25 năm 2 đời người

Đồng chí gái nổi hứng muốn tổ chức kỷ niệm 25 năm quản chế, cải tạo đời mình, đánh dấu 1/4 thế kỷ đầy đau thương, nhiều máu lửa, nội chiến từng ngày nên phải chìu vợ theo đúng quy trình của người chồng nhân dân dù năm nay có nhiều hội ngộ với bạn học cũ của hai vợ chồng đến bà con bên vợ về hiệp kỵ. Cuộc đời không biết được mai sau nên cứ còn sức khoẻ thì cứ vui chơi để rồi mai sau chống gậy đi tìm lại những dấu chân vừa đi qua của một kiếp người.
25 năm máu lửa, nội chiến từng ngày, đêm nằm cạnh kẻ nội thù, ngáy to trong đêm trường với châm ngôn " đêm nằm thì ngáy o o, chồng thương chồng bảo ngáy cho vui nhà". 1/4 thế kỷ, tuy dài nhưng khi đã đi qua thì nhìn lại bổng thấy như cơn mơ. Mới ngày nào, còn sinh viên, mình đánh đàn hát tán đầm với bản nhạc "Ma Liberté" của Georges Moustaki, người gốc Hy Lạp tỵ nạn tại Pháp, nói lên thống khổ của con người tỵ nạn, từ bỏ quê hương, chạy trốn để tìm Tự Do.

Nên hay không đánh thuế băng vệ sinh

Lâu lâu mình thấy có nhiều còm trên mạng về sự khác biệt lương bổng nam nữ. Có người chửi rủa nào là Sexist, nào kỳ thị đủ trò nhưng không dám thò mồm vào vì sợ bị chửi.
Câu hỏi tại sao lương bổng phụ nữ ở Hoa Kỳ ít hơn giới nam. Người ta đòi quyền bình đẳng nên có người đổi giới tính, thông thường từ nam tính qua nữ tính nên mình càng ngu lâu dốt bền. Đàn ông có quyền lợi nhiều hơn thì phải đổi giới tính nam đây thì lại ngược lại. Tréo cẳng ngỗng.
Một tên thợ hồ được trả tối thiểu $25/ giờ tương đương với bà giúp việc chùi nhà dọn dẹp $25/giờ nên mình không hiểu người ta cứ rên la cho có lệ hay không chịu tìm hiểu.
Người ta giải thích lý do phụ nữ thường nghỉ mấy năm để chăm sóc con cái nên khi đi làm lại, mất nhiều năm nghề nghiệp lương ít hơn. Đồng chí gái có tên em họ là bác sĩ, lấy cô vợ cũng y sĩ. Đến khi họ có con thì cô vợ ở nhà, chăm nuôi hai đứa con, xem như cái bằng bác sĩ học cho đã rồi treo chơi. Đó là quyền tự do của cô vợ, cô ta chọn thiên chức làm mẹ hơn là khám bệnh nhân.

