Tổng thống Trump mướn một ông cựu quân nhân của lực lượng SAS làm cận vệ. Ông này rất nổi tiếng của lực lượng đặc nhiệm Anh quốc. Thấy các nguyên thủ quốc gia Âu châu họp mặt tại Luân đôn, thêm thủ tướng Gia-nã-đại sắp về vườn bàn về giúp đỡ Ukraina đánh cho Putin cút Nga nhào. Gia-nã-đại chỉ có 69 phản lực cơ chiến đấu, không biết sẽ tặng bao nhiêu cho Ukraina. Thủ tướng Anh quốc tuyên bố sẽ gửi lính và máy bay sang Ukraina để giúp sức khiến mình nhớ thời gian ở Luân Đôn, có xem một phim về lính đặc nhiệm (Specialist Air Service) của hoàng gia Anh quốc, gọi tắc là SAS.
Thiếu tá Stirling, người có ý định thành lập đội đặc nhiệm Anh quốcLực lượng đặc biệt này được thành lập trong thế chiến thứ 2, từ ý định của ông David Stirling, một sĩ quan của quân đội Anh quốc, gốc tô cách lan. Sau khi thấy quân của tướng Rommel, giết không biết bao nhiêu lính đồng minh.
Năm 1941, Stirling đang phục vụ trong Đội Commandos số 8 (Vệ binh) ở Trung Đông, nơi các lực lượng Anh đang gặp khó khăn trước phe Trục trong chiến dịch Bắc Phi. Học lịch sử nghe nói đến tướng Đức quốc xã Rommel, thiên tài quân sự, chỉ huy các xe thiết giáp càng quét các lượng lượng đồng minh tại Bắc phi. Bực bội vì sự kém hiệu quả của các chiến lược quân sự truyền thống và việc giải tán đơn vị commandos của mình. Ông Stirling bắt đầu hình thành một cách nhìn mới về ngành trinh sát. Trong khi hồi phục sau một tai nạn nhảy dù khiến ông tạm thời bị liệt, ông đã nảy ra ý tưởng về một lực lượng tinh nhuệ nhỏ có thể hoạt động sâu trong lãnh thổ kẻ thù, tấn công các mục tiêu quan trọng như sân bay và tuyến tiếp tế trước khi biến mất vào sa mạc. Nay thì Ukraina có thể bắn hỏa tiễn tầm xa qua Nga, phá huỷ các bể chứa dầu cho quân đội Nga. Nghe nói đâu 20-30% bị cháy, không biết bao nhiêu Lê Văn Tám made in Ukraina được bắn qua Nga.
Stirling tin rằng các đội nhỏ gồm những người lính có kỹ năng cao có thể tạo ra tác động không cân xứng so với các đơn vị thông thường lớn hơn. Khái niệm của ông dựa trên sự bất ngờ, tính cơ động và độ chính xác, những nguyên tắc sẽ định hình các lực lượng đặc nhiệm hiện đại.
Ông ta đề nghị với cấp chỉ huy về ý định này nhưng ai cũng bác hết khiến ông ta nổi điên. Tại sao mày là hạ cấp lại có ý nghĩ cao siêu hơn tao. Thế là ông ta đột phá tư duy, đột nhập vào bộ chỉ huy bằng cách cắt dây kẽm gia, hàng rào mặc dù còn dưỡng thương, chống nạng. Ông ta bò vào phòng của Thiếu tướng Neil Ritchie, phó tham mưu trưởng. Ông Stirling phác thảo một đơn vị gồm chỉ 6 sĩ quan và 60 binh sĩ sẽ nhảy dù vào sa mạc để phá hoại các hoạt động của phe Trục. Ấn tượng với ý tưởng của ông Stirling, tướng Ritchie trình lên Tướng Claude Auchinleck, Tổng tư lệnh Trung Đông, người đã phê duyệt.
Để tăng cường một chiến dịch đánh lừa hiện có nhằm gợi ý về một lữ đoàn dù ở Bắc Phi, đơn vị của Stirling được đặt tên là “L Detachment, Special Air Service Brigade.” Tên gọi này cố ý đánh lừa, phóng đại quy mô đơn vị để gây nhầm lẫn cho kẻ thù. SAS chính thức ra đời vào tháng 7 năm 1941, với căn cứ đầu tiên tại Căn cứ Không quân Kibrit gần Kênh Suez. Tương tự sau này quân đội Hoa Kỳ thành lập Team 6 để nói là có nhiều đội ngủ nhưng thực tế chỉ có 1.
