà.
Thằng Sữu và thằng Dư học anh Bình, thi vào trường Trần Hưng Đạo, cả hai đều rớt. Dạo ấy có hai trường trung học công Trần Hưng đạo và Bùi Thị Xuân; mỗi năm họ thi tuyển vào năm lớp đệ thất. Ai rớt thì học trường tư. Hình như học trò anh Bình đều rớt khi thi vào trường công vì thằng Sang, thằng Bình, thằng Phú ở xóm nhà thương đều đi học trường tư.
Nhà bên cạnh là cuối dãy, có hai chị em con Oanh, con ông Nhân. Có lần hai chị em con này rũ mình chơi vợ chồng chi đó.
Đùng một cái thì con Thuý báo tin là gia đình nó dọn về Ban Mê Thuột rồi gia đình chị em con Oanh dọn về Sàigòn. Mình có gặp lại ông Nhân một lần. Nhà bà Hai dọn đi, nhà con Thuý, con Oanh dọn đi, gia đình bà Kiếm dọn đi, ông Khoa dọn, xem như 5 gia đình di tản chỗ khác, chỉ còn lại nhà bà Thường và gia đình mình vẫn tử thủ tại xóm.
Nhớ dạo ấy, tối tối mà đi cầu xí là run vì sợ ma vì không có đèn đuốc lại không có ai ở gần đó. Được cái là mỗi nhà dành riêng mỗi cầu xí vì trước đây, 7 gia đình chia nhau 3 cầu xí. Trời mưa là một cực hình vì phải bận áo mưa, đội nón là, đem theo cái đèn hột vịt hay cây nến. Ngồi chồm hổm nghe từng giọt mưa rớt xuống nón lá trong tiếng mưa gió. Kinh
Con bà Thường, Chú Dũng nhảy qua căn số 47/2 câu điện ở ké cho rộng rãi. Căn ông Khoa thì mình , thằng Điệp, thằng Điền, con ông Quán dưới đường Hai Bà Trưng, mở cửa chạy vào chơi khi trời mưa. Thằng Điệp làm cái xe chạy bạc đạn. Tấm gỗ, có 2 cái bạc đạn phía sau, một phía trước, ngồi lên kêu mình đẩy chạy vòng vòng căn nhà hội. Có lần thằng Điệp lớn hơn mình đâu 4 tuổi, đẩy mạnh quá khiến mình hãm không được, bay vào tường lăn mấy vòng. Tởn luôn, hết dám chơi.
Bà cụ tính dọn luôn, có người rao bán cái tiệm bán đồ gỗ số 13 Duy Tân, cạnh nhà bà Phúng. Bà Phúng kêu số 13 xui, khi ông Phúng biết được thì kêu mua nhưng đã có người đặt cọc nên bà cụ bỏ mộng mua nhà ngoài phố, bỏ tiền đâu 500 ngàn, xây căn nhà 2 tầng ở miếng đất bên cạnh nhà, khi xưa bà Hai trồng nho, mà mình hay ăn cắp, bị ăn đòn roi mây mệt thở. Hè năm 3 ème, mình và ông thợ tên Lộc, nhà ở ấp Mỹ Lộc, bên Phan Đình Phùng, cuốc đất, bỏ lên xe bồ ệch đẩy ra vạt đất phía trước, sau lưng nhà bà Ngần để lấy đất đồi, xây nhà. Có lẻ theo dõi xây căn nhà này mà sau này mình học kiến trúc rồi đi thầu xây nhà cho thiên hạ.
Xóm bổng nhiên vắng tanh không còn con nít. Chỉ còn nhà anh Bình ở sau cầu xí, nhà mình và nhà bà Thường. Xóm vắng con nít để chơi nên mình mò đến xóm Địa Dư chơi. Hay bị chúng đánh, bỏ chạy. Được cái là khi đá banh thì tụi nó đều năn nỉ mình đá cho đội chúng. Sau này mình đi học võ thì không sợ thằng nào con nào cả, đến khi lấy vợ.
Trước Mậu Thân, khu công chánh cao nguyên trung phần, từ Ban Mê Thuột đổi về Đàlạt, các căn nhà trống lại có mấy gia đình từ xứ Buôn dọn vào. Con nít con nôi lại mọc đầy ra, vui vẻ, nhộn nhịp hơn xưa.
Gia đình bà Hai dọn đi thì gia đình mình dọn qua ở vì nhà rộng hơn và có sân rộng. Nhà mình ở trước đây số 47/2 thì có chú Mãn dọn đến, cháu ông bác sĩ Hà Thúc Nhơn, sau này chống tham nhũng bị bắn ở Nha Trang. Căn 47/3 thì có gia đình chú Nhân, đi Xây Dựng Nông Thôn dọn vào. Ông này hay cho mình mượn sách Học Làm Người để đọc. Nghe nói nay chú giàu lắm. Về Đàlạt tìm gặp nhưng chưa có duyên.
Căn số 47/4, to nhất xóm vì khi xưa là nhà hội. Cư xá có 7 căn, 3 căn hộ được xây ở hai bên còn căn to đùng ở giữa. Khi nhà ai có tiệc thì họ dùng căn này để nấu nướng, họp mặt. Tương tự ở Hoa Kỳ, trong các chung cư, có một nhà hội, người ta mượn khi có tiệc, không muốn làm ở nhà.
Nay thì vấn đề nhân khẩu nên không chơi kiểu tây như xưa, gia đình bác Tước dọn vào, có lẻ vì có đến 10 người con. Bên cạnh số 47/5, không nhớ là ai dọn đến, không thân lắm, hình như không có con. Ông nào độc thân thì phải. Ai nhớ xin cho biết. Phía sau nhà có chỗ trống nên trước Tết, nhà bác Tước hay nấu bánh Tét bánh chưng ở đây.
Nhà con Thuý, thằng Dư thì gia đình bác Hoà dọn vào còn nhà hai chị em con Oanh, con ông Nhân dọn về Sàigòn thì gia đình ông Vinh làm trù trì.
Giữa nhà ông Vinh và cầu xí, có miếng đất nên ông ta chơi luôn, cắm dùi làm nhà gỗ ngay chỗ đó cho gia đình ở luôn. Sẵn trớn, ông ta làm cái ga ra để xe hơi phía đường Thi Sách, sau này để cái bàn đánh bóng bàn, hàng xóm đến chơi ké. Ông ta chơi kiểu này khiến hàng xóm khó đi cầu xí vì bị lấn đất, mò mò vào. Kinh. Rốt cuộc, mọi người lấn đất phía đường Thi Sách, xây hầm xí tại nhà hết, tránh nạn vác thùng nước đi cầu ở cuối xóm. Mình có kể lại bức tranh đi nhà xí công cộng như trong phim Slumplord Millionaire của ấn độ.
Sau này, ông bà Vinh mua đất, xây cái nhà to đùng ở dưới Chi Lăng, dọn về đó rồi mình đi Tây. Mình có đến thăm một lần. Gia đình ông bà Vinh có 6 người con, 3 trai 3 gái. Trai đầu là anh Thanh, đi lính pháo binh chi đó, đóng tại Đàlạt, đến anh Tú, học toán lý hoá ở Sàigòn, chị Tân, hơn mình đâu mấy tuổi rồi đến thằng Tiến, nhỏ hơn mình 1 tuổi rồi 2 cô em gái, tên Tâm và Tuyết, không được đẹp lắm nhưng rất là “Lemon Question” vì gia đình được xem là giàu nhất xóm.
Cạnh nhà ông Vinh là nhà ông Hoà, người Quảng Bình hay Hà Tỉnh chi đó có hai tên con trai nhỏ tuổi hơn mình tên Hiếu và Hậu. Mình có gặp lại Hiếu, làm cho khách sạn Novotel còn Hậu thì đã chết sau 75. Nhà này đặt tên vần H hết, cô đầu tên Hợp, học Văn Học, nghe nói mới chết cách đây vài năm, cô thứ 2 tên Hiền, học Văn Học, mình có gặp lại một lần ở San Jose. Cô thứ 3 tên Phương, cùng tuổi mình, học Bùi Thị Xuân, chưa bao giờ nói chuyện rồi đến Hiếu, Hậu rồi Hương và cuối cùng là Hà. Mình về có gặp lại bác Hoà gái vài lần đến khi bác qua đời.
Có dạo sau Mậu Thân, nhà ông Lào ở xóm địa Dư, dưới đường Hai bà Trưng, thầu đóng thùng gỗ, đựng rau bán cho quân đội mỹ. Bà Hoà lãnh về cho hai thằng con đóng rồi mình bò lại đóng ké, kiếm tiền. Mỗi lần lãnh lương, là bà Hoà làm bột chiên. Loại bánh bột mì ve ve như mấy con sâu đóm với bột nổi rồi bỏ vô chảo chiên dầu, dụ mình mua ăn trừ lương. Sau này mình Chán Mớ Đời vì bị chủ chơi ép nên vác búa, bò xuống nhà ông Lào, năn nỉ mấy thằng con ông Lào cho đóng. Lúc đó mới có dư tiền, không bị bà Hoà ăn chận, trả lương bằng bột chiên.
Cạnh nhà mình thì có gia đình chú Hà Thúc Mãn, cán sự, về Huế lấy cô vợ rất xinh, học Mỹ Thuật Huế. Sau này dạy hội họa ở trường Việt Anh. Nghe nói sau 75, về Sàigòn làm thầu khoán.
Mình có kỹ niệm khá vui với hai vợ chồng son này. Một hôm trưa, có người đến hỏi, mình kêu tên chú Mãn ơi có người hỏi thăm, không thấy trả lời. Mình đi cửa sau, cửa nhà lại mở nên mình đi vào kêu tên nhưng vẫn im re. Vào phòng ngủ thì thấy thiếm MÃn đang ngồi trên người chú Mãn, đang hò giả gạo. Kinh. Dạo ấy mình còn ngây thơ lắm, chẳng biết gì, kêu có người hỏi thăm khiến thiếm Mãn mặt xanh như đít nhái, như một pho tượng nhìn mình rồi chợt nhận ra có cái gì lạ lạ, vội vàng lấy mềm quấn vào người như trong xi nê ma. Sau này gặp mặt, thiếm hay tránh mặt vì ốt dột. Chán Mớ Đời
Sau này, chú Mãn về Sàigòn thì chú Điềm đến ở mà gần đây mình có liên lạc lại được. Hy vọng lần sau về, sẽ cà phê với chú. Hỏi chú còn đánh bài nữa không vì khi xưa, mỗi lần chú đánh bài ăn, là kêu mình chở ra đường Trương Vĩnh Ký, ăn miến gà nhớ đến ngày nay. Trong khoản thời gian này, có một anh kiến trúc sư, lấy cô vợ trẻ cũng ở đây. Có lần cô vợ đau răng, ngồi khóc cả đêm. Anh ta dạy mình vẽ nên khi vẽ bản đồ là mình luôn luôn đứng nhất trong lớp, vì vậy sau này mình theo học kiến trúc.
Có lẻ dạo đó, nhà mình và gia đình bác Tước thân nhất trong xóm. Bác gái hay sang nhà, ngồi hút thuốc rê và ăn trầu với mệ ngoại mình. Mình hay ngồi hóng chuyện người lớn, hay bị sai chạy ra chợ mua thuốc rê hay trầu cau về. Bác gái chuyên vấn thuốc Cẩm Lệ cho mệ ngoại, hút xong, hai bà lại ấn mấy điếu thuốc hút dỡ, còn ướt vì nước miếng trên tường, đi nấu cơm.
Lâu lâu hết thuốc thì sai mình đi mua, còn hai bà lấy mấy điếu hút dán trên tường xuống, vấn lại hút đỡ ghiền. Qua những lần hóng chuyện này mà mình mới hiểu và thương mệ ngoại mình, kể về tình sử, cuộc đời của mệ.
Qua nhà bác gái, hay đưa cho mình xem cuốn album hình ảnh đám ma của ông anh hay chú chi đó, bị Việt Cộng ám sát. Đám tang rất lớn. Có lẻ vì vậy gia đình này thuộc loại chống cộng sản gộc như nhà mình.
Bác Tước có nghề làm bánh bèo ngon lắm. Lâu lâu làm cho ăn ngon nhớ đến ngày nay. Không hiểu mấy cô con gái có học nghề của bác để khi nào gặp lại, ăn cho nhớ một thời. Nghe kể trên Ban Mê Thuột, bác có bán bánh bèo đến nổi tướng Vĩnh Lộc còn mê, hay ghé ăn.
Mình chỉ tiếc khi xưa, không học nghề chích lể của bác. Mỗi lần mình và mấy đứa em đau, bị cảm là bác hay qua nhà, lấy cái mẻ chai rồi chích trên mặt và đầu mình rồi nặn máu đen ra. Khỏe lại liền. Không biết mấy người con có học nghề của bác, nếu có thì khi nào gặp lại sẽ học nghề. He he he
Cuối năm có chợ Tết, bà cụ mình hay kêu nhà bác Tước và bác Hoà, lấy một chỗ ngoài đường ở chợ rồi đem hàng của bà cụ mình ra bán chợ tết, kiếm chút tiền ăn Tết. Nếu mình không lầm thì chỉ có Tí Em là lanh lợi, biết chào hàng còn mấy cô kia, cứ đứng xớ rớ, ngơ ngơ ngác ngác. Mình đoán cô này, ngày nay thành công nhất trong mấy chị em.
Nhà bác Tước có 7 gái 3 trai. Đầu là anh Lâm, đại uý Biệt Cách Nhảy Dù, có lần mình thấy anh ta về phép, đi lang thang chỗ rạp Ngọc Hiệp, bận đồ Việt Cộng, đeo K54, AK 47, đi dép râu với một đồng đội. Mấy ông thần tuần cảnh không dám hỏi han chi cả, khác với đám trẻ như mình hay bị chận lại trình giấy tờ hoản dịch, nhân dân tự vệ. Dạo ấy mình phục anh này nhất xóm. Sau này, mình có đọc tài liệu về trận Phước Long, họ có kể về đại uý Trương Việt Lâm rất dũng cảm. Hôm trước, cô hàng xóm gửi hình anh ta. Nhận ra ngay.
Sau anh Lâm là chị Phương, mỗi ngày ngồi học, nghe đài “Mẹ Việt Nam” và “Gươm Thiên Ái Quốc”. Có lẻ anh Lâm hay đi nhảy toán nên cả nhà hay nghe tin tức của 2 đài này. Hai đài này của Hoa Kỳ thành lập để tuyên truyền, nghe nói phát thanh từ hòn đảo nào ngoài Đà Nẳng thì phải. Hình như mình có kể vụ này rồi. Nếu mình không lầm, người em kể mình là có lần anh ta nhảy toán, núp trong bụi cây, có bộ đội bác hồ đến tè vào lùm cây, phát giác ra nên phải bắn bộ đội rồi chạy thoát. Mấy ngày sau mới được trực thăng bốc về.
Chị này cũng như mấy cô em gái đều xinh nên có nhiều tên đến nhà, trồng cây si, cho mượn truyện đọc. Mình nhớ có một tên, tên Hạnh thì phải, con của ông Marcel, anh Dương Quang Phước và Trí. Tên này là chồng cũ của chị một cô bạn, có cho mình số điện thoại của Trí khi về thăm Đàlạt, có gặp lại trước khi hắn chết. Mình nhớ chị Phương cho mình mượn cuốn “Dr Zhivago” và “Chiến Tranh và Hoà Bình”. Khổ một cái là cuốn sách của ông Pasternak, chị ấy nói là ngày mai phải trả cho bạn nên mình phải thức xuyên đêm để đọc sau này có xem phim này ở rạp Hoà Bình. Kinh
Chị Phương cho mượn sách loại khó nhai khó nuốt như “Giờ thứ 25” của Giorghiu, lâu quá không nhớ hết còn hai cô em thì cho mượn báo “Tuổi Hoa”, cái này thì vừa trình độ tiếng Việt bình dân học vụ của mình, gốc nông dân hơn.
Sau chị Phương là Bi, tên này hơn mình đâu 3 tuổi gì đó, học Văn Học nhưng hay đi chơi với mình, mày tao bú xua la mua nên khi gặp mấy cô em của hắn thì không biết xưng hô ra sao. Khi có tiền, hai thằng hay bò ra đường Minh Mạng, uống sữa đậu nành của bà 7 Quốc, trước tiệm vàng của bố bà Bùi Thị Hiếu, cạnh tiệm may Hoàng Nho.
Sau tên Bi là Tí chị, hơn mình đâu 2 lớp, học Văn Học, nghe nói đã qua đời 10 năm trước rồi đến Tí em. Cô nàng cùng tuổi con khỉ với mình, học Bùi Thị Xuân. Tết hay qua nhà chơi, bà cụ mình hay hỏi cô này và Tí Chị, làm dâu bác nghe khiến mình ốt dột nhưng khóai lắm. He he he
Sau này có học hội Việt mỹ chung vài khoá, cô nàng cho mình đáp án của bài thi trước. Hình như mỗi lần thi đều có 2 hay 3 loại đề nên mình luôn luôn đậu khiến mấy ông thầy như bò đội nón vì trong lớp, mỗi khi thầy hỏi là mình đực ra như ngỗng ị. Cô nàng kể khi xưa học Hội Việt Mỹ mà nay đi du lịch sang Hoa Kỳ, Gia Nã đại không khạc được một câu. Khi xưa đi thi toàn là có đáp án trước. He he he
Sau Tí Em là Bé LỚn, cùng tuổi với cô em kế mình, rồi Bé Nhỏ cũng học Bùi Thị Xuân rồi đến Cu Tèo. Tên này, nghe kể sau 75, bị Việt Cộng ở Sàigòn lùng, dính dáng đến phản động chi đó nên có bò lên nhà mình, khi mình về Việt Nam lần đầu thì nghe mẹ hắn kể làm thuyền trưởng, lái tàu chi đó. Rồi đến hai cô út. Chắc hết tên cúng cơm như Tí , BÉ nên gọi tên giấy khai sinh Nguyên và Oanh. Năm 1992, mình về thì có gặp hai vợ chồng Nguyên và Tí em tại nhà bác Tước ở Thanh Đa. Hình như hôm ấy, mình có ở lại ăn cơm trưa với gia đình.
Mình sống ở cư xá Công Chánh, đường Hai Bà Trưng từ năm lên 8 đến năm 18, xem như 10 năm, chứng kiến hai lớp dân cư trong xóm đến và đi, nay chỉ còn lại gia đình bác Hoà và anh Bình và gia đình mình. Có nhiều chuyện vui, nay nghĩ lại có lẻ là thời gian đẹp nhất đời mình. Chỉ có ăn và tìm cách phá thiên hạ như lấy ná bắn đá xuống mái tôn nhà ông Duy, bà Tân,.. khoái chí khi thấy cha con hàng xóm chạy ra sân, nhìn tứ phía hay sai thằng Khánh Ù đi ăn cắp chuối nhà bà làm vườn, bị chửi ròng rã 1 tháng trời, đến khi chịu hết nổi, chuối không chín, ăn không được nên đem trả lại mới hết nghe chửi. Mình đã kể khá nhiều mấy mục này trong Mực Tím Sơn Đen do Chử Nhị Anh xuất bản trên Amazon
Cảm ơn Tí Em đã cho mình tìm lại những tình cảm hàng xóm một thời của những ngày xưa thân ái. Hẹn tái ngộ.
NHS
Hình Sơn Đen ngày xưa. He he he
Tuần này, bổng nhiên có người còm, kêu đã nhận ra “Sơn con Thím Đoài”, khiến mình thất kinh vì ít ai biết tên cúng cơm ông cụ. Bạn học khi xưa, chỉ có Đinh đóng Guốc là nhớ. Ngạc nhiên và biết chắc người này rất thân với gia đình mình nên hỏi “ai rứa” thì được trả lời “Tí Em”, cô hàng xóm khi xưa ở cạnh nhà, cùng tuổi với mình, học sinh Bùi Thị Xuân, có học Hội Việt Mỹ chung vài khoá.
Nhận ra cô nàng khiến bao nhiêu kỷ niệm của một thời mới lớn ở Đàlạt bổng từ đâu quay về như bão Dorian đang càn quét ở vùng Trung Mỹ.
Mình sinh ra ở Ấp Ánh Sáng, suýt chết, được mấy tháng đã té xuống giường một mình cạnh lò lửa. Mấy chục năm sau, người dì chăm sóc mình khi mới sinh, cứ tự hỏi dạo ấy mình chưa biết bò, biết lật lại lọt xuống đất mà không rơi vào cái lò than bên cạnh giường. Dì ở ngoài nhà nói chuyện với ai, hàng xóm. Tội nay dì mới qua đời hồi đầu năm. Có lẻ vì vậy mà bà cụ bán vía mình cho am Mệ Cai Thỏ ở ấp Hà Đông.Học lớp vỡ lòng ở trường Ấu Việt, cạnh nhà, gần cầu Bá Hộ Chúc, nằm dọc theo con suối từ hồ Xuân Hương, đập nước cầu Ông Đạo chảy về Cam Ly, đối diện qua con suối là đường Cường Để. Khi mình vào học Petit Lycée, nhà dọn về đường Hai Bà Trưng, cư xá công chánh. Ông cụ giải ngủ, thi vào làm công chức cho ty công chánh, đứng thứ nhì sau ông Đượm, được ty công chánh cấp cho căn hộ, khỏi phải thuê nhà ở Ấp Ánh Sáng.
Xóm Công Chánh mình ở gồm có 7 căn hộ nối liền nhau. Căn số 47/1 có vợ chồng ông Hai lục lộ ở, có cái sân to đùng. Ông này là bạn nhậu của ông Đỗ Cao Lụa, bố của tướng Đỗ Cao Trí. Cứ chiều chiều, tài xế chở ông Lụa đến nhà ông Hai nhậu, lâu lâu có ông Hiển, có bà vợ chuyên cho vay 2 phân, ngày ngày xách cái giỏ, ra chợ thâu tiền lời, hàng xóm bên kia dốc, nhậu ké. Mấy ông này người Nam nên chơi với nhau. Mình nhận thấy dạo ấy mấy ông công chức người Huế thì húp bún bò với nhau, người nam thì nhậu với nhau còn bắc kỳ như ông cụ thì đánh chắn, tổ tôm với nhau.
Căn thứ nhì, 47/2 gia đình mình ở, kế bên là căn 47/3 là gia đình Bà Thường, gốc Bắc 54, hai chị em lấy chung một chồng. Ông chồng Kim Trọng lấy cô chị, không có con nên giải phóng mặt bằng cô em vợ, làm mẹ mấy đứa con ông ta nên sau này mấy người con gọi bà lớn là Mẹ còn bà nhỏ là Đẻ, người sinh ra họ. Không có vụ ghen tương, đánh ghen, vợ lớn vợ nhỏ. Cái này hay à. Muốn lấy vợ nhỏ thì nên lấy em vợ, khỏi lộn xộn.
Căn thứ 4 là 47/4 có gia đình ông Khoa, bố của anh Bình, bị bắt đầy ra Côn Đảo, sau này về dạy học lớp mầm non trong xóm, tên cúng cơm là Lê Minh Sớm được ghi trên mộ, mình có thắp hương cho anh Bình khi về thăm nhà lần đầu tiên, tại nghĩa trang Du Sinh khi viếng mộ 2 người em đã qua đời.
Hình này lúc đầu thấy không hiểu ai mà đẹp nức nở. Nay mơi biết là do AI thực hiện. Họ có cái app để làm nhưng đắt quá đâu trên 700 đô nên thôi.
Căn thứ 6 là 47/6, nhà thằng Dư, con Thuý.
Căn cuối là 47/7 là nhà của chị em con Oanh.
Cuối cùng là nhà xí cho cả xóm, gồm 3 cầu xí, 2 bồn nước để giặt quần áo, và 2 phòng tắm nước lạnh. Hồi nhỏ, thằng Dư, thằng Sữu hay đánh lộn với đám xóm Địa Dư, bị chúng rượt, trốn vào nhà xí, bị liệng đá, khiến mái ngói nhà xí bị bể nên mùa mưa đi cầu xí là mưa lộp độp, phải bận áo mưa, đội nón lá.
Vấn đề là lâu ngày ống nước bằng gan, làm từ thời Tây, bị sét rỉ nên nước chảy như thằn lằn đái nên không ai giặt áo quần ở đây hay tắm nhất là nước đỏ vì ống nước sét rỉ. Có lần mình thấy bà Kiếm giặt ở đây thì áo quần trở thành cờ hồng. Kinh
Sau này, ông cụ mình làm cho ty Công Quản Nước Đàlạt, cho bắt ống nước mứoi nên cả xóm có nước xài, khỏi phải đi gánh nước như xưa ở giếng ông Ba Tây trên đường Thi Sách hay giếng ông Ba Đà, làm vườn, gần ngã ba chùa.
Bà Hai thì mình ghét lắm, có thể nói là căm thù vì bà ta hay đánh mình. Trưa mình không ngủ, chạy chơi ngoài sân, la hét dang nắng cho đen người như Nùng Trí Cao, khiến bà ta không ngủ được. Có lần, mình bắt chước đại tá Nguyễn Chánh Thi, mình mục kích cầm cờ nhảy dù ra khỏi máy bay, đáp trên đồi Cù, mình leo lên mái nhà rồi cầm cờ Việt Nam, nhảy xuống mái nhà, té vào thang cấp, u đầu, nay vẫn còn cái xẹo to đùng ở trán. Bà cụ mình gọi ông Thi bằng Bác họ, ông ta giúp ông cụ mình giải ngủ. Khi làm lớn ở Huế, ông ta có về làng làm cái cổng to đùng mà dân làng hay kể.
Bà Hai này có lệ buổi chiều ra sân, thắp hương nên mình hay leo cây Mai, nấp trong cành lá để khi bà lạy tứ phương 8 hướng là phải lạy mình, làm khỉ ngồi trên cây Mai để trả thù cho những trận đòn roi mây. Có lần trời chưa chạng vạng, bà ta bắt gặp chửi mình như điên khùng. He he he. Lạ! Khi xưa mình hay bị thiên hạ đánh, bà cụ mình còn cảm ơn đã giúp bà cụ dạy dỗ mình. Kinh
Sau này, nhà mình dọn qua nhà bà Hai thì mình lại bắt chước bà Hai, mỗi chiều thắp hương đến khi đi Tây và xem có thằng nào con nào ngồi trên cây mai. Cây Mai này lạ lắm, có gì khiến mình thích nó.
Năm Mậu Thân, mình đứng dưới cây Mai với mấy người lạ, xem trực thăng bắn hoả tiển, đại liên 60 về phía Số 4 hay Domaine de Marie. Chắc nhờ mình hay thắp hương mỗi ngày nên có ai nói bên tai, kêu mình vô nhà. Mình mới bước tới dưới cái hiên nhà thì một loạt võ đạn đại liên M60 rơi xuống ngay chỗ mình mới đứng dưới cây Mai. Có một tên đứng đó, cạnh mình mấy giây trước đó, bị lũng đầu, phải đem lên nhà thương. Máy bay thường thường bay đến chỗ trường Nữ Công Gia Chánh thì bắn nên võ đạn rơi theo đường Parabol xuống vùng nhà mình. Kinh
Ông bà Hai không con, có một người con gái nuôi ở Biên Hoà, hè hay dẫn đàn con nữa tá lên Đàlạt. Mình thấy mấy đứa con gái Biên Hoà hay múa hát sau cơm chiều nên mình qua nhà đứng phía ngoài xem cọp.
Chúng hát múa Má Tía em hừng đông đi cày bừa rồi quơ tay quơ cẳng khiến mình chả hiểu cày bừa ra sao. Cái đám miền nam lạ lắm, chúng ăn cơm với đường. Sáng mình thấy họ nấu cơm, rồi bỏ đường lên ăn như người Lào ăn phở với đường. Kinh
Sau này, ông Hai Lục Lộ mua hay chiếm đất ở góc đường Nguyễn Trãi và đường Yersin lên Grand Lycée, đoạn trạm xe đò Chi Lăng ngừng cho học sinh xuống, kêu bà bạn ở Sàigòn, có con học Couvent des Oiseaux xây hai căn; một cho ông bà và một cho bà bạn. Bên có đất bên có của rồi hai ông bà dọn về đó.
Sau này mình học Grand Lycée hay ghé thăm, xin nước uống khi đợi xe đò Chi Lăng thì khám phá ra bà ta ăn cắp cái kéo y tá của ông cụ mình, gia tài sau bao nhiêu năm chinh chiến làm y tá quân y nên mình thuồng về lại. Từ đó mình mất tin tưởng vào người lớn, bà ta đánh mình, dạy mình không được ăn cắp nho của bà trồng nhưng lại vớt đồ của ông cụ và cũng không bao giờ gặp lại hai ông bà.
Mình có kỹ niệm khá vui với bà này. Bà ta thích cải lương nên chiều nào cũng mở đài Sàigòn nghe cải lương. Mình nghe ké nên riết rồi mê Út trà Ôn luôn. Một hôm, có đoàn cải lương Hương Mùa Thu của bầu Thu An và đào Ngọc Hương lên Đàlạt, hát ở rạp Ngọc Hiệp. Trong ngày đoàn cải lương mướn chiếc xe Lam, gắn cái ống loa lên mui xe rồi chạy khắp phố Đàlạt, ngang cùng ngỏ hẹp để quảng cáo tuồng cải lương. Hình ảnh này mình thấy lại khi xem phim La Strada của Federico Fellini do Anthony Quinn đóng với bà vợ của ông Fellini, Giulietta Masina.
Bà Hai nghe oang oang tiếng loa xe Lam bên đường Phan Đình Phùng nên kêu mình chạy xuống đường đợi xem họ hát tuồng gì để bà ta đi xem. Mình chạy xuống đường, đợi xe Lam chạy từ Phan Đình Phùng, qua Số 4 chạy về Hai BÀ Trưng. Khi xe đến xóm, mình và mấy đứa trẻ khác chạy theo xe Lam.
Dạo ấy chạy theo xe Lam với khói xăng dầu, biểu tượng của thành phố, của văn minh hiện đại, mình vừa chạy vừa hít khói xăng thấy phê không thể tả nhưng chạy theo không lại tụi con nít ở dưới đường Hai Bà Trưng, xóm Địa Dư nên chúng lượm hết mấy tờ chương trình, in đỏ xanh tím vàng mà tên trên xe tung xuống đường như rãi truyền đơn. Mình chỉ kịp nhìn hai cái panneau gắn hai bên hông xe Lam, nói về tuồng hát đêm đó.
Mình hồ hởi, chạy về khoe bà Hai. Vừa thở vừa mệt, mình kêu họ hát tuồng “Hai Lan Thu Hen” khiến bà Hai đứng như bò đội nón, hỏi lại tuồng gì mình kêu “Hai Lan Thu Hen”. Mặt bà Hai vẫn như ngỗng ị bị thằn lằn đái vào mặt. Bổng nhiên con Thuý, hàng xóm làm tài khôn chu mõ vào kêu: không phải, người ta hát “Hai Lần Thu Hẹn”. Thế là từ đó mình mang tiếng thông minh nhưng học ngu.
Nói đến rãi truyền đơn, mình nhớ dạo ấy có trò máy bay bà già, cất cánh từ phi trường Cam Ly, hay bay qua vùng nhà mình, số 4, rãi truyền đơn, kêu gọi cán binh Việt Cộng hồi chánh. Nhớ dạo ấy đài Sàigòn cứ rao rão tiếng ông nào giọng miền Nam “tôi là Nguyễn Văn Bé hiện còn sống đây,…”. Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ cho in truyền đơn hình ảnh ông Bé này, được Hà Nội vinh danh là liệt sĩ như anh hùng Lê Văn 8. Con nít như mình chạy đi lượm truyền đơn mệt thở, riết không biết làm gì nên cũng chán. Vài năm sau, có tên trên xóm Thi Sách, hay chơi bắn bi với mình, lớn hơn đâu 3 tuổi, học trường Trần Hưng Đạo, bị còng đầu vì theo Việt Cộng. Có lần mình được ba thằng Hùng chở lên trung tâm thẩm vấn, thấy tên này ngồi trong ca sô. Kinh
Ông Đỗ Cao Lụa rất ghét nghệ sĩ Hùng Cường nên mỗi lần đài phát thanh bài hát gì mà ông Hùng Cường ré “Tôi đi giữa hoàng hôn chi đó” là ông Lụa kêu tắt tắt tắt. Bà Hai mê radio, chìu khách quý đành phải tắt.
Nhà bên cạnh số 47/3 là nhà bà Thường, có 5 người con gái và một trai. Cô Oanh, con đầu sau này lấy chồng ở Nha Trang, ông thần này thổi sáo hay lắm, tối hai người ăn xong là ra ngồi nơi bậc thềm đá, trước sân để ông chồng thổi sáo nên sau này khi nghe ca sĩ Lê Dung, hát bản nhạc “mặt trời bé con” của Trần Tiến , khiến mình nhớ lại những đêm trăng nghe tiếng sáo của chồng cô Oanh. Hình như sau này chồng cô Oanh chết trận thì phải. Lâu quá không nhớ, vì cô dọn về gia đình chồng ở Nha Trang.
Khi cô Oanh sinh con so, bà Thường sáng nào cũng vác cái lon Guigoz sang nhà mình, bảo tè vào để cô Oanh uống. Có lần mình dậy sớm, đi tè đến khi bà Thường sang, bắt mình tè nhưng mồm bà ta cứ xi xi, vòi nước mình vẫn ngoan cố, không chịu tè. Bị chửi một tăng. Cô thứ nhì quên tên, đi du học ở Nhật Bản, học nghề cắm hoa, sau về nước, dạy tiếng Nhật ở Sàigòn.
Căn nhà 47/3 này, tính ra có 3 người đi du học. Hình như trước khi gia đình bà Thường đến thì có gia đình chú Kỳ ở. Chú kỳ đậu tú tài rồi đi du học bên tây, cho mình mấy cuốn Spirou, Lucky Luke,.. mình không bao giờ nghe tin tức chú lại, người em tên Lộc thì phải, sau này đi lính có ghé thăm nhà mình khi về phép.
Cô thứ 3 lấy chú Minh, trung uý quân cụ, đóng trong ấp Sòng Sơn mà mình có kỹ niệm khá kinh hoàng với cặp vợ chồng này. Mình có thằng bạn học Thái Cực Đạo ở Lasan Adran, tên Lê Công Hùng, con ông Lê Công Oai, công an, chuyên bắt Việt Cộng nằm vùng, nhốt ở trung tâm thẩm vấn ở đường Bá Đa Lộc. Nhà nó đối diện với nhà trung tá Tốn trên đường Thi Sách.
Một hôm, tên này xuống nhà mình chơi, không biết chơi cái gì nên mình rũ nó leo lên trần nhà. Cư xá có 7 căn nhà nối liền thì trên trần nhà có một lỗ hổng để thợ sửa chửa điện,…có thể đi ăn thông tới cuối dãy. Mỗi căn đều có một cái nắp đậy nơi trần nhà, để leo lên phòng khi sửa điện hay trốn trên đó nếu Việt Cộng về ban đêm. Thường được gắn ngay nơi độ cao nhất của mái nhà để lúc lên không đụng đầu.
Mình leo lên, khá tối nhưng cũng có chút ánh sáng từ các khe ngói rọi vào, mình dặn thằng Hùng là cẩn thận cái nắp nhà bà Thường ngay đường đi. Thằng Hùng mò đi theo mấy cái đà đi, mỗi nhà thì tường làm bằng hắc lô, cao đến nóc nhà, có cái lỗ vuông, ăn thông qua căn bên cạnh. Mình leo qua cái lỗ nhà chú Mãn, rồi nhà bà Thường, đến khi leo qua lỗ nhà ông Tước, số 47/4. Tên này mập như con heo, chui qua không lọt lại làm rơi cục gạch bên cạnh xuống trần nhà nghe cái độp. Mình nghe dưới trần nhà tiếng Tí Chị kêu “Tèo làm gì đó? ngủ đi” khiến hai thằng hoảng vía. Mình ra hiệu thằng Hùng trở lui thì nghe cái RẦM rồi loảng choảng, leng cheng…..
Thằng Hùng quay lại, hoảng vía quên tránh cái nắp trần nhà của nhà bà Thường, thế là nó đạp bố lên cái nắp và rơi xuống trần nhà qua cái lỗ vuông. Mình tá hoả tam tinh nhìn qua cái lỗ thì thấy cô Minh và ông chồng quân cụ đang ngủ trưa, mặt xanh như đít nhái, tưởng Việt Cộng nằm vùng núp trên trần nhà đột kích xuống, bắt trung uý quân cụ nên mình dọt về nhà luôn.
Thằng Hùng là công giáo nên không tin bàn thờ ông bà tổ tiên chi đó nên khi nó rớt xuống trần nhà, lại nhắm ngay cái bàn thờ gia tiên bà Thường, kê ngay dưới cái lỗ leo lên trần nhà vì có cái bàn thờ nên leo dễ hơn, làm rớt chân đèn bát hương, chuối bông đủ trò. Nó bò về nhà mình, mặt như người ngoại cảm, xanh còn hơn đít nhái, miệng cứ hỏi tao ăn cơm chưa tao ăn cơm chưa. Mình nói mày mới ăn hết nồi cơm nhà tao. Kinh
Thằng này, thuộc loại thấp, to con, lại béo, ăn nhiều kinh hoàng. Mỗi lần nó đến nhà mình mà lỡ mồm rũ nó ở lại ăn cơm là nó chơi 5 bát cơm một lèo, mình phải nhường phần cơm của mình cho nó. Nó nhờ mình xin ông Ưng Quyền, bác của ông Bửu Ngự, con chó cho nhà nó nuôi, ai ngờ gia đình nó làm thịt cầy, còn mời mình ăn. Nhờ thằng này mà mình biết mùi vị thịt cầy. Kinh
Bà Thường, sau khi hoàn hồn, tưởng Việt Cộng nút trên trần nhà, chạy qua nhà chỉ mặt nó chửi đồ mất giày mất dép trong khi nó lại hỏi bà Thường cháu ăn cơm chưa, con ăn cơm chưa, lại khiến bà này điên lên kêu ăn cái mã cha mày. Tối đó bà Thường qua nhà mắng vốn với ông bà cụ mình. Chán Mớ Đời
Bà Thường có người con trai tên Dũng, học Yersin trên mình đâu 5 lớp. Mỗi lần mình cúp cua đi đá banh ở sân Cô Giang là nhờ ông thần này viết thư xin phép. Ông thần này cho mình xem báo Playboy, hình mấy cô đầm ở truồng khiến mình đã ngu lại càng ngu bền vững. Ông thần này có lần, trong Gala trường Yersin, có đóng kịch, vai Thân trong “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh, bị Loan đâm cho một cái kéo chết không kịp hét. Sau này về Sàigòn học sư phạm, dạy pháp văn. Mình có ghé thăm một lần ở Sàigòn.
Cô Bích là út, mình không nhớ có gì đặc biệt cả ngoài đeo kính cận.
Nhà bên số 47/4 là nhà ông Khoa, làm ty kiến thiết, bố của anh Bình. Anh này theo Việt Cộng chi đó, bị bắt đày đi Côn Đảo, sau về lại, đổi tên, giấy khai sanh, dạy học ở nhà, làm ông giáo mầm non. Sau này bị động viên, đi Địa pHương quân, làm ở lao xá, nhà tù ở gần hồ Xuân Hương.
Anh Bình này, có dạo nổi điên, lấy áo quần cô em tên Cúc, cắt xé hết còn giày dép, lấy búa đập nát hết. Cô Cúc sảng hồn, chạy qua nhà mình núp, khóc hu hu. Số là thằng con anh Bình đau, anh nhờ cô Cúc đưa nó đi bác sĩ, cô bận chi đó, không đi khiến anh ta nổi điên, biểu lộ tinh thần gia trưởng trai việt bất diệt.
Nói đến cô Cúc mình nhớ có lần đang làm bài ở nhà, cô sang nhà chơi, hỏi mày học hành ra sao rồi lấy cặp của mình ra kiểm điểm. Bổng mình nghe cô Cúc hét to, ré lên rồi té cái bịch, mặt xanh như tàu lá chuối. Hoá ra trong cặp của mình, có một ngăn mà mình ít khi mở ra có mấy con chuột con đỏ hỏm mà mình không biết. Kinh
Được cái là anh Bình và mình hay tụ nhau, đấu láo về đá banh. Ông cụ mình mua báo Thao Trường nên mình đọc mệt thở, rồi gặp anh Bình, bàn tán về trung phong Chiêu, Phạm Huỳnh Tam Lang, hay trung phong Yamamoto của Nhật Bản,…dù chưa bao giờ hiển thị, xem họ đá ra sao, chỉ trong trí tưởng tượng.
Dạo VNCH thắng giải túc cầu Merdeka ở Mã Lai. Mình, anh Bình, thằng Đắc, con anh Bình ngồi dán cái lỗ tai vào cái radio rè rè, nghe phóng viên Huyền Vũ, tường trình từ Mã Lai. Khi trung phong Nguyễn Văn Chiêu đá lọt bàn, cả đám nhảy hét om xòm, hát như có chính phủ Nguyễn Cao Kỳ trong ngày vui đại thắng.
Cô Cúc, có dạo đi chơi với ông tây nhà đèn, lái chiếc xe 2CV. Một hôm, mình thức dậy sớm, thấy chiếc xe đậu ngoài sân nhà bà Hai nên tò mò rờ xe. Thấy có cục gạch để chấn cửa nhà mình, bị ai lấy chắn dưới bánh xe sau nên mình gở cục gạch, lấy lại đem vô nhà cất. Mình đang hồ hởi lấy lại được cục gạch thì tái mặt khi thấy chiếc xe đậu trên dốc, không thắng, bị lấy cục gạch chêm.
Mình và cô em kế, nhìn chiếc xe 2 CV từ từ lăn bánh chạy lui không người lái, lọt xuống mương, nghiêng qua một bên khiến hai anh em sợ quá, chạy vô nhà núp dưới giường suốt 2 tiếng đồng hồ, trong khi ở ngoài thiên hạ la bãi bãi, hò dô ta kéo chiếc xe khỏi mương. Tối đó, hai anh em bị bà cụ tẩm quất một trận bằng chổi lông gà. Kinh
Nhà ông Khoa còn có chú Sanh đi Võ Bị, chú Hành hay chỉ bài tập cho mình, học không lưu, làm cho phi trường Tân Sơn Nhất. Sau này ông Khoa về hưu, trả nhà lại, dọn về Ba Ngòi ở. Gia đình anh BÌnh cắm dùi miếng đất, đầy hoa quỳ sau cầu xí của xóm, xây căn nhà gỗ ở đó. Nhà này lạ, bị kẹp giữa cầu xí và chuồng heo nhà bà làm vườn, bị mình và thằng Khánh Ù, ăn cắp buồng chuối, chửi cả xóm mấy ngày mấy đêm.
Ai mà tin phong thủy là không khá. Cứ tưởng tượng, nằm trong nhà nghe heo nhà bà làm vườn ọt ẹt rồi bên kia cầu xí có người thả bom. Sau này có tiền thì xây gạch. Nay vợ anh Bình vẫn còn ở đó với cô con gái út. Mình có ghé thăm, mấy đứa em của thằng Đắc không biết mình là ai, nghe nói cô Kim đã bị lẫn.
Căn 47/5 là nhà của ông bà Kiếm, người Quảng Trị. Bà Kiếm hay nhờ mình xỏ kim chỉ cho bà ta vì tra nên mắt không còn sáng nữa. Nhà bà này, chiếm đất trước nhà ông Khoa, trồng mía, cây bưởi và cây ổi. Mình hay ăn cắp, chặt mía của bà ta, ăn gãy răng. Họ kêu mía lau chi đó màu đen, cứng kinh hồn.
Ông bà Kiếm có thằng con tên Sữu, hơn mình đâu 4 tuổi chi đó. Lớn lên chơi sì ke, lấy con ông bán thịt trong chợ đối diện hàng bà Phòng bán trà. Nó sửa xe Honda, bán cho ông cụ mình chiếc xe Bridgestone đỏ, để mình chạy. Tên này cưa ống bô nên kêu to kinh hồn. Sau này bà cụ bán, mua cho mình chiếc xe honda dame, kêu bớt du côn hơn.
Sau này ông Kiếm về hưu, dọn về quê ở Quảng Trị rồi mình không biết tin tức gì cả. Thằng Sửu, sau này mình có gặp lại nó một lần ở tiệm chè Mây Hồng, đường Tăng Bạt Hổ nhưng nó chơi sì ke quá độ nên không nhớ hàng xóm khi xưa bắn bi với hắn nên sau này mình cũng chả chào.
Cạnh đó là nhà của thằng Dư, học chung lớp với thằng Sữu, anh con Thuý. Mình không nhớ bố con Thuý là ai, chỉ biết là mẹ nó bán cơm ở chợ Đàlạt. Đến mùa chợ đêm Tết thì thằng Dư và mình hay đi chung, xách đồ từ chợ về nhà.
Thằng Sữu và thằng Dư học anh Bình, thi vào trường Trần Hưng Đạo, cả hai đều rớt. Dạo ấy có hai trường trung học công Trần Hưng đạo và Bùi Thị Xuân; mỗi năm họ thi tuyển vào năm lớp đệ thất. Ai rớt thì học trường tư. Hình như học trò anh Bình đều rớt khi thi vào trường công vì thằng Sang, thằng Bình, thằng Phú ở xóm nhà thương đều đi học trường tư.
Nhà bên cạnh là cuối dãy, có hai chị em con Oanh, con ông Nhân. Có lần hai chị em con này rũ mình chơi vợ chồng chi đó.
Đùng một cái thì con Thuý báo tin là gia đình nó dọn về Ban Mê Thuột rồi gia đình chị em con Oanh dọn về Sàigòn. Mình có gặp lại ông Nhân một lần. Nhà bà Hai dọn đi, nhà con Thuý, con Oanh dọn đi, gia đình bà Kiếm dọn đi, ông Khoa dọn, xem như 5 gia đình di tản chỗ khác, chỉ còn lại nhà bà Thường và gia đình mình vẫn tử thủ tại xóm.
Nhớ dạo ấy, tối tối mà đi cầu xí là run vì sợ ma vì không có đèn đuốc lại không có ai ở gần đó. Được cái là mỗi nhà dành riêng mỗi cầu xí vì trước đây, 7 gia đình chia nhau 3 cầu xí. Trời mưa là một cực hình vì phải bận áo mưa, đội nón là, đem theo cái đèn hột vịt hay cây nến. Ngồi chồm hổm nghe từng giọt mưa rớt xuống nón lá trong tiếng mưa gió. Kinh
Con bà Thường, Chú Dũng nhảy qua căn số 47/2 câu điện ở ké cho rộng rãi. Căn ông Khoa thì mình , thằng Điệp, thằng Điền, con ông Quán dưới đường Hai Bà Trưng, mở cửa chạy vào chơi khi trời mưa. Thằng Điệp làm cái xe chạy bạc đạn. Tấm gỗ, có 2 cái bạc đạn phía sau, một phía trước, ngồi lên kêu mình đẩy chạy vòng vòng căn nhà hội. Có lần thằng Điệp lớn hơn mình đâu 4 tuổi, đẩy mạnh quá khiến mình hãm không được, bay vào tường lăn mấy vòng. Tởn luôn, hết dám chơi.
Bà cụ tính dọn luôn, có người rao bán cái tiệm bán đồ gỗ số 13 Duy Tân, cạnh nhà bà Phúng. Bà Phúng kêu số 13 xui, khi ông Phúng biết được thì kêu mua nhưng đã có người đặt cọc nên bà cụ bỏ mộng mua nhà ngoài phố, bỏ tiền đâu 500 ngàn, xây căn nhà 2 tầng ở miếng đất bên cạnh nhà, khi xưa bà Hai trồng nho, mà mình hay ăn cắp, bị ăn đòn roi mây mệt thở. Hè năm 3 ème, mình và ông thợ tên Lộc, nhà ở ấp Mỹ Lộc, bên Phan Đình Phùng, cuốc đất, bỏ lên xe bồ ệch đẩy ra vạt đất phía trước, sau lưng nhà bà Ngần để lấy đất đồi, xây nhà. Có lẻ theo dõi xây căn nhà này mà sau này mình học kiến trúc rồi đi thầu xây nhà cho thiên hạ.
Xóm bổng nhiên vắng tanh không còn con nít. Chỉ còn nhà anh Bình ở sau cầu xí, nhà mình và nhà bà Thường. Xóm vắng con nít để chơi nên mình mò đến xóm Địa Dư chơi. Hay bị chúng đánh, bỏ chạy. Được cái là khi đá banh thì tụi nó đều năn nỉ mình đá cho đội chúng. Sau này mình đi học võ thì không sợ thằng nào con nào cả, đến khi lấy vợ.
Trước Mậu Thân, khu công chánh cao nguyên trung phần, từ Ban Mê Thuột đổi về Đàlạt, các căn nhà trống lại có mấy gia đình từ xứ Buôn dọn vào. Con nít con nôi lại mọc đầy ra, vui vẻ, nhộn nhịp hơn xưa.
Gia đình bà Hai dọn đi thì gia đình mình dọn qua ở vì nhà rộng hơn và có sân rộng. Nhà mình ở trước đây số 47/2 thì có chú Mãn dọn đến, cháu ông bác sĩ Hà Thúc Nhơn, sau này chống tham nhũng bị bắn ở Nha Trang. Căn 47/3 thì có gia đình chú Nhân, đi Xây Dựng Nông Thôn dọn vào. Ông này hay cho mình mượn sách Học Làm Người để đọc. Nghe nói nay chú giàu lắm. Về Đàlạt tìm gặp nhưng chưa có duyên.
Căn số 47/4, to nhất xóm vì khi xưa là nhà hội. Cư xá có 7 căn, 3 căn hộ được xây ở hai bên còn căn to đùng ở giữa. Khi nhà ai có tiệc thì họ dùng căn này để nấu nướng, họp mặt. Tương tự ở Hoa Kỳ, trong các chung cư, có một nhà hội, người ta mượn khi có tiệc, không muốn làm ở nhà.
Nay thì vấn đề nhân khẩu nên không chơi kiểu tây như xưa, gia đình bác Tước dọn vào, có lẻ vì có đến 10 người con. Bên cạnh số 47/5, không nhớ là ai dọn đến, không thân lắm, hình như không có con. Ông nào độc thân thì phải. Ai nhớ xin cho biết. Phía sau nhà có chỗ trống nên trước Tết, nhà bác Tước hay nấu bánh Tét bánh chưng ở đây.
Nhà con Thuý, thằng Dư thì gia đình bác Hoà dọn vào còn nhà hai chị em con Oanh, con ông Nhân dọn về Sàigòn thì gia đình ông Vinh làm trù trì.
Giữa nhà ông Vinh và cầu xí, có miếng đất nên ông ta chơi luôn, cắm dùi làm nhà gỗ ngay chỗ đó cho gia đình ở luôn. Sẵn trớn, ông ta làm cái ga ra để xe hơi phía đường Thi Sách, sau này để cái bàn đánh bóng bàn, hàng xóm đến chơi ké. Ông ta chơi kiểu này khiến hàng xóm khó đi cầu xí vì bị lấn đất, mò mò vào. Kinh. Rốt cuộc, mọi người lấn đất phía đường Thi Sách, xây hầm xí tại nhà hết, tránh nạn vác thùng nước đi cầu ở cuối xóm. Mình có kể lại bức tranh đi nhà xí công cộng như trong phim Slumplord Millionaire của ấn độ.
Sau này, ông bà Vinh mua đất, xây cái nhà to đùng ở dưới Chi Lăng, dọn về đó rồi mình đi Tây. Mình có đến thăm một lần. Gia đình ông bà Vinh có 6 người con, 3 trai 3 gái. Trai đầu là anh Thanh, đi lính pháo binh chi đó, đóng tại Đàlạt, đến anh Tú, học toán lý hoá ở Sàigòn, chị Tân, hơn mình đâu mấy tuổi rồi đến thằng Tiến, nhỏ hơn mình 1 tuổi rồi 2 cô em gái, tên Tâm và Tuyết, không được đẹp lắm nhưng rất là “Lemon Question” vì gia đình được xem là giàu nhất xóm.
Cạnh nhà ông Vinh là nhà ông Hoà, người Quảng Bình hay Hà Tỉnh chi đó có hai tên con trai nhỏ tuổi hơn mình tên Hiếu và Hậu. Mình có gặp lại Hiếu, làm cho khách sạn Novotel còn Hậu thì đã chết sau 75. Nhà này đặt tên vần H hết, cô đầu tên Hợp, học Văn Học, nghe nói mới chết cách đây vài năm, cô thứ 2 tên Hiền, học Văn Học, mình có gặp lại một lần ở San Jose. Cô thứ 3 tên Phương, cùng tuổi mình, học Bùi Thị Xuân, chưa bao giờ nói chuyện rồi đến Hiếu, Hậu rồi Hương và cuối cùng là Hà. Mình về có gặp lại bác Hoà gái vài lần đến khi bác qua đời.
Có dạo sau Mậu Thân, nhà ông Lào ở xóm địa Dư, dưới đường Hai bà Trưng, thầu đóng thùng gỗ, đựng rau bán cho quân đội mỹ. Bà Hoà lãnh về cho hai thằng con đóng rồi mình bò lại đóng ké, kiếm tiền. Mỗi lần lãnh lương, là bà Hoà làm bột chiên. Loại bánh bột mì ve ve như mấy con sâu đóm với bột nổi rồi bỏ vô chảo chiên dầu, dụ mình mua ăn trừ lương. Sau này mình Chán Mớ Đời vì bị chủ chơi ép nên vác búa, bò xuống nhà ông Lào, năn nỉ mấy thằng con ông Lào cho đóng. Lúc đó mới có dư tiền, không bị bà Hoà ăn chận, trả lương bằng bột chiên.
Cạnh nhà mình thì có gia đình chú Hà Thúc Mãn, cán sự, về Huế lấy cô vợ rất xinh, học Mỹ Thuật Huế. Sau này dạy hội họa ở trường Việt Anh. Nghe nói sau 75, về Sàigòn làm thầu khoán.
Mình có kỹ niệm khá vui với hai vợ chồng son này. Một hôm trưa, có người đến hỏi, mình kêu tên chú Mãn ơi có người hỏi thăm, không thấy trả lời. Mình đi cửa sau, cửa nhà lại mở nên mình đi vào kêu tên nhưng vẫn im re. Vào phòng ngủ thì thấy thiếm MÃn đang ngồi trên người chú Mãn, đang hò giả gạo. Kinh. Dạo ấy mình còn ngây thơ lắm, chẳng biết gì, kêu có người hỏi thăm khiến thiếm Mãn mặt xanh như đít nhái, như một pho tượng nhìn mình rồi chợt nhận ra có cái gì lạ lạ, vội vàng lấy mềm quấn vào người như trong xi nê ma. Sau này gặp mặt, thiếm hay tránh mặt vì ốt dột. Chán Mớ Đời
Sau này, chú Mãn về Sàigòn thì chú Điềm đến ở mà gần đây mình có liên lạc lại được. Hy vọng lần sau về, sẽ cà phê với chú. Hỏi chú còn đánh bài nữa không vì khi xưa, mỗi lần chú đánh bài ăn, là kêu mình chở ra đường Trương Vĩnh Ký, ăn miến gà nhớ đến ngày nay. Trong khoản thời gian này, có một anh kiến trúc sư, lấy cô vợ trẻ cũng ở đây. Có lần cô vợ đau răng, ngồi khóc cả đêm. Anh ta dạy mình vẽ nên khi vẽ bản đồ là mình luôn luôn đứng nhất trong lớp, vì vậy sau này mình theo học kiến trúc.
Có lẻ dạo đó, nhà mình và gia đình bác Tước thân nhất trong xóm. Bác gái hay sang nhà, ngồi hút thuốc rê và ăn trầu với mệ ngoại mình. Mình hay ngồi hóng chuyện người lớn, hay bị sai chạy ra chợ mua thuốc rê hay trầu cau về. Bác gái chuyên vấn thuốc Cẩm Lệ cho mệ ngoại, hút xong, hai bà lại ấn mấy điếu thuốc hút dỡ, còn ướt vì nước miếng trên tường, đi nấu cơm.
Lâu lâu hết thuốc thì sai mình đi mua, còn hai bà lấy mấy điếu hút dán trên tường xuống, vấn lại hút đỡ ghiền. Qua những lần hóng chuyện này mà mình mới hiểu và thương mệ ngoại mình, kể về tình sử, cuộc đời của mệ.
Qua nhà bác gái, hay đưa cho mình xem cuốn album hình ảnh đám ma của ông anh hay chú chi đó, bị Việt Cộng ám sát. Đám tang rất lớn. Có lẻ vì vậy gia đình này thuộc loại chống cộng sản gộc như nhà mình.
Bác Tước có nghề làm bánh bèo ngon lắm. Lâu lâu làm cho ăn ngon nhớ đến ngày nay. Không hiểu mấy cô con gái có học nghề của bác để khi nào gặp lại, ăn cho nhớ một thời. Nghe kể trên Ban Mê Thuột, bác có bán bánh bèo đến nổi tướng Vĩnh Lộc còn mê, hay ghé ăn.
Mình chỉ tiếc khi xưa, không học nghề chích lể của bác. Mỗi lần mình và mấy đứa em đau, bị cảm là bác hay qua nhà, lấy cái mẻ chai rồi chích trên mặt và đầu mình rồi nặn máu đen ra. Khỏe lại liền. Không biết mấy người con có học nghề của bác, nếu có thì khi nào gặp lại sẽ học nghề. He he he
Cuối năm có chợ Tết, bà cụ mình hay kêu nhà bác Tước và bác Hoà, lấy một chỗ ngoài đường ở chợ rồi đem hàng của bà cụ mình ra bán chợ tết, kiếm chút tiền ăn Tết. Nếu mình không lầm thì chỉ có Tí Em là lanh lợi, biết chào hàng còn mấy cô kia, cứ đứng xớ rớ, ngơ ngơ ngác ngác. Mình đoán cô này, ngày nay thành công nhất trong mấy chị em.
Nhà bác Tước có 7 gái 3 trai. Đầu là anh Lâm, đại uý Biệt Cách Nhảy Dù, có lần mình thấy anh ta về phép, đi lang thang chỗ rạp Ngọc Hiệp, bận đồ Việt Cộng, đeo K54, AK 47, đi dép râu với một đồng đội. Mấy ông thần tuần cảnh không dám hỏi han chi cả, khác với đám trẻ như mình hay bị chận lại trình giấy tờ hoản dịch, nhân dân tự vệ. Dạo ấy mình phục anh này nhất xóm. Sau này, mình có đọc tài liệu về trận Phước Long, họ có kể về đại uý Trương Việt Lâm rất dũng cảm. Hôm trước, cô hàng xóm gửi hình anh ta. Nhận ra ngay.
Sau anh Lâm là chị Phương, mỗi ngày ngồi học, nghe đài “Mẹ Việt Nam” và “Gươm Thiên Ái Quốc”. Có lẻ anh Lâm hay đi nhảy toán nên cả nhà hay nghe tin tức của 2 đài này. Hai đài này của Hoa Kỳ thành lập để tuyên truyền, nghe nói phát thanh từ hòn đảo nào ngoài Đà Nẳng thì phải. Hình như mình có kể vụ này rồi. Nếu mình không lầm, người em kể mình là có lần anh ta nhảy toán, núp trong bụi cây, có bộ đội bác hồ đến tè vào lùm cây, phát giác ra nên phải bắn bộ đội rồi chạy thoát. Mấy ngày sau mới được trực thăng bốc về.
Chị này cũng như mấy cô em gái đều xinh nên có nhiều tên đến nhà, trồng cây si, cho mượn truyện đọc. Mình nhớ có một tên, tên Hạnh thì phải, con của ông Marcel, anh Dương Quang Phước và Trí. Tên này là chồng cũ của chị một cô bạn, có cho mình số điện thoại của Trí khi về thăm Đàlạt, có gặp lại trước khi hắn chết. Mình nhớ chị Phương cho mình mượn cuốn “Dr Zhivago” và “Chiến Tranh và Hoà Bình”. Khổ một cái là cuốn sách của ông Pasternak, chị ấy nói là ngày mai phải trả cho bạn nên mình phải thức xuyên đêm để đọc sau này có xem phim này ở rạp Hoà Bình. Kinh
Chị Phương cho mượn sách loại khó nhai khó nuốt như “Giờ thứ 25” của Giorghiu, lâu quá không nhớ hết còn hai cô em thì cho mượn báo “Tuổi Hoa”, cái này thì vừa trình độ tiếng Việt bình dân học vụ của mình, gốc nông dân hơn.
Sau chị Phương là Bi, tên này hơn mình đâu 3 tuổi gì đó, học Văn Học nhưng hay đi chơi với mình, mày tao bú xua la mua nên khi gặp mấy cô em của hắn thì không biết xưng hô ra sao. Khi có tiền, hai thằng hay bò ra đường Minh Mạng, uống sữa đậu nành của bà 7 Quốc, trước tiệm vàng của bố bà Bùi Thị Hiếu, cạnh tiệm may Hoàng Nho.
Sau tên Bi là Tí chị, hơn mình đâu 2 lớp, học Văn Học, nghe nói đã qua đời 10 năm trước rồi đến Tí em. Cô nàng cùng tuổi con khỉ với mình, học Bùi Thị Xuân. Tết hay qua nhà chơi, bà cụ mình hay hỏi cô này và Tí Chị, làm dâu bác nghe khiến mình ốt dột nhưng khóai lắm. He he he
Sau này có học hội Việt mỹ chung vài khoá, cô nàng cho mình đáp án của bài thi trước. Hình như mỗi lần thi đều có 2 hay 3 loại đề nên mình luôn luôn đậu khiến mấy ông thầy như bò đội nón vì trong lớp, mỗi khi thầy hỏi là mình đực ra như ngỗng ị. Cô nàng kể khi xưa học Hội Việt Mỹ mà nay đi du lịch sang Hoa Kỳ, Gia Nã đại không khạc được một câu. Khi xưa đi thi toàn là có đáp án trước. He he he
Sau Tí Em là Bé LỚn, cùng tuổi với cô em kế mình, rồi Bé Nhỏ cũng học Bùi Thị Xuân rồi đến Cu Tèo. Tên này, nghe kể sau 75, bị Việt Cộng ở Sàigòn lùng, dính dáng đến phản động chi đó nên có bò lên nhà mình, khi mình về Việt Nam lần đầu thì nghe mẹ hắn kể làm thuyền trưởng, lái tàu chi đó. Rồi đến hai cô út. Chắc hết tên cúng cơm như Tí , BÉ nên gọi tên giấy khai sinh Nguyên và Oanh. Năm 1992, mình về thì có gặp hai vợ chồng Nguyên và Tí em tại nhà bác Tước ở Thanh Đa. Hình như hôm ấy, mình có ở lại ăn cơm trưa với gia đình.
Mình sống ở cư xá Công Chánh, đường Hai Bà Trưng từ năm lên 8 đến năm 18, xem như 10 năm, chứng kiến hai lớp dân cư trong xóm đến và đi, nay chỉ còn lại gia đình bác Hoà và anh Bình và gia đình mình. Có nhiều chuyện vui, nay nghĩ lại có lẻ là thời gian đẹp nhất đời mình. Chỉ có ăn và tìm cách phá thiên hạ như lấy ná bắn đá xuống mái tôn nhà ông Duy, bà Tân,.. khoái chí khi thấy cha con hàng xóm chạy ra sân, nhìn tứ phía hay sai thằng Khánh Ù đi ăn cắp chuối nhà bà làm vườn, bị chửi ròng rã 1 tháng trời, đến khi chịu hết nổi, chuối không chín, ăn không được nên đem trả lại mới hết nghe chửi. Mình đã kể khá nhiều mấy mục này trong Mực Tím Sơn Đen do Chử Nhị Anh xuất bản trên Amazon
Cảm ơn Tí Em đã cho mình tìm lại những tình cảm hàng xóm một thời của những ngày xưa thân ái. Hẹn tái ngộ.
NHS
Hình Sơn Đen ngày xưa. He he he
Đạo đức = Mĩ thuật
Đạo đức = Mĩ thuật
Nhiều khi ngồi tự hỏi; lí do nào một nền văn minh Hy Lạp, mấy ngàn năm trước lớn mạnh với cuộc trường chinh của đại đế Alexander, trong khi nhiều lục địa còn ăn lông ở lổ rồi tàn lụi. Đế quốc La Mã bắt chước Hy Lạp thủa xưa biến thành một đế quốc rộng lớn rồi cũng tàn lụi. Vào thời đại đó, những câu chuyện giữa Plato và Socrates và các triết nhân khác đã bàn đến thẩm mỹ, đạo đức vẫn còn ảnh hưởng đến tư tưởng nhân loại ngày nay.Những bức tượng của các nhà mỹ thuật Hy Lạp còn tồn tại từ mấy ngàn năm qua là một cái đẹp tuyệt mỹ, cho đến ngày nay khó có nghệ nhân nào có thể làm đẹp hơn. Mình nhớ những giây phút ngồi vẽ Acropolis ở Athens hay đền Hera ở Agrigento ở Sicily,..., những giây phút tuyệt đẹp nhất của cuộc đời mình, khó mà tìm lại được. Chỉ có một mình, ngồi vẽ trong không gian, dung dịch khá thần thoại, nay chỉ toàn là du và khách. Óc mỹ thuật của người Hy Lạp thời đó quả là tuyệt vời nhưng rồi đất nước này đi vào quên lãng của lịch sử, bị nước láng giềng Thổ Nhĩ Kỳ đô hộ, chiếm đóng mấy trăm năm.
Có người giải thích; người Hy Lạp vào lúc thời đại văn minh của họ lên tuyệt đỉnh thì tự xem mình vừa là người vừa là thánh. Trong Thiên Anh Hùng Ca Gilgamesh ở xứ Sumer, được xem là cái nôi của văn minh Tây Phương, Iraq ngày nay, kể chuyện một người phàm Enkidu, biết suy nghĩ phải trái, đã chặn đường vua Gilgamesh, một nhân vật nữa người nữa thần thánh như các nhân vật Hy Lạp, để dạy cho vị vua này đạo làm người.
Gilgamesh tự xưng là thần linh, tự cho mình là hạng vua vô địch, nhưng trên thực tế những tệ đoan xã hội, chính trị thời đó đã tạo nên hiện tượng Gilgamesh, một bạo chúa lạm dụng quyền hành. Ông ta muốn làm bá chủ thế gian nên coi thường sinh mạng người dân, người lính, dẫn đến sự tàn lụi của nền văn minh cổ của xứ Sumer. Hy Lạp mà sau này đế quốc La Mã đã noi theo để tạo nên một đế quốc rộng lớn trong lịch sử nhưng các Caesar khi có quyền hành trong tay, tự cho mình là thần linh, tàn sát những kẻ đối kháng lại nguyện vọng của mình để đưa đến ngày tàn của đế quốc La Mã.
Vào thế kỷ trước, người ta cũng tự tôn sùng lãnh tụ, cha già dân tộc, xây lăng cho Lenin, Stalin để đời đời hậu thế sẽ tung hô họ như những vị thánh để rồi vào cuối thập niên 80, bao nhiêu bức tượng cha già dân tộc, được dựng lên trên các nước thuộc khối Liên Xô đều phải dẹp bỏ, kéo xuống, lấy sắt vụng đem bán hay những hình ảnh của bạo chúa Sadam Hussein, trốn chui dưới hầm trong khi những tượng đài của ông ta được truất đổ.
Cái nguy hiểm của con người khi có quyền sinh sát trong tay, bổng nhiên cảm thấy mình là đấng toàn năng như tên đồ tể Mugabe của xứ Zimbabwe vừa mới qua đời. Từ một giải phóng quân, dành lại quyền hành của người da đen trong tay thiểu số da trắng, ông ta hồ hởi, tự cho mình là cha già dân tộc nên cho lính tàn sát trên 10,000 đồng bào của ông ta, ông ta trở thành bạo chúa. Từ một tên mát xít kêu gọi xây dựng thế giới đại đồng, hắn trở thành một tỷ phú vơ vét hết tài nguyên quốc gia về mình và khi chết đám lâu la vẫn ca tụng là một thánh nhân, anh hùng dân tộc. Ai nói ngược thì sẽ bị tù đầy hay giết.
Trong lịch sử Pháp quốc, Napoleon nướng mấy triệu lính tây trong các cuộc viễn chinh của ông ta nhưng người Pháp vẫn kêu ông ta là anh hùng dân tộc, cho thấy đạo đức con người cần được kiểm chứng lại. Tại sao học sinh cứ bị bắt buộc kêu gào những tên đồ tể là anh hùng dân tộc. Người ta cần tạo nên những thánh nhân để làm ngôi sao bắc đẩu, để dẩn dắt những đàn con cừu.
Ông vua Gilgamesh có hỏi một câu khá điên điên: "làm sao ta được bất tử", tương tự bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng ở phương đông, muốn tìm thuốc trường sinh, rồi khi chết, ra lệnh chôn sống vợ, quan lính, không phải một vài người mà cả ngàn. Vì câu hỏi này sẽ dẫn đến làm thế nào cho chính thể, đường lối cai trị của một ai hay một tập đoàn sẽ ngự trị vĩnh viễn. Tần Thuỷ Hoàng đã chết nhưng lối cai trị của tên bạo chúa vẫn bất tử, vẫn hiện hữu tại Trung Cộng ngày nay. Tưởng tượng một chính thể sai mà toàn dân phải tiếp tục nuôi dưỡng nó đến muôn đời. Khi Enkidu, một nhân vật nữa người nữa vật, đã ngang nhiên chặn đường vua Gilgamesh, để dạy cho vua biết đâu là phải trái, đạo làm người, đã nói lên vua tôi bình đẳng về đạo đức, lý trí từ mấy ngàn năm trước, đúng hơn là từ khởi nguyên của loài người. Ai sinh ra đều bình đẳng, chỉ có đạo đức là không.
Hôm nay, có một cuộc đảo chính vô cùng khoáng hậu ở Úc Đại Lợi. Một ông bộ trưởng của nội các của Thủ tướng Abbott từ chức, rồi quay qua đòi quốc hội biểu quyết tín nhiệm thủ tướng. Ông thủ tướng đạt ít phiếu trong khi vị bộ trưởng mới từ chức lại đạt số phiếu tín nhiệm cao nhất thế là được lên làm thủ tướng, không phải đánh nhau, bắn chết, đổ máu ai. Có nên hỏi đây là đạo đức của chính trị hay là cái đẹp của đạo đức chính trị tuyệt đối, vì trong lịch sử loài người, đa số các cuộc cách mạng, tranh quyền đều phải trả giá bằng máu của đồng loại.
Trong xã hội, nếu người ta tuân theo những quy luật về chính trị, hành chính thì rất dễ có một cuộc sống an bình nhưng đạo đức con người, tham vọng không muốn tuân theo, để làm lợi cho cá nhân mình hay tập thể của mình.
Người ta khám nghiệm cuốn kinh Koran xuất bản trước khi thánh Mohammed ra đời cho nên có lẻ cuốn Koran không phải chính ông thánh này viết. Trong khi đó các nhà truyền giáo Hồi Giáo quá khích lại muốn đưa xã hội á rập về lại thời đại của ông Thánh này ra đời vào kỷ nguyên 600 sau công nguyên. Một thời vàng son nhất của lịch sử họ, trước khi bị đô hộ bởi Tây Phương. Tương tự khi Đế chế Constantin, nghe lời vợ gia nhập Ki Tô Giáo, đúng hơn là trở về đạo, dời đô từ La Mã về Constantinople, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay thì tây Âu biến chìm trong thời đại tối tăm "dark age" với Inquisition, tra tấn những ai có tư tưởng không tin vào các ông cố đạo, kinh thánh như chế độ Xô Viết, bỏ các nhà tranh đấu đòi tự do vào các viện tâm thần. Anh không thích chế độ siêu việt tức nhiên anh là một người bị bệnh tâm thân, cần điều trị. Rất đơn giản.
Các nhóm Hồi giáo quá khích, muốn xây dựng một xã hội như thời ông Mohammed, chiếm đóng khắp nơi và có một nền văn minh rất cao, đóng góp vào kho tàng văn học, khoa học của thế giới. Anh không đồng ý với giáo điều của Allah, anh là một kẻ phản bội, đáng tội chết tương tự thời Trung Cổ ở Âu châu anh không theo đạo Thiên Chúa tức nhiên anh là một người bỏ đạo, một đứa con hoang đàng, bị tra tấn đến chết. Ngày nay, chúng ta lại thấy hiện tượng này trở lại. Đó là ai theo Trump hay chống Trump. Tín đồ của Kamala chửi tín đồ Trump là phát xít, ngược lại tín đồ Trump lại chửi tín đồ Kamala là điên. Anh không thích lãnh tụ của tôi là anh điên, là Hitler cần bỏ tù.
Nhiều khi ngồi tự hỏi; lí do nào một nền văn minh Hy Lạp, mấy ngàn năm trước lớn mạnh với cuộc trường chinh của đại đế Alexander, trong khi nhiều lục địa còn ăn lông ở lổ rồi tàn lụi. Đế quốc La Mã bắt chước Hy Lạp thủa xưa biến thành một đế quốc rộng lớn rồi cũng tàn lụi. Vào thời đại đó, những câu chuyện giữa Plato và Socrates và các triết nhân khác đã bàn đến thẩm mỹ, đạo đức vẫn còn ảnh hưởng đến tư tưởng nhân loại ngày nay.Những bức tượng của các nhà mỹ thuật Hy Lạp còn tồn tại từ mấy ngàn năm qua là một cái đẹp tuyệt mỹ, cho đến ngày nay khó có nghệ nhân nào có thể làm đẹp hơn. Mình nhớ những giây phút ngồi vẽ Acropolis ở Athens hay đền Hera ở Agrigento ở Sicily,..., những giây phút tuyệt đẹp nhất của cuộc đời mình, khó mà tìm lại được. Chỉ có một mình, ngồi vẽ trong không gian, dung dịch khá thần thoại, nay chỉ toàn là du và khách. Óc mỹ thuật của người Hy Lạp thời đó quả là tuyệt vời nhưng rồi đất nước này đi vào quên lãng của lịch sử, bị nước láng giềng Thổ Nhĩ Kỳ đô hộ, chiếm đóng mấy trăm năm.
Có người giải thích; người Hy Lạp vào lúc thời đại văn minh của họ lên tuyệt đỉnh thì tự xem mình vừa là người vừa là thánh. Trong Thiên Anh Hùng Ca Gilgamesh ở xứ Sumer, được xem là cái nôi của văn minh Tây Phương, Iraq ngày nay, kể chuyện một người phàm Enkidu, biết suy nghĩ phải trái, đã chặn đường vua Gilgamesh, một nhân vật nữa người nữa thần thánh như các nhân vật Hy Lạp, để dạy cho vị vua này đạo làm người.
Gilgamesh tự xưng là thần linh, tự cho mình là hạng vua vô địch, nhưng trên thực tế những tệ đoan xã hội, chính trị thời đó đã tạo nên hiện tượng Gilgamesh, một bạo chúa lạm dụng quyền hành. Ông ta muốn làm bá chủ thế gian nên coi thường sinh mạng người dân, người lính, dẫn đến sự tàn lụi của nền văn minh cổ của xứ Sumer. Hy Lạp mà sau này đế quốc La Mã đã noi theo để tạo nên một đế quốc rộng lớn trong lịch sử nhưng các Caesar khi có quyền hành trong tay, tự cho mình là thần linh, tàn sát những kẻ đối kháng lại nguyện vọng của mình để đưa đến ngày tàn của đế quốc La Mã.
Vào thế kỷ trước, người ta cũng tự tôn sùng lãnh tụ, cha già dân tộc, xây lăng cho Lenin, Stalin để đời đời hậu thế sẽ tung hô họ như những vị thánh để rồi vào cuối thập niên 80, bao nhiêu bức tượng cha già dân tộc, được dựng lên trên các nước thuộc khối Liên Xô đều phải dẹp bỏ, kéo xuống, lấy sắt vụng đem bán hay những hình ảnh của bạo chúa Sadam Hussein, trốn chui dưới hầm trong khi những tượng đài của ông ta được truất đổ.
Cái nguy hiểm của con người khi có quyền sinh sát trong tay, bổng nhiên cảm thấy mình là đấng toàn năng như tên đồ tể Mugabe của xứ Zimbabwe vừa mới qua đời. Từ một giải phóng quân, dành lại quyền hành của người da đen trong tay thiểu số da trắng, ông ta hồ hởi, tự cho mình là cha già dân tộc nên cho lính tàn sát trên 10,000 đồng bào của ông ta, ông ta trở thành bạo chúa. Từ một tên mát xít kêu gọi xây dựng thế giới đại đồng, hắn trở thành một tỷ phú vơ vét hết tài nguyên quốc gia về mình và khi chết đám lâu la vẫn ca tụng là một thánh nhân, anh hùng dân tộc. Ai nói ngược thì sẽ bị tù đầy hay giết.
Trong lịch sử Pháp quốc, Napoleon nướng mấy triệu lính tây trong các cuộc viễn chinh của ông ta nhưng người Pháp vẫn kêu ông ta là anh hùng dân tộc, cho thấy đạo đức con người cần được kiểm chứng lại. Tại sao học sinh cứ bị bắt buộc kêu gào những tên đồ tể là anh hùng dân tộc. Người ta cần tạo nên những thánh nhân để làm ngôi sao bắc đẩu, để dẩn dắt những đàn con cừu.
Ông vua Gilgamesh có hỏi một câu khá điên điên: "làm sao ta được bất tử", tương tự bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng ở phương đông, muốn tìm thuốc trường sinh, rồi khi chết, ra lệnh chôn sống vợ, quan lính, không phải một vài người mà cả ngàn. Vì câu hỏi này sẽ dẫn đến làm thế nào cho chính thể, đường lối cai trị của một ai hay một tập đoàn sẽ ngự trị vĩnh viễn. Tần Thuỷ Hoàng đã chết nhưng lối cai trị của tên bạo chúa vẫn bất tử, vẫn hiện hữu tại Trung Cộng ngày nay. Tưởng tượng một chính thể sai mà toàn dân phải tiếp tục nuôi dưỡng nó đến muôn đời. Khi Enkidu, một nhân vật nữa người nữa vật, đã ngang nhiên chặn đường vua Gilgamesh, để dạy cho vua biết đâu là phải trái, đạo làm người, đã nói lên vua tôi bình đẳng về đạo đức, lý trí từ mấy ngàn năm trước, đúng hơn là từ khởi nguyên của loài người. Ai sinh ra đều bình đẳng, chỉ có đạo đức là không.
Hôm nay, có một cuộc đảo chính vô cùng khoáng hậu ở Úc Đại Lợi. Một ông bộ trưởng của nội các của Thủ tướng Abbott từ chức, rồi quay qua đòi quốc hội biểu quyết tín nhiệm thủ tướng. Ông thủ tướng đạt ít phiếu trong khi vị bộ trưởng mới từ chức lại đạt số phiếu tín nhiệm cao nhất thế là được lên làm thủ tướng, không phải đánh nhau, bắn chết, đổ máu ai. Có nên hỏi đây là đạo đức của chính trị hay là cái đẹp của đạo đức chính trị tuyệt đối, vì trong lịch sử loài người, đa số các cuộc cách mạng, tranh quyền đều phải trả giá bằng máu của đồng loại.
Trong xã hội, nếu người ta tuân theo những quy luật về chính trị, hành chính thì rất dễ có một cuộc sống an bình nhưng đạo đức con người, tham vọng không muốn tuân theo, để làm lợi cho cá nhân mình hay tập thể của mình.
Người ta khám nghiệm cuốn kinh Koran xuất bản trước khi thánh Mohammed ra đời cho nên có lẻ cuốn Koran không phải chính ông thánh này viết. Trong khi đó các nhà truyền giáo Hồi Giáo quá khích lại muốn đưa xã hội á rập về lại thời đại của ông Thánh này ra đời vào kỷ nguyên 600 sau công nguyên. Một thời vàng son nhất của lịch sử họ, trước khi bị đô hộ bởi Tây Phương. Tương tự khi Đế chế Constantin, nghe lời vợ gia nhập Ki Tô Giáo, đúng hơn là trở về đạo, dời đô từ La Mã về Constantinople, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay thì tây Âu biến chìm trong thời đại tối tăm "dark age" với Inquisition, tra tấn những ai có tư tưởng không tin vào các ông cố đạo, kinh thánh như chế độ Xô Viết, bỏ các nhà tranh đấu đòi tự do vào các viện tâm thần. Anh không thích chế độ siêu việt tức nhiên anh là một người bị bệnh tâm thân, cần điều trị. Rất đơn giản.
Các nhóm Hồi giáo quá khích, muốn xây dựng một xã hội như thời ông Mohammed, chiếm đóng khắp nơi và có một nền văn minh rất cao, đóng góp vào kho tàng văn học, khoa học của thế giới. Anh không đồng ý với giáo điều của Allah, anh là một kẻ phản bội, đáng tội chết tương tự thời Trung Cổ ở Âu châu anh không theo đạo Thiên Chúa tức nhiên anh là một người bỏ đạo, một đứa con hoang đàng, bị tra tấn đến chết. Ngày nay, chúng ta lại thấy hiện tượng này trở lại. Đó là ai theo Trump hay chống Trump. Tín đồ của Kamala chửi tín đồ Trump là phát xít, ngược lại tín đồ Trump lại chửi tín đồ Kamala là điên. Anh không thích lãnh tụ của tôi là anh điên, là Hitler cần bỏ tù.
Khi bị ám sát hụt, ông Trump có thể tự xem mình là được Chúa cứu rỗi nên hình ảnh cuộc ám sát được truyền thông thiên hữu chiếu đi chiếu lại, tuyên truyền cho sứ mệnh được thiên chúa ban phát.
May thay thời Phục Hưng đã thay đổi cuộc sống của người dân, giúp dân trí và mĩ thuật, khoa học được tiến nhanh, nhờ những thiên tài của thế kỷ, Leonardo di Vinci, Michelangelo, Boticelli,..., đã đưa Tây phương ra khỏi cỏi u mê, mê tín của giáo hội. Các tôn giáo chính của Tây phương đều xuất xứ từ những Quốc gia nhỏ bé ở Trung Đông, để rồi truyền đi khắp thế giới, có chung một Ý niệm nhưng không đồng ý về đấng cứu thế mà họ mong đợi từ thượng đế sang tới thế gian này, để cứu rỗi loài người, để rồi choảng nhau, chém giết nhau trên 2,000 năm qua. Họ không đồng ý về người được thượng đế phái tới, vì trong mắt họ, cái vẻ đẹp của xã hội mà hình dung cho cộng đồng, nhân loại khác nhau.
Trong "Tractatus Logico- Philosophicus" ông Ludwig Wittgenstein nhận xét: Đạo Đức và Thẩm Mỹ là một. Dạo mình viếng nước Áo thì khám phá ra ông Wittgenstein. Gia đình ông này giàu nhất vương quốc Áo, rồi ông ta bỏ hết gia tài, để sang Anh quốc sinh sống một đời bình thường. Khi đọc Tractatus của ông thấy là lạ nói về Đạo Đức và Mỹ thuật. Theo mình, cuộc đời ông ta như Đức Phật, giàu có hơn, bỏ sự giàu sang, trao lại gia tài cho mấy người em rồi sang Anh Quốc dạy học. Ông ta chỉ có viết một cuốn sách rồi sau này lại tuyên bố cuốn sách ấy có vài vấn đề. Đó là con người đi tìm đạo đức suốt cuộc đời vì tất cả là vô thường, không cố định.
May thay thời Phục Hưng đã thay đổi cuộc sống của người dân, giúp dân trí và mĩ thuật, khoa học được tiến nhanh, nhờ những thiên tài của thế kỷ, Leonardo di Vinci, Michelangelo, Boticelli,..., đã đưa Tây phương ra khỏi cỏi u mê, mê tín của giáo hội. Các tôn giáo chính của Tây phương đều xuất xứ từ những Quốc gia nhỏ bé ở Trung Đông, để rồi truyền đi khắp thế giới, có chung một Ý niệm nhưng không đồng ý về đấng cứu thế mà họ mong đợi từ thượng đế sang tới thế gian này, để cứu rỗi loài người, để rồi choảng nhau, chém giết nhau trên 2,000 năm qua. Họ không đồng ý về người được thượng đế phái tới, vì trong mắt họ, cái vẻ đẹp của xã hội mà hình dung cho cộng đồng, nhân loại khác nhau.
Trong "Tractatus Logico- Philosophicus" ông Ludwig Wittgenstein nhận xét: Đạo Đức và Thẩm Mỹ là một. Dạo mình viếng nước Áo thì khám phá ra ông Wittgenstein. Gia đình ông này giàu nhất vương quốc Áo, rồi ông ta bỏ hết gia tài, để sang Anh quốc sinh sống một đời bình thường. Khi đọc Tractatus của ông thấy là lạ nói về Đạo Đức và Mỹ thuật. Theo mình, cuộc đời ông ta như Đức Phật, giàu có hơn, bỏ sự giàu sang, trao lại gia tài cho mấy người em rồi sang Anh Quốc dạy học. Ông ta chỉ có viết một cuốn sách rồi sau này lại tuyên bố cuốn sách ấy có vài vấn đề. Đó là con người đi tìm đạo đức suốt cuộc đời vì tất cả là vô thường, không cố định.
Người tây phương rất ngưỡng mộ đức Phật vì ông ta xuất thân là một hoàng tử nhưng từ bỏ tất cả để đi tìm nguyên lý của cuộc đời. Có thể ông Wittgenstein bị ảnh hưởng về cuộc đời của đức Phật, nên từ bỏ sự giàu sang để làm một giáo sư triết tại Luân Đôn? Không biết ông ta có liên hệ hay bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của Hermann Hesse vì cùng thời.
Nếu ta xét khái niệm Mỹ thuật, màu sắc của các triều đại, Văn minh như Hy Lạp, La Mã, có màu sắc riêng của nó tương tự ánh sáng của thời Phục Hưng với kỹ thuật chế biến màu sắc, hay đế quốc Anh, Pháp trong thời kỳ cách mạng kỹ nghệ, hay vào thế kỷ 20 như Đức Quốc xã của Hitler, là màu nâu, Liên Xô với màu đỏ hay màu đen của chế độ Phát Xít của Mussolini. Nhớ kỳ vừa rồi về Việt Nam, trong lúc Hà Nội đang chuẩn bị đại hội Đảng nên thấy toàn màu đỏ của máu khô, nhất là ở Đà Lạt khi trời mưa mới hiểu được tâm trạng của Trần Dần khi thấy mưa sa và cờ đỏ. Hitler, Stalin, Mao, Mussolini,..., và những nhà lãnh đạo khác, tự xem họ là Thánh vừa là người tương tự như vua Gilgamesh hay những người lãnh đạo của Hy Lạp và La Mã, muốn được phong thánh, bất tử trong lịch sử.Một người Palestine hái rau trong vườn của ông ta là một tên khủng bố, điên, Hitler
Hình ảnh khiến mình liên tưởng đến ông bà nội mình bị đấu tố khi xưa
Nghe Tố Hữu kêu gào :
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng mau tốt, thuế mau xong
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin… bất diệt”
(Trăm hoa đua nở trên đất Bắc- trang 37)
Cho thấy hình tượng sắc máu của Ý Chí , đạo đức, nói lên cái tâm, đạo đức của con người được diễn đạt qua hành động và tư tưởng của họ. Thử đọc câu thơ của ông, một nhà thơ tình tiền chiến với bài thơ tuổi nhỏ:
Giơ tay muốn ôm cả trái đất.
Ghì trước trái tim , ghì trước ngực.
Cho đầy trước mắt khoảng cô đơn.
Bao la muôn trời , sâu vạn vực .
Làm sao sống được mà không yêu.
Không nhớ không thương một kẻ nào ...
-- Hãy đốt.
Nhưng rồi vài năm sau, ta nghe sự hung hản của Xuân Diệu:
“Anh em ơi! quyết chung lòng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tư thù
Địa hào đối lập ra tro
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi”.
(Trăm hoa đua nở trên đất Bắc- trang 38)
Có người bảo vì hoàn cảnh nên mấy nhà thơ này phải nặn óc làm những câu thơ trên nhưng khi thấy chữ Tâm, được đặt một cách nghiêm chỉnh trên bàn thờ của gia đình nhà thơ Nguyễn Hữu Loan thì mình không chấp nhận sự lý giải kia vì nhà thơ này hay những nhà thơ khác, chấp nhận bị hình phạt, đầy đọa suốt mấy chục năm vì trái tim của họ, căn bản đạo đức không cho phép họ, chấp nhận khi thấy hình ảnh của những người đóng góp cho cách mạng để rồi khi cách mạng thành công, đấu tố những Ân nhân của mình rồi giết hay con dâu, con ruột phải thoá mạ khi bị đấu tố bố mẹ ruột, chồng.
Nghe mình kể về cô em làm cán bộ nhưng liêm chính nên nghèo thì có người nói là dại. Trong xã hội như Việt Nam hiện tại, phải ăn hối lộ nếu không thì thằng khác cũng ăn rồi còn bị trù dập như Nguyễn Công Trứ ngày nào vẫn vỗ ngực kêu "gặp thời thế thế thời phải thế". Mỗi người đều dùng nền móng đạo đức thừa hưởng của gia đình, để làm kim chỉ nam cho đời sống hàng ngày, cho nên không vì cái lợi của mình mà bán linh hồn để được giàu sang hay phú quý. Lí do là nền tảng đạo đức, hình tượng cái đẹp, lối nhìn, lăng kính là kim chỉ nam hướng dẫn mọi người tiến tới trong cuộc sống thường nhật.
Bà cựu thống đốc tiểu bang Alaska, Sarah Palin tuyên bố là nếu có cả trăm ngàn người chết ở Syria thì mặc kệ họ miễn sao là họ chém giết lẫn nhau, không dính dáng chi đến người Mỹ. Bà ta quên là mấy triệu người ở Syria, phải bỏ nhà cửa, quê hương để lánh nạn vì bom đạn sản xuất do các công ty mỹ bán hay cung cấp, tương tự người Việt đã trải qua mấy chục năm về trước. Họ đều là nạn nhân của chính sách chính trị, ngoại giao thực tiễn của Hoa Kỳ. Kỹ nghệ chiến tranh Mỹ mà tổng thống Eisenhower, đã lên tiếng quan ngại vì súng đạn được chế tạo để bán cho nên chiến tranh sẽ phải có liên tục trên thế giới để các công ty này đạt lợi nhuận 25%.
Ông Gustave Flaubert nói: " cái đẹp nằm trong Thiên nhiên, trong nhiều dạng khác nhau. Khi chúng ta khám phá ra cái đẹp, cái đẹp ấy thuộc về nghệ thuật, hay nói đúng hơn nghệ sĩ khám phá ra đẹp". Nếu chấp nhận ý tưởng này thì vô hình trung chấp nhận trên thế gian chỉ có nghệ sĩ mới biết được cái đẹp còn chúng ta, người thường hay nông dân đều đui mù, không hiểu biết chi về cái đẹp? Hay nói cách khác chỉ có các thầy tu, cha cố,.. , mới có đạo đức? Hay con người có mắt nhưng không thấy vì sống trên những thiên đường mù? Chán Mớ Đời
Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen
Nguyễn Hoàng Sơn
Nếu ta xét khái niệm Mỹ thuật, màu sắc của các triều đại, Văn minh như Hy Lạp, La Mã, có màu sắc riêng của nó tương tự ánh sáng của thời Phục Hưng với kỹ thuật chế biến màu sắc, hay đế quốc Anh, Pháp trong thời kỳ cách mạng kỹ nghệ, hay vào thế kỷ 20 như Đức Quốc xã của Hitler, là màu nâu, Liên Xô với màu đỏ hay màu đen của chế độ Phát Xít của Mussolini. Nhớ kỳ vừa rồi về Việt Nam, trong lúc Hà Nội đang chuẩn bị đại hội Đảng nên thấy toàn màu đỏ của máu khô, nhất là ở Đà Lạt khi trời mưa mới hiểu được tâm trạng của Trần Dần khi thấy mưa sa và cờ đỏ. Hitler, Stalin, Mao, Mussolini,..., và những nhà lãnh đạo khác, tự xem họ là Thánh vừa là người tương tự như vua Gilgamesh hay những người lãnh đạo của Hy Lạp và La Mã, muốn được phong thánh, bất tử trong lịch sử.Một người Palestine hái rau trong vườn của ông ta là một tên khủng bố, điên, Hitler
Hình ảnh khiến mình liên tưởng đến ông bà nội mình bị đấu tố khi xưa
Nghe Tố Hữu kêu gào :
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng mau tốt, thuế mau xong
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin… bất diệt”
(Trăm hoa đua nở trên đất Bắc- trang 37)
Cho thấy hình tượng sắc máu của Ý Chí , đạo đức, nói lên cái tâm, đạo đức của con người được diễn đạt qua hành động và tư tưởng của họ. Thử đọc câu thơ của ông, một nhà thơ tình tiền chiến với bài thơ tuổi nhỏ:
Giơ tay muốn ôm cả trái đất.
Ghì trước trái tim , ghì trước ngực.
Cho đầy trước mắt khoảng cô đơn.
Bao la muôn trời , sâu vạn vực .
Làm sao sống được mà không yêu.
Không nhớ không thương một kẻ nào ...
-- Hãy đốt.
Nhưng rồi vài năm sau, ta nghe sự hung hản của Xuân Diệu:
“Anh em ơi! quyết chung lòng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tư thù
Địa hào đối lập ra tro
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi”.
(Trăm hoa đua nở trên đất Bắc- trang 38)
Có người bảo vì hoàn cảnh nên mấy nhà thơ này phải nặn óc làm những câu thơ trên nhưng khi thấy chữ Tâm, được đặt một cách nghiêm chỉnh trên bàn thờ của gia đình nhà thơ Nguyễn Hữu Loan thì mình không chấp nhận sự lý giải kia vì nhà thơ này hay những nhà thơ khác, chấp nhận bị hình phạt, đầy đọa suốt mấy chục năm vì trái tim của họ, căn bản đạo đức không cho phép họ, chấp nhận khi thấy hình ảnh của những người đóng góp cho cách mạng để rồi khi cách mạng thành công, đấu tố những Ân nhân của mình rồi giết hay con dâu, con ruột phải thoá mạ khi bị đấu tố bố mẹ ruột, chồng.
Nghe mình kể về cô em làm cán bộ nhưng liêm chính nên nghèo thì có người nói là dại. Trong xã hội như Việt Nam hiện tại, phải ăn hối lộ nếu không thì thằng khác cũng ăn rồi còn bị trù dập như Nguyễn Công Trứ ngày nào vẫn vỗ ngực kêu "gặp thời thế thế thời phải thế". Mỗi người đều dùng nền móng đạo đức thừa hưởng của gia đình, để làm kim chỉ nam cho đời sống hàng ngày, cho nên không vì cái lợi của mình mà bán linh hồn để được giàu sang hay phú quý. Lí do là nền tảng đạo đức, hình tượng cái đẹp, lối nhìn, lăng kính là kim chỉ nam hướng dẫn mọi người tiến tới trong cuộc sống thường nhật.
Bà cựu thống đốc tiểu bang Alaska, Sarah Palin tuyên bố là nếu có cả trăm ngàn người chết ở Syria thì mặc kệ họ miễn sao là họ chém giết lẫn nhau, không dính dáng chi đến người Mỹ. Bà ta quên là mấy triệu người ở Syria, phải bỏ nhà cửa, quê hương để lánh nạn vì bom đạn sản xuất do các công ty mỹ bán hay cung cấp, tương tự người Việt đã trải qua mấy chục năm về trước. Họ đều là nạn nhân của chính sách chính trị, ngoại giao thực tiễn của Hoa Kỳ. Kỹ nghệ chiến tranh Mỹ mà tổng thống Eisenhower, đã lên tiếng quan ngại vì súng đạn được chế tạo để bán cho nên chiến tranh sẽ phải có liên tục trên thế giới để các công ty này đạt lợi nhuận 25%.
Ông Gustave Flaubert nói: " cái đẹp nằm trong Thiên nhiên, trong nhiều dạng khác nhau. Khi chúng ta khám phá ra cái đẹp, cái đẹp ấy thuộc về nghệ thuật, hay nói đúng hơn nghệ sĩ khám phá ra đẹp". Nếu chấp nhận ý tưởng này thì vô hình trung chấp nhận trên thế gian chỉ có nghệ sĩ mới biết được cái đẹp còn chúng ta, người thường hay nông dân đều đui mù, không hiểu biết chi về cái đẹp? Hay nói cách khác chỉ có các thầy tu, cha cố,.. , mới có đạo đức? Hay con người có mắt nhưng không thấy vì sống trên những thiên đường mù? Chán Mớ Đời
Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen
Nguyễn Hoàng Sơn
Chuyện tình viễn liên *
Chuyện tình viễn liên *
Hắn ngồi trong máy bay, trầm ngâm về quảng đời đi qua từ 75 đến nay. Đậu tú tài xong thì hắn theo học phân khoa khoa học ở đại học Đà Lạt rồi Việt Cộng vào khiến cuộc đời hắn thay đổi, đúng ra là một cuộc cách mạng toàn diện. Gia đình hắn không giàu có nhưng có của ăn của để, hắn bay nhảy, đi đánh quần vợt sau những giờ học, không lo lắng gì cả.
Ngày nay, hắn phải lang thang chợ trời Saigon với tên bạn học. Hai thằng cũng ghi danh học đại học để khỏi đi nghĩa vụ nhưng thật ra cả ngày lê lết ngoài chợ tìm cách mánh mun. Dạo ấy, thời ngăn sông cấm chợ, tương tự chế độ tự sản xuất Juche của Triều Tiên do dòng họ Kim Nhật Thành tư duy đột phát. Cứ lâu lâu hắn phải đem đồ lên Đà Lạt bán và thăm gia đình. Đi đường thì phải có giấy phép nên hắn và tên bạn làm liều, kiếm gỗ khắc mấy con triện của tổ khu phố rồi đánh máy, làm giấy tờ đi đường để đi buôn bán kiếm ăn.
Cùng lúc ấy tin tức từ biên giới không được hoành tráng lắm. Bên Kampuchia thì bộ đội chết khá nhiều vì mìn khờ me đỏ còn phía Bắc thì Đặng tiểu Bình muốn cho VN một bài học. Rồi ùn ùn các người gốc Hoa bị đuổi về Tàu, nhà cầm quyền sợ con ngựa thành Troie cho Trung Cộng rồi cán bộ tổ chức vượt biên bán chính thức cho các người gốc Hoa. Hắn hỏi chú Dồng, hàng xóm lâu năm sao không về quê hương của tổ tiên mà lại muốn đi vượt biên nguy hiểm.
Chú Dồng chỉ cái cờ đỏ rồi hỏi lị thấy cái cờ lỏ kia lị có sợ hông? Hắn trả lời sợ chớ sao không sợ. Chú Dồng nói cái cờ lầy có một sao mà lị còn sợ, còn cờ của tổ tiên ngộ có đến 5 sao thì ngộ sợ chết con lĩ mệ. Chú Dồng hỏi hắn có biết ai làm giấy tờ giả vì con Dzợ chú gốc Việt Lam nên giấy tờ họ Nguyễn, chú cần cái giấy chứng minh nhân dân có tên A muối để vợ chồng chú nộp vàng cho cán bộ để vượt biên bán chính thức.
Hắn bèn hỏi tên bạn nối khố chợ trời thì hỏi vòng vòng xem giá cả rồi báo cho chú hàng xóm biết. Chú đưa trước một cây rồi sẽ trả hết khi có giấy tờ. Hắn cầm cây vàng lần đầu tiên trong đời mà tim hắn cứ hồi hộp, không biết có phải vàng giả không vì cả đời hắn chưa bao giờ thấy cả. Hắn hỏi chú Dồng sao đổi tiền rồi mà chú còn vàng? Chú Dồng bảo lị lừng có tin thằng Cộng sản, tụi ló lói gì cũng phải coi chừng, tụi ló bắt mình đi tù mà lói mời mình đi làm việc. Ngộ có tiền là ngộ mua vàng để cất, có gì chạy dễ. Ngày xưa ngộ nghe lói mua vàng thì lỗ mua thổ thì lời nhưng thời Cộng sản, mua thổ thì tụi ló mời mình dô hợp tác xã lấy hết còn vàng thì mình cất không ai biết.
Tối đó hắn và tên bạn nối khố, thức khuya làm mấy con triện giã để làm giấy tờ cho vợ chú Dồng để hôm sau nộp cho chú. Chú Dồng mừng quá thưởng thêm cho hắn thêm một lượng vì chú thương con Dzợ của chú, chú không muốn ló ở lại VN. Sau đó hai thằng ra quán ăn một bửa để đời, từ ngày lang thang chợ trời mấy năm nay hai thằng đói triền miên, có lẻ nhà nước dùng chính sách của vua Gia Long, "đói nói mới nghe" nên cả nước ai nấy đều đói, lúc nào cũng nghĩ đến cái ăn, quên vụ chống phá cách mạng. Nhiều đêm hắn nằm mơ tô phở Tùng ở đường Hàm Nghi với hành trần nước béo, tô miến gà ở đường Trương Vĩnh Ký mà hắn hay ghé ăn mỗi khi tan lớp Hội Việt Mỹ ở trường Đoàn Thị Điểm.
Nhờ chú Dồng mà hắn có thêm khách hàng A Muối ! A Sáng,.. Nên đời hắn thấy khá khá nên tiếp tế về cho gia đình hắn ở Đà Lạt. Một hôm hắn chuẩn bị giấy tờ đi đường để về Đà Lạt thăm gia đình thì tên bạn nối khố bảo, nói và gia đình nó đang chuẩn bị vượt biên, nó hỏi hắn có muốn đi chung không thì hắn nói sẽ hỏi gia đình xem vì không có tiền. Thằng bạn nối khố bảo tao đang lo đóng tàu, tìm bãi, dầu nên mày phụ tao thì khỏi phải đóng tiền nhưng với một điều kiện là lên Đà Lạt, bằng mọi cách phải đem con bồ của tao xuống. Mày không đem nó xuống là khỏi đi.
Hắn trở lại Đà Lạt nhiều lần nhưng lần này có cái gì làm hắn bồn chồn vì có lẻ lần chót hắn sẽ trở lại nơi chôn nhau cắt rún, xa gia đình để tìm đến một phương trời vô định của ngày mai. Sau khi hỏi thăm ý ông bà già thì hắn đến nhà bạn gái của tên nối khố thì được biết cô nàng đang ở Nội trú ở trường, chỉ có gia đình thân nhân mới được vào thăm.
Hắn mời bà Chị của cô nàng đi ăn Tô phở quốc Doanh ở đường Hàm Nghi rồi nhờ vào trường xin cho cô em ra để hắn nhắn lời của tên bạn nối khố. Cô Chị bảo nhắn gì thì cô ta sẽ nói lại cho nhưng hắn hứa là phải tận tay hỏi cô nàng nên sau khi bồi dưỡng Tô phở quốc doanh với bột ngọt thì cả hai đi bộ tới couvent des oiseaux rồi cô chị vào xin cho cô em ra nói chuyện 5 phút. Hắn hỏi cô em là tên bạn nối khố đang chuẩn bị vượt biên, còn một chỗ cho cô nàng nên hỏi có muốn đi thì theo hắn về Saigon hôm nay, hắn đã chuẩn bị giấy đi đường hết rồi. Cô em bàng hoàng, chưa biết tính sao, hỏi cho thời gian suy nghĩ hỏi cha mẹ thì hắn bảo không được, sợ lộ. Hắn sợ cô này không chịu thì hắn hết đường vượt biên nên phải phải nói thêm, Tàu chuẩn bị hết rồi, hôm nay về thì có thể mai đi rồi.
Hắn và cô nàng chạy như bay ra Bến xe đò cho kịp chuyến chót về lại Saigon. Cô này rất xinh nên phải che mặt, hắn lấy dầu quẹt lên mặt để che đi má hồng của gái Đà Lạt. Bổng nhiên hắn nhớ đến phim The Graduate mà Dustin Hofman và Catherine Ross đóng, xem ở rạp Ngọc Lan, có cái cảnh cuối cùng trong Nhà thờ, đang chuẩn bị làm lễ cưới cho Catherine Ross thì Dustin Hofman chạy vào gõ cửa rồi kéo cô dâu đi.
Còn tiếp
Hắn ngồi trong máy bay, trầm ngâm về quảng đời đi qua từ 75 đến nay. Đậu tú tài xong thì hắn theo học phân khoa khoa học ở đại học Đà Lạt rồi Việt Cộng vào khiến cuộc đời hắn thay đổi, đúng ra là một cuộc cách mạng toàn diện. Gia đình hắn không giàu có nhưng có của ăn của để, hắn bay nhảy, đi đánh quần vợt sau những giờ học, không lo lắng gì cả.
Ngày nay, hắn phải lang thang chợ trời Saigon với tên bạn học. Hai thằng cũng ghi danh học đại học để khỏi đi nghĩa vụ nhưng thật ra cả ngày lê lết ngoài chợ tìm cách mánh mun. Dạo ấy, thời ngăn sông cấm chợ, tương tự chế độ tự sản xuất Juche của Triều Tiên do dòng họ Kim Nhật Thành tư duy đột phát. Cứ lâu lâu hắn phải đem đồ lên Đà Lạt bán và thăm gia đình. Đi đường thì phải có giấy phép nên hắn và tên bạn làm liều, kiếm gỗ khắc mấy con triện của tổ khu phố rồi đánh máy, làm giấy tờ đi đường để đi buôn bán kiếm ăn.
Cùng lúc ấy tin tức từ biên giới không được hoành tráng lắm. Bên Kampuchia thì bộ đội chết khá nhiều vì mìn khờ me đỏ còn phía Bắc thì Đặng tiểu Bình muốn cho VN một bài học. Rồi ùn ùn các người gốc Hoa bị đuổi về Tàu, nhà cầm quyền sợ con ngựa thành Troie cho Trung Cộng rồi cán bộ tổ chức vượt biên bán chính thức cho các người gốc Hoa. Hắn hỏi chú Dồng, hàng xóm lâu năm sao không về quê hương của tổ tiên mà lại muốn đi vượt biên nguy hiểm.
Chú Dồng chỉ cái cờ đỏ rồi hỏi lị thấy cái cờ lỏ kia lị có sợ hông? Hắn trả lời sợ chớ sao không sợ. Chú Dồng nói cái cờ lầy có một sao mà lị còn sợ, còn cờ của tổ tiên ngộ có đến 5 sao thì ngộ sợ chết con lĩ mệ. Chú Dồng hỏi hắn có biết ai làm giấy tờ giả vì con Dzợ chú gốc Việt Lam nên giấy tờ họ Nguyễn, chú cần cái giấy chứng minh nhân dân có tên A muối để vợ chồng chú nộp vàng cho cán bộ để vượt biên bán chính thức.
Hắn bèn hỏi tên bạn nối khố chợ trời thì hỏi vòng vòng xem giá cả rồi báo cho chú hàng xóm biết. Chú đưa trước một cây rồi sẽ trả hết khi có giấy tờ. Hắn cầm cây vàng lần đầu tiên trong đời mà tim hắn cứ hồi hộp, không biết có phải vàng giả không vì cả đời hắn chưa bao giờ thấy cả. Hắn hỏi chú Dồng sao đổi tiền rồi mà chú còn vàng? Chú Dồng bảo lị lừng có tin thằng Cộng sản, tụi ló lói gì cũng phải coi chừng, tụi ló bắt mình đi tù mà lói mời mình đi làm việc. Ngộ có tiền là ngộ mua vàng để cất, có gì chạy dễ. Ngày xưa ngộ nghe lói mua vàng thì lỗ mua thổ thì lời nhưng thời Cộng sản, mua thổ thì tụi ló mời mình dô hợp tác xã lấy hết còn vàng thì mình cất không ai biết.
Tối đó hắn và tên bạn nối khố, thức khuya làm mấy con triện giã để làm giấy tờ cho vợ chú Dồng để hôm sau nộp cho chú. Chú Dồng mừng quá thưởng thêm cho hắn thêm một lượng vì chú thương con Dzợ của chú, chú không muốn ló ở lại VN. Sau đó hai thằng ra quán ăn một bửa để đời, từ ngày lang thang chợ trời mấy năm nay hai thằng đói triền miên, có lẻ nhà nước dùng chính sách của vua Gia Long, "đói nói mới nghe" nên cả nước ai nấy đều đói, lúc nào cũng nghĩ đến cái ăn, quên vụ chống phá cách mạng. Nhiều đêm hắn nằm mơ tô phở Tùng ở đường Hàm Nghi với hành trần nước béo, tô miến gà ở đường Trương Vĩnh Ký mà hắn hay ghé ăn mỗi khi tan lớp Hội Việt Mỹ ở trường Đoàn Thị Điểm.
Nhờ chú Dồng mà hắn có thêm khách hàng A Muối ! A Sáng,.. Nên đời hắn thấy khá khá nên tiếp tế về cho gia đình hắn ở Đà Lạt. Một hôm hắn chuẩn bị giấy tờ đi đường để về Đà Lạt thăm gia đình thì tên bạn nối khố bảo, nói và gia đình nó đang chuẩn bị vượt biên, nó hỏi hắn có muốn đi chung không thì hắn nói sẽ hỏi gia đình xem vì không có tiền. Thằng bạn nối khố bảo tao đang lo đóng tàu, tìm bãi, dầu nên mày phụ tao thì khỏi phải đóng tiền nhưng với một điều kiện là lên Đà Lạt, bằng mọi cách phải đem con bồ của tao xuống. Mày không đem nó xuống là khỏi đi.
Hắn trở lại Đà Lạt nhiều lần nhưng lần này có cái gì làm hắn bồn chồn vì có lẻ lần chót hắn sẽ trở lại nơi chôn nhau cắt rún, xa gia đình để tìm đến một phương trời vô định của ngày mai. Sau khi hỏi thăm ý ông bà già thì hắn đến nhà bạn gái của tên nối khố thì được biết cô nàng đang ở Nội trú ở trường, chỉ có gia đình thân nhân mới được vào thăm.
Hắn mời bà Chị của cô nàng đi ăn Tô phở quốc Doanh ở đường Hàm Nghi rồi nhờ vào trường xin cho cô em ra để hắn nhắn lời của tên bạn nối khố. Cô Chị bảo nhắn gì thì cô ta sẽ nói lại cho nhưng hắn hứa là phải tận tay hỏi cô nàng nên sau khi bồi dưỡng Tô phở quốc doanh với bột ngọt thì cả hai đi bộ tới couvent des oiseaux rồi cô chị vào xin cho cô em ra nói chuyện 5 phút. Hắn hỏi cô em là tên bạn nối khố đang chuẩn bị vượt biên, còn một chỗ cho cô nàng nên hỏi có muốn đi thì theo hắn về Saigon hôm nay, hắn đã chuẩn bị giấy đi đường hết rồi. Cô em bàng hoàng, chưa biết tính sao, hỏi cho thời gian suy nghĩ hỏi cha mẹ thì hắn bảo không được, sợ lộ. Hắn sợ cô này không chịu thì hắn hết đường vượt biên nên phải phải nói thêm, Tàu chuẩn bị hết rồi, hôm nay về thì có thể mai đi rồi.
Hắn và cô nàng chạy như bay ra Bến xe đò cho kịp chuyến chót về lại Saigon. Cô này rất xinh nên phải che mặt, hắn lấy dầu quẹt lên mặt để che đi má hồng của gái Đà Lạt. Bổng nhiên hắn nhớ đến phim The Graduate mà Dustin Hofman và Catherine Ross đóng, xem ở rạp Ngọc Lan, có cái cảnh cuối cùng trong Nhà thờ, đang chuẩn bị làm lễ cưới cho Catherine Ross thì Dustin Hofman chạy vào gõ cửa rồi kéo cô dâu đi.
Còn tiếp
Chuyện tình 7X
Chuyện tình 7X
Hắn quen ả từ khi còn học tiểu học khi nhà hắn dọn về trong xóm Cà Bưng rồi lớn lên học chung trường cấp 3. Cuộc tình học trò giữa hắn và Ả, êm đềm như lục bình trôi dạt trên hồ Xuân Hương.
Đậu tú tài, hắn về Sàigòn học đại học còn Ả ở lại Đà Lạt, học sư phạm làm giáo viên vì muốn đem chút kiến thức để dạy mấy đứa trẻ nghèo ở các quận thị xã. Ả qua nhà hắn hàng ngày nên được gia đình hắn xem là dâu trong nhà. Hai bên họ đều mong ngày cưới đến sau hắn tốt nghiệp.
Sau khi tốt nghiệp đại học Sàigòn thì Ả hỏi hắn làm đám cưới thì hắn chần chừ, nói đợi khi nào thành danh rồi sẽ làm đám cưới. Ả vẫn vui vẽ chờ đợi. Một lần từ Sàigòn về, hắn khuyên Ả nên đi lấy chồng vì hắn thấy tương lai bấp bênh, xét về lý lịch nhân thân, nhân thíc, ngang dọc của gia đình Ả, nguỵ quân, nguỵ quyền thì con của hắn và Ả sẽ khó mà có một tương lai sáng ngời, dưới ngọn cờ cách mạng mà để Ả đợi thì tội cho đoá hoa sẽ mau tàn.
Rồi một hôm Ả được tin hắn làm đám cưới với con gái của một đảng viên, giám đốc công ty mà hắn đang đi làm, được thăng chức. Ả buồn khóc hết nước mắt rồi vài năm sau lấy con một gia đình nguỵ làm vườn ở Tùng Nghĩa, nơi cô nàng đi dạy.
Cuộc đời hắn không suông sẻ như mong đợi. Vợ hắn, con ông giám đốc, nghe nói nạo thai nhiều lần nên không có bầu dù hắn năng nổ, khắc phục hàng đêm lao động vinh quang để gia tăng sản xuất cho dòng họ. Thiên hạ dèm pha, cô vợ trở lại đường xưa, đi chơi với bạn cũ, bỏ hắn lây lất ở nhà rồi đem nhau ra toà. Hắn mất luôn việc ở cơ quan của bố vợ cũ. Lang thang kiếm việc, rồi bò về Đà Lạt, ở với bố mẹ hắn trong tuyệt vọng. Sáng dậy từ 3 giờ sáng, chạy xe thồ để bạn bè không thắy cảnh hắn chở hàng ra chợ cho mấy người bán ở chợ.
Ả lấy chồng làm vườn thì bổng nhiên, nhà nước quy hoạch đường xá, gần ngay vườn thế tự nhiên thiên hạ ghé lại mua đất mà gia đình này, sau 75 bị cướp sạch tài sản, đuổi đi kinh tế mới, khai hoang vùng đất này. Gia đình Ả bổng nhiên giàu có lên, cho con đi du học, hai vợ chồng đi du lịch ngoại quốc như đi chợ.
Chán mớ đời!
Nhs
Hắn quen ả từ khi còn học tiểu học khi nhà hắn dọn về trong xóm Cà Bưng rồi lớn lên học chung trường cấp 3. Cuộc tình học trò giữa hắn và Ả, êm đềm như lục bình trôi dạt trên hồ Xuân Hương.
Đậu tú tài, hắn về Sàigòn học đại học còn Ả ở lại Đà Lạt, học sư phạm làm giáo viên vì muốn đem chút kiến thức để dạy mấy đứa trẻ nghèo ở các quận thị xã. Ả qua nhà hắn hàng ngày nên được gia đình hắn xem là dâu trong nhà. Hai bên họ đều mong ngày cưới đến sau hắn tốt nghiệp.
Sau khi tốt nghiệp đại học Sàigòn thì Ả hỏi hắn làm đám cưới thì hắn chần chừ, nói đợi khi nào thành danh rồi sẽ làm đám cưới. Ả vẫn vui vẽ chờ đợi. Một lần từ Sàigòn về, hắn khuyên Ả nên đi lấy chồng vì hắn thấy tương lai bấp bênh, xét về lý lịch nhân thân, nhân thíc, ngang dọc của gia đình Ả, nguỵ quân, nguỵ quyền thì con của hắn và Ả sẽ khó mà có một tương lai sáng ngời, dưới ngọn cờ cách mạng mà để Ả đợi thì tội cho đoá hoa sẽ mau tàn.
Rồi một hôm Ả được tin hắn làm đám cưới với con gái của một đảng viên, giám đốc công ty mà hắn đang đi làm, được thăng chức. Ả buồn khóc hết nước mắt rồi vài năm sau lấy con một gia đình nguỵ làm vườn ở Tùng Nghĩa, nơi cô nàng đi dạy.
Cuộc đời hắn không suông sẻ như mong đợi. Vợ hắn, con ông giám đốc, nghe nói nạo thai nhiều lần nên không có bầu dù hắn năng nổ, khắc phục hàng đêm lao động vinh quang để gia tăng sản xuất cho dòng họ. Thiên hạ dèm pha, cô vợ trở lại đường xưa, đi chơi với bạn cũ, bỏ hắn lây lất ở nhà rồi đem nhau ra toà. Hắn mất luôn việc ở cơ quan của bố vợ cũ. Lang thang kiếm việc, rồi bò về Đà Lạt, ở với bố mẹ hắn trong tuyệt vọng. Sáng dậy từ 3 giờ sáng, chạy xe thồ để bạn bè không thắy cảnh hắn chở hàng ra chợ cho mấy người bán ở chợ.
Ả lấy chồng làm vườn thì bổng nhiên, nhà nước quy hoạch đường xá, gần ngay vườn thế tự nhiên thiên hạ ghé lại mua đất mà gia đình này, sau 75 bị cướp sạch tài sản, đuổi đi kinh tế mới, khai hoang vùng đất này. Gia đình Ả bổng nhiên giàu có lên, cho con đi du học, hai vợ chồng đi du lịch ngoại quốc như đi chợ.
Chán mớ đời!
Nhs
Bản đăng ký tình yêu
Hôm qua, mình đi ngủ sớm như thường lệ để lên vườn sớm trong khi đồng chí gái ngồi nơi ghế đấm bóp trong phòng ngủ, nhắn tin, imeo, Phây búc, lâu lâu cười nắc nắc nẻ nẻ khi xem lại những cờ líp của đêm hội ngộ Trưng Vương.
Mình đang lêu bêu về vùng trời bình yên thì đồng chí gái lay người, hỏi lá thư tình của ôn viết cho tui khi xưa ra răng. Mấy đứa bạn kêu tui chép lại rồi gửi cho tụi nớ. Mình mắt nhắm mắt ngủ nói gửi cho họ cái link bờ lốc "Mực Tím Sơn Đen", có đăng trong đó nhưng đồng chí gái kêu mấy trăm trang ai mà mò ra nên bắt mình đọc để đồng chí gái ghi lại.
Mình mắt nhắm mắt ngủ, không cãi lời lãnh đạo, đọc:
Kính gửi đồng chí gái vô vàn kính yêu.
Hôm nay, trong buổi thông tầm…. Cái gì? Thông tầm là cái gì? Chán mớ đời! Đồng chí gái sống với Việt Cộng đâu 7-8 năm, lại tốt nghiệp đại học tổng hợp của Việt Cộng trước khi vượt biển mà không hiểu tiếng Việt lại cứ hỏi mình, một tên chưa bao giờ sống với Việt Cộng một giờ, giải thích mấy từ ngữ "tiếng Việt đỏ". Mình chỉ muốn ngủ nên nói mai anh kiếm xem viết ở đâu rồi gửi cho, rồi quay lại ngủ tiếp.
Độ vài phút sau, chưa kịp nhắm mắt lại, đồng chí gái lại lay mình hỏi thế cái bài "Mặt bánh bao" hát ra sao rồi đồng chí gái lò mò hát, mình sửa lại nhưng không đúng hẳn vì cứ lộn chuối chiên với bánh tiêu nên mình nói thôi để mai, viết lại cho anh ngủ tiếp.
Đêm hội ngộ Trưng Vương, thấy mấy chị bạn học của đồng chí gái làm văn nghệ vui quá nên mình bốc đồng, xin lên giúp vui, kể khi xưa đi tán đồng chí gái nhưng lại nhát, không dám tỏ tình nên bắt chước Cyrano De Bergerac viết bản đăng ký tình yêu cho đồng chí gái. Sau đó mình xung lên, hát bài "cái mặt bánh bao" mà 30 năm qua chưa bao giờ hát lại, ngoại trừ hát chay một lần gửi cho một chị bạn hướng đạo Lâm Viên. Trước khi làm đám cưới, đồng chí gái kêu giọng ca anh rất tồi, anh muốn lấy tôi thì hứa là không bao giờ hát nữa. Nên từ đó Sơn buồn và giải nghệ ca sĩ nghiệp dư.
Sau đó mấy cô Trưng Vương hỏi đồng chí gái gửi cho họ lời nên khổ mình. Lần sau không dám bốc đồng nữa, làm con cóc ở đấy giếng an phận cuộc đời một tên sợ vợ, tu tại vườn bơ.
Số là từ khi lấy vợ mình không đụng tới cây đàn, hát hò gì cả. Đi đâu có văn nghệ thì đồng chí gái, có giọng hát cực dễ thương, đại diện hai vợ chồng hát giúp vui. Mình hoạ hoằn có bạn từ phương xa về như hôm tên Tóc gió Thôi Bay và tên bạn ở Ý ghé chơi, mới bốc đồng hát chớ cuộc đời hát hò nghiệp dư của mình đã bước sang một trang sử khác.
Sáng nay, trước khi chạy lên vườn, dậy tìm cái bài trong bờ lốc thì không thấy bản đăng ký tình yêu cho đồng chí gái 32 năm về trước, hoá ra tên CNA không có đăng mà không biết đã viết ở đâu nên đành viết lại cho đồng chí gái.
Cani trời gió nạnh, ngày…..
Kính gửi đồng chí gái vô vàn kính yêu;
Hôm nay trong buổi thông tầm, anh khắc phục không ăn trưa, tranh thủ để viết cho đồng chí, bản báo cáo tình hình trái tim của anh.
Đồng chí gái thân mến, từ ngày phát hiện ra em nòng anh vô cùng hồ hởi và thương nhớ trường kỳ. Hôm kia đi tham quan với em ở biển Hơn tân tin bít, được lắm tay em, nòng anh sung sướng nâng nâng như chiếc bay nên thẳng. Sau đó chúng ta vào quán Nục Huyền Cầm để uống một cái lồi ngồi trên cái cốc, để đả thông tư tưởng, quán triệt đường lối cách mạng, nhân thân nhân thích 3 đời trích dọc trích ngang.
Đồng chí gái yêu mến, từ ngày thâm nhập thực tế của tình yêu, nòng anh nó cứ như cái nò nửa, những hình ảnh ấn tượng của đồng chí của buổi ban đầu sơ giao ấy, cho thấy chúng ta yêu nhau theo đúng lập trường, quán triệt quan điểm cách mạng của đảng và nhà lước.
Đồng chí gái thân mến, cái đồng hồ không người nái, 3 cái chèo, 2 cửa sổ vừa báo hiệu đến giờ nao động nại. Trước khi dừng bút, hôm nay anh xin đề xuất một kiến nghị, nếu em nhất trí thì chúng ta cùng khẩn trương, báo cáo với đồng chí bố và đồng chí mẹ, cho anh ra xi ty hôn, đăng ký quản ný đời em. Đám cưới của chúng ta sẽ hoành tráng, bằng một tiệc đại trà, với thực đơn cao cấp, nễ tân với chất nượng cao.
Sau ngày cưới, anh sẽ phấn đấu, khắc phục, nguyện trở thành một người chồng nhân dân ưu tú và người cha anh hùng. Anh sẽ bồi dưỡng chuyên tu, để gia tăng sản xuất, cải tạo mặt bằng để xây dựng một căn nhà tình nghĩa cho chúng ta theo tiêu chuẩn cao cấp và hiện đại.
Trong nĩnh cương của đảng viết: “ dân tộc được độc nập, dân quyền được tự do, dân sinh được hạnh phúc”. Trách nhiệm xây dựng lày nà của tất cả, của toàn xã hội, xong lói riêng về đồng chí gái và anh. Chúng ta được sinh ra và nớn nên tại Việt Nam, được hưởng thụ và bồi dưỡng dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình học tập và nao động, đồng chí gái và anh đã lấy nhân sinh quan cách mạng và đạo đức bác hồ nàm cơ sở để tìm ra tình thương cơ bản và nẻ sống của con người mới xã hội chủ nghĩa. Chúng ta thương nhau vì chân ný, quý nhau trên nập trường, biểu thị một tình thương giai cấp nguỵ quân nguỵ quyền, tàn dư của chế độ cũ.
Đồng chí gái thân mến, sông có cạn lúi có mòn nhưng mối tình hữu nghị của đôi ta, đời đời bền vững và không có gì nay chuyển được.
Chào đoàn kết và xây dựng. Vui duyên mới không quên nghĩa vụ.
Đồng chí dai.
——————-Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen
Hôm hội ngộ Trưng Vương, nổi hứng lên sân khấu hát giúp vui, mình đang hát một bài mà 32 năm nay không hát, đang cố nhớ lời mà mấy cô Trưng Vương cứ chạy lên nhảy tùm lum bên cạnh khiến mình khiếp vía nên hát xong là trốn về nhà luôn. Sợ đồng chí gái kêu mình quên mất lời hứa từ khi phát hiện ra mối tình hữu nghĩ sông liền sông núi liền núi.
Cái mặt bánh bao
(Bài này hình như khi xưa đi hướng đạo có 4 câu nhưng có anh bạn chế lại lời, rồi mình chế thêm. Mình tính hát theo giọng ngọng bắc kỳ nhưng sợ không ai hiểu)
Cái mặt bánh bao mà làm duyên làm dáng
Cái mặt bánh tiêu mà làm yêu làm phách
Cái mặt chuối chiên mà sao lại bồi hồi
Có phải Trinh là người tình trong mộng của Sơn
Cái mặt đen thùi mà tại sao lại nhớ
Cái mặt đen ngòm mà tại sao lại thích
Cái mặt thế kia mà sao lại bồi hồi
Đúng rồi Sơn là người tình trong mộng của Trinh
Con mắt hay liếc cái đuôi hay mỉm cười
Cái môi hay cười nụ cười làm duyên với ai
Cái tay hay nhéo những đớn đau cuộc đời
Cái răng hay cắn Trinh ơi đứt tim Sơn rồi
Cái răng hay cắn Trinh ơi đứt tim Sơn rồi
Cái răng hay cắn Trinh ơi đứt tim Sơn rồi
Số là từ khi lấy vợ mình không đụng tới cây đàn, hát hò gì cả. Đi đâu có văn nghệ thì đồng chí gái, có giọng hát cực dễ thương, đại diện hai vợ chồng hát giúp vui. Mình hoạ hoằn có bạn từ phương xa về như hôm tên Tóc gió Thôi Bay và tên bạn ở Ý ghé chơi, mới bốc đồng hát chớ cuộc đời hát hò nghiệp dư của mình đã bước sang một trang sử khác.
Sáng nay, trước khi chạy lên vườn, dậy tìm cái bài trong bờ lốc thì không thấy bản đăng ký tình yêu cho đồng chí gái 32 năm về trước, hoá ra tên CNA không có đăng mà không biết đã viết ở đâu nên đành viết lại cho đồng chí gái.
Cani trời gió nạnh, ngày…..
Kính gửi đồng chí gái vô vàn kính yêu;
Hôm nay trong buổi thông tầm, anh khắc phục không ăn trưa, tranh thủ để viết cho đồng chí, bản báo cáo tình hình trái tim của anh.
Đồng chí gái thân mến, từ ngày phát hiện ra em nòng anh vô cùng hồ hởi và thương nhớ trường kỳ. Hôm kia đi tham quan với em ở biển Hơn tân tin bít, được lắm tay em, nòng anh sung sướng nâng nâng như chiếc bay nên thẳng. Sau đó chúng ta vào quán Nục Huyền Cầm để uống một cái lồi ngồi trên cái cốc, để đả thông tư tưởng, quán triệt đường lối cách mạng, nhân thân nhân thích 3 đời trích dọc trích ngang.
Đồng chí gái yêu mến, từ ngày thâm nhập thực tế của tình yêu, nòng anh nó cứ như cái nò nửa, những hình ảnh ấn tượng của đồng chí của buổi ban đầu sơ giao ấy, cho thấy chúng ta yêu nhau theo đúng lập trường, quán triệt quan điểm cách mạng của đảng và nhà lước.
Đồng chí gái thân mến, cái đồng hồ không người nái, 3 cái chèo, 2 cửa sổ vừa báo hiệu đến giờ nao động nại. Trước khi dừng bút, hôm nay anh xin đề xuất một kiến nghị, nếu em nhất trí thì chúng ta cùng khẩn trương, báo cáo với đồng chí bố và đồng chí mẹ, cho anh ra xi ty hôn, đăng ký quản ný đời em. Đám cưới của chúng ta sẽ hoành tráng, bằng một tiệc đại trà, với thực đơn cao cấp, nễ tân với chất nượng cao.
Sau ngày cưới, anh sẽ phấn đấu, khắc phục, nguyện trở thành một người chồng nhân dân ưu tú và người cha anh hùng. Anh sẽ bồi dưỡng chuyên tu, để gia tăng sản xuất, cải tạo mặt bằng để xây dựng một căn nhà tình nghĩa cho chúng ta theo tiêu chuẩn cao cấp và hiện đại.
Trong nĩnh cương của đảng viết: “ dân tộc được độc nập, dân quyền được tự do, dân sinh được hạnh phúc”. Trách nhiệm xây dựng lày nà của tất cả, của toàn xã hội, xong lói riêng về đồng chí gái và anh. Chúng ta được sinh ra và nớn nên tại Việt Nam, được hưởng thụ và bồi dưỡng dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình học tập và nao động, đồng chí gái và anh đã lấy nhân sinh quan cách mạng và đạo đức bác hồ nàm cơ sở để tìm ra tình thương cơ bản và nẻ sống của con người mới xã hội chủ nghĩa. Chúng ta thương nhau vì chân ný, quý nhau trên nập trường, biểu thị một tình thương giai cấp nguỵ quân nguỵ quyền, tàn dư của chế độ cũ.
Đồng chí gái thân mến, sông có cạn lúi có mòn nhưng mối tình hữu nghị của đôi ta, đời đời bền vững và không có gì nay chuyển được.
Chào đoàn kết và xây dựng. Vui duyên mới không quên nghĩa vụ.
Đồng chí dai.
——————-Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen
Hôm hội ngộ Trưng Vương, nổi hứng lên sân khấu hát giúp vui, mình đang hát một bài mà 32 năm nay không hát, đang cố nhớ lời mà mấy cô Trưng Vương cứ chạy lên nhảy tùm lum bên cạnh khiến mình khiếp vía nên hát xong là trốn về nhà luôn. Sợ đồng chí gái kêu mình quên mất lời hứa từ khi phát hiện ra mối tình hữu nghĩ sông liền sông núi liền núi.
Cái mặt bánh bao
(Bài này hình như khi xưa đi hướng đạo có 4 câu nhưng có anh bạn chế lại lời, rồi mình chế thêm. Mình tính hát theo giọng ngọng bắc kỳ nhưng sợ không ai hiểu)
Cái mặt bánh bao mà làm duyên làm dáng
Cái mặt bánh tiêu mà làm yêu làm phách
Cái mặt chuối chiên mà sao lại bồi hồi
Có phải Trinh là người tình trong mộng của Sơn
Cái mặt đen thùi mà tại sao lại nhớ
Cái mặt đen ngòm mà tại sao lại thích
Cái mặt thế kia mà sao lại bồi hồi
Đúng rồi Sơn là người tình trong mộng của Trinh
Con mắt hay liếc cái đuôi hay mỉm cười
Cái môi hay cười nụ cười làm duyên với ai
Cái tay hay nhéo những đớn đau cuộc đời
Cái răng hay cắn Trinh ơi đứt tim Sơn rồi
Cái răng hay cắn Trinh ơi đứt tim Sơn rồi
Cái răng hay cắn Trinh ơi đứt tim Sơn rồi
Si senor
Chán Mớ Đời
Chán Mớ Đời
Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen
Nguyễn Hoàng Sơn
Nằm vùng
Nằm vùng
Nhớ lần về thăm Đàlạt sau gần 20 năm xa vắng thì mình thất kinh khi đi thăm họ hàng, làng xóm,…. Lý do là khám phá nhiều người quen thậm chí họ hàng, nằm vùng trước 75.
Trong xóm thì có thằng V, học trường Trần Hưng Đạo, hơn mình 4 tuổi, hồi nhỏ có chơi bắn bi, bị bắt nhốt ở trung Tâm Thẩm Vấn khi xưa. Có lần mình được bố thằng bạn chở lên trung tâm thẩm vấn, thấy hắn trong xà lim nhưng không nói chuyện. Mẹ hắn là bà T, hay đến nhà ba thằng bạn, đã cho mình ăn thịt chó trong đêm Giáng Sinh, một trong những công an giỏi bắt nằm vùng Đàlạt, nhờ đưa đồ ăn cho hắn. Sau 75, hắn được ra, gia đình hắn làm trời khu phố nhà mình, nhờ công lao cách mạng, bị tù mấy năm rồi Hà Nội cho người vào thay thế, nay chỉ có cái nhà nhỏ xíu như cách mạng đền công mấy năm tù ở.
Bà cụ dẫn mình đi thăm một ông cậu bà con, chỉ biết khi xưa ông này là trưởng ty cảnh sát Đàlạt, cạnh nhà thờ con gà. Nghe ông cậu bà con kể là mới đi Gia Nã Đại về khiến mình tá hoả vì ông này không bị đi học tập dù trước 75, làm trưởng ty cảnh sát. Sau này nghe ông cụ kể là ông ta nằm vùng, lúc chiến dịch Phượng Hoàng lên cao điểm, sợ bị lộ nên tổ chức đặt chất nổ bên hông nhà để làm tan mối hoài nghi của chiến dịch. Chán mớ đời.
Mình lại thấy một ông trưởng khu phố Đàlạt khi xưa, phơi phới thì đoán là cũng dân nằm vùng. Nghe kể một ông cậu họ, em chú bác ruột với bà cụ mình, làm cho CIA, chiến dịch Phượng Hoàng, mà mình có kể chuyện cái máy truyền tin của cậu để trong phòng khách của nhà mình, mỗi lần lên nhà mình chơi hay đi công vụ, thì bỏ xe và máy ở nhà mình rồi đi đâu, gặp ai hay gần xóm để lấy tin tức. Cái máy truyền tin dỡ chứng cứ kêu đại bàng chi đó, mình cứ khoanh tay, thưa cái máy truyền tin là cậu con đi mô rồi. Nay nhớ lại mới hiểu mình thuộc dạng Ngu chi mà ngu chi lạ, vậy mà cũng được đi du học.
Nhà kể lúc di tản, CIA kêu cậu đem gia đình đến điểm hẹn để họ bốc đi, cậu ngồi nhà đợi bà vợ về để di tản. Moi đồ đạt để xem đem cái gì đi thì khám phá ra bà vợ là nằm vùng còn cậu làm cho CIA. Ngày 30/4 cậu rút súng tự tử luôn, còn bà mợ thì mất tích luôn từ dạo ấy.
Trước 75, nhà mình có nuôi một chị người Quảng, giúp bà cụ ngoài chợ. Một hôm biến mất với áo quần, chị người làm khác nói chị ta vô bưng rồi vì có rũ chị này đi theo. Chị này thì có ông anh bị Việt Cộng giết năm Mậu Thân ở Huế nên vào Đàlạt.
Năm 1972, nhà mình xây nhà, có một ông người huế tên K, nhà ở dưới Trại Hầm hay Cầu Đất chi đó, thầu xây nhà mình rồi có ông thợ mộc trên số 4 đến làm nhà. Ông cụ mình thì hay gây gỗ với mấy người này nhưng bà cụ mình thì nhẹ nhàng trả thêm tiền cho họ. Đùng 30/4 đến thì khám phá hai người này là nằm vùng cở lớn, hét ra lửa đến khi Hà Nội cho người từ Bắc vào thay. Hay ông hớt tóc cho mình, cạnh tiệm Minh Tâm, tắm nước nóng, cũng nằm vùng loại gộc.
Ông ngoại mình, sau 75 trốn Bảo Lộc, đi đâu mất tích luôn. Nghe phong phanh về quê, bị mấy người đi kháng chiến khi xưa, trở về giết và thủ tiêu. Hình như ông ngoại mình dinh tê sau khi đi kháng chiến. Chuyện người lớn, không ai kể hay biết nay bà cụ mình không biết ngày mô để kỵ.
Ông cụ mình làm ty Công Quản Nước Đàlạt, được cử làm đoàn trưởng nhân dân tự vệ, chia canh gác cho mấy người thợ mỗi đêm, gác nhà máy nước để tránh Việt Cộng phá hoại. Khi Việt Cộng vô thì ông cụ tá hoả tam tinh vì mấy người thợ đều là nằm vùng hết, tháng trước họ làm dưới quyền ông cụ nay lại làm tổ trưởng ông cụ nên ông cụ bỏ làm, ở nhà. Cái khổ là trước khi đi di tản, ông cụ có kêu họ đưa súng nhân dân tự vệ lại và đem chôn nên mấy người này theo dõi ông cụ và sau này ông cụ mình bị lên án đi tù 18 năm vì tham gia phục quốc.
Về Đàlạt thì được một anh bạn học cũ, cho biết anh ta là đảng viên, kể mấy người làm, hay dạy trường Văn Học, sau 75 thì khám phá ra họ nằm vùng. Một hôm thầy CBA thấy truyền đơn nên nghi và cho một người tài xế nghỉ thì hôm sau Tuần Cảnh đến trường lùng bắt. Có ông thầy, trước 75 ở đường Hai Bà Trưng, đem gia đình đến ở căn nhà 30 Nguyễn Du sau 30/4 đến khi Hà Nội cho người thay thế.
Có hôm đang ngồi ăn cơm ở tiệm, với mấy người bạn học cũ thì một cô chỉ mặt một anh chàng học chung lớp khi xưa, kêu trước 75, ông là nằm vùng, có người lại kêu anh chàng hát Quảng, theo mình hiểu là gốc Quảng nên chạy theo Việt Cộng sau 75, kiểu CM30 chi đó. Dạo ấy mình cũng có nghi anh ta là dân nằm vùng vì cách nói chuyện chống Thiệu Kỳ.
Có gặp mấy cô Yersin, họ lại nói đến cô nào khi xưa học chung, nằm vùng, đặt chất nổ ở rạp Ngọc Lan làm chết mấy mạng. Mình không nhớ cô đặc công Việt Cộng này, chỉ nhớ sau vụ nổ thì mất một thời gian mới dám đi xem xi nê lại tại rạp Ngọc Lan, mình còn nhỏ. Không chết thằng lính mỹ nào cả, mấy người dân chết vô tội. Mình nghe kể một người quen, xin dấu tên, nằm vùng đặt lựu đạn dưới gầm xe của anh Bôn và ông bầu đội tuyển đá banh Đàlạt trước nhà hàng Nam Sơn khiến hai người này tử nạn. Hình như hai người này làm cho chiến dịch Phượng Hoàng. Sau đó đội tuyển đá banh Đàlạt nhờ ông cụ mình làm ông bầu bất đắc dĩ đến khi di tản.
Viết tới đây mình nhớ có lần, sáng ông cụ chở mấy đứa em đi học với chiếc xe Traction đen của nhà máy nước. Mở cửa xe, mình nghe tiếng đồng hồ kêu tíc tắc, Tíc tắc nhưng không biết ở đâu. Mình với ông cụ tái mặt vì dạo ấy, ở Đàlạt có nhiều nhà bị đặt chất nổ, xe anh Bôn mới bị đặt chất nổ hay cài lựu đạn trước nhà hàng Nam Sơn. Mình với ông cụ cứ mò mò tìm nơi tiếng đồng hồ, trong khi mấy đứa em thì đứng xớ rớ, bổng từ đâu có một tên chạy đến rồi thò tay vô xe, sau miếng vải của cái trần xe, kéo ra cái đồng hồ reo con chim, để bàn hiệu Time, màu xanh, rồi bỏ đi về phía trường Đa Nghĩa.
Mình với ông cụ chưng hửng đứng đực ra như ngỗng ị mất mấy phút. Ngày nay nghĩ lại có nhiều nghi vấn; làm sao tên đó biết cái đồng hồ trong xe mà chạy lại lấy đi. Cũng có thể hắn gài chất nổ nhưng khi mình mở cửa không nổ hay là hắn thấy mấy đứa em đứng xớ rớ nên không muốn xe nổ,… chỉ có trời mới biết. Từ dạo ấy, mình bắt chước OSS 117, xem dưới gầm xe coi có gì khả nghi trước khi mở cửa xe vào buổi sáng để xem nhớt và nước.
Người nằm vùng ở Đàlạt, có công nhiều nhất với Việt Cộng là cô Ba Chỉ, chủ tiệm Bình Lợi, dưới chợ Đàlạt, nay ở dưới Đại Ninh, trên 90 tuổi. Cô này không có gia đình, làm ăn khá, có xe hàng chạy Sàigòn - Đàlạt, lâu lâu nghe nói bị Việt Cộng chận đường lấy hết hàng hoá. Thật ra, cô ta cho xe hàng của tiệm chạy vào chỗ nào trên đường Sàigòn Đàlạt, để tiếp tế cho Việt Cộng. Nghe bà cụ mình kể, cô ta có đi Thái Lan chơi dạo ấy, gặp bà Nguyễn Thị Bình bên ấy, có chụp hình. Sau 75 làm lớn lắm tại Đàlạt, cứu gia đình mình không đi kinh tế mới khi ông cụ mình bị kết án 18 năm tù vì tội phản động.
Cô ta bán gạo nhưng không bán thẳng cho Việt Cộng, kêu bà cụ mình lấy gạo của kho hàng của cô ta để bán. Bà cụ mình kể cô ta kêu bà cụ vào nói lấy gạo cô ta mà bán, vốn một bao 5 ngàn thì 1 tiếng đồng hồ sau có một bà nào đến hỏi mua 100 bao gạo, bà cụ bán giá 5,300, lời 300 đồng 1 bao, lời 100 bao là lương một tháng của ông cụ mình. Nghe tới đó mình hỏi bà cụ là bà đại diện Việt Cộng ra mua. Bà cụ kêu ừ, sau 75 thì bà đó làm lớn lắm. Gặp lại bà cụ mình kêu dạo ấy đi mua gạo tiếp tế cho Việt Cộng nhưng sợ lắm. Nếu chính quyền địa phương bắt thì bắt bà cụ mình ở tù về tội bán gạo cho Việt Cộng còn cô 3 Chỉ khoẻ re. Gian ác thật.
Đọc tài liệu thì được biết trước 75, mấy tiểu đoàn trưởng của Việt Cộng , vượt đường mòn HCM vào Nam, đi đánh trận, chỉ cần đem vàng theo rồi Việt Cộng nằm vùng lấy vàng đi mua gạo mắm muối nuôi đơn vị của họ. Liên Sô có mỏ vàng nhiều nên viện trợ vàng thay vì nhu yếu phẩm. Thị trường vàng ở Việt Nam dạo ấy đầy vàng của Liên Sô nên rẻ. Bà cụ mình kể là các đơn vị địa phương quân của Đàlạt, kêu bà cụ mình đến bán gạo của lính hay mấy ông cha cố được nhà thờ Mỹ viện trợ gạo nhưng thừa đem bán lại cho bà cụ mình. Nói chung dạo ấy, Đàlạt có một thị trường bán gạo và đường chui vì chỉ có môn bài mới được bán và chính quyền kiểm soát nhưng chính mấy ông đơn vị trưởng tham nhũng, ăn bớt gạo của binh sĩ, bán cho những người tiểu thương như bà cụ, lấy tiền bỏ túi rồi bà cụ bán lại kiếm tiền nuôi con.
Theo mình hiểu thì dạo ấy, mấy người làm ăn có máu mặt tại Đàlạt, không ít thì nhiều cũng phải đóng thuế cho Việt Cộng để họ để yên làm ăn. Xe hàng chạy Đàlạt Sàigòn hay xe be vào rừng chặt cây thì mấy ông kẹ ở trong rừng, bắt đóng thuế nếu không họ đốt nhà hay đặt chất nổ,… Sau 75 thì những người nằm vùng, biết rõ các tay giàu có tại Đàlạt nên vụ đánh tư sản mấy lần là những người nằm vùng lập công đầu vì họ biết Đàlạt như trong bàn tay. Số người nằm vùng khá đông. Nhiều người đóng thuế cho cách mạng trước 75, sau này tưởng lập công cho cách mạng, bị đánh tư sản te tua nên căm hận Việt Cộng.
Sau hiệp định Geneva, Việt Nam bị chia đôi tạm thời rồi 2 năm sau 1956 sẽ có tổng tuyển cử để thống nhất. Người ta cho phép người dân có thể chọn tạm thời vùng họ muốn ở. Người miền bắc, đa số theo đạo công giáo, theo ông linh mục Hoàng Quỳnh vào Nam, số người di cư vào Nam lên đến cả triệu người, Việt Cộng tìm cách giữ những người miền Bắc ở lại.
Miền Nam thì có những người thích chế độ Cộng Sản nên dắt nhau ra Bắc mà người ta gọi là đi Tập Kết, còn người ngoài BẮc vào Nam thì gọi Di Cư. Hà Nội để lại một số cán bộ cộng sản để tuyên truyền, nằm vùng,…như Lê Duẫn, Nguyễn Văn Linh,… nên sau 1956, không có tổng tuyển cử thì mấy người nằm vùng được chỉ thị chống phá chính phủ miền Nam, tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, hậu cần cho quân đội chính quy của Việt Cộng vào Nam. Ông Phạm Ngọc Ẩn, được Hà Nội cài ở lại, cho ông ta du học bên Mỹ rồi về làm báo chí ở miền Nam, cho tài liệu giả,… sau này được phong chức quân hàm thiếu tướng.
Trong hồi ký của Đặng Chí Bình, một điệp viên miền Nam, gốc bắc kỳ di cư, được huấn luyện thời đệ nhất cộng hoà, rồi cho xâm nhập miền bắc bằng đường biển để bắt liên lạc ở miền bắc, bị bắt và ở tù đến sau 75 mới được thả về. Ông ta cho hay là khi xâm nhập miền bắc, lần mò về đến Hà Nội, vào nhà thờ như chương trình để liên lạc với ông cố đạo thì sau đó khám phá công an theo dõi và bị bắt sau đó. Mình đọc cách đây 30 năm nhưng năm ngoái mua thêm những cuốn được cập nhật hoá thêm chi tiết mà ông ta thâu nhận được từ 30 năm qua sau khi qua Hoa Kỳ.
Sau này ông ta được biết là ông cố đạo là người của Hà Nội cài vào do đó khi liên lạc ở nhà thời xong thì ông ta phát hiện bị công an theo dõi, và những huấn luyện viên của Nha Kỹ Thuật đều là người nằm vùng của Hà Nội. Lúc lấy khẩu cung ông ta thì Hà Nội cho ông xem những hình ảnh của gián điệp của họ ở Sàigòn chụp hình ông ta với các huấn luyện viên. Người đứng đầu chương trình thả các toán Lôi Hổ vào miền Bắc là nằm vùng do đó các toán nhảy bắc đều bị tóm hết khi chạm đất.
Có lẻ miền Nam không nên khuyến khích người miền Bắc di cư thì mới có một số dân chán ghét chế độ, làm hậu thuẩn cho miền nam ở bắc trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Hà Nội cho người nằm vùng về nhà của những người tập kết ra Bắc để móc nối, làm hậu thuẩn, giúp đỡ họ trong thời kỳ chiến tranh trong khi tại miền bắc, không có ai giúp đỡ miền nam.
Chán Mớ Đời
Nhớ lần về thăm Đàlạt sau gần 20 năm xa vắng thì mình thất kinh khi đi thăm họ hàng, làng xóm,…. Lý do là khám phá nhiều người quen thậm chí họ hàng, nằm vùng trước 75.
Trong xóm thì có thằng V, học trường Trần Hưng Đạo, hơn mình 4 tuổi, hồi nhỏ có chơi bắn bi, bị bắt nhốt ở trung Tâm Thẩm Vấn khi xưa. Có lần mình được bố thằng bạn chở lên trung tâm thẩm vấn, thấy hắn trong xà lim nhưng không nói chuyện. Mẹ hắn là bà T, hay đến nhà ba thằng bạn, đã cho mình ăn thịt chó trong đêm Giáng Sinh, một trong những công an giỏi bắt nằm vùng Đàlạt, nhờ đưa đồ ăn cho hắn. Sau 75, hắn được ra, gia đình hắn làm trời khu phố nhà mình, nhờ công lao cách mạng, bị tù mấy năm rồi Hà Nội cho người vào thay thế, nay chỉ có cái nhà nhỏ xíu như cách mạng đền công mấy năm tù ở.
Bà cụ dẫn mình đi thăm một ông cậu bà con, chỉ biết khi xưa ông này là trưởng ty cảnh sát Đàlạt, cạnh nhà thờ con gà. Nghe ông cậu bà con kể là mới đi Gia Nã Đại về khiến mình tá hoả vì ông này không bị đi học tập dù trước 75, làm trưởng ty cảnh sát. Sau này nghe ông cụ kể là ông ta nằm vùng, lúc chiến dịch Phượng Hoàng lên cao điểm, sợ bị lộ nên tổ chức đặt chất nổ bên hông nhà để làm tan mối hoài nghi của chiến dịch. Chán mớ đời.
Mình lại thấy một ông trưởng khu phố Đàlạt khi xưa, phơi phới thì đoán là cũng dân nằm vùng. Nghe kể một ông cậu họ, em chú bác ruột với bà cụ mình, làm cho CIA, chiến dịch Phượng Hoàng, mà mình có kể chuyện cái máy truyền tin của cậu để trong phòng khách của nhà mình, mỗi lần lên nhà mình chơi hay đi công vụ, thì bỏ xe và máy ở nhà mình rồi đi đâu, gặp ai hay gần xóm để lấy tin tức. Cái máy truyền tin dỡ chứng cứ kêu đại bàng chi đó, mình cứ khoanh tay, thưa cái máy truyền tin là cậu con đi mô rồi. Nay nhớ lại mới hiểu mình thuộc dạng Ngu chi mà ngu chi lạ, vậy mà cũng được đi du học.
Nhà kể lúc di tản, CIA kêu cậu đem gia đình đến điểm hẹn để họ bốc đi, cậu ngồi nhà đợi bà vợ về để di tản. Moi đồ đạt để xem đem cái gì đi thì khám phá ra bà vợ là nằm vùng còn cậu làm cho CIA. Ngày 30/4 cậu rút súng tự tử luôn, còn bà mợ thì mất tích luôn từ dạo ấy.
Trước 75, nhà mình có nuôi một chị người Quảng, giúp bà cụ ngoài chợ. Một hôm biến mất với áo quần, chị người làm khác nói chị ta vô bưng rồi vì có rũ chị này đi theo. Chị này thì có ông anh bị Việt Cộng giết năm Mậu Thân ở Huế nên vào Đàlạt.
Năm 1972, nhà mình xây nhà, có một ông người huế tên K, nhà ở dưới Trại Hầm hay Cầu Đất chi đó, thầu xây nhà mình rồi có ông thợ mộc trên số 4 đến làm nhà. Ông cụ mình thì hay gây gỗ với mấy người này nhưng bà cụ mình thì nhẹ nhàng trả thêm tiền cho họ. Đùng 30/4 đến thì khám phá hai người này là nằm vùng cở lớn, hét ra lửa đến khi Hà Nội cho người từ Bắc vào thay. Hay ông hớt tóc cho mình, cạnh tiệm Minh Tâm, tắm nước nóng, cũng nằm vùng loại gộc.
Ông ngoại mình, sau 75 trốn Bảo Lộc, đi đâu mất tích luôn. Nghe phong phanh về quê, bị mấy người đi kháng chiến khi xưa, trở về giết và thủ tiêu. Hình như ông ngoại mình dinh tê sau khi đi kháng chiến. Chuyện người lớn, không ai kể hay biết nay bà cụ mình không biết ngày mô để kỵ.
Ông cụ mình làm ty Công Quản Nước Đàlạt, được cử làm đoàn trưởng nhân dân tự vệ, chia canh gác cho mấy người thợ mỗi đêm, gác nhà máy nước để tránh Việt Cộng phá hoại. Khi Việt Cộng vô thì ông cụ tá hoả tam tinh vì mấy người thợ đều là nằm vùng hết, tháng trước họ làm dưới quyền ông cụ nay lại làm tổ trưởng ông cụ nên ông cụ bỏ làm, ở nhà. Cái khổ là trước khi đi di tản, ông cụ có kêu họ đưa súng nhân dân tự vệ lại và đem chôn nên mấy người này theo dõi ông cụ và sau này ông cụ mình bị lên án đi tù 18 năm vì tham gia phục quốc.
Về Đàlạt thì được một anh bạn học cũ, cho biết anh ta là đảng viên, kể mấy người làm, hay dạy trường Văn Học, sau 75 thì khám phá ra họ nằm vùng. Một hôm thầy CBA thấy truyền đơn nên nghi và cho một người tài xế nghỉ thì hôm sau Tuần Cảnh đến trường lùng bắt. Có ông thầy, trước 75 ở đường Hai Bà Trưng, đem gia đình đến ở căn nhà 30 Nguyễn Du sau 30/4 đến khi Hà Nội cho người thay thế.
Có hôm đang ngồi ăn cơm ở tiệm, với mấy người bạn học cũ thì một cô chỉ mặt một anh chàng học chung lớp khi xưa, kêu trước 75, ông là nằm vùng, có người lại kêu anh chàng hát Quảng, theo mình hiểu là gốc Quảng nên chạy theo Việt Cộng sau 75, kiểu CM30 chi đó. Dạo ấy mình cũng có nghi anh ta là dân nằm vùng vì cách nói chuyện chống Thiệu Kỳ.
Có gặp mấy cô Yersin, họ lại nói đến cô nào khi xưa học chung, nằm vùng, đặt chất nổ ở rạp Ngọc Lan làm chết mấy mạng. Mình không nhớ cô đặc công Việt Cộng này, chỉ nhớ sau vụ nổ thì mất một thời gian mới dám đi xem xi nê lại tại rạp Ngọc Lan, mình còn nhỏ. Không chết thằng lính mỹ nào cả, mấy người dân chết vô tội. Mình nghe kể một người quen, xin dấu tên, nằm vùng đặt lựu đạn dưới gầm xe của anh Bôn và ông bầu đội tuyển đá banh Đàlạt trước nhà hàng Nam Sơn khiến hai người này tử nạn. Hình như hai người này làm cho chiến dịch Phượng Hoàng. Sau đó đội tuyển đá banh Đàlạt nhờ ông cụ mình làm ông bầu bất đắc dĩ đến khi di tản.
Viết tới đây mình nhớ có lần, sáng ông cụ chở mấy đứa em đi học với chiếc xe Traction đen của nhà máy nước. Mở cửa xe, mình nghe tiếng đồng hồ kêu tíc tắc, Tíc tắc nhưng không biết ở đâu. Mình với ông cụ tái mặt vì dạo ấy, ở Đàlạt có nhiều nhà bị đặt chất nổ, xe anh Bôn mới bị đặt chất nổ hay cài lựu đạn trước nhà hàng Nam Sơn. Mình với ông cụ cứ mò mò tìm nơi tiếng đồng hồ, trong khi mấy đứa em thì đứng xớ rớ, bổng từ đâu có một tên chạy đến rồi thò tay vô xe, sau miếng vải của cái trần xe, kéo ra cái đồng hồ reo con chim, để bàn hiệu Time, màu xanh, rồi bỏ đi về phía trường Đa Nghĩa.
Mình với ông cụ chưng hửng đứng đực ra như ngỗng ị mất mấy phút. Ngày nay nghĩ lại có nhiều nghi vấn; làm sao tên đó biết cái đồng hồ trong xe mà chạy lại lấy đi. Cũng có thể hắn gài chất nổ nhưng khi mình mở cửa không nổ hay là hắn thấy mấy đứa em đứng xớ rớ nên không muốn xe nổ,… chỉ có trời mới biết. Từ dạo ấy, mình bắt chước OSS 117, xem dưới gầm xe coi có gì khả nghi trước khi mở cửa xe vào buổi sáng để xem nhớt và nước.
Người nằm vùng ở Đàlạt, có công nhiều nhất với Việt Cộng là cô Ba Chỉ, chủ tiệm Bình Lợi, dưới chợ Đàlạt, nay ở dưới Đại Ninh, trên 90 tuổi. Cô này không có gia đình, làm ăn khá, có xe hàng chạy Sàigòn - Đàlạt, lâu lâu nghe nói bị Việt Cộng chận đường lấy hết hàng hoá. Thật ra, cô ta cho xe hàng của tiệm chạy vào chỗ nào trên đường Sàigòn Đàlạt, để tiếp tế cho Việt Cộng. Nghe bà cụ mình kể, cô ta có đi Thái Lan chơi dạo ấy, gặp bà Nguyễn Thị Bình bên ấy, có chụp hình. Sau 75 làm lớn lắm tại Đàlạt, cứu gia đình mình không đi kinh tế mới khi ông cụ mình bị kết án 18 năm tù vì tội phản động.
Cô ta bán gạo nhưng không bán thẳng cho Việt Cộng, kêu bà cụ mình lấy gạo của kho hàng của cô ta để bán. Bà cụ mình kể cô ta kêu bà cụ vào nói lấy gạo cô ta mà bán, vốn một bao 5 ngàn thì 1 tiếng đồng hồ sau có một bà nào đến hỏi mua 100 bao gạo, bà cụ bán giá 5,300, lời 300 đồng 1 bao, lời 100 bao là lương một tháng của ông cụ mình. Nghe tới đó mình hỏi bà cụ là bà đại diện Việt Cộng ra mua. Bà cụ kêu ừ, sau 75 thì bà đó làm lớn lắm. Gặp lại bà cụ mình kêu dạo ấy đi mua gạo tiếp tế cho Việt Cộng nhưng sợ lắm. Nếu chính quyền địa phương bắt thì bắt bà cụ mình ở tù về tội bán gạo cho Việt Cộng còn cô 3 Chỉ khoẻ re. Gian ác thật.
Đọc tài liệu thì được biết trước 75, mấy tiểu đoàn trưởng của Việt Cộng , vượt đường mòn HCM vào Nam, đi đánh trận, chỉ cần đem vàng theo rồi Việt Cộng nằm vùng lấy vàng đi mua gạo mắm muối nuôi đơn vị của họ. Liên Sô có mỏ vàng nhiều nên viện trợ vàng thay vì nhu yếu phẩm. Thị trường vàng ở Việt Nam dạo ấy đầy vàng của Liên Sô nên rẻ. Bà cụ mình kể là các đơn vị địa phương quân của Đàlạt, kêu bà cụ mình đến bán gạo của lính hay mấy ông cha cố được nhà thờ Mỹ viện trợ gạo nhưng thừa đem bán lại cho bà cụ mình. Nói chung dạo ấy, Đàlạt có một thị trường bán gạo và đường chui vì chỉ có môn bài mới được bán và chính quyền kiểm soát nhưng chính mấy ông đơn vị trưởng tham nhũng, ăn bớt gạo của binh sĩ, bán cho những người tiểu thương như bà cụ, lấy tiền bỏ túi rồi bà cụ bán lại kiếm tiền nuôi con.
Theo mình hiểu thì dạo ấy, mấy người làm ăn có máu mặt tại Đàlạt, không ít thì nhiều cũng phải đóng thuế cho Việt Cộng để họ để yên làm ăn. Xe hàng chạy Đàlạt Sàigòn hay xe be vào rừng chặt cây thì mấy ông kẹ ở trong rừng, bắt đóng thuế nếu không họ đốt nhà hay đặt chất nổ,… Sau 75 thì những người nằm vùng, biết rõ các tay giàu có tại Đàlạt nên vụ đánh tư sản mấy lần là những người nằm vùng lập công đầu vì họ biết Đàlạt như trong bàn tay. Số người nằm vùng khá đông. Nhiều người đóng thuế cho cách mạng trước 75, sau này tưởng lập công cho cách mạng, bị đánh tư sản te tua nên căm hận Việt Cộng.
Sau hiệp định Geneva, Việt Nam bị chia đôi tạm thời rồi 2 năm sau 1956 sẽ có tổng tuyển cử để thống nhất. Người ta cho phép người dân có thể chọn tạm thời vùng họ muốn ở. Người miền bắc, đa số theo đạo công giáo, theo ông linh mục Hoàng Quỳnh vào Nam, số người di cư vào Nam lên đến cả triệu người, Việt Cộng tìm cách giữ những người miền Bắc ở lại.
Miền Nam thì có những người thích chế độ Cộng Sản nên dắt nhau ra Bắc mà người ta gọi là đi Tập Kết, còn người ngoài BẮc vào Nam thì gọi Di Cư. Hà Nội để lại một số cán bộ cộng sản để tuyên truyền, nằm vùng,…như Lê Duẫn, Nguyễn Văn Linh,… nên sau 1956, không có tổng tuyển cử thì mấy người nằm vùng được chỉ thị chống phá chính phủ miền Nam, tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, hậu cần cho quân đội chính quy của Việt Cộng vào Nam. Ông Phạm Ngọc Ẩn, được Hà Nội cài ở lại, cho ông ta du học bên Mỹ rồi về làm báo chí ở miền Nam, cho tài liệu giả,… sau này được phong chức quân hàm thiếu tướng.
Trong hồi ký của Đặng Chí Bình, một điệp viên miền Nam, gốc bắc kỳ di cư, được huấn luyện thời đệ nhất cộng hoà, rồi cho xâm nhập miền bắc bằng đường biển để bắt liên lạc ở miền bắc, bị bắt và ở tù đến sau 75 mới được thả về. Ông ta cho hay là khi xâm nhập miền bắc, lần mò về đến Hà Nội, vào nhà thờ như chương trình để liên lạc với ông cố đạo thì sau đó khám phá công an theo dõi và bị bắt sau đó. Mình đọc cách đây 30 năm nhưng năm ngoái mua thêm những cuốn được cập nhật hoá thêm chi tiết mà ông ta thâu nhận được từ 30 năm qua sau khi qua Hoa Kỳ.
Sau này ông ta được biết là ông cố đạo là người của Hà Nội cài vào do đó khi liên lạc ở nhà thời xong thì ông ta phát hiện bị công an theo dõi, và những huấn luyện viên của Nha Kỹ Thuật đều là người nằm vùng của Hà Nội. Lúc lấy khẩu cung ông ta thì Hà Nội cho ông xem những hình ảnh của gián điệp của họ ở Sàigòn chụp hình ông ta với các huấn luyện viên. Người đứng đầu chương trình thả các toán Lôi Hổ vào miền Bắc là nằm vùng do đó các toán nhảy bắc đều bị tóm hết khi chạm đất.
Có lẻ miền Nam không nên khuyến khích người miền Bắc di cư thì mới có một số dân chán ghét chế độ, làm hậu thuẩn cho miền nam ở bắc trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Hà Nội cho người nằm vùng về nhà của những người tập kết ra Bắc để móc nối, làm hậu thuẩn, giúp đỡ họ trong thời kỳ chiến tranh trong khi tại miền bắc, không có ai giúp đỡ miền nam.
Chán Mớ Đời
Xe nhân dân
Xe nhân dân
Hôm trước kể chuyện ông Tây với chiếc xe 2 CV (2 Cheveaux Vapeurs) làm mình nhớ đến vụ đụng xe với vợ thầy Phạm Kế Viêm trước trường Việt Anh.
Mình tự tập và bắt đầu lái xe của ông cụ năm 15 tuổi. Mỗi sáng, mình có nhiệm vụ, xem dầu nhớt và châm nước hạ nhiệt xe Jeep của ông cụ. Một hôm, chủ nhật, 6:00 sáng, không có xe chạy trên đường Hai BÀ Trưng, mình đề máy xe rồi chạy thử, chỉ dám sang số 1, chạy lên Số 4 rồi vòng đường Ngô Quyền, qua Calmette, Hải Thượng rồi trở lại Hai Bà Trưng vì không biết de xe ra sao nên chạy một vòng. Dần dần mình quen, tập de xe,…
Khi ông cụ khám phá ra mình biết lái xe, giao cho mình nhiệm vụ Người Anh ưu Tú, đưa mấy đứa em đi học trường Hùng Vương. Một hôm chạy về, khi ngang trường Việt Anh, có một chiếc xe con cóc từ trong trường chạy ra, không nhìn đường xá gì cả, nhường xe ngoài đường, húc vào xe mình. Mặt mình xanh như đít nhái, miệng ú ớ còn người lái xe con cóc, cũng tương tự, bỏ xe chạy vào trường, sau đó thì thầy Phạm Kế Viêm đi ra. May thầy biết mình, xe ông cụ mình nên kêu đi đi. Hú vía.
Dạo ấy chưa có bằng lái xe, trước khi đi Tây mới thi bằng lái xe, sang Tây có đổi bằng lái tây nhưng không có xe. Có mướn xe chạy khi đi Hy Lạp. Sau này qua Cali thì ngày hôm sau phải đi mua xe.
Vợ thầy Viêm chạy xe con cóc mà tây hay gọi Coccinelle, mỹ gọi Beetle của hãng Volkswagen, Đức. Nếu mình không lầm thì vợ thầy Hàn cũng chạy xe loại này. Volkswagen theo tiếng Đức có nghĩa là xe Nhân Dân, Volk (nhân dân, dân chúng) Wagen (xe). Chiếc xe con cóc này được vẽ và chế tạo sau thế chiến thứ 1, khi đảng Đức Quốc Xã (Nationalsozialismus) do Hitler lãnh đạo cầm quyền.
Chính phủ Nazi, thành lập một tổ chức Kraft durch Freude (KdF), do chính phủ điều hành, tổ chức các cuộc nghỉ hè cho nhân công, tuyên truyền cho chính phủ. Đi nghỉ hè, không phân biệt giai cấp, tàu hoả, thuyền đều đồng hạng. Ở Pháp, dạo ấy cũng có Mặt Trận Bình Dân (Front Populaire) do các đảng phái thiên tả và cộng sản cầm quyền từ 1936-1938, cũng tổ chức nghỉ hè, cho phép công nhân được nghỉ hè 15 ngày mỗi năm, được lãnh lương và làm việc có 40 tiếng mỗi tuần và những quyền hạn như thành lập công đoàn, đình công, … cho thấy dạo ấy ở Âu Châu, Nga Sô thì xây dựng thiên đàng Cộng Sản còn Âu châu thì xã hội chủ nghĩa. Có dịp mình kể vụ này, liên quan đến lịch sử Việt Nam sau này vì tuy cầm quyền có 2 năm nhưng Mặt Trận Bình Dân đã tạo dựng nhiều điểm mà đến nay vẫn được áp dụng như làm việc không quá 40 tiếng mỗi tuần và được phép thường niên có lương…
Trở lại chính quyền Nazi, cũng có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa nhưng nhắm vào tinh thần quốc gia hơn là quốc tế, xây dựng thế giới đại đồng như Nga Sô. Chính phủ Nazi xây những xa lộ đầu tiên trên thế giới thường được gọi là Autobahn, xe chạy rất nhanh, chuẩn bị cho cuộc thế chiến thứ 2. Xây xa lộ, cho nhân dân đi chơi thì cần có xe vì xe là hình ảnh tự do tuyệt đối của con người, không lệ thuộc vào xe đò, xe lửa, muốn đi lúc nào thì đi. Do đó chính phủ Nazi mới phát hoạ ra một loại xe nhân dân (Volkswagen), và chiếc xe có hình thù con cóc ra đời, dễ bảo quản, nhẹ nhàng và rẻ.
Dạo ấy công nhân đức làm việc mỗi tuần được 35 Reichsmark, và chiếc xe Con Cóc giá 900 Reichsmark. Năm nay lương tối thiểu của tiểu bang Cali là $11/ giờ hay $440/ tuần, tính ra là có thể mua một chiếc xe với giá $11,314.29 tương đương với 900 Reichsmark. Họ khuyến khích công nhân để dành tiền trong sổ tiết kiệm để mua xe nhân dân. Nếu họ quên một tháng thì phải làm lại từ đầu. Chính quyền tuyên truyền khiến công nhân hồ hởi, toàn dân quyết tâm để dành tiền để được tự do sau này có một số đông bị đẩy vào các trại tập trung, làm việc không công, chết trong các trại tập trung, mất hết tiền tiết kiệm. Tập đoàn Nazi cướp trắng.
Trong khi đó, chính phủ của Hitler, lấy tiền tiết kiệm của nhân dân, tạo dựng bộ máy chiến tranh, chế tạo súng ống, xe tank,…để chuẩn bị cho cuộc tấn công Ba Lan và Pháp,.. cho thấy người dân không nên tin chính phủ, họ nói một đường làm một nẻo. Khi chiến tranh bùng nổ thì thiên hạ chạy loạn quên hết. Hình như sau chiến tranh, nếu ai còn giữ được sổ tiết kiệm thì được chính phủ Tây Đức trả lại tiền còn dân ở vùng Đông Đức, theo chế độ cộng sản thì bù trớt.
Chính phủ Tây Đức tiếp tục cho ra đời các xe con cóc này và được ưa chuộng khắp thế giới nhưng không hiểu sao, sau này thế hệ chủ trương “Làm tình, không chiến tranh” lại thích loại xe này, hình ảnh các cô gái khoả thân bên cạnh hay ngồi trong chiếc xe này,…được đăng khắp nơi nhất là chiếc xe Van cũng hiệu Volkswagen mà các ông mục sư hay chạy đi truyền đạo ở Đàlạt khi xưa. Chắc là do quảng cáo.
Trong khi đó, chính phủ Đông Đức, trong cuộc chạy đua với Tây Đức, cũng cho ra lò một loại xe hơi, hiệu Trappan, cho thấy sự khác biệt giữa hai chế độ dù cùng một ngôn ngữ. Tương tự miền Bắc và miền Nam Việt Nam trước 75. Loại xe Trappan này, nghe kể người Đông Đức không dám dùng xe này để trốn qua Tây Đức vì không an toàn, hay bị hư hỏng. Khi Liên Sô xụp đỗ thì cả trăm chiếc xe Trappan, đậu trước biên giới, khói xăng ra nghẹt trời khiến mấy tên hải quan Đông Đức, ngột thở nên mở cổng cho qua. Nghe kể sau này dân Đông Đức đi nghĩ hè ở các nước Tây Âu, chạy bằng xe này khiến thiên hạ sợ. Loại xe này sử dụng nhiều vật liệu không tự huỷ được nên ngày nay, các chính phủ không biết vứt đi đâu.
Tương tự ở Ý Đại Lợi, chính phủ Phát Xít của Mussolini, cũng xã hội chủ nghĩa nhưng mang tầm quốc gia, thay vì thế giới đại đồng, cũng rao giảng tự do, lái xe. Trước đó chỉ có giới thượng lưu mới có xe hơi còn bần cố nông thì đừng mộng mơ. Chính phủ kêu hãng Fiat, chế tạo xe nhân dân thì họ cho ra đời xe Fiat 500 (do xe này có 500 phân khối). Đàlạt có vài chiếc, nếu mình không lầm thì hãng cưa Xu Tiến ở đường Phan Đình Phùng có một chiếc. Loại xe này nhỏ để có thể len lỏi và đậu xe trong các đường hẻm nhỏ của xứ Ý.
Điểm vui là Liên Sô, trong thời chiến tranh lạnh, chế tạo xe tăng, vệ tinh, phi thuyền nhưng không chế tạo được xe hơi cho nhân dân. Liên Sô muốn hợp tác với Anh Quốc, Pháp để chế tạo xe Lada, mang tên chiếc thuyền nổi tiếng của Nga Sô. Cuối cùng họ hợp tác với Ý Đại Lợi vì dạo ấy 40% dân Ý bầu cho đảng Cộng Sản. Ngày nay không còn bóng dáng xe Lada này nữa.
Hãng Citroen của Pháp, cũng trong phong trào Mặt Trận Bình Dân cho ra đời năm 1938 loại xe 2CV (Deux cheveaux vapeur). Khác với xe Con Cóc của Đức để chạy nhanh, xe 2 ngựa của Citroen để cho nông dân Pháp sử dụng vì dạo ấy nông dân còn khá nhiều, nhẹ trên 2 tạ. Nhưng chưa sản xuất được nhiều thì Nazi chiếm đóng Paris nên đành gác lại đến sau chiến tranh mới cho sản xuất lại. Sau này chính phủ Pháp chế tạo lại để quân đội dùng khi ra trận.
Xe Citroen được bán khắp thế giới, đâu trên 3 triệu chiếc trước khi hãng Citroen ngưng sản xuất mẫu xe này nhưng xe Pháp nổi tiếng nhất và được bán trên 9.5 triệu chiếc là xe Renault 4. Xe này trang bị máy xe ở phía trước và để cốp xe phía sau và người thiết kế nghĩ ra cách hạ mấy cái ghế phía sau để có thể chuyên chở đồ nhiều hơn. Hình như cô Liên, ngày xưa có chạy chiếc xe này.
Trong một cuốn phim có ông cò Louis de Funes, có quảng cáo chiếc xe Citroen kiểu Ladalat, được sản xuất tại Việt Nam. Phim gì có soucoupe volante, đĩa bay, coi ở rạp Ngọc Lan. Ông cò hề này lái chiếc xe Ladalat chạy rượt đuổi người hành tinh nên sau này thấy người Việt chạy xe này được sản xuất tại Việt Nam. Họ nhập cảng máy móc từ pháp còn dàn hay đồ phụ tùng thì được chế tạo tại Việt Nam. Việt Cộng vô thì bù trớt, họ trở lại thời chạy xe bằng than.
Vào thập niên 70 của thế kỷ trước, thế giới bị khủng hoảng dầu lửa nên họ tìm cách chế tạo xe rẻ, ít uống xăng. Ở pháp mình nhớ khi sang Tây có loại xe không cần bằng lái gọi là Voiture Sans Permit (VSP), có kiểu KV1, con nít 14 tuổi có quyền lái. Bên Anh thì có luật xe 3 bánh như xe Lambretta thì không cần bằng lái, đóng thuế ít,… cái khổ của xe 3 bánh là hay bị lật còn xe VPS của Tây thì có trung bình 50 người chết mỗi ngày nên họ dẹp luôn.
Nếu so sánh xe cộ được chế tạo sau thế chiến thì được biết xe mỹ trong khoảng thời gian này được gọi là Happy Days như bộ phim truyền hình mà có thời ở bên Tây mình mê xem hàng tuần. Xe hơi có nóc trần được mở, décapotable, to lớn vì xăng rẻ ngược lại ở Âu châu thì khan hiếm nên họ chế tạo xe như Fiat 500, để mui trần bằng vãi để đở tốn tiền, rất giản dị,…
Tại Nhật Bản còn te tua hơn vì sau chiến tranh, họ không có gì cả, vật liệu,… xe hơi như Datsun, Toyota,…như xe hơi con nít, hay bị hư hao,… ngược lại ông Soichiro Honda lại nghĩ đến xe gắn máy vì rẻ, di chuyển dể dàng và ít sử dụng vật liệu,… ở Âu châu thì người ta bỏ xe gắn máy để chạy theo giấc mơ được làm chủ một chiếc xe hơi nên xe gắn máy như Vespa, Ischia, Goebbels,…bị lùi vào lịch sử.
Nói tới xe gắn máy, mình nhớ lần đầu tiên được đi xe gắn máy. Ông cụ mình muốn đi coi đá banh ở sân vận động nên kêu mình đi, ghé qua nhà ông bạn đường Hai Bà Trưng, chỗ trường Thăng Long cũ, mượn chiếc xe gắn máy hiệu Ischia rồi đèo mình phía sau. Lần đầu tiên đi xe, mỏi chân quá mình không biết để đâu, vừa đến đường Cường Để, vừa hạ chân xuống thì nghe rẹt rẹt, cái chân mình chui vào bánh xe, đau quá kêu ông cụ, ông cụ đẩy xe về, băng bó vết thương xong rồi kêu mình ở nhà. Què chân mấy tháng.
Ông Honda chế ra xe gắn máy, dạo ấy bên Nhật người ta hay gọi các tiệm ăn, mì ramen giao tại nhà hay công sở và được giao bằng xe đạp. Ông Honda nghĩ ra cách chế xe gắn máy mà người giao mì, đồ ăn có thể chạy một tay, còn tay kia thì cầm đồ giao hàng thì chắc các tiệm ăn sẽ mua. Do đó ông chế tạo xe gắn máy, rất tiện lợi cho phụ nữ, tay phải để cầm và rồ ga, còn sang số thì chỉ đạp chân thay vì phải bóp ga, sang số bằng tay trái như các xe gắn máy “đàn ông” như Suzuki, Yamaha,….
Như ông ta tiên đoán, xe Honda Cup được ưa chuộng vì dễ lái, có thể là loại xe bán được nhiều nhất trên thế giới, nghe nói đâu trên 85 triệu chiếc trong khi xe con cóc của đức thì bán được 21 triệu chiếc. Đàn ông hay phụ nữ đều dùng được.
Thập niên 70 của thế kỷ 20, người Nhật có chiến dịch viện trợ cho các quốc gia Châu Phi, xe vận tải nhẹ. Cứ mỗi nước họ tặng vài 100 chiếc. Dân châu phi chạy bú xua la mua vì xe chùa đến khi xe bị hỏng thì phải mua đồ phụ tùng giúp người Nhật lấy lại vốn. Nhờ vậy mà ngày nay Phi Châu hay Trung Đông đều sử dụng xe vận tải nhẹ của Nhật để chuyện chở đạn dược, bắn nhau trên xe với súng đại liên được trang bị phía sau xe.
Năm 15 tuổi, có thằng Sữu, khi xưa ở cạnh nhà mình, sau này làm thợ sửa xe ở ty Công Dụng, đánh bài hay chơi sì ke thua nên kêu ông cụ mình bán chiếc xe Bridgstone (BS) màu đỏ. Xe này được tên Sữu này cưa cái ống bô nên khi chạy xe máy nổ ầm ầm. Lâu lâu mình nhét cái lon coca vào thì nghe te te êm lạ kỳ rồi vài tuần sau lên dốc thì bùm, cái lon bay bắn ra phía sau khi lên dốc.
Sau này có ai muốn mua nên ông cụ bán lại rồi mua cho mình chiếc Honda Cup vì bớt cao bồi mà chủ trước độ lại phân khối, không nhớ là bao nhiêu. Thông thường là 50 cc rồi mấy tên thợ độ lại cho mạnh vì Đàlạt có dốc nên cần máy mạnh hơn. Sau này đi Tây thì mấy đứa em chạy rồi đi di tản cũng đem theo rồi mất luôn thì phải.
Xong om
Hôm trước kể chuyện ông Tây với chiếc xe 2 CV (2 Cheveaux Vapeurs) làm mình nhớ đến vụ đụng xe với vợ thầy Phạm Kế Viêm trước trường Việt Anh.
Mình tự tập và bắt đầu lái xe của ông cụ năm 15 tuổi. Mỗi sáng, mình có nhiệm vụ, xem dầu nhớt và châm nước hạ nhiệt xe Jeep của ông cụ. Một hôm, chủ nhật, 6:00 sáng, không có xe chạy trên đường Hai BÀ Trưng, mình đề máy xe rồi chạy thử, chỉ dám sang số 1, chạy lên Số 4 rồi vòng đường Ngô Quyền, qua Calmette, Hải Thượng rồi trở lại Hai Bà Trưng vì không biết de xe ra sao nên chạy một vòng. Dần dần mình quen, tập de xe,…
Khi ông cụ khám phá ra mình biết lái xe, giao cho mình nhiệm vụ Người Anh ưu Tú, đưa mấy đứa em đi học trường Hùng Vương. Một hôm chạy về, khi ngang trường Việt Anh, có một chiếc xe con cóc từ trong trường chạy ra, không nhìn đường xá gì cả, nhường xe ngoài đường, húc vào xe mình. Mặt mình xanh như đít nhái, miệng ú ớ còn người lái xe con cóc, cũng tương tự, bỏ xe chạy vào trường, sau đó thì thầy Phạm Kế Viêm đi ra. May thầy biết mình, xe ông cụ mình nên kêu đi đi. Hú vía.
Dạo ấy chưa có bằng lái xe, trước khi đi Tây mới thi bằng lái xe, sang Tây có đổi bằng lái tây nhưng không có xe. Có mướn xe chạy khi đi Hy Lạp. Sau này qua Cali thì ngày hôm sau phải đi mua xe.
Vợ thầy Viêm chạy xe con cóc mà tây hay gọi Coccinelle, mỹ gọi Beetle của hãng Volkswagen, Đức. Nếu mình không lầm thì vợ thầy Hàn cũng chạy xe loại này. Volkswagen theo tiếng Đức có nghĩa là xe Nhân Dân, Volk (nhân dân, dân chúng) Wagen (xe). Chiếc xe con cóc này được vẽ và chế tạo sau thế chiến thứ 1, khi đảng Đức Quốc Xã (Nationalsozialismus) do Hitler lãnh đạo cầm quyền.
Chính phủ Nazi, thành lập một tổ chức Kraft durch Freude (KdF), do chính phủ điều hành, tổ chức các cuộc nghỉ hè cho nhân công, tuyên truyền cho chính phủ. Đi nghỉ hè, không phân biệt giai cấp, tàu hoả, thuyền đều đồng hạng. Ở Pháp, dạo ấy cũng có Mặt Trận Bình Dân (Front Populaire) do các đảng phái thiên tả và cộng sản cầm quyền từ 1936-1938, cũng tổ chức nghỉ hè, cho phép công nhân được nghỉ hè 15 ngày mỗi năm, được lãnh lương và làm việc có 40 tiếng mỗi tuần và những quyền hạn như thành lập công đoàn, đình công, … cho thấy dạo ấy ở Âu Châu, Nga Sô thì xây dựng thiên đàng Cộng Sản còn Âu châu thì xã hội chủ nghĩa. Có dịp mình kể vụ này, liên quan đến lịch sử Việt Nam sau này vì tuy cầm quyền có 2 năm nhưng Mặt Trận Bình Dân đã tạo dựng nhiều điểm mà đến nay vẫn được áp dụng như làm việc không quá 40 tiếng mỗi tuần và được phép thường niên có lương…
Trở lại chính quyền Nazi, cũng có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa nhưng nhắm vào tinh thần quốc gia hơn là quốc tế, xây dựng thế giới đại đồng như Nga Sô. Chính phủ Nazi xây những xa lộ đầu tiên trên thế giới thường được gọi là Autobahn, xe chạy rất nhanh, chuẩn bị cho cuộc thế chiến thứ 2. Xây xa lộ, cho nhân dân đi chơi thì cần có xe vì xe là hình ảnh tự do tuyệt đối của con người, không lệ thuộc vào xe đò, xe lửa, muốn đi lúc nào thì đi. Do đó chính phủ Nazi mới phát hoạ ra một loại xe nhân dân (Volkswagen), và chiếc xe có hình thù con cóc ra đời, dễ bảo quản, nhẹ nhàng và rẻ.
Dạo ấy công nhân đức làm việc mỗi tuần được 35 Reichsmark, và chiếc xe Con Cóc giá 900 Reichsmark. Năm nay lương tối thiểu của tiểu bang Cali là $11/ giờ hay $440/ tuần, tính ra là có thể mua một chiếc xe với giá $11,314.29 tương đương với 900 Reichsmark. Họ khuyến khích công nhân để dành tiền trong sổ tiết kiệm để mua xe nhân dân. Nếu họ quên một tháng thì phải làm lại từ đầu. Chính quyền tuyên truyền khiến công nhân hồ hởi, toàn dân quyết tâm để dành tiền để được tự do sau này có một số đông bị đẩy vào các trại tập trung, làm việc không công, chết trong các trại tập trung, mất hết tiền tiết kiệm. Tập đoàn Nazi cướp trắng.
Trong khi đó, chính phủ của Hitler, lấy tiền tiết kiệm của nhân dân, tạo dựng bộ máy chiến tranh, chế tạo súng ống, xe tank,…để chuẩn bị cho cuộc tấn công Ba Lan và Pháp,.. cho thấy người dân không nên tin chính phủ, họ nói một đường làm một nẻo. Khi chiến tranh bùng nổ thì thiên hạ chạy loạn quên hết. Hình như sau chiến tranh, nếu ai còn giữ được sổ tiết kiệm thì được chính phủ Tây Đức trả lại tiền còn dân ở vùng Đông Đức, theo chế độ cộng sản thì bù trớt.
Chính phủ Tây Đức tiếp tục cho ra đời các xe con cóc này và được ưa chuộng khắp thế giới nhưng không hiểu sao, sau này thế hệ chủ trương “Làm tình, không chiến tranh” lại thích loại xe này, hình ảnh các cô gái khoả thân bên cạnh hay ngồi trong chiếc xe này,…được đăng khắp nơi nhất là chiếc xe Van cũng hiệu Volkswagen mà các ông mục sư hay chạy đi truyền đạo ở Đàlạt khi xưa. Chắc là do quảng cáo.
Trong khi đó, chính phủ Đông Đức, trong cuộc chạy đua với Tây Đức, cũng cho ra lò một loại xe hơi, hiệu Trappan, cho thấy sự khác biệt giữa hai chế độ dù cùng một ngôn ngữ. Tương tự miền Bắc và miền Nam Việt Nam trước 75. Loại xe Trappan này, nghe kể người Đông Đức không dám dùng xe này để trốn qua Tây Đức vì không an toàn, hay bị hư hỏng. Khi Liên Sô xụp đỗ thì cả trăm chiếc xe Trappan, đậu trước biên giới, khói xăng ra nghẹt trời khiến mấy tên hải quan Đông Đức, ngột thở nên mở cổng cho qua. Nghe kể sau này dân Đông Đức đi nghĩ hè ở các nước Tây Âu, chạy bằng xe này khiến thiên hạ sợ. Loại xe này sử dụng nhiều vật liệu không tự huỷ được nên ngày nay, các chính phủ không biết vứt đi đâu.
Tương tự ở Ý Đại Lợi, chính phủ Phát Xít của Mussolini, cũng xã hội chủ nghĩa nhưng mang tầm quốc gia, thay vì thế giới đại đồng, cũng rao giảng tự do, lái xe. Trước đó chỉ có giới thượng lưu mới có xe hơi còn bần cố nông thì đừng mộng mơ. Chính phủ kêu hãng Fiat, chế tạo xe nhân dân thì họ cho ra đời xe Fiat 500 (do xe này có 500 phân khối). Đàlạt có vài chiếc, nếu mình không lầm thì hãng cưa Xu Tiến ở đường Phan Đình Phùng có một chiếc. Loại xe này nhỏ để có thể len lỏi và đậu xe trong các đường hẻm nhỏ của xứ Ý.
Điểm vui là Liên Sô, trong thời chiến tranh lạnh, chế tạo xe tăng, vệ tinh, phi thuyền nhưng không chế tạo được xe hơi cho nhân dân. Liên Sô muốn hợp tác với Anh Quốc, Pháp để chế tạo xe Lada, mang tên chiếc thuyền nổi tiếng của Nga Sô. Cuối cùng họ hợp tác với Ý Đại Lợi vì dạo ấy 40% dân Ý bầu cho đảng Cộng Sản. Ngày nay không còn bóng dáng xe Lada này nữa.
Hãng Citroen của Pháp, cũng trong phong trào Mặt Trận Bình Dân cho ra đời năm 1938 loại xe 2CV (Deux cheveaux vapeur). Khác với xe Con Cóc của Đức để chạy nhanh, xe 2 ngựa của Citroen để cho nông dân Pháp sử dụng vì dạo ấy nông dân còn khá nhiều, nhẹ trên 2 tạ. Nhưng chưa sản xuất được nhiều thì Nazi chiếm đóng Paris nên đành gác lại đến sau chiến tranh mới cho sản xuất lại. Sau này chính phủ Pháp chế tạo lại để quân đội dùng khi ra trận.
Xe Citroen được bán khắp thế giới, đâu trên 3 triệu chiếc trước khi hãng Citroen ngưng sản xuất mẫu xe này nhưng xe Pháp nổi tiếng nhất và được bán trên 9.5 triệu chiếc là xe Renault 4. Xe này trang bị máy xe ở phía trước và để cốp xe phía sau và người thiết kế nghĩ ra cách hạ mấy cái ghế phía sau để có thể chuyên chở đồ nhiều hơn. Hình như cô Liên, ngày xưa có chạy chiếc xe này.
Trong một cuốn phim có ông cò Louis de Funes, có quảng cáo chiếc xe Citroen kiểu Ladalat, được sản xuất tại Việt Nam. Phim gì có soucoupe volante, đĩa bay, coi ở rạp Ngọc Lan. Ông cò hề này lái chiếc xe Ladalat chạy rượt đuổi người hành tinh nên sau này thấy người Việt chạy xe này được sản xuất tại Việt Nam. Họ nhập cảng máy móc từ pháp còn dàn hay đồ phụ tùng thì được chế tạo tại Việt Nam. Việt Cộng vô thì bù trớt, họ trở lại thời chạy xe bằng than.
Vào thập niên 70 của thế kỷ trước, thế giới bị khủng hoảng dầu lửa nên họ tìm cách chế tạo xe rẻ, ít uống xăng. Ở pháp mình nhớ khi sang Tây có loại xe không cần bằng lái gọi là Voiture Sans Permit (VSP), có kiểu KV1, con nít 14 tuổi có quyền lái. Bên Anh thì có luật xe 3 bánh như xe Lambretta thì không cần bằng lái, đóng thuế ít,… cái khổ của xe 3 bánh là hay bị lật còn xe VPS của Tây thì có trung bình 50 người chết mỗi ngày nên họ dẹp luôn.
Nếu so sánh xe cộ được chế tạo sau thế chiến thì được biết xe mỹ trong khoảng thời gian này được gọi là Happy Days như bộ phim truyền hình mà có thời ở bên Tây mình mê xem hàng tuần. Xe hơi có nóc trần được mở, décapotable, to lớn vì xăng rẻ ngược lại ở Âu châu thì khan hiếm nên họ chế tạo xe như Fiat 500, để mui trần bằng vãi để đở tốn tiền, rất giản dị,…
Tại Nhật Bản còn te tua hơn vì sau chiến tranh, họ không có gì cả, vật liệu,… xe hơi như Datsun, Toyota,…như xe hơi con nít, hay bị hư hao,… ngược lại ông Soichiro Honda lại nghĩ đến xe gắn máy vì rẻ, di chuyển dể dàng và ít sử dụng vật liệu,… ở Âu châu thì người ta bỏ xe gắn máy để chạy theo giấc mơ được làm chủ một chiếc xe hơi nên xe gắn máy như Vespa, Ischia, Goebbels,…bị lùi vào lịch sử.
Nói tới xe gắn máy, mình nhớ lần đầu tiên được đi xe gắn máy. Ông cụ mình muốn đi coi đá banh ở sân vận động nên kêu mình đi, ghé qua nhà ông bạn đường Hai Bà Trưng, chỗ trường Thăng Long cũ, mượn chiếc xe gắn máy hiệu Ischia rồi đèo mình phía sau. Lần đầu tiên đi xe, mỏi chân quá mình không biết để đâu, vừa đến đường Cường Để, vừa hạ chân xuống thì nghe rẹt rẹt, cái chân mình chui vào bánh xe, đau quá kêu ông cụ, ông cụ đẩy xe về, băng bó vết thương xong rồi kêu mình ở nhà. Què chân mấy tháng.
Ông Honda chế ra xe gắn máy, dạo ấy bên Nhật người ta hay gọi các tiệm ăn, mì ramen giao tại nhà hay công sở và được giao bằng xe đạp. Ông Honda nghĩ ra cách chế xe gắn máy mà người giao mì, đồ ăn có thể chạy một tay, còn tay kia thì cầm đồ giao hàng thì chắc các tiệm ăn sẽ mua. Do đó ông chế tạo xe gắn máy, rất tiện lợi cho phụ nữ, tay phải để cầm và rồ ga, còn sang số thì chỉ đạp chân thay vì phải bóp ga, sang số bằng tay trái như các xe gắn máy “đàn ông” như Suzuki, Yamaha,….
Như ông ta tiên đoán, xe Honda Cup được ưa chuộng vì dễ lái, có thể là loại xe bán được nhiều nhất trên thế giới, nghe nói đâu trên 85 triệu chiếc trong khi xe con cóc của đức thì bán được 21 triệu chiếc. Đàn ông hay phụ nữ đều dùng được.
Thập niên 70 của thế kỷ 20, người Nhật có chiến dịch viện trợ cho các quốc gia Châu Phi, xe vận tải nhẹ. Cứ mỗi nước họ tặng vài 100 chiếc. Dân châu phi chạy bú xua la mua vì xe chùa đến khi xe bị hỏng thì phải mua đồ phụ tùng giúp người Nhật lấy lại vốn. Nhờ vậy mà ngày nay Phi Châu hay Trung Đông đều sử dụng xe vận tải nhẹ của Nhật để chuyện chở đạn dược, bắn nhau trên xe với súng đại liên được trang bị phía sau xe.
Năm 15 tuổi, có thằng Sữu, khi xưa ở cạnh nhà mình, sau này làm thợ sửa xe ở ty Công Dụng, đánh bài hay chơi sì ke thua nên kêu ông cụ mình bán chiếc xe Bridgstone (BS) màu đỏ. Xe này được tên Sữu này cưa cái ống bô nên khi chạy xe máy nổ ầm ầm. Lâu lâu mình nhét cái lon coca vào thì nghe te te êm lạ kỳ rồi vài tuần sau lên dốc thì bùm, cái lon bay bắn ra phía sau khi lên dốc.
Sau này có ai muốn mua nên ông cụ bán lại rồi mua cho mình chiếc Honda Cup vì bớt cao bồi mà chủ trước độ lại phân khối, không nhớ là bao nhiêu. Thông thường là 50 cc rồi mấy tên thợ độ lại cho mạnh vì Đàlạt có dốc nên cần máy mạnh hơn. Sau này đi Tây thì mấy đứa em chạy rồi đi di tản cũng đem theo rồi mất luôn thì phải.
Xong om
Trung Thu và tựu trường
Trung Thu và tựu trường
Mỗi năm, đến mùa tựu trường thì mình lại nhớ đến bài "Tôi đi học" của ông Thanh Tịnh. Bài này dài nhưng mình chỉ nhớ đoạn trong cuốn Giáo Khoa " Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ, cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn; hôm nay tôi đi học." Ông thần Nhị Anh cũng thuộc bài này vì khi sang thăm hắn ở San Diego. Trên xe đi lên Los Angeles, hắn có đọc lại bài này. Mỗi sáng đi bộ trong sương với vợ trong xóm, thì mình cũng hay lẫm bẩm bài này. Vợ nắm tay dắt qua đường như ngày xưa đi với mẹ. Nhỏ có Mẹ, lớn có Vợ.
Nói đến buổi sáng đầy sương thu và gió lạnh thì mình không bao giờ quên những sáng của mùa tựu trường, chạy xe đi học, chạy dọc đường Trần Quốc Tuấn, từ Cầu Ông Đạo, nhìn thấy sương mai trong ánh sáng bình minh của mặt trời, mờ mờ sau nhà hàng Thuỷ Tạ. Sau này đi học ở Paris vào những buổi sáng mùa thu, đi xe métro, xuống trạm Louvre, đi băng qua cái viện bảo tàng, Cour de Carré, mà không ngờ sau này mình được tham gia, thiết kế cái Kim Tự Tháp khi làm việc cho hảng của ông I.M. Pei. Từ đó, đi qua Passerelle Des Arts, đối diện Viện Hàn Lâm của Pháp. Mình hay dừng lại trên cầu để ngắm những tia nắng của ban mai, hiện sau Nhà thờ Đức Bà, phía sau Cầu Mới (Pont Neuf), nhớ Đà Lạt, miệng khẻ hát "Ôi quê xưa biết bao giờ trở lại."
Thời sinh viên, mình hay ra đây ngồi vẽ phong cảnh này. Hôm trước, xem hình thấy thanh niên thiếu nữ yêu nhau đem ổ khoá ra móc ở đây làm mất vẽ đẹp của không gian như khi xưa những tên dùng sơn của hãng Bạch Tuyết, vẽ tên mình và người con gái mình yêu trên những tản đá ở thác Cam Ly.
Những tia nắng ban mai trên Hồ Xuân Hương như bức tranh về phong cảnh rất đẹp khiến mình không bao giờ quên. Sau này xem những bức tranh của Claude Monet thì mới hiểu và cảm nhận được cái đẹp của dạo ấy. Phía sau Thuỷ Tạ là cái nóc chuông của trường Yersin, thường thường vào giờ đó thì mặt trời cũng đang lơ lững, mờ mờ phía sau nóc chuông. Lần đầu về thăm Đà Lạt, mình ngủ tại khách sạn Palace. Buối sáng, mở cửa sổ, từ balcon nhìn xuống Thuỷ Tạ và hồ rất đẹp nhưng vì mùa hè, mưa gió, không đẹp như khi vào thu.
Mình thích ngày đi học lại vì Tết Trung thu sắp đến. Đi học về, la cà ra phố, đi ngang qua các tiệm bánh, trưng bày mấy cái bánh trung thu, hình vuông. Bánh nướng có, bánh dẻo có. Cứ thỏm thèm, ngày nào cũng đi qua đi lại, nhìn qua cửa kính, ước mơ ngoạm được cái bánh trung thu. Ngày nay, mua về cúng Phật rồi cho mấy đứa con ăn thì chúng nhăn mặt không ăn.
Nếu mình không lầm thì hàng năm, bà cụ mua hai cái bánh trung thu; một cái bánh nướng và một cái bánh dẽo để cúng Phật. Ngày nào, mấy anh em cũng nhìn lên bàn thờ xem hai cái bánh còn hay không, lâu lâu bắt cái ghế leo lên, dí cái lổ mũi gần hai cái bánh để hít hà, miệng nam mô lạy Phật cho mau đến rằm.
Ngoài bánh trung thu thì có bánh con heo nướng. Nếu mình không lầm thì trong con heo không có nhân nhiệt gì cả hoặc nếu có thì nhân đậu xanh. Mấy cái bánh hình con heo to đâu khoảng 7-10 cm, như con heo quay, cháy cháy, có gắng hai hột đậu đen làm hai con mắt rồi mấy chú Ba Tầu vẽ phẩm đỏ chi đó.
Mình hay chơi đánh đáo bằng bạc cắc với tụi trong xóm. Chơi bắn bi, tạt lon,... thì mình không giỏi nhưng chơi đánh đáo có bạc cắc thì mình ăn nhiều hơn thua. Cả đám đặt ra một đồng bạc cắc, rồi xem đứa nào đi trước. Cầm một cọc bạc cắc, thảy vào cái lỗ. Không hiểu tại sao, khi mình thảy, thường thường là hai ba đồng lọt vô lỗ là thấy ăn rồi thêm chọi, bún, mỗ,.... Mỗi lần ăn tiền tụi trong xóm là chạy sang rạp Ngọc Hiệp, khúc tiệm ông thầy mằng, có tiệm bán bánh trung thu, mua một hai con heo nướng đem về chia cho mấy đứa em. Chỉ có bột không mà ăn sao thấy ngon nức nở.
Ngoài mấy cái bánh Trung Thu ra, mình còn lượn vòng vòng đường Minh Mạng, cạnh tiệm bán sửa radio, tivi Công Đồng; có tiệm bánh, treo thêm các lồng đèn; có khung làm bằng tre vọt, dán giấy bóng. Thường thường là đèn ông sao, đèn hình con gà, con cá,... Không tiền thì mua mấy lồng đèn giấy xếp. Có lần thằng Dư, hàng xóm, học trường Trần Hưng Đạo, ai chỉ nó làm đèn Kéo Quân nhưng chả thấy quay gì cả. Có lần ông cụ mình làm cái đèn Cù nhưng nặng quá không khiên đi khoe được.
Ngoài các lồng đèn, tiệm này còn bán mấy cái xe lon đẫy, có hình bướm mà sau này lớn lên học trung học, mình có làm để chơi hay cho mấy đứa em. Lấy cuộn chỉ đã xài hết chỉ, lấy cái ruột bằng gổ. Dùng sợ dây kẽm xỏ qua lỗ cuộn chỉ mà người ta dùng để cắm vào cây sắt nhỏ nơi đầu máy may, để lúc đạp máy may thì sợ chỉ sẽ kéo cuộn chỉ quay vòng vòng, nhả chỉ ra.
Mình lấy cái lon sữa bò dùng hết, đục hai cái lỗ hai đầu để xỏ dây kẽm từ cuộn chỉ. Lấy cái cây tre nhỏ gắn vào cuộn chỉ để đẩy cho xe chạy. Xếp sợi dây kẽm theo cấu trúc để khi mình đẫy cái xe thì mỗi vòng sẽ bật lên bật xuống để đánh vào lon sữa bò, gây tiếng vang ken ken. Tối Trung Thu, đi rước đèn thì cắm cái nến nhỏ trong lon sữa bò, đục vài lỗ bằng đinh thì ánh sáng từ các lỗ đinh tỏa ra khá đẹp trong đêm tối.
Mùa này họ hay bán con gà nung bằng đất sét, có miếng giấy cứng ở giữa để khi thổi hay dập đập nghe tiếng ueo ueo hay con rối hình gà trống hoặc mấy cái vụ.
Rằm Trung Thu thì trong xóm mình chả làm gì cả nhưng xóm Địa Dư thì tổ chức rước đèn khá vui. Xóm này có hai mạng học Yersin; Phạm Ngọc Liên và Lâm Tài Phát. Đám con ông Lào, nhà ở cuối cư xá, hay làm ông Địa, con Lân rồi đánh trống Tùng Tùng... Đi một vòng từ xóm Địa Dư đến cư xá Công Chánh rồi đi lại. Đám con nít đi theo phía sau, rước đèn, mỗi đứa xách theo đèn ông sao, con gà, cá chép,.. sung sướng hát nhép nhép "đèn ông sao với đèn cá chép, em rước đèn này đến cung trăng... Tết trung thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp phố phường, lòng vui sướng với đèn trong tay, em máu ca dưới ánh trăng rằm,..."
Có năm, không hiểu sao Thiên Hạ đua nhau ra Hồ Xuân Hương, thả lồng đèn hoa sen làm bằng giấy, có hình hoa sen, có gắn đèn cầy ở trong. Các nhà ở đường Hai Bà Trưng cũng rũ nhau thả đèn ở suối giữa đường Hai Bà Trưng và Phan Đình Phùng. Nhìn những hoa sen làm bằng giấy với ngọn nến lênh bênh trên Hồ khiến có cảm giác rợn rợn như cô hồn ở đâu bay lượng trên hồ. Mình không nhớ rõ năm nào nhưng chắc chắn là năm có trò "Trừ Ma quỷ".
Nghe đồn, đêm đêm quỷ đi vòng vòng, Thiên hạ sợ ma quỷ vào nhà bắt con cháu nên lấy sơn hay vôi quẹt chữ Vạn hay cái Thánh Giá trước nhà. Mình chỉ nhớ một sáng, mở cửa ra đường thì thấy ai vẽ bằng vôi chữ Vạn ngay cửa nhà mình. Tương tự một lần, mở cửa nhà thấy ai treo trên cây Mimosa trước cửa nhà một hình nộm, đề chữ đã đão HCM. Sau này lớn lên mới hiểu là chiến dịch bài trừ, chống quân đội Mỹ tham gia chiến tranh VN, "ma quỷ" nói lái lại là "Mỹ qua".
Đi rước đèn xong, về nhà là đến giây phút mà mấy anh em chờ đợi lâu nay. Bà cụ đang cúng còn mình và mấy đứa em thì cứ thổi phù phù cho hương sớm tàn. Gọi bà cụ, nói hương tàn rồi nhưng bà cụ nói chưa tàn, đợi thánh thần về hưởng bánh cái đã. Mình thì cứ lâm râm, khấn gọi thánh thần ăn cho mau mau.
Lạy ba vái xong là xem bà cụ thỉnh bánh xuống. Bà cụ chia bánh làm hai, một phần để dành cho ngày mai. Bà cụ chia phần còn lại, ra làm bốn cho 4 anh em. Sau khi ăn phần mình xong thì cứ thò tay, lấy ngón tay chấm chấm mấy miếng bánh vụn nát rồi quẹt quẹt. Cái khổ là bà cụ mình cứ ba năm sinh hai đứa con nên những năm sau thì thay vì chia 4 phần lại chia làm 5,6,7,8,9... Nên phần bánh càng ngày càng nhỏ lại theo năm tháng.
Mình nghe cô em kể trong thời Bao Cấp, một hôm bà cụ mua được trái soài tượng, đem về bồi dưỡng cho cả nhà. 8 đứa em ngồi xung quanh bà cụ. Bà cụ gọt cái vỏ trước, mấy chị em chia nhau chấm nước mắm ăn. Từ từ, bà cụ cắt từng miếng rồi chia đồng đều, cuối cùng là cái hột soài, mấy chị em truyền nhau để mút đúng một cái.
Một lần khác, đi chợ về, bà cụ có con mắt rất gian, ra hiệu cả nhà im lặng, kêu mấy đứa con đóng cửa sổ lại. Một đứa rình ở cửa sổ nếu người hàng xóm nào đi ngang hay rình mò chi thì cho biết. Bà cụ lấy một cái gói giấy báo, mở ra thì có nữa con gà luộc. Mỗi đứa em được chia cho một miếng thịt gà, sau đó thay phiên mút mút trong im lặng mấy cái xương gà rồi lấy cái cối để giả cho nát rồi đem ra sau vườn chôn khắp nơi. Nghe nói dạo đó, nhân dân ăn khoai mì và bo bo, ăn thịt rất hiếm, hàng xóm mà biết được sẽ tố cáo.
Mình thích nhất là bánh nướng. Mấy chú Ba ấn dấu đỏ trên bánh. Khi bà cụ cắt bánh ra thì thấy mè đen trộn với bí xay nhỏ rồi cái tròng đỏ của hột vịt, nhân trộn với đậu phụng, thịt hằm bà lằng,..Bánh dẻo thì màu trắng, chắc luộc. Không biết họ bỏ cái gì trong nhưng cứ thấy thơm thơm mùi mức bí. Ngày nay coi hình ảnh họ làm bánh ở VN và bên Tàu thì hết dám mua, chỉ mua ở tiệm làm ở Bolsa, còn bánh nhập cảng từ TQ thì không dám.
Có năm, mình thấy có ông nào vác hai hộp bánh trung thu đến nhà, tìm gặp ông cụ. Mấy anh em mình thập thò sau cánh cửa, lâu lâu liếc vô phòng khách, nhìn hai hộp bánh, lâu lâu nuốt nước miếng cái ực. Cuối cùng khách đi về, đưa cho ông cụ hai hộp bánh nhưng ông cụ không nhận, nhất quyết từ chối khiến mấy anh em, cõi lòng tan nát, bao nhiêu giấc mơ được ăn cái bánh nướng tan theo mây khói. Sau này lớn lên, mới hiểu ông Cụ không muốn bán rẻ lương tâm mình bằng hai hộp bánh dù đàn con đang thèm thuồng. Nghe kể, người ta nhờ người làm bánh bỏ vàng ở trong, gia chủ nhận quà bánh, khi ăn sẽ thấy mấy lượng vàng.
Ngày nay, hàng năm mình mua một hộp bánh trung thu để cúng rằm, theo phong tục. Sau đó hai vợ chồng mất mấy ngày mới tiếp thu, bồi dưỡng hết hộp bánh còn mấy đứa con thì chê không ăn. Hồi chúng còn nhỏ mình hay đem ra phố Bolsa, nơi Cộng đồng tổ chức Trung Thu, phát quà cho thiếu nhi. Cõng thằng con trên vai, Tùng xình Tùng xình theo điệu Lân múa. Thằng con vui lắm nhưng lớn lên thì nó chả màng đến trung thu. Chơi game điện tử thú hơn là chạy theo con lân.
Sơn đen
Mỗi năm, đến mùa tựu trường thì mình lại nhớ đến bài "Tôi đi học" của ông Thanh Tịnh. Bài này dài nhưng mình chỉ nhớ đoạn trong cuốn Giáo Khoa " Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ, cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn; hôm nay tôi đi học." Ông thần Nhị Anh cũng thuộc bài này vì khi sang thăm hắn ở San Diego. Trên xe đi lên Los Angeles, hắn có đọc lại bài này. Mỗi sáng đi bộ trong sương với vợ trong xóm, thì mình cũng hay lẫm bẩm bài này. Vợ nắm tay dắt qua đường như ngày xưa đi với mẹ. Nhỏ có Mẹ, lớn có Vợ.
Nói đến buổi sáng đầy sương thu và gió lạnh thì mình không bao giờ quên những sáng của mùa tựu trường, chạy xe đi học, chạy dọc đường Trần Quốc Tuấn, từ Cầu Ông Đạo, nhìn thấy sương mai trong ánh sáng bình minh của mặt trời, mờ mờ sau nhà hàng Thuỷ Tạ. Sau này đi học ở Paris vào những buổi sáng mùa thu, đi xe métro, xuống trạm Louvre, đi băng qua cái viện bảo tàng, Cour de Carré, mà không ngờ sau này mình được tham gia, thiết kế cái Kim Tự Tháp khi làm việc cho hảng của ông I.M. Pei. Từ đó, đi qua Passerelle Des Arts, đối diện Viện Hàn Lâm của Pháp. Mình hay dừng lại trên cầu để ngắm những tia nắng của ban mai, hiện sau Nhà thờ Đức Bà, phía sau Cầu Mới (Pont Neuf), nhớ Đà Lạt, miệng khẻ hát "Ôi quê xưa biết bao giờ trở lại."
Thời sinh viên, mình hay ra đây ngồi vẽ phong cảnh này. Hôm trước, xem hình thấy thanh niên thiếu nữ yêu nhau đem ổ khoá ra móc ở đây làm mất vẽ đẹp của không gian như khi xưa những tên dùng sơn của hãng Bạch Tuyết, vẽ tên mình và người con gái mình yêu trên những tản đá ở thác Cam Ly.
Những tia nắng ban mai trên Hồ Xuân Hương như bức tranh về phong cảnh rất đẹp khiến mình không bao giờ quên. Sau này xem những bức tranh của Claude Monet thì mới hiểu và cảm nhận được cái đẹp của dạo ấy. Phía sau Thuỷ Tạ là cái nóc chuông của trường Yersin, thường thường vào giờ đó thì mặt trời cũng đang lơ lững, mờ mờ phía sau nóc chuông. Lần đầu về thăm Đà Lạt, mình ngủ tại khách sạn Palace. Buối sáng, mở cửa sổ, từ balcon nhìn xuống Thuỷ Tạ và hồ rất đẹp nhưng vì mùa hè, mưa gió, không đẹp như khi vào thu.
Mình thích ngày đi học lại vì Tết Trung thu sắp đến. Đi học về, la cà ra phố, đi ngang qua các tiệm bánh, trưng bày mấy cái bánh trung thu, hình vuông. Bánh nướng có, bánh dẻo có. Cứ thỏm thèm, ngày nào cũng đi qua đi lại, nhìn qua cửa kính, ước mơ ngoạm được cái bánh trung thu. Ngày nay, mua về cúng Phật rồi cho mấy đứa con ăn thì chúng nhăn mặt không ăn.
Nếu mình không lầm thì hàng năm, bà cụ mua hai cái bánh trung thu; một cái bánh nướng và một cái bánh dẽo để cúng Phật. Ngày nào, mấy anh em cũng nhìn lên bàn thờ xem hai cái bánh còn hay không, lâu lâu bắt cái ghế leo lên, dí cái lổ mũi gần hai cái bánh để hít hà, miệng nam mô lạy Phật cho mau đến rằm.
Ngoài bánh trung thu thì có bánh con heo nướng. Nếu mình không lầm thì trong con heo không có nhân nhiệt gì cả hoặc nếu có thì nhân đậu xanh. Mấy cái bánh hình con heo to đâu khoảng 7-10 cm, như con heo quay, cháy cháy, có gắng hai hột đậu đen làm hai con mắt rồi mấy chú Ba Tầu vẽ phẩm đỏ chi đó.
Mình hay chơi đánh đáo bằng bạc cắc với tụi trong xóm. Chơi bắn bi, tạt lon,... thì mình không giỏi nhưng chơi đánh đáo có bạc cắc thì mình ăn nhiều hơn thua. Cả đám đặt ra một đồng bạc cắc, rồi xem đứa nào đi trước. Cầm một cọc bạc cắc, thảy vào cái lỗ. Không hiểu tại sao, khi mình thảy, thường thường là hai ba đồng lọt vô lỗ là thấy ăn rồi thêm chọi, bún, mỗ,.... Mỗi lần ăn tiền tụi trong xóm là chạy sang rạp Ngọc Hiệp, khúc tiệm ông thầy mằng, có tiệm bán bánh trung thu, mua một hai con heo nướng đem về chia cho mấy đứa em. Chỉ có bột không mà ăn sao thấy ngon nức nở.
Ngoài mấy cái bánh Trung Thu ra, mình còn lượn vòng vòng đường Minh Mạng, cạnh tiệm bán sửa radio, tivi Công Đồng; có tiệm bánh, treo thêm các lồng đèn; có khung làm bằng tre vọt, dán giấy bóng. Thường thường là đèn ông sao, đèn hình con gà, con cá,... Không tiền thì mua mấy lồng đèn giấy xếp. Có lần thằng Dư, hàng xóm, học trường Trần Hưng Đạo, ai chỉ nó làm đèn Kéo Quân nhưng chả thấy quay gì cả. Có lần ông cụ mình làm cái đèn Cù nhưng nặng quá không khiên đi khoe được.
Ngoài các lồng đèn, tiệm này còn bán mấy cái xe lon đẫy, có hình bướm mà sau này lớn lên học trung học, mình có làm để chơi hay cho mấy đứa em. Lấy cuộn chỉ đã xài hết chỉ, lấy cái ruột bằng gổ. Dùng sợ dây kẽm xỏ qua lỗ cuộn chỉ mà người ta dùng để cắm vào cây sắt nhỏ nơi đầu máy may, để lúc đạp máy may thì sợ chỉ sẽ kéo cuộn chỉ quay vòng vòng, nhả chỉ ra.
Mình lấy cái lon sữa bò dùng hết, đục hai cái lỗ hai đầu để xỏ dây kẽm từ cuộn chỉ. Lấy cái cây tre nhỏ gắn vào cuộn chỉ để đẩy cho xe chạy. Xếp sợi dây kẽm theo cấu trúc để khi mình đẫy cái xe thì mỗi vòng sẽ bật lên bật xuống để đánh vào lon sữa bò, gây tiếng vang ken ken. Tối Trung Thu, đi rước đèn thì cắm cái nến nhỏ trong lon sữa bò, đục vài lỗ bằng đinh thì ánh sáng từ các lỗ đinh tỏa ra khá đẹp trong đêm tối.
Mùa này họ hay bán con gà nung bằng đất sét, có miếng giấy cứng ở giữa để khi thổi hay dập đập nghe tiếng ueo ueo hay con rối hình gà trống hoặc mấy cái vụ.
Rằm Trung Thu thì trong xóm mình chả làm gì cả nhưng xóm Địa Dư thì tổ chức rước đèn khá vui. Xóm này có hai mạng học Yersin; Phạm Ngọc Liên và Lâm Tài Phát. Đám con ông Lào, nhà ở cuối cư xá, hay làm ông Địa, con Lân rồi đánh trống Tùng Tùng... Đi một vòng từ xóm Địa Dư đến cư xá Công Chánh rồi đi lại. Đám con nít đi theo phía sau, rước đèn, mỗi đứa xách theo đèn ông sao, con gà, cá chép,.. sung sướng hát nhép nhép "đèn ông sao với đèn cá chép, em rước đèn này đến cung trăng... Tết trung thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp phố phường, lòng vui sướng với đèn trong tay, em máu ca dưới ánh trăng rằm,..."
Có năm, không hiểu sao Thiên Hạ đua nhau ra Hồ Xuân Hương, thả lồng đèn hoa sen làm bằng giấy, có hình hoa sen, có gắn đèn cầy ở trong. Các nhà ở đường Hai Bà Trưng cũng rũ nhau thả đèn ở suối giữa đường Hai Bà Trưng và Phan Đình Phùng. Nhìn những hoa sen làm bằng giấy với ngọn nến lênh bênh trên Hồ khiến có cảm giác rợn rợn như cô hồn ở đâu bay lượng trên hồ. Mình không nhớ rõ năm nào nhưng chắc chắn là năm có trò "Trừ Ma quỷ".
Nghe đồn, đêm đêm quỷ đi vòng vòng, Thiên hạ sợ ma quỷ vào nhà bắt con cháu nên lấy sơn hay vôi quẹt chữ Vạn hay cái Thánh Giá trước nhà. Mình chỉ nhớ một sáng, mở cửa ra đường thì thấy ai vẽ bằng vôi chữ Vạn ngay cửa nhà mình. Tương tự một lần, mở cửa nhà thấy ai treo trên cây Mimosa trước cửa nhà một hình nộm, đề chữ đã đão HCM. Sau này lớn lên mới hiểu là chiến dịch bài trừ, chống quân đội Mỹ tham gia chiến tranh VN, "ma quỷ" nói lái lại là "Mỹ qua".
Đi rước đèn xong, về nhà là đến giây phút mà mấy anh em chờ đợi lâu nay. Bà cụ đang cúng còn mình và mấy đứa em thì cứ thổi phù phù cho hương sớm tàn. Gọi bà cụ, nói hương tàn rồi nhưng bà cụ nói chưa tàn, đợi thánh thần về hưởng bánh cái đã. Mình thì cứ lâm râm, khấn gọi thánh thần ăn cho mau mau.
Lạy ba vái xong là xem bà cụ thỉnh bánh xuống. Bà cụ chia bánh làm hai, một phần để dành cho ngày mai. Bà cụ chia phần còn lại, ra làm bốn cho 4 anh em. Sau khi ăn phần mình xong thì cứ thò tay, lấy ngón tay chấm chấm mấy miếng bánh vụn nát rồi quẹt quẹt. Cái khổ là bà cụ mình cứ ba năm sinh hai đứa con nên những năm sau thì thay vì chia 4 phần lại chia làm 5,6,7,8,9... Nên phần bánh càng ngày càng nhỏ lại theo năm tháng.
Mình nghe cô em kể trong thời Bao Cấp, một hôm bà cụ mua được trái soài tượng, đem về bồi dưỡng cho cả nhà. 8 đứa em ngồi xung quanh bà cụ. Bà cụ gọt cái vỏ trước, mấy chị em chia nhau chấm nước mắm ăn. Từ từ, bà cụ cắt từng miếng rồi chia đồng đều, cuối cùng là cái hột soài, mấy chị em truyền nhau để mút đúng một cái.
Một lần khác, đi chợ về, bà cụ có con mắt rất gian, ra hiệu cả nhà im lặng, kêu mấy đứa con đóng cửa sổ lại. Một đứa rình ở cửa sổ nếu người hàng xóm nào đi ngang hay rình mò chi thì cho biết. Bà cụ lấy một cái gói giấy báo, mở ra thì có nữa con gà luộc. Mỗi đứa em được chia cho một miếng thịt gà, sau đó thay phiên mút mút trong im lặng mấy cái xương gà rồi lấy cái cối để giả cho nát rồi đem ra sau vườn chôn khắp nơi. Nghe nói dạo đó, nhân dân ăn khoai mì và bo bo, ăn thịt rất hiếm, hàng xóm mà biết được sẽ tố cáo.
Mình thích nhất là bánh nướng. Mấy chú Ba ấn dấu đỏ trên bánh. Khi bà cụ cắt bánh ra thì thấy mè đen trộn với bí xay nhỏ rồi cái tròng đỏ của hột vịt, nhân trộn với đậu phụng, thịt hằm bà lằng,..Bánh dẻo thì màu trắng, chắc luộc. Không biết họ bỏ cái gì trong nhưng cứ thấy thơm thơm mùi mức bí. Ngày nay coi hình ảnh họ làm bánh ở VN và bên Tàu thì hết dám mua, chỉ mua ở tiệm làm ở Bolsa, còn bánh nhập cảng từ TQ thì không dám.
Có năm, mình thấy có ông nào vác hai hộp bánh trung thu đến nhà, tìm gặp ông cụ. Mấy anh em mình thập thò sau cánh cửa, lâu lâu liếc vô phòng khách, nhìn hai hộp bánh, lâu lâu nuốt nước miếng cái ực. Cuối cùng khách đi về, đưa cho ông cụ hai hộp bánh nhưng ông cụ không nhận, nhất quyết từ chối khiến mấy anh em, cõi lòng tan nát, bao nhiêu giấc mơ được ăn cái bánh nướng tan theo mây khói. Sau này lớn lên, mới hiểu ông Cụ không muốn bán rẻ lương tâm mình bằng hai hộp bánh dù đàn con đang thèm thuồng. Nghe kể, người ta nhờ người làm bánh bỏ vàng ở trong, gia chủ nhận quà bánh, khi ăn sẽ thấy mấy lượng vàng.
Ngày nay, hàng năm mình mua một hộp bánh trung thu để cúng rằm, theo phong tục. Sau đó hai vợ chồng mất mấy ngày mới tiếp thu, bồi dưỡng hết hộp bánh còn mấy đứa con thì chê không ăn. Hồi chúng còn nhỏ mình hay đem ra phố Bolsa, nơi Cộng đồng tổ chức Trung Thu, phát quà cho thiếu nhi. Cõng thằng con trên vai, Tùng xình Tùng xình theo điệu Lân múa. Thằng con vui lắm nhưng lớn lên thì nó chả màng đến trung thu. Chơi game điện tử thú hơn là chạy theo con lân.
Sơn đen
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)