Đất Xanh - Groenland

Bài này mình viết tháng 9 năm 2019, thời ông Trump 1.0, đã nói về vụ Hoa Kỳ muốn mua vùng Đất Xanh Groenland mà người Đan Mạch chiếm đóng của người Nà Uy khi xưa. Nay lại mang tính thời sự lại vào nhiệm kỳ Trump 2.0 nên tải lại cho thấy vụ việc mua vùng đất này là có cái lý về chính trị và quân sự cua Hoa Kỳ. Mình đi khắp nơi trên thế giới thì thấy Trung Cộng đã xâm nhập rất nhiều ở Phi Châu, Trung Đông, Trung Á, và Nam Mỹ. Tạo ra sức gọng kiềm vào Hoa Kỳ.
Dạo này thiên hạ xúm lại đập ông Trump nữa về vụ huỷ bỏ chuyến công du tại Đan Mạch do bà hoàng hậu xứ bắc Âu này mời. Lý do là bà thủ tướng xứ này kêu ý định của ông Trump mua Đất Xanh (Groenland) của xứ Đan Mạch là ngu xuẩn.
Cái lạ là khi ông Trump làm điều gì tốt thì báo chí như ngủ quên. Tuần rồi xem đài truyền hình C-SPAN, thấy ông Trump ký sắc lệnh, bãi nợ đại học cho cựu chiến binh, không thấy báo chí nhắc đến.
Cái khổ là người ta quên xứ Đan Mạch này đã từng bán cho Hoa Kỳ 3 phần đất của họ ở Trung Mỹ ở đầu thế kỷ 20: Saint Thomas, Saint John và Saint Croix với giá 25 triệu đô la vào năm 1917. Thì nay, Hoa Kỳ có thể tiếp tục hỏi mua phần đất Đất Xanh của cựu đế quốc Đan Mạch này.
Vùng Groenland là cựu thuộc địa của Đan Mạch như 3 thuộc địa cũ Saint Thomas, Saint John và Saint Croix. Khi Đức quốc xã tiến chiếm Đan Mạch trong thế chiến thứ 2 thì vùng thuộc địa Groenland này không được chính quyền Đan Mạch chăm sóc nên có khuynh hướng gần với Hoa Kỳ và Gia Nã đại hơn.
Cứ mỗi năm vào ngày 31 tháng 3, 3 thuộc địa cũ của Đan Mạch là U.S. Virgin Islands đều làm lễ tưởng nhớ ngày Đan MẠch chuyển nhượng phần đất đai này cho Hoa Kỳ. Hoa Kỳ thương lượng với Đan Mạch để mua mấy cựu thuộc địa của họ ở Trung Mỹ gần 50 năm mới ký giấy tờ.
Theo sử gia Isaac Dookhan, Hoa Kỳ thành công trong việc làm áp lực mua mấy cựu thuộc địa, bằng cách hăm doạ, dùng quân sự chiếm đóng trong thời kỳ thế chiến thứ nhất để tránh quân đội Đức quốc chiếm đóng, gây nguy hiểm cho an ninh của Hoa Kỳ mà chủ thuyết của tổng thống Woodrow Wilson đã đưa ra, bảo vệ Hoa Kỳ tại châu mỹ.
Đan Mạch chiếm đóng 3 hòn đảo này vào thế kỷ 17, 18 mà họ gọi Tây Ấn Độ của Đan Mạch. Vùng trung mỹ thường được gọi Tây Ấn Độ vì khi Kha Luân Bố tìm cách đến Ấn Độ bằng đi về hướng Tây nên khi đến Mỹ châu ông ta gọi là vùng Tây Ấn Độ. Người đan mạch cũng như các đế quốc âu châu khác, bắt cóc hay mua người phi châu đem sang thuộc địa của họ làm nô lệ, khai thác các cánh đồng trồng mía để làm đường bán cho âu châu. Đến năm 1840 thì thị trường đường xuống nên Đan Mạch thấy giữ mấy hòn đảo này tốn tiền.
Tháng 7 năm 1848, dân chúng đảo St Croix, vùng lên đòi tự trị nếu không họ đốt phá hết hòn đảo này và họ được tự do nhưng không biết làm gì ăn ngoài trồng mía mà giá đường thì rẻ như bèo, tốn tiền chính phủ đan mạch. Vùng này không hợp để kỹ nghệ hoá đến cuối thế kỷ 19 thì Hoa Kỳ ngại các hòn đảo này có thể gây nguy hiểm cho nền an ninh của Hoa Kỳ vì trong thời gian nội chiến, người Pháp muốn giúp người Mỹ của 11 tiểu bang muốn thoát khỏi Liên Hiệp Châu Mỹ may là người Mễ đánh bại quân pháp dành lại độc lập mà họ hay tưởng niệm trận chiến thắng Cinco di Mayo, ngày 5 tháng 5.
Hoa Kỳ khởi đầu thương lượng mua 3 hòn đảo của Đan Mạch từ năm 1865, khi nội chiến vừa chấm dứt nhưng thượng viện Hoa Kỳ bác bỏ ý định này. Đến năm 1890 thì tiếp tục thương lượng lại sau khi cuộc chiến Hoa Kỳ và Tây Ban Nha năm 1898. Sau cuộc chiến này, Hoa Kỳ chiếm Puerto Rico, đảo Guam và giúp Phi Luật Tân dành được độc lập từ người Tây Ban Nha nhưng Hoa Kỳ vẫn giữ đảo Guam và Puerto Rico.
Mật ong rừng
Thượng viện Hoa Kỳ chấp nhận vụ mua 3 hòn đảo nói trên nhưng quốc hội Đan Mạch lại nổi hứng khước từ dù chiếm đóng 3 hòn đảo này làm hao tổn ngân sách Đan Mạch mà không làm cái trò gì cả.
Năm 1915, Hoa Kỳ sợ Đức quốc xã chiếm đóng nên càng ráo riết thương lượng vì sợ Đức quốc chiếm đóng Đan Mạch rồi vớt luôn mấy hòn đảo này nhưng Đan Mạch không chịu nên Hoa Kỳ tuyên bố sẽ chiếm đóng 3 hòn đảo này để tránh Đức quốc chiếm đóng và cuối cùng Đan Mạch đồng ý và ký hiệp ước ngày 16 tháng 1 năm 1917 và ngày 31 tháng 3, 3 hòn đảo này được chính thức chuyển nhượng cho Hoa Kỳ với số vàng là 23 triệu đôla.
3 hòn đảo này được gọi là U.S. Virgin Islands, người dân sở tại có quốc tịch Hoa Kỳ nhưng quyền bầu cử lại là chuyện khác.
Ngày nay, dân cư của U.S. Virgin Islands và các vùng đất như Puerto Rico, Guam, American Samoa và Northern Mariana Islands đều có quốc tịch Hoa Kỳ nhưng không có tiếng nói chính trị, không được bầu đại diện của họ vào quốc hội Hoa Kỳ.
Vụ ông Trump nói chơi chơi mua vùng đất này cũng có lý, vì Đan Mạch ngày nay khác với Na Uy có dầu lửa. Bảo vệ vùng đất rất tốn tiền, mà dân cư lại có vẻ gần Gia Nã Đại và Hoa Kỳ hơn. Chỉ là một ý tưởng nhưng biết đâu 50 năm sau Hoa Kỳ có thể sở hữu miếng đất này để củng cố nền an ninh của lãnh thổ Hoa Kỳ.
Đan Mạch cho di dân đến vùng này từ mấy thế kỷ trước nhưng đều thất bại vì xứ này lạnh hơn cả Na Uy và Băng Đảo. Ngược lại đối với Hoa Kỳ vùng này rất quan trọng về quân sự, sẽ ngăn chận hải quân nga sô đi đường này sang Thái Bình Dương, ….thay vì đi qua Đại Tây Dương, ấn độ dương,…
Mua vùng Đất Xanh này tương tự như khi xưa Hoa Kỳ mua tiểu bang Alaska. Khởi đầu là một ý tưởng nhưng khi thời cơ chín muồi thì quốc hội trong tương lai có thể biểu quyết để mua vì Đan Mạch, một nước nhỏ, tốn tiền để giữ đất cha ông họ tiếm chiếm của Na Uy.
Xong om

Thuế Hoa Kỳ

Hôm nay là ngày chót để nộp hồ sơ thuế cá nhân ở Hoa Kỳ. Mình đã gửi trước khi đi nên ngồi lêu bêu nghĩ xem cái xứ mỹ này nó đánh thuế ra sao.

Ngày xưa, ngày xửa có một gia đình mỹ, sinh được 3 người con. Thằng A, Thằng B và Thằng C. 3 anh em sống vui vẻ rồi lớn lên yêu nghề thợ mộc do ông bố được truyền lại. Lớn lên lập gia đình, mỗi người có 2 người con. Cả ba làm thợ mộc lương như nhau $25/ giờ nhưng tính tình lại khác. Mỗi người chú tâm vào những gì mình thích nên làm việc tuỳ theo hứng và đòi hỏi cá nhân. A làm 20 giờ/ tuần, B làm 40 giờ / tuần còn C thì làm 60 giờ/ tuần.

A thì thích là theo năng suất hưởng theo nhu cầu nên đi làm bán thời gian, lương được $20,000/ năm còn thời gian thì anh ta đi chơi thể thao, cắm trại trên rừng, biểu tình chống phá hoại môi trường… B thì làm toàn thời gian vì anh ta không thích cắm trại, chơi thể thao còn C thì làm nhiều thời gian, để dành tiền để đầu tư cho mai sau.

La Mã ngày nay

Hôm qua, hai vợ chồng đến dùng cơm tối tại nhà một gia đình Ý mà 35 năm nay không gặp lại. Những lần trước về lại âu châu từ khi mình sang Hoa Kỳ làm việc thì chỉ quanh quẩn ở Paris, Grenoble, London và Venezia nên không có thời gian đi thăm bạn cũ ở xa.
Điều mình nhận thấy là thủ đô nước Ý kỳ này trở lại sau 35 năm thì có rất nhiều người ngoại quốc sinh sống. Khu gần Piazza Della Republica, theo lời giải thích của thằng Maurizio thì độ 15 năm về trước, người Tàu sang đây mua nhà cửa rồi họ ở tập thể như các chung cư tập thể bên tầu, nhét 30,40 người ở trong một căn hộ nhỏ, từ đó các quán tiệm ăn tầu, ấn độ, Bangladesh,.. mọc lên.
Mình thấy các tiệm bán đồ chạp phô, lặt vặt đều do người Bangladesh làm chủ. Gần nhà nghỉ có một tiệm này, mình hỏi mấy giờ đóng cửa vì tính đi ăn cơm nhà Turriziani về, ghé vô mua nước và trái cây thì được biết là họ đóng cửa vào một giờ sáng. Theo mình được biết thì dân Ý rất lười so người đức, tây nên không ai mở cửa đến 1 giờ sáng chỉ có người ngoại quốc mới chịu khó.
Người âu châu họ sinh ở đất này nên không còn chịu khó như cha mẹ, ông bà của họ khi xưa, sau cuộc đại chiến thế giới. Họ được nhồi nặng qua bao nhiêu năm với các cuộc đình công, đòi hỏi quyền lợi cho giới thợ thuyền lao động. Dần dần thế hệ con cháu của họ không chịu khó làm việc tay chân, chỉ muốn làm theo năng suất, và hưởng theo nhu cầu theo tinh thần của xã hội chủ nghĩa.

Tapas

Cách đây mấy tuần, đồng chí gái và mình có ghé ăn một tiệm ở Huntington Beach, bán toàn các món Tapas khiến mình nhớ đến chuyến du hành tại Tây Ban Nha khi còn sinh viên. Mình quen vài cô sinh viên gốc Tây Ban Nha khi ở Luân Đôn, rồi họ rủ sang viếng xứ họ khi nghỉ hè.
Dạo ấy đi du lịch, mình chỉ để ý đến gái gú, kiến trúc và thức ăn. Thật ra thời đó, sinh viên không tiền, làm Mít ba lô, đi quá giang xe, nay đây mai đó nên không có tiền để ăn món lạ trong tiệm ăn sang trọng. Hôm trước nói chuyện với cô em họ của đồng chí gái, đi du học trước mình mấy năm, kể khi viếng thăm đảo Capri, Ý Đại Lợi.
Mình nhớ hồi còn bé bé nghe bản nhạc "Capri, c' est fini!" do Hervé Vilard hát nhưng không biết Capri ở đâu, đến khi sang Ý thì mới biết là một hòn đảo gần thành phố Napoli, phía nam của La Mã. Khi đi xuống vùng này thì mình bắt buộc phải đi tàu ra đảo, ngồi vẽ cạnh một biệt thự rất đẹp. Bổng có ông ý, chủ nhà kêu vô ăn cơm với gia đình ông ta, sống ở La Mã, hè ra đây nghỉ mát.

Chinese exclusion act

Hôm qua, đi đón thằng con ở ga xe lửa. Trên đường về nhà, thằng con hỏi có biết vụ bác sĩ gốc Việt, bị lôi ra khỏi máy bay, máu me. Mình nói biết và hỏi lại trong trường đại học, nhóm sinh viên á đông có làm gì không, họp hội thảo,… thằng con kêu không vì tinh thần á đông không thích tranh đấu.
Mình nói nếu việc ấy xẩy đến cho một người da đen hay gốc la tinh thì trong đại học đã xuống đường, kêu gào kỳ thị chũng tộc còn da vàng thì cuối mặt làm thinh. Vấn đề là nếu làm thinh, nghĩ không đụng đến mình vì không dính dáng gì đến mình nhưng nếu đã xẩy ra cho người khác thì sẽ có ngày đến phiên mình thì ai cứu. Thấy da đen, La tinh ngay cả người da trắng bị đánh đập thì mình phải la toáng lên nhân danh nhân quyền.
Trong thời đệ nhị thế chiến, Hoa Kỳ đánh nhau với Nhật Bản, đức, và Ý. Chính phủ mỹ lùa các người Mỹ gốc Nhật vào trong các trại tập trung trong khi người gốc Đức, Ý thì vẫn nhởn nhơ sống tự do trong xã hội. Vào thế kỷ 19, có luật cấm người di dân gốc Á châu qua Chinese Exclusion Act, mới được xoá bỏ vào năm 1949.

Kẻ lưu vong là ai?

Mỗi lần mình gặp bạn học cũ hay người quen khi xưa, đều nghe họ nói mày sướng, không phải bắt buộc sống với Việt Cộng cho dù mình cũng mang kiếp lưu vong như họ. Lý do là lưu vong đều khởi đầu bởi một bi kịch chính trị để rồi biến thành một bi kịch văn hoá nơi xứ lạ quê người.

Đồng chí gái hay mấy người em mình sinh sống tại hải ngoại, bắt buộc đi tìm một con đường sống bất chấp hiểm nguy trên con đường vượt biển, có thể nói là lao vào cái tử để tìm con đường sống. Có nhiều người bạn kể họ vượt biển nhiều lần, bị lừa hết tiền bạc, vào tù ra khám, giả điên giả rồ để qua mặt công an.

Mình thì bắt đầu cuộc đời lưu vong bởi một bi kịch văn hoá. Mình thoát ra khỏi Việt Nam bằng cách đi du học trước bi kịch chính trị của quê hương; Sàigòn thất thủ. Không chứng kiến đất nước đổi chủ, thấy thiên hạ chạy loạn lo sợ bị Việt Cộng tắm máu, pháo kích, tù tội mà người Việt điển hình bà cụ mình, cứ mỗi lần gặp mình là kể chuyện thời gian sau khi mình rời Việt Nam, như một vết thương tâm lý sau bao nhiêu năm vẫn chưa lành hẳn với thời gian. Mấy người em mình cùng trải nghiệm thời gian ấy nên không thấy có chi là đặc biệt, cười thầm mỗi khi bà cụ bắt đầu cuộc độc thoại.
Mỗi lần nghe bà cụ tâm sự thì mình chỉ ngồi yên, lắng nghe như một bác sĩ tâm lý, ngồi nghe người bệnh, giải bày nội thương tâm lý. Mình vẫn cảm nhận sự tức tưởi của bà cụ, bị hàng xóm thay đua lập chiến công, tố khổ bà cụ và gia đình mình thuộc giai cấp phản động và những may mắn giúp thoát khỏi tấm bi kịch đến ngày nay.

Hôm trước có cô bạn học cũ ở Văn Học, hàng xóm với mình khi xưa, viết thư nói cô nàng mất thời gian khá lâu để đọc những gì mình viết trên diễn đàn. Cô này mới tìm về tổ ấm Văn Học gần đây, sau này cứ thấy email của mình chắc là ớn. Xong om.

Cô nàng hỏi sao mình viết nhiều mà ý tưởng lấy từ đâu ra. Mình trả lời là từ đồng chí gái. Lấy vợ bị đì quá nên con người cần một chỗ để giải bày những uẩn ức của một đời người mang tiếng sợ vợ. Đúng hơn là mình sống ở hải ngoại độc thân, không gia đình bên cạnh, như con thuyền không bến bờ nên đi nhiều, gặp chỗ nào vui thì dừng lại, kiếm việc làm rồi khi chán hay hết hạn làm việc thì lại tiếp tục lên đường như Ulyssus của Homer, đi trên con đường vô định để rồi một hôm, nói như Gẻorges Moustaki, phản bội Tự Do để đổi lấy nhà tù tình yêu với một cán bộ quản giáo xinh đẹp quản thúc, quản chế tại gia đến nay.

Bi kịch của kẻ lưu vong không phải chỉ thay đổi chỗ ở, không gian thôi mà còn phải thay đổi cách suy nghĩ, cách cảm nhận, cách phát biểu qua một ngôn ngữ khác tiếng mẹ đẻ. Thật ra ở Việt Nam, người dân miền Nam cũng phải học cách phát biểu những từ cách mạng xa lạ ngay chính trên quê hương của họ. Mình nhớ sau khi ở Ý một năm, mình trở lại Pháp thì trong đầu tiếng Ý cứ lùng bùng, mất cả tháng mình mới nói và suy nghĩ theo tiếng Tây lại. Nhìn lại thì mình đã lưu vong từ bé khi học trường Tây. Về nhà thì nói tiếng Việt nhưng vào lớp, nơi mình thâu nhận kiến thức thì phải tấu bằng Pháp ngữ. Hôm trước, có anh chồng của cô bạn học yersin xưa kể là bà xã anh ta đọc tiếng Việt không hiểu, từ bé học trường pháp rồi đi tây đến nay.

Mình mới nhận thức rằng cô bạn học cũ cũng lâm vào tình trạng của mình khi xưa. Mình thì lên trung học thì dần dần tiếng tây bớt phát triển, tiếng Việt cũng sơ sơ, may mà mình qua Văn Học được hai năm cuối trung học phổ thông nên còn ngáp ngáp được chút việt ngữ. Do đó mình khởi đầu cuộc đời lưu vong bằng một bi kịch văn hoá từ bé khi ông bà cụ cho học chương trình Pháp.

Nhiều người ngạc nhiên, kêu sao mình nhớ nhiều về Đà Lạt. Người Mỹ hay kêu "you are what you remember". Cái khổ của người lưu vong là mối quan hệ của họ chỉ được thể hiện qua Nổi Nhớ về quá khứ cho nên mọi kỷ niệm như được tô lên một lớp sơn óng ánh rất đẹp. Nổi nhớ chỉ quy về một không gian, một chốn như mình về Đà Lạt thời bé. Sau này là những thời gian sinh sống tại Pháp, Ý, Thuỵ Sĩ, Anh quốc, New York,...

Nổi nhớ giúp mình đi ngược thời gian như chiếc xe trong cuốn phim "Back to the future", trở lại thời còn sinh sống tại Đà Lạt. Nhớ tới Đà Lạt khi xưa chưa đủ mình lại muốn đi xa hơn về thời bố mẹ mình còn trẻ, gặp nhau ra sao rồi dần dần mình muốn biết thêm về ông bà nội, ông bà ngoại.

Marcel Proust trong cuốn " À la recherche du temps perdu", cũng chỉ vật vã nhớ đến cái làng Combray dù ông ta không phải lưu vong như người Việt hay những người tỵ nạn khác trên thế giới. Cũng có thể vào thời đại của ông, di chuyển khó khăn, sống ở Paris cũng là đã xa như một kẻ lưu vong tương tự thi sĩ Nguyễn Bính khi xưa, ra tới Huế đã thấy xa xôi không có tháng ngày. 
Chúng tôi hai đứa xa Hà Nội
Bốn tháng hình như kém mấy ngày

Kẻ lưu vong luôn luôn đứng ở làn kết nối của hai nền văn hoá
Khi chúng ta thoát khỏi ngục tù quê hương thì chúng ta lại rơi vào một nhà tù khác, đó là nhà tù của Quá Khứ, nhà tù của Trí Nhớ. Sợ quên nên chúng ta bổng đâm ra bảo thủ. Mình đọc báo, thấy mấy người lớn tuổi kêu gọi không để con em mất gốc, phải bắt chúng học tiếng Việt, nào tiếng việt còn nước Việt còn như ông Phạm Quỳnh khi xưa nói, ôi thôi đủ thứ. Chúng ta lo sợ sau khi đánh mất quê hương, lại sợ đánh mất tiếng Việt, văn hoá của nơi sinh trưởng, quên đi những mối quan hệ mới đan xen kẽ với nhau trong cuộc sống mới tại nước sở tại, quên đi chúng ta đã thay đổi dần dần bản thể, mất căn cước của người Việt xưa kia.

Năm ngoái về thăm Đà Lạt, mình có gọi điện thoại cho anh bạn học cũ, ở Pleiku, nói sẽ không lên thăm anh ta được vì thời giờ eo hẹp. Câu đầu tiên anh ta nói: "nghe lại được tiếng Đà Lạt của mình, sau bao năm". Mình buồn cười, có lẻ anh ta ở xứ Thượng nên nghe thổ dân nói giọng Ra đê hoài nên mừng khi nghe lại giọng lai Quảng của người Đàlạt. Thật ra khi người lưu vong, vì sợ mất cái gì từ Việt Nam, trở nên bảo thủ do đó mình giử giọng nói của Đà Lạt và khi nói tiếng Việt thì cố gắng không chêm tiếng tây tiếng tàu vào ngoại trừ khi gặp ai nói tiếng Việt chêm tiếng Tây tiếng Tàu thì dùng từ tiếng Việt họ không hiểu như hôm trước mình nói về Đại Vực, đồng chí gái hỏi cái gì thì nói Grand Canyon.

Người lưu vong là một tù nhân của quá khứ, có tâm lý bảo thủ nên quên là Việt Nam ngày nay cũng vận hành theo năm tháng do đó khi về thăm Việt Nam, ai ở hải ngoại về đều thất vọng, ngoại trừ mấy anh chàng đi tìm chân dài chân ngắn. Người thì chê tiếng Việt ngày nay dùng những từ quái đản. Nhớ lần đầu tiên về thăm Đà Lạt năm 1992, lúc Việt Nam mới mở cửa thì Đà Lạt dạo ấy vẫn còn những vóc dáng của năm tháng trước 75, chỉ khác là già đi, cũ kỷ, buồn thê lương vì mình về vào mùa mưa. Ngày nay về thì không nhận ra Đà Lạt thủa xưa, gặp ai đi Đà Lạt về đều than như bọng vì họ chưa thoát được nhà tù của trí nhớ.

Chúng ta ra đi, rời bỏ quê hương có nghĩa là sự dừng lại, những hình ảnh xưa, kỷ niệm cũ như hoá thạch từ giây phút lên thuyền hay máy bay. Ulyssus của Homer trở về quê hương cũng bàng hoàng khi ông ta so sánh nhà tù trí nhớ và hiện tại mà quên đi cuộc sống ở quê hương vẫn thay đổi theo thời gian. Lưu Nguyễn lọt vào Thiên Thai, trở về quê xưa, không tính đến sự cách biệt thời gian nhiều hay ít ở cỏi tiên và trần thế. Hình ảnh của hai ông này về quê hương dừng lại từ giây phút họ rời làng quê. Khi mình về Đà Lạt, thì hàng xóm cứ lộn mình với người em kế, nhiều đứa bé khi xưa nay lớn, không có khái niệm gì về mình cả vì họ không tự nhốt, giam hảm trong nhà tù của trí nhớ.

Tình cảm sợ mất gốc khiến người lưu vong bị phân thân giữa cái văn hoá việt và văn hoá tây phương, không giúp chúng ta thâm nhập vào văn hoá của nước sở tại. Chúng ta dừng ở điểm gạch nối của Franco-Vietnamien hay Vietnamese-American hay Italiano-Vietnamita... Chúng ta bị day dứt, dày vò trong nhà tù của ký ức vô hình trung biến chúng ta thành những kẻ bên lề, trong xã hội mới. Văn hoá Việt thì chúng ta không thông, cứ kêu họ dùng danh từ quái đản, không thuần tiếng Việt mà văn hoá Tây phương thì chúng ta không có khả năng hay không muốn tiếp nhận.
Chúng ta tôn sùng văn hoá Tây phương nhưng không dám bồi dưỡng cho tri thức của mình vì sợ phản bội văn hoá Việt như một người đàn ông có vợ, ray rức khi thấy một cô gái đẹp như một anh bạn trong lúc tâm sự, bổng nói anh ta chỉ tiếc là không lấy được người anh ta thương.

Dạo này mình nhận thấy có nhiều người vô gia cư gốc việt xuất hiện tại Bolsa. Người ở Việt Nam thì thèm muốn được qua đây nhưng qua đây rồi thì bị lâm vào cái bệnh nhà tù của quá khứ; khi xưa từng là ông này bà nọ, không muốn trở lại con số không, không muốn hội nhập rồi bị khủng hoảng kinh tế, tâm thần rồi lang bang như nhà thơ nổi tiếng một thời, chết trước sân chùa.

Khi bạn học cũ tìm lại nhau qua diễn đàn thì tâm lý tương tự của kẻ lưu vong, tự nhốt trong nhà tù quá khứ, của ký ức. Chúng ta hồ hởi tìm lại nhau nơi chốn dừng lại, điểm khởi đầu của cuộc đời lưu vong. Mình đi trước 75 nên chốn dừng lại của mình khác với người di tản trước 30/4/75. Người đi vượt biển có điểm dừng, kỷ niệm bị hoá đá, khác với những người đi trước do đó khi gặp lại nhau trên diễn đàn lúc đầu thì vui vì ai cũng muốn tìm lại những hình ảnh quá khứ của mình hay của người bạn một thời học chung, lại quên đi sự vận hành cuộc sống của những bạn chung khi xưa.

Một anh bạn kể về một người bạn khác, anh ta rất thất vọng khi gặp lại người bạn mà anh ta rất mến khi xưa. Nay thì chịu không nổi vì anh bạn kia ăn tục nói tục mà tri thức của anh ta không chấp nhận. Anh bạn quên là người bạn kia sống trong môi trường làm ăn tại Việt Nam thì phải như vậy. Đi với ma thì phải bận áo giấy, đi với bụt thì bận áo cà sa. Dần dần dân cư trên mạng thất vọng, muốn tìm lại chút hương xưa như chúng ta như Từ Thức trở về bến cũ, không tìm lại những hoài niệm, những hoài bão của một thời, rồi chúng ta lặng lẽ rời diễn đàn, không muốn tham dự họp mặt, hội ngộ vì không muốn thất vọng thêm, không muốn thoát khỏi nhà tù của ký ức, của nỗi nhớ của kẻ lưu vong.
Thật ra nói chuyện với bạn cũ khi xưa còn sinh sống tại Việt Nam thì mình đoán họ cũng sống kiếp lưu vong như mình vì tuổi trẻ của họ cũng có những hoài niệm, hoài bão chung của một thế hệ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà. 30/4/75 cũng đổi đời họ, biến họ thành những kẻ lưu vong trên chính đất nước của họ. Có người thích ứng với chế độ mới, trở thành đảng viên hay CM30, có người không thích ứng được thì vẫn làm kẻ đi bên lề của sự chuyển động của lịch sử, manh động của xã hội với thời gian. Khi gặp nhau chúng ta như tìm nhau vài tiếng đồng hồ trong nhà tù của quá khứ, của ký ức rồi sau đó ai về nhà nấy.

Cái khó của kẻ lưu vong là làm sao phá vở được nhà tù của ký ức, của nổi nhớ để cùng đi chung quảng đường đời còn lại, cùng chung tạo những kỷ niệm mới với nhau trong tình bạn của thủa nào, đã dứt đoạn. Khi gặp lại nhau trong nhà tù của trí nhớ thì chúng ta không khỏi so sánh những người bạn học chung một thời.

Ngày nay, chúng ta còn gì ngoài tình bạn, không nên để quá khứ lấn chiếm hiện tại. Sau bao năm sống kiếp lưu đầy trên xứ người hay trên chính quê hương mình, chúng ta chỉ còn lại là tình đồng môn, đồng hương và một trời kỷ niệm. Chia sẻ một bài hát, một bài văn, một hình ảnh, một nụ cười là một hạnh phúc trời ban.
Nguyễn Hoàng Sơn 

Sombre Dimanche

Nhớ hồi nhỏ, nghe người lớn nói chuyện về một bản nhạc mà nhiều người nghe đã phải tự tử nên sợ quá không dám nghe. Sau này qua tây, mùa đông nhớ nhà, nằm trong căn phòng ô sin nghe Khánh Ly hát "chiều chủ nhật buồn nằm trên căn gác…" chán đời mở radio France Culture thì được nghe đến chương trình về lịch sử bản nhạc do một nhạc sĩ gốc Hung Gia Lợi làm mà người Pháp đặt cho cái tên "Sombre Dimanche".
Phát ngôn viên kể là bản nhạc này nổi tiếng và bị cấm tại nhiều quốc gia, do nhạc sĩ gốc Hung tên Rezső Seress phổ nhạc bài thơ của nhà thơ László Jávor vào năm 1933. Thật ra là lúc nhạc sĩ Rezső Seresss mới làm bản nhạc tại Pháp thì không có nhạc xuất bản nào nhận xuất bản, đến năm 1933 thì được in với lời của thi sĩ Javor, nói về người tình đã qua đời và ông ta mong muốn được chết theo, khác với ca từ của nhạc sĩ, mới được chú ý và bị cấm sau đó nhất là người ta quên những ca từ của nhạc sĩ luôn.
Lý do cấm là nghe nói bài này tạo nên một phong trào tự tử ở thủ đô Budapest và trên thế giới. Khởi đầu tại Berlin, một thanh niên yêu cầu ban nhạc chơi bản nhạc này trong một quán nghe nhạc, sau đó về nhà, tự bắn vào đầu, để lại một lá thư tuyệt mệnh với những ca từ của bản nhạc này. Rồi có mấy vụ tự tử ở các xứ khác xẩy đến với những ca từ của bản nhạc này bên cạnh. Người ta nói có lẻ vì thời gian này có khủng hoảng kinh tế, người ta lâm vào trường hợp bi đác, không tiền, không công ăn việc làm, lại nghe bài hát buồn nên khiến người ta quyên sinh.

Sự thành hình Duty Free

Tuần rồi ở Paris, mình mua cho mụ vợ cái mũ phớt và khăn choàng, đến chỗ détaxe tại gallérie De Lafayette, thì lại không mang theo sổ thông hành nên họ không cho làm giấy tờ nên định bụng ra phi trường làm . Ai ngờ ra phi trường họ đòi giấy tờ làm tại Lafayette. Chán Mớ Đời khi xưa, Tây cho học bổng mấy năm trời nên không buồn. Hình như mua đồ thì nói tiệm làm giấy tờ cho mình để nộp khi ra phi trường làm thủ tục lấy tiền thuế lại. Mình có hỏi bà chủ tiệm khăn choàng thì bà kêu máy bị hw, nên bớt 10%. Ra phi trường phải có boarding pass của ngày hôm đó và giấy tờ của tiệm mua sắm, scan vào thì họ mới trả lại. Bác nào đi Tây nhớ điểm này nếu không ra phi trường lại như em. Ai ở Paris mà muốn mua đồ không thuế thì nhờ người quen viếng thăm, làm giấy tờ xong thì lấy đem về nhà xài. Xong om. Chịu khó đi xe điện ra phi trường tốn độ 9 Euro. Phải mua bằng tiền mặt vì bằng thẻ tín dụng là ngọng vì du khách sẽ hưởng tiền đó.
Đi chơi, phải quá cảnh tại các phi trường quốc tế, nhất phi trường Istanbul, mình rất sợ đồng chí gái cứ rảnh chạy đi mua đồ rồi bắt mình khiêng. Cô nàng kêu Duty Free nhưng Free ở đây thì lại đắt hơn ở ngoài phi trường gấp 3 lần. Vì tiền mướn chỗ trong phi trường rất đắt.
Lần đầu tiên mình thấy chữ Duty Free, cách đây 50 năm khi trên đường đi Tây, máy bay dừng lại ở phi trường Vọng Các, Tân Đề Li và Teheran nhưng không hiểu gì, thêm phần lo sợ bị lạc nên cứ kiếm mấy tên hành khách trong máy bay, ngồi gần mình, họ đi đâu thì mình lò dò đi theo như công an khu vực. Sau này đi làm ở London, lâu lâu bay về Paris vào cuối tuần để thăm mấy người em mới biết Duty Free, có nghĩa là miễn thuế. Lần đầu tiên về Việt Nam, mình có mua một bịch thuốc 555, để tặng ông cụ và khi bà cụ dẫn mình đến khai báo ở đồn công an khu vực thì bà cụ lấy mấy bao bồi dưỡng mấy anh đầy tớ nhân dân.
Khi xưa, hành khách bay qua Đại Tây Dương bằng máy bay chong chóng nhỏ, thậm chí có máy bay đậu trên nước thì họ đáp xuống phi trường gần nhất để lấy nhiên liệu. Gần nhất là phi trường Shannon, Ái Nhỉ Lan từ Hoa Kỳ và cũng từ phi trường này tạo dựng một nền thương mại Duty Free khắp nơi trên thế giới khi du khách đi máy bay.
Ông Brendan O’Regan, người Ái Nhỉ Lan có công, khởi đầu ngành thương mại Duty Free và phi trường quốc tế Shannon. Ông này được bằng tiến sĩ danh dự nên người ta hay gọi ông ta là tiến sĩ nhưng thật tế thì ông ta khởi nghiệp là người bán rượu ở quán rượu.
Dạo ấy, hành khách đa số là người giàu có, các tài tử nổi tiếng ở Hoa Kỳ và Âu châu, ngồi trong các máy bay nhỏ bé, bị nhồi lên nhồi xuống trên không trung nên khi xuống phi trường đợi tiếp nhiên liệu thì họ cần có đồ ăn thức uống nên ông O’Regan mở tiệm ăn ở phi trường, đặt tên là lạ cho mấy món ăn, để hấp dẫn du khách giàu sang như Kerry Lamb, Dublin Prawns,.. Có thức uống đặc biệt mà ông ta làm cho thực khách là Irish Coffee, cà phê Ái Nhỉ Lan mà ngày nay khắp thế giới dùng sau khi ăn cơm.
Dạo mình sang Ái Nhỉ Lan chơi, nghe đến Irish Coffee nên uống thử, ai dè là rượu mạnh pha cà phê và cream rất đặc. Tây thì sau khi ăn cơm, họ uống rượu mạnh như Courvoisier rồi thêm ly cà phê, đây chắc họ lười nên pha hằm bà lằn mọi thứ cho tiện.
Ông ta còn mở một tiệm nho nhỏ bên cạnh tiệm ăn để bán những vật lưu niệm và rượu mạnh. Thời ấy, cái gì cũng bị chính phủ đánh thuế và ông ta khám phá một mánh: số là từ thế kỷ 17, các thuỷ thủ của xứ Anh đều được miễn thuế khi họ lên thuyền ra khơi, đi tìm thuộc địa cho hoàng gia Anh hay buôn bán, có lẻ để giúp họ ngủ lâu để tránh say sóng. Các con tàu rời Anh quốc đưa người di cư sang Hoa Kỳ, chở bia và rượu nhiều hơn thức ăn, bia được dùng thay nước uống và có chất bổ, lại giúp thiên hạ ngủ quên đời. Mình nhớ khi đi từ Hy Lạp sang Crete bằng tàu thuỷ, lên tàu vô cabin mình chơi một viên thuốc say sóng, tối thức dậy làm một viên khác, ngủ đến sáng.
Năm 1950, ông O’Regan bay sang Hoa Kỳ, và trở về bằng du thuyền SS America. Ông ta nhận thấy là rượu được bán trên du thuyền này rẻ hơn ở phi trường, vì đang ở hải phận quốc tế. Do đó khi về nước, ông ta yêu cầu chính phủ miễn đóng thuế rượu ở phi trường vì máy bay được xem là những du thuyền trên không trung. Chính phủ Ái Nhỉ Lan kêu miễn thuế cho tụi nhà giàu? Tương tự chính phủ Việt Nam thích đánh thuế visa du khách nhưng lại quên là nếu không đánh thuế thì du khách viếng Việt Nam nhiều hơn và tiêu xài, tạo công ăn việc làm cho người dân thay vì chỉ làm giàu cho mấy tên cán bộ ở các toà lãnh sự. Nay nghe nói đã bỏ vụ này.
Cuối cùng ông ta thuyết phục được chính phủ là nếu không đóng thuế thì du khách, thay vì chỉ ghé ngang, chờ đợi máy bay lấy nhiên liệu, sẽ ở lại, đi du lịch ở xứ Ái Nhỉ Lan. Ông ta bán được thì sẽ đóng thuế, trong khi đó du khách sẽ đi thăm viếng các nơi, mua đồ khác và đặc biệt là có đô la vì du khách đến sẽ trả bằng ngoại tệ. Ông ta mở tiệm miễn thuế đầu tiên ở phi trường vào năm 1951 trước khi mình ra đời.
Lúc đầu người ta chú trọng bán rượu mạnh và thuốc lá, họ có bán thêm mật ong, mấy đồ đặc sản địa phương như mình thấy ở phi trường Liên Khương hay Tân Sơn Nhất. Chính phủ rất lo ngại vì đám Mafia có thể buôn lậu vì giá bán chỉ 1/3 ở ngoài, nên bắt ông ta phải kiểm điểm hàng hoá mỗi ngày.
Loại sô-cô-la này được bán chạy nhất tại các phi trường quốc tế. Mình có kể lý do rồi. Ai buồn thì tìm đọc trên bờ lốc của mình. Sô cô la này xuất phát từ Thuỵ Sĩ nhưng do một công ty mỹ làm chủ, nay họ muốn chuyển nơi sản xuất qua Bratislava nên phải gỡ bỏ cái huy hiệu ngọn núi của xứ Thuỵ Sĩ
Các thương hiệu khác bắt đầu để ý đến cách quảng cáo ở phi trường trong gian hàng của ông O’Regan, nên dần dần người ta thấy đồng hồ Omega Thuỵ Sĩ, máy chụp hình, nước hoa Chanel #5,… được bày bán nhất là sô cô la Toblerone của Thuỵ Sĩ, do ông Tobler + thêm cái tên Ý “Torrone”, có nghĩa Nougat, hoá thành Toblerone mà ngày nay người ta chỉ thấy loại sô cô la này ở phi trường. Điểm đáng lưu ý là loại sô cô la không bị đánh thuế nhiều như rượu hay thuốc lá nhưng rất được thành công về thương mại. Có lẻ người ta đi chơi hay công tác, bận bịu nên khi ra phi trường thì nhớ đến con cái ở nhà nên mua làm quà đem về. Mình mà còn dư tiền bản xứ thì đem ra mua hết mấy loại này đem về cho vợ như năm ngoái leo núi Machu Picchu.
Thương vụ này quá thành công, ai cũng muốn ghé Ái Nhỉ Lan để mua đồ miễn thuế, khiến các phái đoàn thương mại trên thế giới phải đến quan sát và phi trường Amsterdam mở một thương hiệu miễn thuế vào năm 1957 rồi DFS mở tiệm đầu tiên ở Hoa Kỳ, ở Hạ Uy Di vào năm 1962 và ngày nay số lượng buôn bán ở phi trường trên thế giới lên đến $70 tỷ đô la, trong số đó có đến 5 tỷ đô la là kẹo bánh sô cô la. Người ta nói là có nhiều người mua sô cô la ở phi trường hơn là người dân ở Ấn Độ.
Nếu ông O’Regan mà làm “patent” cho ý tưởng bán miễn thuế thì ông ta đã trở thành tỷ phú.
Nếu xét về giá cả thì hơi quái đản, thuốc lá mỹ mua ở Âu châu lại rẻ hơn ở Hoa Kỳ, như Whisky của mỹ được bán 2/3 giá ở Hoa Kỳ. Rượu Pháp được bán ở Ý, lại đắt hơn ở Hoa Kỳ, tương tự sô cô la Toblerone, giá gấp đôi ở Hoa Kỳ. Ngoài ra các hàng mỹ phẩm rất đắt.
Khi phi trường Shannon mở tiệm Duty Free đầu tiên thì buôn bán đắt nhưng khi khắp nơi trên thế giới cũng bắt chước nên thị trường cạnh tranh, tiền mướn ở phi trường cao hay lương nhân viên cao nên rốt cuộc mua hàng ngày nay ở phi trường thật ra cũng không rẻ, thà mua ở trong thành phố rồi đến phi trường, đưa sổ thông hành để lấy lại thuế, có lẻ rẻ hơn thêm lấn cấn với cái túi.
Mấy năm trước đi Pháp, mình có mua cho đồng chí gái cái ví LV, bỏ trong vali, gửi đồ xong xuôi lại phòng quan thuế để lấy lại tiền thuế thì họ hỏi cái ví đâu, nói bỏ trong vali rồi nên bù trớt. Mất 15% thêm bị vợ nhằn.
Chán mớ đời

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen 
Nguyễn Hoàng Sơn