Các chiến dịch ban đầu thất bại te tua nhưng từ từ sự phát triển của đội lính đặc nhiệm này khét tiếng trên thế giới.
Nhiệm vụ đầu tiên của SAS, Chiến dịch Squatter, khởi động ngày 16 tháng 11 năm 1941, là một thảm họa. Được giao nhiệm vụ nhảy dù vào Libya để phá hủy máy bay địch, lại gặp một cơn bão cát, chỉ 21 trong số 55 người trở về, nhiều người mất tích do thời tiết hoặc bị bắt. Tương tự cuộc hành quân của lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ để giải cứu các con tin ở Teheran, gặp đúng bão cát. Không nản lòng, Stirling điều chỉnh chiến thuật. Hợp tác với Nhóm Sa mạc Tầm xa (Long Range Desert Group, LRDG), biệt danh “Dịch vụ Taxi Sa mạc Libya” (Libyan Desert Taxi Service) do SAS đặt, ông chuyển sang sử dụng phương tiện mặt đất, tránh những nguy hiểm của nhảy dù. Cứ tưởng tượng nhảy dù xuống đúng lúc bão cát đang kéo đến, dù bay tứ tung lung xèng. Ngày nay có trực thăng như Team 6 đáp xuống chỗ căn nhà của Bin Laden, còn bị gãy cánh.
Sự thay đổi này mang lại bước ngoặt. Vào tháng 12 năm 1941, SAS đột kích Sân bay Tamet, phá hủy 24 máy bay mà không bị tổn thất nào. Nói như khi xưa, phe ta vô sự. Đến giữa năm 1942, người của Stirling bắt đầu sử dụng xe Jeep Mỹ được trang bị súng máy Vickers K, thực hiện các cuộc tấn công đánh nhanh rút gọn tàn phá các sân bay của phe Trục. Một cuộc đột kích đáng chú ý vào ngày 26-27 tháng 7 năm 1942 tại Sidi Haneish chứng kiến một đội SAS với 18 xe Jeep phá hủy 37 máy bay, thể hiện hiệu quả ngày càng tăng của họ. Khiến quân Đức quốc xã bị giao động, canh gác cẩn thận hơn.
Dưới sự dẫn dắt của ông Stirling, SAS gây hỗn loạn ở Bắc Phi. Trong 15 tháng trước khi bị bắt vào tháng 1 năm 1943, đơn vị phá hủy hơn 250 máy bay phe Trục trên mặt đất, cùng với nhiều xe cộ, kho tiếp tế và cơ sở hạ tầng. Việc Stirling sáng tạo sử dụng các đội nhỏ và tính cơ động mang lại cho ông biệt danh “Thiếu tá Ma” (phantom major) từ Thống chế Đức Erwin Rommel, trong khi Thống chế Bernard Montgomery được cho là gọi ông “quite mad”, một sự điên rồ phát triển mạnh trong chiến tranh.
Stirling thường dẫn đầu từ tuyến đầu, thể hiện tinh thần thích nghi và táo bạo của SAS. Ông tuyển mộ một nhóm đa dạng gồm những “kẻ nổi loạn” và cá nhân xuất sắc, bao gồm Jock Lewes, người giúp định hình quá trình huấn luyện nghiêm ngặt của đơn vị, và Paddy Mayne, người sau này dẫn dắt SAS sau khi Stirling bị bắt. Những thành công ban đầu của đơn vị dựa vào sự tháo vát như ăn cắp vật tư từ một trung đoàn New Zealand để trang bị căn cứ và sẵn sàng thách thức các chuẩn mực quân sự thông thường.
Team 6 của Hoa Kỳ ngày nay
Các cuộc đột kích táo bạo của Stirling cuối cùng dẫn đến việc ông bị quân Đức bắt ở Tunisia vào tháng 1 năm 1943. Sau khi trốn thoát một lần, ông bị quân Ý bắt lại và trải qua phần còn lại của chiến tranh với tư cách tù nhân, cuối cùng tại Lâu đài Colditz. Trong thời gian ông vắng mặt, SAS tiếp tục phát triển dưới sự chỉ huy của Mayne, mở rộng thành một trung đoàn và truyền cảm hứng cho việc thành lập đơn vị SAS thứ hai bởi anh trai của ông Stirling.
Sau chiến tranh, di sản của Stirling trường tồn. Ông được trao Huân chương Distinguished Service Order (DSO) vào năm 1942 và được phong tước hiệp sĩ vào năm 1990, ngay trước khi qua đời vào ngày 4 tháng 11 năm 1990. Căn cứ SAS được đổi tên thành Stirling Lines để vinh danh ông vào năm 1984, và một bức tượng tưởng niệm ông được dựng gần khu đất gia đình ở Scotland. Tầm nhìn của ông đã đặt nền móng cho các lực lượng đặc nhiệm hiện đại trên toàn thế giới, kết hợp sự sáng tạo, lòng dũng cảm và tư duy khác thường.
Trong cuộc đánh vào Iraq, các toán SAS của Anh quốc được thả vào vùng địch để thám thính, có một toán vì không muốn giết một đứa bé chăn dê nên bị bắt và chết gần hết. Đứa bé bắt gặp họ núp trong đống rơm, bỏ chạy về làng báo cáo, cả trung đoàn lính của Iraq vây quanh.
Mình mò trên mạng để tìm tài liệu cách họ huấn luyện các toán đặc nhiệm này. Mình có xem phim tài liệu về huấn luyện Team 6 của Hoa Kỳ. Còn SAS thì chưa tìm ra tài liệu. Đưa về đây những gì đọc trên mạng.
Phương pháp huấn luyện SAS
Phương pháp huấn luyện của Lực lượng Đặc nhiệm Hàng không (SAS) nổi tiếng với sự khốc liệt, nghiêm ngặt và tập trung vào việc tạo ra những người lính có khả năng hoạt động trong điều kiện khắc nghiệt với kỹ năng và sự kiên cường vượt trội. David Stirling đã đặt nền móng cho những phương pháp này vào năm 1941, nhấn mạnh khả năng thích nghi, tự lực và khả năng hoạt động dưới áp lực. Qua thời gian, SAS đã tinh chỉnh quá trình huấn luyện thành một chương trình đầy thử thách, vẫn là một trong những chương trình tuyển chọn quân sự khắt khe nhất thế giới. Mặc dù các chi tiết cụ thể đã thay đổi, nhưng nguyên tắc cốt lõi và cấu trúc—đặc biệt là khóa “Tuyển chọn” nổi tiếng—phản ánh tầm nhìn ban đầu của Stirling, được điều chỉnh cho chiến tranh hiện đại.
Tổng quan về Tuyển chọn SAS
Quá trình huấn luyện SAS bắt đầu với Tuyển chọn, một chương trình kéo dài hàng tháng đầy khắc nghiệt nhằm loại bỏ tất cả trừ những ứng viên khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. Được thực hiện chủ yếu tại Vương quốc Anh bởi 22 SAS (trung đoàn chính quy), chương trình này mở cửa cho quân nhân đang phục vụ trong quân đội Anh và từ năm 2018, cả phụ nữ, mặc dù chưa có ai vượt qua theo các ghi chép công khai mới nhất. Chương trình được chia thành các giai đoạn, thường kéo dài khoảng sáu tháng, với mục tiêu chuẩn bị cho các tân binh đối mặt với những nhiệm vụ bất ngờ, đầy rủi ro mà SAS thực hiện.
1. Thể lực ban đầu và sức bền (Tuần 1-4)
Giai đoạn đầu tiên, thường được gọi là “Giai đoạn đồi núi,” diễn ra tại Brecon Beacons, một dãy núi gồ ghề ở xứ Wales nổi tiếng với thời tiết khắc nghiệt và địa hình không khoan nhượng. Các ứng viên được kiểm tra về sức bền thể chất, khả năng định hướng và độ cứng rắn tinh thần:
- Hành quân dài (“Tabs”): Tân binh mang ba lô nặng (bergen) bắt đầu từ 15-20 kg, tăng dần qua mỗi chặng. Quãng đường kéo dài từ 16-24 km đến hơn 64 km, thường phải hoàn thành trong thời gian giới hạn nghiêm ngặt. “Fan Dance” khét tiếng là cuộc hành quân 24 km qua đỉnh Pen y Fan, ngọn núi cao nhất ở Beacons, và trở về trong vòng dưới 4 giờ.
- Định hướng: Ứng viên phải tự mình định hướng qua vùng đất rộng lớn, trống trải chỉ với bản đồ, la bàn và tọa độ đã ghi nhớ—không được dùng GPS. Điều này kiểm tra nhận thức không gian và khả năng ra quyết định khi mệt mỏi.
- Thiếu ngủ và thời tiết: Các cuộc hành quân diễn ra trong mọi điều kiện—mưa, tuyết hoặc bóng tối—đẩy ứng viên vượt qua giới hạn thể chất. Huấn luyện viên, gọi là Nhân viên Chỉ đạo (DS), không động viên; phương châm là tự kỷ luật.
Tỷ lệ thất bại ở đây rất cao—khoảng 60-70% bỏ cuộc vì kiệt sức, chấn thương hoặc không giữ được tốc độ. Mục tiêu không chỉ là thể lực mà còn tìm ra những người có thể tiếp tục khi cơ thể muốn từ bỏ.
2. Huấn luyện trong rừng (Tuần 5-9)
Những người trụ lại chuyển sang môi trường nhiệt đới, thường là Belize hoặc Brunei, để huấn luyện chiến tranh trong rừng. Giai đoạn này mô phỏng điều kiện dày đặc, ẩm ướt của các chiến dịch thực tế của SAS:
- Kỹ năng sinh tồn: Tân binh học cách sống nhờ đất trời—bắt thức ăn, tìm nước và dựng nơi trú ẩn. Họ được dạy nhận biết thực vật và động vật ăn được đồng thời tránh bệnh tật và ký sinh trùng.
- Chiến thuật: Các cuộc phục kích nhóm nhỏ, trinh sát và định hướng qua rừng rậm gần như không thể xuyên qua rèn luyện sự tàng hình và làm việc nhóm. Các bài tập ứng phó khi gặp địch—phản ứng với kẻ thù—diễn ra không ngừng.
- Căng thẳng tâm lý: Địa hình ngột ngạt, độ ẩm liên tục và côn trùng như đỉa thử thách sức bền tinh thần. Ứng viên thường thiếu calo, mô phỏng tình trạng khan hiếm trong thực chiến.
Thêm 10-20% thất bại ở đây, không thể chịu đựng sự cô lập và gánh nặng thể chất.
3. Huấn luyện chiến đấu và kỹ năng (Tuần 10-14)
Trở lại Anh, trọng tâm chuyển sang thành thạo kỹ thuật và sẵn sàng chiến đấu:
- Thành thạo vũ khí: Ứng viên huấn luyện với nhiều loại súng—súng ngắn (ví dụ: Glock), súng trường (ví dụ: C8 Carbine) và vũ khí nước ngoài họ có thể gặp phải. Trọng tâm là tốc độ, độ chính xác và khả năng thích nghi.
- Chiến đấu cận chiến (CQB): Tân binh thực hành dọn phòng và giải cứu con tin trong “Nhà Giết Người,” một cơ sở bắn đạn thật. Họ dùng đạn thật quanh các con tin giả (do huấn luyện viên đóng), đòi hỏi sự chính xác dưới áp lực.
- Chất nổ và phá hoại: Các kỹ thuật phá hủy, gợi nhớ đến các cuộc đột kích sân bay của Stirling, bao gồm phá cửa và vô hiệu hóa phương tiện.
- Tín hiệu và sơ cứu: Kỹ năng liên lạc (radio, mã Morse) và chăm sóc chấn thương trên chiến trường đảm bảo khả năng tự lực.
4. Tuần kiểm tra và “Hành quân dài”
Giai đoạn đồi núi kết thúc bằng Tuần Kiểm tra, một loạt hành quân khắc nghiệt kết thúc với “Hành quân Dài” (hay “Sức Bền”): 64 km qua Beacons với ba lô 25 kg, hoàn thành trong dưới 20 giờ. Không có hỗ trợ; ứng viên nào chậm trễ bị loại. Đây là bộ lọc cuối cùng về thể chất và tinh thần—chỉ còn khoảng 10-15% nhóm ban đầu.
5. Kháng cự thẩm vấn (Giai đoạn cuối)
Thử thách cuối cùng mô phỏng việc bị kẻ thù bắt:
- Thẩm vấn: Trong 24-36 giờ, ứng viên chịu đựng tư thế căng thẳng, thiếu ngủ, tiếng ồn trắng và chất vấn gay gắt. Họ chỉ được phép tiết lộ “Bốn điều lớn”: tên, cấp bậc, số hiệu và ngày sinh.
- Kiên cường tâm lý: DS cố gắng phá vỡ ý chí ứng viên, kiểm tra khả năng bảo vệ thông tin nhạy cảm. Một sai lầm nhỏ cũng có thể dẫn đến thất bại, ngay cả ở giai đoạn muộn này.
Vượt qua được trao mũ beret màu cát và huy hiệu cánh SAS—nhưng chưa phải thành viên chính thức.
Huấn luyện tiếp tục
Những người vượt qua Tuyển chọn bước vào “Tiếp tục” trong vài tháng, chuyên sâu vào một trong bốn đội (A, B, D, G) với các trọng tâm như tấn công đường không, tác chiến trên biển hoặc chiến tranh miền núi. Họ học các kỹ năng nâng cao—nhảy dù HALO/HAHO, chống khủng bố, ngôn ngữ—và tham gia chiến dịch, thường ở trạng thái thử việc cho đến khi chứng minh được năng lực.
Nguyên tắc cốt lõi
- Tự lực: Từ các cuộc đột kích sa mạc của Stirling, SAS huấn luyện cá nhân hoạt động độc lập, từ định hướng đến sinh tồn.
- Thích nghi: Các kịch bản thay đổi liên tục, giống như thực tế không thể đoán trước.
- Kiên cường tinh thần: Các bài kiểm tra thể chất chỉ là thứ yếu so với việc bẻ gãy ý chí—chỉ những người không thể bị phá vỡ mới vượt qua.
- Làm việc nhóm: Dù có nhiệm vụ solo, SAS hoạt động trong các đội bốn người gắn bó, đòi hỏi sự tin tưởng và phối hợp.
Tỷ lệ hao hụt và di sản
Theo lịch sử, chỉ 5-10% ứng viên hoàn thành Tuyển chọn. Trong một đợt tuyển trung bình 120-150 người, chỉ 10-20 người có thể tốt nghiệp. Thất bại không phải là thiếu nhân cách mà là giới hạn—nhiều người trở về đơn vị với tư cách lính giỏi hơn. Quá trình này phản ánh niềm tin của Stirling rằng lực lượng tinh nhuệ cần “những người bình thường với quyết tâm phi thường,” một tinh thần đã giữ SAS ở vị trí tiên phong trong các chiến dịch đặc biệt hơn 80 năm. Ngày nay, dù trang bị và chiến thuật đã hiện đại hóa, sự đơn giản tàn khốc trong tầm nhìn của Stirling—đẩy con người vượt qua giới hạn, rồi tinh luyện những gì còn lại—vẫn trường tồn.
Mình đọc Thép Đen của ông Đặng Chí BÌnh, cũng nói đến sự huấn luyện các điệp viên trước khi được tung ra Bắc, thấy có vẻ hời hợt hơn của lực lượng đặc nhiệm SAS. Thật ra lúc đầu họ cũng bị chết te tua nhưng từ từ rú trinh nghiệm nên thành công. Nếu không thì có lẻ Đức quốc xã đã thắng ở Phi Châu thì có lẻ quân đội đồng minh sẽ không đổ bộ lên Ý Đại Lợi được.
Thiên hạ cười vì nghe nói quân đội Âu châu ngày nay, không đánh nhau từ năm 1945, cứ dựa vào anh Mỹ nên chả có một quân đội sẵn sàng chiến đấu nhất là gặp anh Putin, cứ chơi trò biển người, nướng binh sĩ là chỉ có chết. Chán Mớ Đời
Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen
Nguyễn Hoàng Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét