Showing posts with label love. Show all posts
Showing posts with label love. Show all posts

Kyoto 2019

 Hôm qua, lấy xe lửa Shinkasen từ Hiroshima đến Osaka, thành phố lớn thứ 2 của Nhật Bản rồi đổi xe đến Kyoto, cựu đế đô của Nhật Bản, hình như tiếng Việt là Tây Kinh còn Tokyo là Đông Kinh. Hôm nào rảnh mình kể vụ dời kinh đô này.

Lấy phòng xong, hai mẹ con kêu Taxi đến phố Gion, rất phổ thông với du khách, có cái đền Yasuka thì phải. Bên cạnh là những cái am miếu rất nhiều, cứ thấy mấy con chồn hai bên như người Tàu thờ mấy con gì quên tên để giữ nhà. Hình như lân.
Đi hơi tối nên hàng quán đóng khá nhiều nhưng vẫn đông thực khách, đa số là người nhật, sở tại. Họ cởi giày, leo lên ghế ngồi ăn ngoài trời, dưới mấy cây anh đào. Có người ăn tại mấy cái quán có phủ mấy tấm nhựa như thường xem trong mấy phim Hàn khi trời lạnh để có sưởi.
Hai mẹ con đi lang thang, không biết ăn cái gì nên nói thôi về ga xe lửa vì mấy nơi đi qua có rất nhiều tiệm đóng cửa sớm. Kêu taxi về, ông thần này lại thả hai mẹ con ở một khách sạn khác, cùng tên Daiwa nhưng khác là Royal và Hornet. Học nhật ngữ với ông sư được một năm nay nhất tự hoàn sư bán tự hoàn sư luôn. Chán Mớ Đời
Hai mẹ con lại đi bộ, vòng vòng cuối cùng vào một tiệm ăn vì đói quá. Không ngờ là một tiệm nổi tiếng về cuisine tân đại của Nhật Bản. Họ đem mấy món được trình bày rất đẹp, tuy hơi nhiều món, phần ít nhưng ăn rất lạ. Hai mẹ con tuy đói nhưng ăn từ tốn để thưởng thức. Lúc đó mới hiểu tại sao cái đám nhà giàu chúng ăn rất chậm, ít vì để thưởng thức trong khi nông dân như mình thì ăn để có sức đi cày. Ít khi thấy đám nhà giàu to béo vì chúng ăn ít, đồ ăn lại có chất lượng vì được nấu ngon.

Du hành với mẹ

 Có lần mình hứng kể chuyện đi giang hồ khi xưa rồi gửi cho vài người bạn đọc thì họ kêu mình viết tiếp nên hay viết khi mình đi phượt. Mình viết để cho những người bạn không đi được vì kinh tế, sức khoẻ hay chi đó. Có người có tiền bạc nhưng sức khoẻ lại yếu, uống thuốc nhiều hơn ăn, mặt mày khờ luôn. Người có sức khoẻ thì kinh tế, gia đình không cho phép.

Đồng chí gái đang đi chơi ở vùng Đông Bắc với mấy người bạn học Trưng Vương xưa thì có một chị bạn than thở là năm ngoái có đi chơi với vợ mình ở Texas, Seattle vui quá nay chân bị đau đi không nổi. Cho thấy nếu chúng ta có thể làm được việc gì hôm nay thì nên làm ngay, cứ đợi đợi rồi lại than thở. Mình thấy trên phây búc, một cô láng giềng khi xưa, có thời học chung ở tiểu học, đăng hình đi chơi Nhật Bản, âu châu, chia sẻ hình ảnh cho các bạn không đi được.
Vui nhất là đi với bạn. Đồng chí gái đi với mấy người bạn, họ chuẩn bị áo quần giống nhau để chụp hình vì vài năm hay có thể sang năm lại không đi nổi do đó ai muốn làm gì, đi đâu thì cứ vô tư mà làm ngày hôm nay thay vì đợi về hưu về Nai.
Mỗi lần về Việt Nam, đồng chí gái đều mời cả gia đình mình đi chơi, mướn cả xe buýt chở cả đám, cháu chắc,… sau này thì lúc mình về thì mấy cháu lớn bận học hè đủ trò nên chỉ có ông bà cụ đi chơi.
Ông cụ mất cách đây gần 3 năm, năm kia mình về thì có mời bà cụ đi chơi ở Cam Bốt,… đi với đồng chí gái nên cũng không để tâm nhiều về mẹ. Mẹ mình thì cứ đi theo con cháu, không bao giờ đòi hỏi, miễn sao có con cháu bên cạnh là niềm vui của mẹ.

Hành trình đến xứ Phù Tang

 Kỳ này mình đi Việt Nam ghé Nhật Bản là lần thứ 3. Tính đưa mẹ về Việt Nam, ăn giỗ ông cụ, rồi bay ra quê để xem vụ xây lại nhà thờ Từ Đường ở quê. Mỗi lần về Việt Nam, mình đều ghé lại một quốc gia ở Á châu, ở lại ít ngày trước khi đến Việt Nam. Đàlạt thì ghé lại 3 đêm rồi đi. Kỳ này cũng vậy, ăn giỗ ông cụ xong thì mình bay ra Hà Nội rồi vào Sàigòn. Kỳ này đồng chí gái đi chơi với 4 cô bạn học Trưng Vương cũ ở miền Đông BẮc, xem hoa Anh Đào, rồi đi New York, Boston rồi thác Niagara ở biên giới Gia Nã Đại- Hoa Kỳ.

Nghe chị bán vé máy bay kêu ghé Nhật nên mình nói chị ta giữ vé ở lại 5 đêm ở Nhật Bản để đưa Mẹ thăm mùa hoa Anh Đào đang nở rộ. Mình dự tính đi Hiroshima, Kyoto và Tokyo. Hiroshima là vì mấy năm đầu tiên đến Pháp thì trên đại lộ Les Champs Élysées , có rạp hát trình chiếu cuốn phim “Hiroshima Mon Amour” do Alain Résnais đạo diễn và Marguerite Dumas viết bản thảo dài năm này qua năm nọ tương tự cuốn phim “Emmanuelle”. Cuối cùng vì tò mò mình phải đi coi hai phim này.
Sau này mình có nhận một email của bà Betty, có 4 tấm hình của hai thành phố Detroit và Hiroshima, năm 1945 và 2005 (60 năm sau) nên muốn đi viếng thành phố này để thoả mản sự tò mò.
Sau đó thì đi Kyoto vì mấy lần trước có đi với gia đình lên đỉnh Phú Sĩ Sơn thì chả có gì cả nhưng khi xem ảnh thì ngọn núi mùa đông có tuyết phủ, mùa hè thì leo lên đó thì Chán Mớ Đời.
Mình mua cái Japan Rail Pass cho 2 mẹ con, hạng Nhất vì mùa này thiên hạ đi du xuân ngắm hoa Anh Đào hơi nhiều nên sợ không có ghế ngồi. Du khách ngoại quốc, được mua cái pass này trong vòng 7, 14 hay 30 ngày để di chuyển khi đến Nhật Bản, tương tự Âu châu thì họ có Euro Rail Pass cho du khách ngoài Liên Hiệp Âu châu còn đi Hoa Kỳ thì cũng có nhưng dạo mình viếng Hoa Kỳ lần đầu tiên thì mua cái pass 10 thành phố, nên bay đi viếng 10 thành phố trong một tháng. Khoẻ re. Ở ngoại quốc, người ta tìm cách câu du khách tham quan xứ họ, nên bán vé xe lửa rẻ hơn dân sở tại trả còn Việt Nam thì chém gấp đôi để chứng tỏ đẳng cấp của con rồng cháu tiên. Chán Mớ Đời

Mối tình đầu trả nhớ về không

 Tuần này, buồn đời mình xem phim Tây Ban Nha, để nhớ về thời gian ở xứ này, tuy ngắn ngủi nhưng đầy ắp tình người. Cuốn phim nói về một người đàn ông lớn tuổi, bắt đầu trả nhớ về không. Bổng nhiên nhớ đến cô gái năm xưa, khi mới lớn, đã làm cho ông ta xúc động đến ngày nay.

Ông Mario, một cựu giáo sư toán ở đại học Valencia, nay về hưu và goá vợ. Mỗi ngày, ông ra quán ăn sáng và chơi Crossfire-figure đăng trên báo. Cô bồi bàn hỏi ông ta, thông thường, trước khi cô ta đem thức ăn ra thì ông đã làm xong các bài toán trên báo. Hôm nay, chưa xong là thế nào. Ăn xong lại đến trả tiền, cô bồi bàn cho biết ông đã trả tiền rồi. Hẹn gặp lại ngày mai.

Ông bước ra cửa tiệm, chần chừ, không biết đi ngã nào về nhà. Đạo diễn tả lên cảnh ông ta bắt đầu bị bệnh Alzheimer. Ông ta đi khám nghiệm, bực bội khi thấy bà cán bộ y tế, cứ hỏi về cộng trừ nhân chia. Ông ta kêu là cựu giáo sư toán đại học mà bà lại hỏi tôi là thế nào. Cuối cùng ông bước ra cửa thì gặp cô con gái đang đến nhà thương để giới thiệu thuốc mới cho bác sĩ.

Lần sau đi khám nghiệm về trí nhớ thì cô con gái tháp tùng. Cuối cùng bà cán bộ y tế nói ông ta không thể ở một mình, phải cho vào viện dưỡng lão. Cô con gái nói, không được, tôi sẽ lo cho bố tôi. Thế là ông ta dọn về ở với gia đình cô con gái. Cô con gái có một đứa con gái với ông chồng làm nghề huấn luyện thể dục.

Cô con gái thì bận công việc vì dân buôn bán, về nhà vẫn phải nấu ăn cho chồng con và nay thêm ông bố. Gặp ông bố về già, trả nhớ về không, quăn thức ăn đủ trò. Nói chung thì cô ta không có thì giờ chăm sóc ông bố trả nhớ về không vì bận công việc, chỉ nuôi ở nhà, lo ăn uống thế thôi.

Được cái là cô cháu ngoại và ông ta có thời gian nói chuyện, tâm sự với nhau. Cô cháu nói là có bồ khiến ông ta giật mình, bảo cháu mới 12 tuổi đầu mà đã có bồ. Hỏi quen ở đâu, nói trên mạng khiến ông ta thất kinh. Cô cháu nói là có thể tìm đủ mọi người trên mạng. Ông ta hỏi có thể tìm được Marguerita Vader không? Cô cháu hỏi bồ cũ của ông. Nói không nhưng cô gái này khiến ông ta mê say đắm mà không dám thổ lộ thời học sinh. Cái này hầu như bệnh của mọi chàng trai mới lớn, trong đó có mình. Chán Mớ Đời 

Cảnh quay, ông ta khi xưa, ngồi làm toán trên chiếc cầu, và một cô gái nhìn ra biển và đang hát. Cô gái quay lại hỏi đi chơi không thì ông ta nói phải học. Ông ta mê toán nên cứ lấy sách giải toán, học đủ trò. Rồi cô gái bỏ đi, hình ảnh một cô gái dậy đẹp như thiên thần, đứng dậy bỏ đi như thoáng hiện rồi biến mất trong năm tháng của đời người. Ông ta nhớ cô gái thích văn chương.

Cô cháu ngoại kêu sao không tìm qua các cựu học sinh của trường khi xưa. Thế là cô ta vào trang nhà của trường học cũ khi xưa, ghi tên ông ngoại, chụp hình ông ngoại để làm tài khoản trên Facebook. Ông ta cũng mua cái điện thoại thông minh, cũng quẹt quẹt tìm kiếm, lướt mạng. 

Một hôm cô cháu ngoại kêu tìm ra địa chỉ của cô con gái, đối tượng đầu tiên của ông ta. Thế là hai ông cháu lên xe chạy đi tìm. Giữa đường hết xăng nên ghé vào đỗ xăng, đến khi trả tiền thì ông ta kêu không quen biết cô cháu ngoại nên người bán xăng, gọi điện thoại cho cảnh sát.

Cô con gái và chồng đi taxi đến để lái xe, chở hai ông cháu về. Khám phá ra ông ta đổ dầu diesel thay vì xăng nên xe nằm một cục, phải kêu xe đến kéo về ga-ra địa phương. Tối đó, cả gia đình ngủ lại khách sạn. Bà vợ có thời gian suy nghĩ lại cuộc đời hiện tại và lấy quyết định. Bà ta nói với ông chồng là khi trở về Valencia, thì muốn ông chồng dọn ra. Lý do là bà ta biết ông ta ngoại tình. Ông ta cho biết, ngoại tình để cho bà biết vì mãi lo làm ăn, sự nghiệp và bỏ bê gia đình.

Số Pi được xem như mối tình đầu, bất tận

Cô con gái hỏi ông bố, sao lại có thể phụ tình của mẹ cô ta. Cô ta không muốn ông ta đi gặp lại người con gái đó. Ông ta nói tiếng Tây Ban Nha rất hay, khó diễn đạt lại đây. Phụ nữ như các phương trình toán học nhưng đối với ông ta cô gái ấy như số Pi. Con số này rất lạ, chỉ đứng riêng một mình và không bao giờ chấm dứt. Hình bóng cô ta như con số Pi vẫn theo đuổi ông ta từ bé đến nay. Ông ta muốn gặp lại cô ta trước khi ông ta quên cô ta, trả nhớ về không. Bác nào muốn gặp lại người tình xưa thì cứ viện cớ của ông này là sắp mất trí nhớ nên muốn gặp lại một lần, mối tình đầu. Xong om, bảo đảm là sẽ không mất trí nhớ nữa, nhiều khi hải hùng kéo dài đến khi ra đi Vĩnh viễn. 

Nghe tới đây thì cô con gái chấp thuận chở ông ta đi tìm kiếm cô gái ngày xưa. Đến nơi, ông ta đi mua hoa để tặng đôi mắt người xưa. Ông ta bận đồ cực đỉnh, cô con gái nói có phải bộ đồ bố bận khi đi cưới mẹ con. Ông ta không trả lời. Đến nhà, gõ cửa thì một bà cụ gìa ra mở cửa khiến ông ta thất kinh, hồn vía lên mây, kêu không phải đôi mắt người xưa của ông ta. Cô con gái hỏi có phải đây là nhà của bà Marguerita thì bà chủ nhà kêu không. Bà ấy bán nhà cho tôi rồi dọn đi đâu. Hỏi địa chỉ thì không biết. Thế là bao nhiêu hồi hộp đều trôi xuống sông. Cả gia đình trở về Valencia.

Trên đường về thì cô cháu ngoại reo lên, nói là thằng bồ chưa bao giờ gặp, nói biết bà ta, hiện đang sinh sống tại Valencia và địa chỉ. Với điều kiện là cô ta phải đến gặp hắn khi hắn viếng thăm Valencia để tham dự đám cưới của họ hàng.

Cả gia đình đến dự đám cưới. Cô cháu thấy một tên cực đẹp trai, đang chụp hình tạo dáng, xeo-phì với một cô gái khác, đến chào kêu “Ola Pau, estoy Ana “ khiến tên con trai kia như bò đội nón, nhìn cô cháu ngoại ngơ ngác. Cuối cùng thì tên Pau xuất hiện, to béo, hắn đã lấy hình tên đẹp trai là em họ để đăng trên Facebook. Hai bên kênh nhau hỏi tại sao lại cho hình ảnh khác, không đưa hình thật. Cô cháu gái cũng xấu lại đi cà nhắc nhưng cuối cùng thì cũng OK. Hắn cho địa chỉ của đôi mắt người xưa của ông ngoại. Cái này, đa phần dân cư mạng đều bỏ hình từ thời Bảo đại còn tắm cởi truồng nên không nên gặp mặt. Chán Mớ Đời 

Thế là cả nhà chạy đi tìm vì ở cùng thành phố. Đến nơi, thì khám phá ra bà ta đã trả nhớ về không, ngồi nơi ghế nhìn về xa xăm. Ông ta khám phá ra bà ta đang thêu trên cái khăn tay số “Vô Cực” mà ông ta nói với cô ta ngày xưa, về tình yêu là vô cực. Ông chồng bà ta nhảy vào nói, bà ta từ độ mất trí nhớ cứ hay thêu số 8 nằm nghiêng, khiến ông ta nức nở và hãnh diện là cô gái ngày xưa vẫn nghĩ đến ông ta.

Cuối phim, cho thấy ông ta và cô gái ngày xưa, vào viện dưỡng lão ngồi bên nhau, nhìn biển như ngày xưa. Mối tình đầu trả nhớ về không.

Nếu định nghĩa tình yêu qua toán học, chúng ta thấy các cuộc tình đi qua như những phương trình hay các định đề. Chúng ta có thể thổn thức khi bắt gặp một ánh mắt, một nụ cười của một cô gái đã ghi tạc vào ký ức. Để rồi khi về già, bao nhiêu hình ảnh ngày xưa, bổng đâu như các ngọn sóng dào dạc trở về như các con cá hồi, lội ngược dòng suối, trở về miền ký ức nên thơ của thời mới lớn, tập tành biết yêu, biết nhớ.

Để rồi một ngày, các phương trình ấy, bị triệt tiêu khi chúng ta lao vào xã hội, lo sự nghiệp, lập gia đình, với các bổn phận. Chúng ta quên sống với người bạn đời, con cái, cha mẹ, để rồi một hôm, tất cả bay đi, vuột khỏi tầm tay như tình trạng cô con gái. Cô ta bị áp lực bởi một người cha là giáo sư đại học nên phải theo học ngành kỹ sư, để leo thang danh vọng để bì kịp sự thành đạt của người cha, để rồi hạnh phúc bay theo cơn mưa trên biển vắng của Valencia.

Tôi yêu em với tình yêu "Cố Định" 

 Hiến dâng em hai nghiệm số "Âm Dương"  

Tìm chu kỳ của "Hàm Số" tuần hoàn, 

 Để im lặng một "Đường Cong" biểu diển  

Dùng "Định Lý" thay người câu ước hẹn  

Lấy "Lũy Thừa" làm dáng lá thư duyên  

Giải "Đạo Hàm" mong tiếp xúc cùng em 

Tìm "Tọa Độ" của "Phương Trình Toán Học"  

Tôi yêu em đôi mắt buồn "Lưu Động"  

Mũi dọc dừa "Thẳng Góc" với môi son  

Tôi "Khai Triển" người yêu lý tưởng  

"So Sánh" rồi ghi chú nơi đây  

Tình yêu này là "Phương Trình Bậc Nhất"  

"Chứng Minh" rằng tôi một dạ yêu em  (vô danh)


Ngày nay, Internet đã giúp chúng ta trở về miền quá khứ, tìm lại bạn bè, người quen của thời xưa. Mình có chở đồng chí gái đi thăm gia đình đối tượng một thời khi xưa. Mình cũng có gặp lại đôi mắt ngày xưa, giúp tìm lại chút hồn nhiên của thời mới lớn trước khi trả nhớ về không, về miền vô cực. Cô nàng vẫn nhớ tới mình.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Nụ Hôn Lịch Sử

 Nhớ dạo mới sang Tây, đi đến nhà ai, thấy đàn ông thì bắt tay mình, còn mấy bà mấy cô thì lại hôn má mình nên tưởng mấy bà mấy cô thích mình. Sau này, ở lâu mới khám phá ra đó là phong tục truyền thống của người Pháp vì đi các nước lân cận, ít có vụ bisou bisou kiểu Phú Lăng Sa. Sau vụ đại dịch COVID-19 có lẻ phong tục này sẽ thay đổi, người Pháp sẽ bớt hôn má nhau.

Coi xi-nê, mấy phim như bố già xã hội đen, Mafia thì thấy mấy tên đàn ông ôm nhau hôn nhau để tỏ lòng tin tưởng nhau trước khi giết nhau thì nghĩ là xi-nê, ai ngờ có lần thấy bức ảnh của chủ tịch đảng cộng sản Liên Xô ôm hôn thắm thiết chủ tịch đảng cộng sản Đông Đức Hoenecker càng khiến mình nghĩ người cộng sản có phong tục rất nhân văn này. Cũng có thể tấm ảnh này đã làm rạn nức chế độ Liên Xô vì người ta ái ngại.

Sau này lại thấy hình ảnh ông Hồ ôm hôn ông Mao Sến Sáng để tỏ lòng trung thành tuyệt đối anh em xã hội chủ nghĩa. Mình đoán là ở các xứ xã hội chủ nghĩa, cộng sản là ôm hôn thắm thiết, răng hở môi lạnh,… của một thiên đường của thế giới đại đồng mà nhân loại đang tìm cách đi đến như ở San Francisco. Lá cờ ngủ sắc đã được giới đồng tính khắp ở năm châu bốn bể sử dụng để nhận ra nhau.

Nụ hôn lịch sử nói lên tình anh em thắm thiết xã hội chủ nghĩa. Sau này có nhiều nghệ sĩ vẽ lại cảnh này bán đấu giá kiếm tiền rất nhiều. Mình không biết người đồng tính nghĩ ra sao về nụ hôn lịch sử này nhưng mình thì thấy rờn rợn.
Nụ hôn anh em răng hở môi lạnh, được vẽ lại với nụ hôn hữu nghị tình anh em

Buồn đời, mình kiếm tài liệu đọc thì khám phá ra nụ hôn của đàn ông với đàn ông đã có từ lâu trong lịch sử người tây phương. Hoá ra bức ảnh này đã khiến ông Putin ra lệnh cấm từ năm 2013; đàn ông không được hôn đàn ông nơi công cộng tương tự nữ giới cũng không được hôn nhau, cho dù là nụ hôn thắm thiết đầy thương yêu.

Đoạn phim ngắn ông hỒ ôm hôn Mao chủ tịch. Mình tìm không ra bức ảnh hai người anh em xã hội chủ nghĩa Sông liên sông núi liền núi ôm hôn thắm thiết như Breznev và Hoenecker. Có xem khi xưa nhưng không lưu lại. Ai có thì cho em xin
Không biết ông Hồ hôn ai đây
Mình không biết ảnh này có thật hay không

Tại các quốc gia như Ấn Độ và Trung Cộng, xem như phân nữa dân số thế giới, không có vụ hôn nhau giữa chốn đông người. Dạo này có lẻ mới thay đổi nhưng mình nghe nói trong phim Ấn Độ, có luật cấm chiếu cảnh nóng, hai người hôn nhau, môi hôn thắm thiết. Những phim gần đây mình thấy có vẻ thay đổi, các tài tử có hôn nhau rất nhanh còn cảnh nóng làm tình thì không có. Đàn ông Ấn Độ nổi tiếng hiếp dâm công cộng mà cho họ xem cảnh nóng này thì chắc nhiều phụ nữ ấn độ lâm nạn và bị giết.

Các bộ lạc phi châu cũng không có màn ôm hôn thắm thiết khi chào nhau. Tại Hoa Kỳ thì mình thấy họ ôm nhau thay vì hôn má như người Pháp. Người Pháp thì gặp nhau hôn má mà họ gọi “les bises”, tiếng lóng là “bisou”. Nhưng tuỳ vùng, có nơi thì 3 cái, nơi thì 4 cái hay ở Paris thì đâu 2 cái. Mỗi lần gặp nhau, nội đợi nhau làm bisou không là mất 5-10 phút. Nghe kể mấy vùng như Bretagne thì chỉ muốn làm một cái hôn má khi gặp nhau thay vì 2 như người sinh sống tại Paris, để tự khẳng định văn hoá của họ khác dân Parisien.

Nghe nói dần dần cái văn hoá mi má nhau đang được giới trẻ loại bỏ, có lẻ bị ảnh hưởng của thế giới khi các phim ngoại quốc được trình chiếu nhất là từ vụ Covid. Ngay tại Hoa Kỳ, mấy hội đoàn mình tham gia, người Mỹ họ đưa cùi chỏ để cụng nhau hay cái chân hoặc nắm đấm.

Mình ngạc nhiên là văn hoá hôn má tại Pháp quốc chỉ mới được xuất hiện từ thế kỷ 19, do các bà khởi xướng. Đàn ông và đàn bà không cùng gia đình hôn má nhau chỉ mới được xuất hiện vào những năm 70 của thế kỷ 20, có thể từ các phong trào ảnh hưởng của xã hội chủ nghĩa, thế giới đại đồng.

Nụ hôn má thường được sử dụng trong các của nghi lễ, nghi thức ngoại giao khi người ta tặng huy chương cho cấp dưới, để nói lên lòng trân trọng,… xuất hiện từ thời La MÃ, Do thái,…

Họ cho biết khi xưa ở xứ Ba-Tư, khi 2 người đàn ông, cùng đẳng cấp gặp nhau thì họ hôn môi còn nếu khác giai cấp thì hôn má. Trong kinh thánh, có nói đến đàn ông hôn nhau như ông Giê-Su hôn các tông đồ, ngay ông Giu-Đa phản bội Chúa, cũng ra hiệu cho lính lA MÃ biết, người nào mình hôn, chính là ông Giê-Su. Sau này, người ta gọi nụ hôn của thần chết.

Thời Trung Cổ, thì chủ tớ hôn môi nhau để nói lên lòng trung thành tuyệt đối của họ nhưng đã mất dần phong tục này vào thời Phục Hưng, chỉ còn thấy trong các người thân gia đình, cha mẹ con cái.

Mình đang tìm tài liệu để xem đại dịch năm 1918, đã giết mấy chục triệu người trên thế giới, có ảnh hưởng gì đến văn hoá của đại chúng. Chắc chắn covid đã thay đổi cách chào hỏi, ngoại giao.

Trước đây, mình thấy giới trẻ gặp nhau thì hay đưa bàn tay đánh vào nhau, hay nhảy lên đưa cái bụng in vào nhau, nay thì đưa cái chân ra đá đá nhau qua lại. Có người đưa cùi chỏ ra đụng nhau như khi xưa mình và đám trẻ trong xóm hay kêu cái cùi loi tao.

Tương tự trong kiến trúc, người ta xây các cầu thang tròn, đi lên cầu thang phía bên trái, để khi có bọn phản loạn tấn công thì trên thành, người ta dễ đánh hơn vì thuận tay phải còn đối phương thì bị kẹt bởi cái tường bên tay phải, khó sử dụng kiếm. Điển hình, khi xưa, các hiệp sĩ như Samurai hay người tây phương đều đeo kiếm bên trái, và đi bên trái. Lý do là họ thuận tay phải nên đeo bên trái để tay phải có thể rút kiếm ra dễ dàng. 

Họ cửi ngựa cũng bên tay trái, đến thời Napoleon thì họ đổi qua bên phải vì ông này lùn, thuận tay trái nên hay tấn công địch quân từ hướng phải. Ông ta ra lệnh quân đội đi bên tay phải để dễ thấy khi quân đội ông ta đi duyệt binh. Từ đó người Pháp lái xe bên phải trong khi người Anh quốc vẫn tiếp tục chạy xe bên trái. Đa số các thuộc địa cũ của Anh quốc vẫn chạy xe bên trái, ngoại trừ các nước như Hoa Kỳ, Gia-nã-đại đã được độc lập từ xưa. Xong om

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Mùa Xuân Ukraine

 Tuần vừa rồi, đi chơi với đồng chí gái ở Borrego Springs nên ít rờ đến điện thoại. Khi về đến nhà thì nhận tin nhắn, gọi cho một số lạ. Hoá ra là một anh bạn quen thời ở New York, mình chỉ biết anh ta khi đi trại hè. Có thấy anh ta tham gia các sinh hoạt của giới trẻ dạo ấy tại New York nhưng mình không thân lắm. Sau mình dọn về Cali cưới vợ nên cũng không liên lạc hay gặp nhau từ 30 năm qua.

Nay anh ta định cư tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Anh ta nhờ mình chuyển $1,000 cho người Ukraine, nạn nhân của sự xâm lược bành trướng của đế chế Putin. Mình nói thứ 2 sẽ ra ngân hàng vì hơi khó khăn dạo này khi chuyển ngân qua Ukraine, không làm trên máy điện toán tại nhà được. Vừa nói chuyện xong thì đã thấy Zelle báo đã nhận được số tiền $1,000 từ công ty của anh ta. Anh ta còn nói là cô em sẽ liên lạc với mình để giúp đỡ các người tỵ nạn chiến tranh xâm lược tại Ukraine.


Mình cũng nhận được tin nhắn từ Ukraine. Tiền của các anh chị em Bút NHóm Lửa Việt, nhờ mình chuyển ngân qua Ukraine, giúp người dân Ukraine. Họ viết bằng tiếng Ukraine, một anh du học sinh tại Ukraine đã dịch dùm. Xin trích lại đây.

Thư từ Ukraine:

Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Mục vụ không biên giới!  

Hôm nay, chúng tôi một lần nữa tiếp tục sứ mệnh cung cấp những thứ cần thiết nhất cho những người cần nó nhất.  Chúng tôi đã đến thăm sở cứu hỏa của quận Obolonskyi của Kyiv và mua xúc xích, patê , cá hộp, thịt hộp, bánh quy,  bánh kẹo và đồ dùng một lần để những người cứu hộ , những người hiện đang dập lửa suốt ngày đêm, cảm thấy rằng chúng ta đang ở bên họ.

 Đội trưởng lực lượng cứu hộ-cứu hỏa Dmitry rất cảm kích vì sự giúp đỡ này, ông chỉ yêu cầu thêm một chiếc tủ lạnh khác, vì những gì chúng tôi cho sẽ đủ dùng trong vài ngày. 

Chà, chúng tôi không quên về những kỳ công của họ.

 Cũng trong ngày hôm nay, chúng tôi đã mua được một số loại thuốc cho tim, chống stress, hiện đang thiếu hụt.  Chúng tôi bắt đầu phân phối những loại thuốc này với số lượng nhỏ để mọi người có đủ.  Những người được phát thuốc vô cùng cảm kích và gửi lời cảm ơn to lớn đến Mục vụ không biên giới.  Điều quan trọng nhất là việc giúp Ukraine như vậy được đánh giá là một bước nhảy vọt để tiến tới hòa bình.  

Cảm ơn Cha !  Chúc Cha được nhiều may mắn!  ông Tiến ơi xin ông chuyển tới Đức Thánh Cha từ tất cả người dân Ukraine những lời tri ân và lời cầu nguyện bình an cho cuộc sống con người.



Доброго дня! Дякую церкві без кордонів, за те що сьогодні ми змогли знову відвідати пожежну частину Оболонського району. Нарешті, сьогодні ми знайшли дуже дефіцитні товари: тушонка зі свинини, та вермішель Мівіна. Пожежна частина обличчі начальника Дмитра Володимировича Демченка, вислала величезну подяку церкві без кордонів це вже 3-й раз за 8 днів коли ми відвідали частину. 120 пожежників кожен день рятують від пожеж , викликаних попаданням ракет , від завалів в житлових будинках . Нас вже впізнають і чекають . Додому рятувальники попадають рідко , тому піклування про них -це додаткове врятоване життя людини , збережене майно . Але головне - це молитви за мир ,  спокій в Україні та світі , ми не забудемо всю допомогу , та ваші молитви. Дякуємо Пане Тієн та Хоа . Передайте Отцям церкви без кордонів велику подяку від наших рятувальників і особисто від нас !!! 

Надсилаю фото , що окупанти зробили з пожежною частиною В Пущі -Водиці , що також відноситься до Оболнського району , де працюють наші рятувальники. (Hiểu chết liền, nhờ một anh bạn người Việt từ Ukraine chuyển ngữ)


Chào bạn! Tôi cảm ơn Mục vụ không biên giới, vì thực tế là hôm nay chúng tôi đã có thể đến thăm sở cứu hỏa của quận Obolon một lần nữa. Cuối cùng, hôm nay chúng tôi tìm thấy hàng hóa rất khan hiếm: thịt lợn hầm, và mì ăn liền Mivina. Sở cứu hỏa với người đứng đầu Dmitry Vladimirovich Demchenko, đã gửi một lời cảm ơn rất lớn đến Mục vụ không biên giới, đây là lần thứ 3 trong vòng 8 ngày khi chúng tôi đến thăm khu vực này. 120 lính cứu hỏa mỗi ngày dập lửa các đám cháy do tên lửa bắn vào các tòa nhà dân cư. Những người lính cứu hỏa luôn luôn chờ đợi sự giúp đỡ của chúng ta. Nhân viên cứu hỏa hiếm khi về nhà phải trực chiến 24 /24 vì vậy chăm sóc họ là việc rất quan trọng Nhưng quan trọng hơn cả là những lời cầu nguyện cho hòa bình, hòa bình ở Ukraine và thế giới của các bạn . Chúng tôi sẽ không bao giờ quên tất cả sự giúp đỡ và lời cầu nguyện của bạn. Hãy dành cho các Cha của Mục vụ Không Biên giới một lời cảm ơn tuyệt vời từ những người lính cứu hỏa của chúng tôi và cá nhân !!! 

Tôi gửi một số bức ảnh về những gì những kẻ chiếm đóng đã làm với sở cứu hỏa ở Pushcha-Voditsa, cũng thuộc quận Obolinsky, nơi các người lính cứu hỏa của chúng tôi làm việc.

Người Nga bắt đầu chống đối chiến tranh. Bà nhà báo bị bắt nhưng được thả.


Chuyện vui là thiên hạ cứ nhắn tin cho mình, kêu mình là “cha” khiến mình thất kinh, phải nhắn tin lại là mình là người lương. Bề trên kêu thì mình làm, không nghĩ Lương với Giáo gì cả. Bà chị vợ mình kêu sao không giúp mấy ông sư. Mình nói mấy ông sư chỉ kêu xây chùa, vẽ chùa, còn mấy chương trình bác ái thì không thấy ông nào kêu gọi. Chương trình giúp đỡ dưới danh nghĩa “Mục Vụ Không Biên Giới” nên thiên hạ cứ tưởng mình là linh mục. Chán Mớ Đời 


Sáng nay, mình ra ngân hàng chuyển số tiền $1,000 qua Ukraine cho anh bạn. Mình chịu tiền cước $50 cho ngân hàng. Xin cảm ơn người bạn ở Atlanta, đã cùng đồng hành với Mục Vụ Không Biên Giới. Anh ta không muốn mọi biết tên.

Sáng nay, đến phiên mình đọc diễn văn. Mình nói về đề tài này, có một bà mỹ email, nói muốn gửi tiền cho nhóm ở bên Ukraine.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Phoenix, Sedona và Flagstaff 2022

 Sáng ra trả phòng xong, mụ vợ đòi đi viếng Outlets, gần khách sạn. Bò vào thấy mới được xây cất. Nghe nói ở Việt Nam, các nhà đầu tư, muốn thành lập 1 Outlets nhưng chưa làm được. Muốn xây một khu bán đồ xịn với giá hữu nghị việt sô này thì cần tối thiểu 7 công ty hàng xịn như Polo RALPH Lauren, Nike, …

Mụ vợ chỉ mua 2 đôi giày rồi kêu ở đây đắt quá. Kêu mình chở qua tiệm TJ Maxx, cho rẻ. Lấy Sơn Đen nên thấy cái gì cũng đắt cả. Rồi lại chạy đi một tiệm khác, đến 3 giờ chiều mới chịu đi ăn cơm.

Ăn xong thì chạy lên Sedona, ở khách sạn Hilton Resort. Rất đẹp! Mụ vợ hỏi giá bao nhiêu. Mình nói giá khiến mụ vợ mặt xanh như đít nhái. Internet lộn xộn, cứ tắt mở hoài khiến mụ vợ bực mình kêu kiếm khách sạn khác. Sáng hôm sau mình kêu trả phòng thì cô ở lễ tân không dám làm giấy tờ, kêu đợi hỏi quản lý. Cô ta đề nghị đổi phòng nhưng mụ vợ xót của nên kêu dọn ra. Quản lý gọi lại hỏi thì mình nói, đồng chí gái kêu trả giá đắt như vậy mà Internet, họ đề nghị đổi phòng,..mình nói thôi vợ tui không chịu. 

Red Rock, Đá Đỏ. Nội đi xung quanh vòng tảng đá này mất 4.8 dậm. Hôm nay hai vợ chồng đi bộ trên 8 dậm. Dịch thử Hồng Thạch.

Mình kiếm được khách sạn rẻ hơn 75%, sạch sẽ. Mụ vợ kêu đi chơi kiểu nhà nghèo như mình cũng khoẻ, để tiền cho người nghèo. Hai vợ chồng chạy đến Red Rock, (Đá Đỏ, Hồng Thạch). Đậu xe xong, mua vé tốn $5, bỏ nơi xe. Nghe họ nói không trả tiền trước thì họ cho câu xe. Thấy họ có để sẵn bịch nylon để thiên hạ dẫn chó hốt cứt. Còn ngựa thì không cần hốt, đầy đường mòn. Ngựa chỉ có người giàu có mới cửi  nên miễn màn hốt phân ngựa. Chủ nghĩa tư bản vạn tuế!

Mình trả tiền 5 đô tiền đậu xe, để họ mua bịch nylon cho thiên hạ hốt cứt chó. Vào khách sạn, cũng thấy họ để thức ăn cho chó và nước uống. Kinh
Thấy họ trang bị đồ sửa chửa cho xe đạp vùng núi để ai đi xe đạp.

Mình đi bộ với mụ vợ thì lâu. Lý do cứ 5 phút là mụ bắt chụp hình rồi quay video bú xua la mua. Đi chưa xong kêu mình phải ngồi xuống cho mụ nghỉ mệt, nằm thẳng dưới đất.

Để hôm nào buồn đời, mình sẽ làm vài cái như vậy để bỏ sau vườn, tạo những điểm nhấn.

Họ làm mấy cái giỏ bỏ đá ở trên đường mòn để làm dấu cho các đường mòn để thiên hạ khỏi lộn đường mòn vì có nhiều đường mòn, trộn lẫn. Mỗi đường mòn có một loại dấu ấn riêng. Mình sử dụng App AllTrails nên nếu đi ra khỏi đường mòn thì đồng hồ mình báo động nên cũng đỡ. Mình tính leo lên núi bên cạnh nhưng mụ vợ không leo nổi nên đành đi về.

Theo bản đồ để đi.vừa hết thì 4.5 dậm thêm .3 dậm từ đó ra bãi đậu xe tổng cộng 4.8 dậm. Nếu để ý thì mấy đường mòn khác xen kẻ với đường gãy chấm chấm. Không có bản đồ là hơi mệt.

Mình chạy lên Flagstaff, cách đó độ 55 phút lái xe. Có hai đường: đi đường đèo hay đi quốc lộ. Mình chọn quốc lộ vì xe mướn không quen. Mình bỏ xe để họ sơn sửa lại mấy vết trầy, do bị đụng xe trước giáng sinh nên bảo hiểm cho mướn chiếc xe Mustang mới toanh, chưa ai chạy cả. 

Hoá ra là quyết định đúng vì chạy lên cao độ 7,000 cao bộ. Tuần trước có tuyết nên còn thấy tuyết hai bên đường. Nếu đi đường trong thì hơi mệt vì còn tuyết đọng. Nhất là kẹt xe. Sáng nay mình định chạy theo đường này nhưng được một lúc thì kẹt xe, Chán Mớ Đời đành quay lại.

Vùng này có nhiều tảng đá cao lêu nghêu. Xem chừng độ 20-30 tầng lầu.

Đến nơi thì cũng đã gần 2 giờ chiều. Hai vợ chồng gửi xe xong đi lòng vòng thì đồng chí gái thấy tiệm ăn Ái Nhỉ LAn nên kêu ăn thử. Lâu quá không ăn cơm Ái Nhỉ Lan nên nhất trí. Kêu gan pâte gà của nhà hàng tự làm, món khai vị. Rất ngon. Rồi mỗi đứa kêu thêm cái pie. Họ làm theo kiểu empanadas nhưng to hơn. Ăn rất ngon. Mụ vợ mà khen thức ăn ngoại quốc là phải biết. Đòi trở lại ăn nhưng thấy xa quá. Nếu đi thì phải chạy về ngã las  Vegas xa hơn.

Hai ngày nay, hai vợ chồng đi màu xanh.

Ăn xong, chả thấy có gì lạ cả. Vùng này, nổi tiếng về trượt tuyết vì có ngọn núi cao nhất tiểu bang. Chạy trên đường thấy nhiều nhà kiểu Cabin để đi trượt tuyết. Mình chạy về Sedona để lấy phòng khách sạn rồi bò đi bộ một tí để xem thành phố. Chắc mới hết mùa đông, ít du khách nên tiệm ăn đóng cửa khá nhiều. Thấy có tiệm nail Việt Nam, đề tên Le Anna’s Nail. Nếu không trượt tuyết thì nên đến vùng này vào tháng 3, ít nóng chớ đến hè là chảy mỡ. Mùa đông thì lạnh teo chim. Ít ai đi ngoài đường vì không phải mùa du khách nên không biết làm gì, hai vợ chồng bò về khách sạn. Kẻ viết người nhắn tin, điện thoại cho bạn bè. Mai thì đi bộ tiếp. Mốt thì về sớm hơn một ngày vì đồng chí gái có hẹn chi đó.

Hôm nay, bò dậy đi đến nhà thờ. Căn nhà thờ này nổi tiếng khi mình vào học trường kiến trúc. Có ông mục sư nào bò đến đây xây cái nhà thờ trên núi, trong mấy núi đá.

Thành phố này nhỏ xíu mà tính có đến 7-9 nhà thờ chưa kể synagogue của người do thái.

Khi xưa, người Mỹ về hưu, dọn về vùng này để ở để tránh bệnh phong thấp, nay thì du khách đến đông kể gì. Khi xưa, mình đi viếng ít có du khách. Đa số toàn là những người hippie khi xưa dọn về đây sinh sống xa đời sống đô thị. Thấy có nhiều trung tâm dưỡng già.

Đi xong chỗ này, tính đi mấy chỗ khác thì không chỗ đậu xe nên quay về, đi ăn, về ngủ trưa, đợi chiều bớt xe, bò đi dã ngoại. Có anh bạn nhắn tin cho mấy chỗ ăn chay nhưng trễ rồi. Họ đóng cửa 4:00 giờ chiều.

Ngủ dậy, hai vợ chồng bò lên xe tính kiếm chỗ nào đi dã ngoại. Đúng lúc trời mưa nên bò lại văn phòng địa ốc, gần khách sạn mà mình thấy. Vào hỏi nhà cửa bên này ra sao thì thất kinh vì đắt như ở Nam Cali. Mình hỏi họ có biết công ty nào lo vụ cho mướn kiểu AirBnB thì họ nói có. Hỏi bao nhiêu thì họ không rành.

Thấy có căn nhà ngay khu nhà thờ hồi sáng đi viếng thấy đẹp nên hỏi họ dẫn đi xem. Khu rất đẹp, nhà hơi cũ. Có căn nhà bên cạnh nên che bớt phong cảnh, bên tay phải thì có mảnh đất khác, trong tương lai họ sẽ xây nhà xem như mất phong cảnh từ nhà. Mình hỏi khu vực này cho thuê được không vì thấy mấy nhà trong khu vực, cắm bảng kêu chỗ ở không phải khách sạn. Hoá ra khu này không thích mấy nhà cho thuê kiểu AirBnB. Có lẻ trong tương lai họ sẽ ra luật cấm. Mụ vợ thích căn nhà cứ kêu mua đi mua đi khiến mình muốn khệnh mụ vợ. Thích thì khi đi chơi, mướn mà ở tội vạ gì vác của nợ vào thân, cách nhà 7 tiếng lái xe. Khi đi chơi xa, mình đều viếng nhà bán, để có bằng cớ mình có gặp thiên hạ để bàn chuyện đầu tư, để trừ thuế.


Cây cổ thụ, họ giữ lại khi xây cất khu vực này, rất đẹp, du khách đi sẽ trở lại hay khuyên bạn bè đi thăm viếng. Còn Đà Lạt thì một đi không trở lại

Sau đó, chạy vào Sedona, đi bộ thấy đẹp. Thấy họ giữ gìn mấy cây cổ thụ xưa khiến mình nhớ đến Đà Lạt, phá tan hoang. Chán Mớ Đời 

Chạy về khách sạn. Ngày mai đi xem thêm căn nhà rồi chạy về cali.mụ vợ kêu tháng tư, có họp bạn Trưng Vương ở Phoenix, chắc lại phải bò sang nữa. Mụ vợ họp bạn thì mình leo núi chuẩn bị đi Machu Pichu 7 ngày. Xong om

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Chấm dứt một cuộc tình Thái-Việt

 Dạo thằng con học tiểu học, có chơi thân với một tên gốc Mít và Thái. Bố nó là người Thái, mẹ nó cũng là người Thái nhưng gốc Việt. Nghe nói có một cộng đồng người Việt tại Vọng Các. Trong hồi ký của ông Trần Trọng Kim có đề cập đến vấn đề này. Mình có ông Dượng, gốc Bắc kỳ, năm 1945, chạy tản cư với gia đình, ông lạc sang Thái Lan, lấy vợ Thái bên đó, đến khi liên lạc được với bố mẹ, di cư vào nam, nên đem 4 đứa con về Việt Nam. Có lần ở Luân Đôn, mình vào tiệm ăn tàu, nổi tiếng món vịt quay ngon nhất thủ đô Anh quốc, gặp chị phục vụ viên, nói tiếng Việt giọng Bắc cực chuẩn, tự xưng sinh tại Thái Lan. Mình sinh tại Đà Lạt, mới qua Tây mấy năm đã quên lú tiếng Việt. Chán Mớ Đời 

Bạn thằng con họ Bạch như gia đình thầy Bạch Thái Hà, chắc có máu làm ăn của gia đình Bạch Thái Bưởi vì rất giàu. Kể sau. Bố mẹ nó đặt tên Johann, họ Bạch nên đi học, thầy cô gọi Johann Bach như nhạc sĩ nổi tiếng của Tây Âu, chỉ có điều là hắn chơi nhạc rất tồi. Hai đứa chơi thân nên có trò ngủ nhà bạn. Mỗi lần thằng con ôm áo quần qua nhà thằng bạn ngủ, về nhà là cứ u chau, u chau… 

Chúc các bác gái một ngày phụ nữ đòi quyền sống như mấy cô đại diện Corona

Được gia đình bạn cho ăn uống mệt thở, không hà tiện như ở nhà mình. Nhà lại to, 1 phòng ngủ to hơn cả cái nhà của mình. Nhà họ ở khu Orange Park Acres, nghĩa là lô đất nhà tối thiểu trên một mẫu Anh quốc. Vợ chồng mình được mời đến nhà chơi một lần thì thất kinh vì nhà to hơn cái đình. Dạo ấy mà nhà đã có màn ảnh ghép ở lại to trên tường để xem đá banh. Độ 9 cái màn ảnh 35 inches ghép lại, nhà mình có một cái 27 inches được xem là hạnh phúc rồi. Họ có riêng phòng tập tạ, máy chạy bộ đủ trò, to hơn cả căn nàh của mình. Viếng nhà người ta xong mình thấy thẹn quá, không biết làm sao mà có thể làm giàu như họ. Đành nói với đồng chí gái là kiếp sau, anh ráng làm giàu như người ta. Mụ vợ kêu kiếp sau, gặp anh là tui băng qua đường tránh đụng anh. Chán Mớ Đời 

Họ nhờ có quốc tịch Mỹ và Thái nên xuất cảng đồ về Việt Nam và Thái Lan từ lâu. Không hỏi rõ vụ này. Họ chỉ kể là làm xuất nhập cảnh thức ăn của xứ này qua Mỹ rồi mua đồ gì bên này bán lại cho hai xứ bên kia. Giàu nức nở. Sau này, lớn lên hai đứa học khác trường trung học. Mình cho con học trường trung học ở Villa Park còn họ thì cho con học trường ở Anaheim Hills, gần nhà họ hơn.

Hôm trước, buồn đời mình chạy ngang khu Orange Park Acres để xem nhà cửa xây cất tới đâu rồi. Khi xưa, mình mê mua nhà khu này nhưng mụ vợ chê khu này, kêu hàng xóm xa cách quá. Nay ở nhà hàng xóm bên cạnh, chả gặp ai cả. Lâu lâu gặp, hỏi mấy câu trời mưa nắng xong là chạy. Sau 15 năm thì nhà cửa được xây cất lại rất nhiều. Khu này đất rộng nên dân giàu, có nuôi ngựa để cởi vòng vòng sau nhà hay trước nhà. Xưa kia là nhà như nông trại nay thì toàn là biệt phủ hết.

Chạy qua nhà thằng Johann thì thấy bà mẹ nó đứng trước nhà nên dừng lại hỏi thăm. Bà cho biết thằng con nay đi làm kỹ sư, còn ông chồng thì ly dị rồi. Mình không muốn hỏi thêm, định cáo từ nhưng buồn đời hay sao bà ta kể. Ông chồng về Thái Lan, có em chân dài nào túm cổ nên ông ta đòi ly dị, để đem cô ta sang. Ra toà thì bà ta gốc Việt nên hơi keo kiệt, mướn luật sư rẻ nên bị luật sư của ông chồng cãi hay nên ông chồng giữ căn nhà to đùng, còn bà thì lấy căn nhỏ hơn cho thuê khi xưa.

Như hiểu được sự ngơ ngơ ngáo ngáo của mình, bà ta kể tiếp. Trước khi dọn ra, bà ta mua mấy ký tôm về ăn rồi còn dư thì bà ta lấy cái gậy bằng nhôm để móc màn cửa sổ của mỗi phòng. Mấy ống này tròn, làm bằng nhôm nên ở trong rỗng. Bà ta lấy cái đầu ra rồi nhét võ tôm và tôm còn dư và những tình cảm yêu thương sâu đậm cho kẻ nội thù vào mấy cái ống rồi đậy nắp lại. Nhà từ trên xuống dưới nhất là phòng khách có mấy cái màn đẹp tuyệt vời của bà mua đặt bên Thái Lan đem về, đều được thiết bị các con tôm Thái Lan. Sau đó bà ta ca bản Capri! C’ est Fini!

Bà ta giao chìa khoá cho luật sư rồi ông chồng và cô bồ mới dọn vào. Được vài hôm thì bốc mùi. Ông chồng kêu thợ diệt chuột đủ trò đến. Tốn mấy ngàn đồng mà mùi hôi không bay đi, xịt mấy lít nước hoa CoCo Channel đủ trò nhưng hôi vẫn hoàn hôi. Ông chồng quyết định bán nhưng khách thấy nhà đẹp nhưng vừa mở cửa vào là chạy mất dép. Để cả năm không bán được nên bà ta nhờ luật sư, hỏi có thể xét lại tiền bạc chia ra sao thì bà ta lấy lại căn nhà. Nhà trị gía đâu 5 triệu nhưng bà ta điều đình sao đó chỉ trả có $500,000. Kinh

Giấy tờ xong xuôi thì bà ta cho thợ lấy mấy cái màn đem quăn hết, cho sơn phết lại nên hết ngửi mùi tôm chết theo cuộc tình hữu nghị 30 năm.

Hôm nay là ngày 8 tháng 3, ngày phụ nữ thế giới. Em kể lại đây để mấy bác nào có chồng về Việt Nam, kiếm em chân dài, đòi lấy luôn căn nhà của mấy bác thì nên chơi đòn cô gái Thái Lan gốc Việt Nam. Kinh

Còn mấy bác trai thì sau 3 năm, vào quốc tịch các em chân dài đá mấy bác, thì dùng chiêu này để lấy lại căn nhà mà mấy bác đã bỏ công sức, lao động để mua.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Nguyện bình-an cho Ukraine

Mình nhận được tin nhắn của một người bạn, di tản năm 1975, hỏi các bạn và các vị linh mục; muốn giúp các người dân xứ Ukraine, chạy loạn, xa lánh chiến tranh như người Việt, đồng cảnh ngộ khi xưa. Cũng cảnh Việt Cộng pháo kích vô tội vạ trên đại lộ kinh hoàng vào các người dân chạy vào thành phố tránh bộ đội. Người chết là liệt trên đường chạy giặc. Mình có một anh bạn thời thơ ấu, bị giết trong một vụ pháo kích trước khi xe tăng Việt Cộng vào thành phố. 

Václav Havel, cựu nhà văn ly khai và tổng thống nước Tiệp từng nói : “The salvation of this human world lies nowhere else than in the human heart, in the human power to reflect, in human meekness and human responsibility.”

 Thấy video một bài ca “nguyện bình-an cho Ukraine” của cha tuyên uý Hải Đăng hát trong một buổi lễ tại nhà thờ khiến mình rất cảm động, chưa biết làm gì để giúp những người chạy loạn Ukraine. Có anh bạn quen vài người việt ở Ukraine, nói sẽ liên lạc rồi cho mình biết sau.

 https://youtu.be/QeMI01lMt9k

Dear Cac AC & 2 Cha 



News from Ukraine is not Good at all. Over 1,200,000 Tỵ nạn (Almost 50 years. I was a Refugee and the child of the War. The prediction of this War – It’s getting worse soon. I am not sure “What can we Do?”, But I want to Stand with the Ukraine.

Last Sunday I asked my community for Prayer & Alms giving
 for the people of Ukraine. 

Ukraine collection got 

$3,528.35. 


Cha Hải Đăng Ơi! Thank U very much for a beauty song "Nguyện Bình An Cho Ucraina”. 


https://youtu.be/QeMI01lMt9k


Let us listen his Song and the crying of the People of Urcaina.

Ministry Without Border  – will echo their Cry and Đốt Một Ngọn Lứa Tình Yêu. 

Xin quị AC cùng Đổng hành. 

Hoaichuong 

Đây là hình ảnh vợ chồng anh Milevskyi mà Mục Vụ Không Biên Giới đã liên lạc được và gửi tiền. Họ cầm cờ Ukraine và logo của Mục Vụ Không Biên Giới.

Đây là hình ảnh của Milevskyi mới gửi qua Viber
Trong 200 usd nhân được đã gửi 150 cho quân đội và dân quân bảo vệ Kyiv 50 usd mua đồ ăn cho binh sĩ đây ập (Anh Milecskyi cầm logo của Mục Vụ Không Biên Giới) nguyện cầu cho anh ta được bình yên.

(Do người bạn của Mục Vụ Không Biên Giới, giới thiệu anh Milevskyi gửi cho mình qua Viber). Lúc đầu, mình tính gửi $1,000 nhưng ở ngân hàng người ta tìm không ra Port của Kyiv nên phải bypasss vụ này. Hinh như họ không cho gửi qua Ukraine, vì không bảo đảm. Họ nói gửi tiền kiểu này như đưa con vô Nội, nên mình gửi thử $200, tốn tiền cước đến $50. Nay bên kia nhận được thì mình sẽ gửi tiếp. Có cha Trí Phạm lên đường sang Âu Châu nên Mục Vụ Không Biên Giới đã gửi cho cha số tiền $5,000. Sáng nay 9:00 sáng ngân hàng mở cửa, mình sẽ chạy ra gửi tiếp $1,800. Chỉ là hạt muối vào đại dương.

Quý Cô Chú, Anh Chị và các Cha rất mến,
Much prayer and Blessing to you and your family.
 
Trong vòng hai tuần, khi quân đội Nga xâm chiến Ucraina nhiều thành phố ̣đã thành hoang địa, theo Liên Hiệp Quốc tổng số người Ty Nạn đã lên đến hơn 2,500.000 người trong số đó hơn ½ là trẻ con và người già. Một sự trớ trêu của cuộc Nga xâm lăng Ukraine, Chính quyền Nga đưa quân đội xâm chiến Ukraine – lại kêu gọi người Ukraina hãy đến Belarus hay đến Nga tỵ nạn!

What can we do, how can we help or how much can we assist the poors and the Refugees? The Holy Father Pope Francis in  Lenten Messge: “Do not grow tried of doing Good”
́ 
*Cám on tất cả các Cô Chú, quí anh chị em, đã dâng lời nguyện và đã nghe lời kêu cứu của những người đang sống trong tuyệt vọng nhưng họ vẫn cản đảm chiến đấu cho Tự Do và Yêu Thương.

*Cám ơn Cha Hải Đăng đã sáng tác và trình diễn bài Nguyện Bình An cho Ucraina.

*Cám ơn, quý Cô Chú, quí anh chị em Vịnh Tampa, Florida đã gom góp và Zelle $2,000 đến Cha Tri. Nơi cha Trí sẽ đến là nơi mà người Ty Nạn Ucraina vừa đến nước Ý. Anh Hoàng Sơn đã ứng trước và Zelle qua cha Tri Pham $3,000 (Cha là một thành viên của Mục Vụ Không Biên Giới).
 
Mục Vụ Không Biên Giới cũng đã chuyển $2,000 qua anh Milevski A. I. (gia đình AC Milevski A. I. ̣ đến nay vẫn sống tại Thủ Đô Kyiv, nơi đây là tâm điểm của đạn – pháo. Trong những ngày sắp đến, quân đội Nga sẽ tìm mọi cách chiếm cho được thành phố này.

– A Milevski A. I. ở trong lứa tuổi 18-60 nên phải ở lại chiến đấu. Chị Milevski đã quyết định ở lại Kyiv với chồng và cùng người dân Ucraina chiến đấu và bảo vệ đất nước. Lo lắng cho tương lai của quê hương và gia đình. Anh chị đã tiễn biệt người con trai duy nhất ở trạm xe lửa tại Kyiv. Cháu trai là Người Ty. Nạn đang chờ đợi tại biên giới Ukraine – Poland!

One again – Please keep the Ukraine people in your prayers  

Linh mục Nguyễn Hoài Chương (Hoa Kỳ) & Vũ Đình Dũng (Canada)

Mục Vụ Không Biên Giới

Bút Nhóm Lửa Việt

How to contact Lua Viet

E-mail:luaviet@luaviet.org 
Snail Mail:Lua Viet Youth Association 
P.O. Box 349 
Marlboro, NJ 07746-0349
Make a donation with 

paypal.me/luaviet

Donate through PayPal Giving with NO FEEs to Lua Viet

PayPal Giving

“In desperation” Trong nổi khốn cùng

Mình xin giới thiệu một bài viết của ông Nguyễn Thế Thăng. Sau tháng 4 1975, ông ta vào chiến khu Việt Cộng để tiếp tục chiến đấu với các chiến hữu, tương tự vài người lính trinh sát của đại đội 302 xưa của Đà Lạt mà mình đã kể. 

Bài viết được đăng trên một tập san War, Literature & the Arts về quân đội Hoa Kỳ. Bài này do ông Lê Văn trên diễn đàn Adran Đà Lạt dẫn. Mình không chia sẻ trực tiếp được từ trang cá nhân của ông ta nên mạn phép chép lại, luôn tiện chép luôn bài bằng anh ngữ đăng trên tập san của quân đội Hoa Kỳ, cho ai không đọc được tiếng Việt.

See English version below

 TRONG NỖI KHỐN CÙNG

Tác Giả: Nguyễn Thế Thăng

January 31, 2022 90

Tại Việt Nam, trước 1975, Nguyễn Thế Thăng tốt nghiệp khoá K2DH/ĐH/CTCT, Đại Học Chiến Tranh Chính Trị. Sau tháng Tư, 1975, ông cùng các chiến hữu vào mật khu tiếp tục chiến đấu chống cộng. Tháng 10-1975, sau nhiều nỗ lực chống trả, mật khu chống cộng bị chiến xa cộng sản tràn ngập, tác giả bị thương rồi bị bắt với vũ khi trên tay, bị mang “triển lãm” tại huyện Thống Nhất, Đồng Nai. Bài viết sau đây là hồi ký về những ngày tháng khốn cùng kể trên.

Câu chuyện không liên quan tới nước Mỹ, nhưng bản Anh ngữ của bài viết - do chính tác giả dịch - đã được chọn đăng trong tập san "War, Literature Art" cua Học Viện Quân Lực Hoa Kỳ (USAF Academy). Phải chăng tờ tạp chí này coi đây như một phần ký ức cần soi sáng của người Mỹ về chiến tranh Việt Nam.

Sau đây là câu chuyện điển hình về Nỗi Thống Khổ Bi Hùng mà Người Lính Cộng Hoà hằng gánh chịu sau ngày mất nước với lòng can đảm bền bỉ tuyệt đối của người luôn vững tin về Chính Nghĩa của Quân, Dân Miền Nam cũng như của toàn Dân Tộc Việt Nam.

***

Suốt cuộc đời tôi trên mảnh đất quê hương bất hạnh, có lẽ mùa Ðông 1975 là một cái đông lạnh lẽo nhất. Không biết có phải vì miền Nam Việt Nam vừa trải qua một cuộc đổi đời khủng khiếp, hay vì lúc ấy tôi đang bị cùm tại Trại A9 Long Thành, Biên Hoà (Ngã Ba Thái Lan) trong một dãy nhà tôn vách gỗ mà không hề có lấy một tấm mền mỏng che thân! Ban ngày ngủ, ban đêm phải thức trắng ngồi xoa bóp liên tục khắp cả người cho ấm. Ôi đêm dài vô tận trong cái lạnh thấu xương cộng thêm vết thương trên người còn tươi máu.

Chính từ chuỗi ngày đêm nơi tầng cuối địa ngục này lại trở thành một phước duyên cho tôi tập tễnh bước vào Thiền để sống sót và tồn tại đến ngày nay.

Trước và sau ngày 30/4/75 tôi đã không hề có ý định chạy ra nước ngoài. Khoảng đầu tháng 6/75, tôi lên Trà Cổ (Hố Nai, Biên Hoà) rồi từ đó vào rừng gia nhập Liên Ðoàn 5 của Ðại Úy Lê Ðình Thạch (trước đây thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh) gồm một số Biệt Kích Dù, Biệt Ðộng, Cảnh Sát, Ðịa Phương Quân…

Chúng tôi sống trong các mật khu cũ của việt cộng vùng Sông Buông, Sông Mây (đầu Chiến Khu D). Việt cộng tràn ra thành phố, bỏ ngõ mật khu của họ lại với đầy đủ chòi, lán, vọng gác trên cây, bếp với nồi niêu xoong chảo, nương khoai, vườn rau và một số rất lớn lựu đạn chày chỉ còn được dùng để đánh cá vì hệ thống kích hoả bị hư đến hơn 60%. Chúng tôi thường tấn công những kho gạo Tân Bình, Tân Bắc, Trà Cổ… Trước khi vác gạo về mật khu, chúng tôi dọn sạch kho đem bỏ từng bao trước cửa mỗi nhà dân. Dân địa phương và gia đình cũng tiếp tế cho chúng tôi rất nhiều thực phẩm khác. Vũ khí cũ như M16, M79 dần dần hết đạn, chúng tôi phải đánh Việt cộng để lấy AK, B40…

Ðến khoảng tháng 9/75, lực lượng chúng tôi đã có khoảng 80 người. Biết không thể chống cự nổi bọn cộng sản đang say men chiến thắng, chúng tôi dự trù sẽ đi đường bộ băng ngang Kampuchia đến vùng biên giới Kampuchia - Thái Lan để dưỡng quân rồi tùy cơ ứng biến. Trong vùng còn có một toán thuộc Liên Ðoàn Biệt Cách 81 (trước 30/4/75) hoạt động độc lập dưới sự chỉ huy của một người tên Wòng A Cẩu. Chúng tôi cũng đang liên lạc để sáp nhập với một lực lượng khác do Thiếu Tá Tam (Thiếu Tá Nguyễn Phước Trường) chỉ huy. Có một linh mục tham gia tên Trần Học Hiệu — Linh Mục Hiệu sau này đã bị giết chết trong tù. Khoảng tháng 10/75, việt cộng đưa hai Trung Đoàn có bốn chiến xa yểm trợ tấn công đơn vị chúng tôi và đơn vị của Thiếu Tá Tam. Chúng tôi trải quân ra thật rộng với từng tổ tam tam chế, đóng chốt trên tất cả những yếu điểm, kể cả những chòi trên ngọn cây, bình tĩnh sử dụng thật tiết kiệm từng viên đạn một. Chiến đấu trong hơn bốn ngày đêm, chúng tôi đã mất hơn nửa quân số. Sau khi Anh Thạch hy sinh, chúng tôi phải xé lẻ tan hàng.

Ba người theo tôi đi về Phước Long. Ðến 10g sáng (?), chúng tôi lọt ổ phục kích gần Xã Vĩnh Cửu (?), một Trung Đội cộng sản nằm dài theo bụi tre cách khoảng mười lăm, hai mươi thước bắn xối xả vào chúng tôi đang di chuyển giữa đồng trống, quần áo tôi bị thủng nhiều lỗ, một viên AK xuyên qua đầu gối (đang ở thế ngồi chồm hổm để bắn lại) làm tôi ngã vật ra sau nhưng vẫn tiếp tục bắn đồng thời ra lệnh ba thuộc cấp thoát thân.

Chuẩn Úy Nguyễn Thạch Ðiệp nhất định liều chết để lôi tôi đi… Tôi hét lên, Ðiệp vẫn không buông tôi ra, tôi phải chĩa súng vào người Ðiệp gằn giọng nếu không chạy đi, tôi phải bắn chú, Ðiệp rớm nước mắt “dạ” rồi vọt liền, cùng lúc với đợt xung phong xáp lá cà của địch, một tên dùng nguyên khẩu súng với trái đạn B40 đập lên đầu tôi, tôi né qua một bên, bị trúng vào gáy rồi ngất đi. Hình như một tên chỉa AK vào đầu tôi định bóp cò, một tên khác la lên:

- Đừng bắn, thằng này cấp cao, tài liệu sống, đem nó về”.

Lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên võng vải nylon, máu me ướt sũng lưng, bọn việt cộng thay nhau khiêng tôi đi. Ngang qua một số dân địa phương đang làm rẫy, tôi thoáng nghe vài tiếng kêu… Giê-Su Ma!

Toán cộng sản đưa tôi về huyện Thống Nhất, tỉnh Ðồng Nai (Biên Hoà), nhốt tôi trong một căn nhà không có nóc — bị pháo kích sập, chỉ còn bốn bức tường với các cửa đóng kín bằng những tấm ván lớn chéo nhau. Tôi được đặt trên một bao tải cũ, gối đầu trên một cục gạch thẻ, trên người chỉ còn một quần lót dính đầy máu đã khô, đầu gối được bó lại bằng chính cái áo trận của tôi.

Ðêm đó trời mưa như trút, cả người tôi ướt như chuột nằm chịu trận suốt mấy giờ. Vết thương đau nhức khủng khiếp, máu vẫn tiếp tục loang loang theo nước mưa. Sau cùng vì quá lạnh, sức đã kiệt, tôi lên tiếng kêu gọi bộ đội xin chuyển tôi đi nơi khác, không nghe tiếng trả lời, tôi ráng lết vào sát chân tường để núp. Nếu lúc đó cửa có mở tôi cũng không thể trốn đi vì đầu gối chân phải đã bị bắn xuyên từ bên này sang bên kia, xương bánh chè bị vỡ nát. Bị bắt tại trận với vũ khí trên tay thế này chắc chắn 100% là chết, nếu lỡ sau này có sống sót, có lành cũng thành phế nhân, tôi đành quyết định chọn con đường tự sát. Ráng đập đầu vào tường nhưng sức không còn. Thử cắn lưỡi thì thú thật đau quá, không đủ can đảm. Có lẽ phải nhờ Việt cộng giết giùm thôi.

Tôi bắt đầu la lên chửi rủa cộng sản, chửi đích danh Hồ Chí Minh khan cả tiếng. Tôi tiếp tục chửi tất cả những tên đầu não cộng sản lúc bấy giờ mà tôi nhớ được như… Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Phạm Hùng, Lê Ðức Thọ… Rồi không biết ngất đi từ lúc nào. Khi tỉnh dậy toàn thân tê tái, tê như đóng băng, đầu vẫn gối trên cục gạch, thân vẫn nằm trên cái bao tải ướt sũng, trên người gần như trần truồng được đắp lại bằng… một tấm tôn! Ngoài kia gió vẫn rít gào, trời vẫn vô tình mưa rả rích, nước mưa vẫn gõ nhịp đều đặn trên tấm tôn lạnh lùng…

Sáng hôm sau việt cộng triệu tập một cuộc mít-tinh dân chúng huyện Thống Nhất để triển lãm mục đích răn đe với khoảng hơn bốn mươi xác những “tên ác ôn đã đền tội”. Mười một người bị bắt (tất cả đều bị thương), số còn lại trốn thoát. Chúng khiêng tôi ra đặt nằm phía sau một chiếc xe Jeep mui trần cho bà con xem. Rất nhiều tiếng đả đảo từ những tay cò mồi. Không ít những giọt nước mắt nghẹn ngào. Vẫn vỏn vẹn một chiếc quần lót đẫm máu, tôi ngồi thẳng người, bình tĩnh nhếch mép cười khi nghe những tiếng hô đòi tử hình kẻ “tội phạm”. 

Lúc đó đối với tôi hai tiếng “tử hình” nghe không còn ghê rợn nữa mà thật bình thường vì đó chính là điều tôi mong đợi và chấp nhận như một sòng phẳng tất nhiên. Một cô trung niên, mặt khá xinh, người nhỏ nhắn, có vẻ rất hung hăng, vừa xô đẩy những bộ đội giữ trật tự, vừa hô to:

- Ðả đảo những tên “xâm lăng” (?) khốn nạn, hoà bình không muốn chỉ muốn chiến tranh, những tên mặt người dạ thú, giả nhân giả nghĩa, giết hại dân lành… Hãy để cho tôi nhổ vào mặt nó, đập vào mặt nó, tôi mới hả dạ!

Tôi nghĩ mụ này là “việt cộng cái” giả dạng thôi, lòng tôi thanh thản đến lạ lùng. Hãy để chúng trổ tài bịp bợm. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi cõi đời ô trọc bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ cách nào, dù xấu nhất. Tôi mỉm cười nhìn thẳng vào mắt mụ khi mụ vung nắm đấm. Mụ không nhổ vào mặt tôi. Mụ cũng không đập vào mặt tôi. Mụ luồn tay vào bụng tôi làm như đấm tôi vậy, miệng vẫn tiếp tục chửi rủa. Tôi cảm thấy cái gì đó nằng nặng trên bụng, liếc nhanh, thì ra đó là một quả quít nhỏ, tôi vội lấy tay che lại, nụ cười thành trơ trẽn biến mất, nhường chỗ cho sự ngạc nhiên đầy lý thú và cảm thông rất nhanh. Ðôi mắt diễn viên trong một thoáng lạc đi rồi trở lại ngay với vở kịch còn dang dở! Cô ấy trạc tuổi tôi hoặc nhỏ hơn chút ít. Ðến bây giờ, tôi vẫn hằng ước mong có được một dịp tái ngộ người ân nhân tuyệt vời này – Không phải vì đơn thuần quả quít mà vì giá trị khích lệ trong một hoàn cảnh quá hy hữu.

Những ngày và đêm tiếp theo là thủ tục hỏi cung. Bộ đội chánh quy từ miền Bắc tương đối nhẹ tay, một vài người nói và làm như miễn cưỡng, một người đã lén pha cho tôi một ly sữa sau lần tôi bị ngất đi vài giờ, nhưng những tay “giải phóng – cộng sản người miền Nam” thì thật tàn bạo… Chính nơi đây tôi đã được nhìn thấy thế giới bên kia sau những lần chết đi, có lần kéo dài đến sáu, bảy tiếng… Tôi đã nhẹ nhàng thanh thoát, lướt bay trên những cánh đồng đầy hoa, không một chút bụi. Không cảm giác áo quần mặc trên mình dù rằng quần áo rất đẹp, không tơ lụa nào sánh bằng, hình như kết bằng mây ngũ sắc. Cả không gian thật tươi mát, thật sạch như vừa trải qua một cơn mưa nhẹ. Bầu trời không một áng mây, không có mặt trời nhưng lại rất sáng và trong suốt như pha lê. Tôi đã nhớ lại từng chi tiết nhỏ cả quãng đời đã qua từ khi nhập thế. Những điểm tốt cùng với bao nhiêu điều xấu. Vui vẻ, hài lòng, thảnh thơi trước những việc thiện. Hối hận, ăn năn, dằn vặt, đau khổ trước những điều bất thiện. Có lẽ đó là “Toà Phán Xét” theo giáo lý đạo Thiên Chúa.

Có thể đó chính là Niết Bàn và Ðịa Ngục theo Phật Giáo chăng? Tôi đã nghe và hiểu những con chim đang hót những lời tán tỉnh. Tôi đã thấy những con cá giành ăn và nghe chúng cãi nhau. Chính nhờ vậy tôi lại càng không sợ chết nữa, trái lại còn mong muốn được ra đi thật sớm. Tôi như tỉnh ngộ và nhận rõ rằng cái xác này tuyệt nhiên không phải là tôi. Nó chỉ là một phương tiện, một địa chỉ tạm trú của một trong vô lượng vô số kiếp mà thôi. Quá đủ rồi. Tôi đã thoát ra và ngắm nhìn cái xác này bất động. Mấy lần đầu, tôi nghĩ đó chỉ là những giấc mơ.

Sau vài lần lập đi lập lại thành xác tín, thành khẳng định những gì bên kia cửa tử, tôi khẩn khoản một cách chân tình, một cách rất bình thản: Các anh thấy tôi đã chết nhiều lần, tôi đã được qua thế giới bên kia, đẹp lắm, bình yên lắm, tôi thề sẽ không bao giờ oán hận các anh, tôi hứa sẽ mang ơn nếu các anh cho tôi một viên đạn vào đầu để tôi được đi luôn, không phải trở lại cõi đời này.

Thật bất ngờ, kể từ hôm đó, họ không hề đụng chạm đến tôi nữa. Một lần, một tay cán bộ bắt tôi nhận diện những đồng ngũ đã hy sinh qua những tấm hình chụp trắng đen. Anh Thạch nằm chết bên cạnh khẩu M60 không còn một viên đạn. Mắt anh một nhắm, một mở. Miệng anh như mỉm cười. Tôi lặng người, nước mắt lưng tròng. Tay cán bộ giả vờ nhìn đi chỗ khác. Tôi cố tình tìm nhưng không nhìn thấy xác Chuẩn Úy Vũ Thế Cường, là anh họ của tôi — anh ruột mẹ tôi là Vũ Thế Nghiệp tức nhà báo Thần Phong hai năm sau đó bị xử bắn tại Thủ Ðức. Vĩnh biệt các anh và hẹn ngày gặp lại, tôi khẽ thì thầm.

Quay trở về mùa Ðông 1975 tại Trại A9 Long Thành. Trại nằm ngay tại Ngã Ba Thái Lan gồm nhiều dãy nhà tôn vách ván nơi đang tập trung học tập các cựu viên chức hành chánh Việt Nam Cộng Hoà. Chúng tôi khoảng năm mươi người gồm nhiều thành phần bị nhốt trong dãy nhà ngang cuối cùng có hàng rào kẽm gai quây kín. Tất cả tù nhân bị cùm hai chân, xiềng một tay vào ban đêm, ban ngày chỉ xiềng một tay vào một chân.

Cùng trại có một người lớn tuổi tên là Phan Xuân Hạ, bị bắt vì nghi ngờ là sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng Hoà đang trốn tránh. Cụ rất hiên ngang, dõng dạc. Nghe cái tên quen quen, tôi hỏi cụ có liên hệ gì với với một người bạn cùng khoá là Phan Xuân Mai không. Cụ chỉ mỉm cười: Con cháu trong nhà thôi. Bà Minh Ðăng — Không biết tên thật, chủ đại bài gạo Minh Ðăng, Biên Hoà — người phụ nữ duy nhất bị bắt vì tiếp tế nguyên một xe gạo vào rừng, đã dùng sợi dây xích làm xâu chuỗi, không biết bà đã đọc bao nhiêu kinh mà sợi xích sáng bóng như thép ròng vậy.

Nguyễn Văn Chi, người bị đánh hội đồng nhiều nhất trong suốt hơn hai tháng vì bị nghi ngờ là Thiếu Úy Trần Văn Chi — Thiếu Úy Chi bị một viên đạn xuyên qua vai phải, trốn thoát, hiện đang ở San Jose - California, Ngô Ðình Chiến bị bắn xuyên qua bả vai trái, tay trái bị liệt. Nguyễn Văn Cân bị ghẻ toàn thân chỉ trừ hai con mắt, Nguyễn Y người Bình Ðịnh — trông giống hệt hình Quang Trung Ðại Ðế, Trịnh Văn Thương bị bắn xuyên qua đùi, Phạm Văn Thận với chiếc jacket với hàng chục lỗ đạn…

Cũng trong trại này có một người lính cũ của tôi, Ðào Văn Lành, không biết bị bắt bao giờ và về tội gì. Anh được làm trong nhà bếp, phụ giúp nấu cơm cho trại. Một lần đem cơm cho tù nhân, anh nhận ra tôi nhưng không dám nói, chỉ ra hiệu. Tôi thì vẫn… muôn đời Lục Quân Việt Nam, cứ bô lô ba la, cứ vui trước đã, đằng nào cũng chết, vui ngay cả với tử thần như một thân hữu đang đợi trông. Cơm ngày hai bữa trưa và chiều, mỗi người được hơn một chén cơm với “thịt cọp”. Thịt cọp có nghĩa là muối hột, khi nhai kêu cọp cọp.

Tôi chỉ ăn một nửa muối, phần còn lại dùng pha nước để tự rửa vết thương. Thỉnh thoảng được một chút canh nấu bằng lá cải già hay bí rợ với muối. Một hôm Lành lén trao cho tôi một lon sữa bò trong đó có phân nửa chất nước đen đen, quẹo quẹo mà Lành nói là nước cá kho. Chao ơi, nó ngon làm sao. Mỗi bữa ăn, tôi chỉ dám chan một muỗng cà phê trên chén cơm hẩm mà tưởng như đang thưởng thức món cá cao lâu ngày nào. Khoảng hơn mười ngày sau, khi vắng bóng người, Lành hỏi nhỏ:

- Nước cá kho tôi cho ông có ngon không?

- Cám ơn Lành, đang thiếu thốn mà được như thế không gì so sánh bằng.

Lành thật thà:

- Ông biết không, tụi nó kêu tôi rửa cá khô, nguyên cả ký lô cá khô tôi rửa bằng một tô nước thôi, nước đó tôi cô lại còn nửa lon cho ông xài đỡ. Ráng sống, ráng nhịn cho qua nghe ông!

Rồi cũng qua một mùa Ðông. một mùa Ðông tang thương, thê lương trên khắp nẻo đường đất nước. Cả miền Nam biến thành một trại tù khổng lồ. Bốn tháng sau tôi bị chuyển về giam tại xã Ngãi Giao, quận Ðức Thạnh — Phước Tuy/Bà Rịa. Chỉ cùm hai chân ban đêm nhưng ban ngày vẫn phải đeo xiềng vô một chân để đi lao động — mục đích giữ tù không chạy trốn. Từng đoàn tù với xiềng xích kêu loảng xoảng trên đoạn đường gần làng Bình Giả, tôi lẩm bẩm hát bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ (Nguyễn Ðức Quang) thật thấm thía:

… Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người,

nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi.

Nụ cười xa vời, nụ cười của lòng hờn sôi.

Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian!

Trung Úy Nguyễn Văn Tài lúc nào cũng chỉ một câu vọng cổ trong Chuyện Tình Lan Và Ðiệp: “Em tên là Nguyễn Thị Lan(g), xác còn nằm đó mà hồn tan(g) lâu rồi!”

Ở đây tuy ấm hơn nhưng rất khó ngủ vì hàng sư đoàn rệp tấn công suốt đêm. Cũng tại nơi này, hai thằng em tôi là Ðồng Quang Nhường và Nguyễn Văn Hiển bị đánh chết. Hai em trốn trại bị bắt lại. Chúng trói hai tay hai chân rồi treo lên xà nhà như đang khiêng hai con heo. Ðích thân thằng trại trưởng dùng búa gỗ (một khúc cây tròn đường kính cỡ 15cm, dài khoảng 30-40cm, đục một lỗ ở giữa tra cán vào, cán dài khoảng 1m, dùng để đập tôn cho bằng). Nó vung thẳng cánh đập một nhát vào đầu Ðồng Quang Nhường nghe bộp như đập một quả dừa. Nguyễn Văn Hiển ngoái đầu qua nhìn, thuận tay nó vớt một búa ngay quai hàm của Hiển, quai hàm trẹo lặt qua một bên, máu vọt ra có vòi. Tôi nhắm mắt lại kêu Trời! Cố bịt miệng để khỏi la thành tiếng.

Cả hai xác Nhường và Hiển co giật vài lần rồi buông thõng. Vài phút sau, chúng cắt giây thả hai xác xuống. Tôi và ba người nữa tình nguyện đi chôn. Cả hai xác còn nóng hổi được đặt nằm trên tấm gỗ dài cỡ 1 thước 8, rộng 25 phân, hai cánh tay đong đưa theo nhịp bước, nhất là theo cái cà thọt khấp khểnh chân què của tôi. Hiển máu vẫn còn chảy toong toong trên đường. Cái đầu của Nhường ọp ẹp như quả cà chua úng, hai mắt lồi lên, mặt sưng tím bầm. Ðất tổ ong mà dụng cụ đào chỉ là mấy cái cuốc xẻng cũ sứt sẹo. Trung Úy Tài nhỏ con nhất nhưng là người khoẻ nhất, hăng hái nhất… Mấy ông ráng đào sâu sâu cho hai đứa nó. Cố gắng mãi đến tận mặt trời lặn cũng chỉ đào xuống được khoảng bảy tấc! Cả hai xác đều bị chôn nguyên trạng, không áo quan, không poncho hay chiếu bó lại. Tôi ráng gom vài mảnh báo cũ phủ mặt cho hai em. Xếp vài cục đá xung quanh đầu rồi lấp đất nhè nhẹ như sợ hai đứa đau.

Ðêm đó tôi không tài nào ngủ được. Khoảng nửa khuya, dưới ánh đèn heo hắt, tôi nhìn thấy thật rõ ràng: Nguyễn Văn Hiển đang đứng bên cửa sổ phòng giam, không nói gì, đôi mắt thật buồn nhìn về xa xăm. Tôi nói thầm: Hiển ơi, thôi em hãy đi đi, đừng luyến tiếc gì cõi đời giả tạm này, nghiệp báo em đã trả xong, đừng oán ghét, đừng hận thù, hãy để cho lòng thanh thản mà siêu thoát…

Tôi cứ nói như thế, lặp đi lặp lại, dỗ dành, van lơn, lâu lắm, bóng Hiển tan dần rồi biến mất. Hình như có tiếng người trở mình bên cạnh. Tôi xoay qua: Trong bóng tối mờ mờ, tôi nhận ra Ðồng Quang Nhường, hai anh em như đang nằm trên một toa xe lửa, dưới lưng cái gì bầy hầy như phân trâu bò. Tôi hỏi nhỏ: Chúng nó đưa anh em mình đi đâu đây? Chúng nó sẽ đưa anh ra Bắc nhưng anh đừng lo — Nhường lúc nào cũng lạc quan — mọi việc sẽ rất tốt đẹp, rồi anh sẽ vinh quang nơi xứ người. Tôi cười khẩy: Mẹ kiếp, miền Bắc chính là xứ người, không phải xứ của anh em mình, nhưng cái thân tàn tật tù tội trên đất cáo Hồ thì vinh với quang cái khỉ khô gì. Nhường cười. Hai anh em cùng cười với nhau. Tôi bừng tỉnh. Chơ vơ. Thì ra đó chỉ là một ác mộng.

Mấy tháng sau tôi nhận được lệnh: Tha thụ hình, cho phép đi cải tạo. Tôi bị chuyển qua Trại Lê Lợi. Nơi đây tuy không bị còn bị cùm hay xiềng nhưng ở trong khu cách ly. Bên kia hàng rào nhìn thấy Ngô Bá Lai, Nguyễn Hữu Tạo và một số rất đông bạn bè khác, nhận ra nhau trong ánh mắt thật ngỡ ngàng, tủi nhục, chua xót, đắng cay. Ngô Bá Lai nháy mắt bảo tôi ra nhà vệ sinh, hai đứa trật quần ra ngồi bên nhau trao đổi tin tức. Lai ân cần hỏi tôi thiếu thốn gì không. Một tháng sau chuyển qua trại Long Giao. Tôi vào trại với hai cổ tay và cánh tay bị trói chặt ra sau lưng bằng dây điện thoại, hai chân trần với vỏn vẹn một bộ đồ trên người và một túi vải nhỏ đeo trước ngực. Phạm Văn Bông nhận tôi về tổ, trong cùng tổ có Trần Ngọc Hoàn; cùng đội, cùng trại có Nguyễn Quyết Thắng, Nguyễn Nhự, Chung Gia Phong, Bùi Ðức Hùng, Nguyễn Thành An, Ðặng Kim Cương, Trương Hội, Phạm Ðức Thịnh… Trại bên có Nguyễn Ðức Phương. Bạn bè chia sẻ cho tôi thật nhiều đồ dùng và thực phẩm. Phạm Tuế tặng tôi một chiếc quần treillis còn khá mới.

Ngày 23/5/1977, chuyển ra miền Bắc trên chuyến tàu Sông Hương. Nằm trong toa xe lửa trên đoạn đường từ Hải Phòng lên bến phà Sông Hồng với toàn phân trâu, phân bò, tôi cứ mãi miên man nghĩ về từng chiến hữu trong chiến khu, nghĩ thương hai thằng em bị thảm sát trong tù, về thân phận mình, về dân tộc và quê hương cơn quốc nạn. Ðôi mắt cay cay chiều xót xa…



Người lính Nguyễn Thế Thăng

——oo0oo——


Hình: Ông bà Nguyễn Thế Thăng và trưởng nữ, 23 tuổi, vừa tốt nghiệp Tiến Sĩ Dược Khoa hạng danh dự tại OHSU (Oregon Health… Science University).

Tony Thang Nguyen

Bản anh-ngữ

In Desperation

The winter of 1975 was the bleakest season of my existence in my unfortunate country. Vietnam had just undergone a brutal change and I was in chains. I was held captive in a low-ceilinged steel-roofed structure called Camp A-9, in Longthanh City, not far from where the Cobra King Division from Thailand was once stationed. These nights were excruciatingly cold and seemingly endless. Without the slightest cover, I dozed off during daytime so I could massage my body the entire night long to keep myself warm. And I was nursing an open, bleeding wound that I had no way to keep it clean other than to douse it with some salty water, lick it and chew out the rotting flesh.

Neither before nor after the Fall of Saigon in April of 1975 did it enter my mind to leave Vietnam. Instead, I made my way to join the Resistant Force founded by Ledinh Thach, a former Captain of RVNAF 5th Infantry Division. We were a fighting force composed of people from Special Forces, Paratroops, Rangers, Infantry, Police and Paramilitia. My rank was Captain.

We occupied the abandoned former Viet Cong secret strongholds as they swept into the cities. These areas, called River Buong and River May, were still strewn with necessities for a campsite, such as tents, cottages, look-out posts on tree-tops, cooking utensils as well as a tended root and vegetable patch. Left behind was also a great quantity of local-made hand grenades, mostly damaged by moisture; we used these solely for catching fish. We often ransacked rice warehouses nearby, in such places as Tanbinh, Tanbac and Traco. Before withdrawing back to our campsite, we never forgot to liquidate the warehouse and leave a full sack of rice at the front door of every nearby civilian dwelling. They in turn supplied us with other necessary staples. For weapons, we had some M16s or M79s, but with less and less ammunition as the time went by. So we attacked VC outposts to get their AK47s and B40s.

We all agreed to make our way to the border of Thailand, by a jungle trail across Cambodian territory. We would then make further decisions after some rest. We knew that there was an 81st Airborne Ranger unit under the leadership of Wong A Cau stationed somewhere nearby and we tried to join forces with them, as well with a contingent led by Commandant Nguyen Phuoc Truong, also known as Major Tam. We also had a priest with us, Catholic Father Hieu (full name Tranhoc Hieu. Father Hieu was later killed by the communists during his imprisonment).

One day in October 1975, the Viet Cong started attacking our unit as well as Major Tam’s. They had two regiments of more than one thousand infantrymen and four T54 tanks encircling us. We were eighty men strong. We spanned a wide area, and met them in tactical three man units. We positioned ourselves at every strategic spot, even on the tree-top lookouts. We used our ammunition sparingly, making our shots count. And thus we fought them for four days and nights and lost about half of our comrades. When Captain Thach was killed, we decided to dissolve the unit. Three men came with me, making our way toward the Cambodian border through PhuocLong Province. At ten a.m. the next day a Viet Cong platoon, spread behind and along a range of bamboo trees, barely forty to sixty feet away, ambushed us near Vinhcuu hamlet. We were crossing an open field and thus were sitting ducks to them. The bullets were flying, tearing my jacket with holes. Then I was hit in my right knee as I was crouching to return the fire. I fell backwards, still firing. I ordered the three men of my unit to escape. But W.O. Nguyenthach Diep was hell-bent on dragging me along with him. Ignoring my protest, he would not release his grip on me. Pointing my gun at him, I ordered sternly: “Release me at once and go or this bullet is for you.” Tears brimming in his eyes, he answered, “Yes, sir” and disappeared. The enemy was soon swarming over me in a hand-to-hand combat. One tried to hit me on the head with his B40 launcher, but I swerved my head, and it hit the back of my neck. I fell down unconscious. In a blur, I seemed to see another Viet Cong pointing his AK to my head about to pull the trigger. Another voice warned, “Don’t kill him. This fellow is an officer. We can get more info from him. Let’s bring him back.” When I next regained consciousness, I found myself on a nylon hammock, my back soaked through with my fresh blood. The VC soldiers were carrying me through the rice field where some villagers were tending to their crops. I overheard faint voices saying “Jesu Ma” (Oh my God).

I was detained in Thongnhat district, Dongnai province. My cell was in a bombarded house whose roof was missing. Its wooden windows were nailed shut with crisscross boards. My head rested on a big brick. My body lay on a jute sack and was totally bare except for my bloodstained underwear. I found my army shirt wrapped around my broken knee. I endured the excruciating pain in the endless cold rain for several hours and then I raised my voice and asked my jailers to move me to a drier spot. No one answered. I dragged myself to a corner to seek shelter. Were the door to open at that moment, I would not be able to go anywhere, as the bullet that felled me had gone through my right knee, shattering my kneecap. Evaluating the situation, I was quite certain that I could no way escape a death sentence—I was caught red-handed with a deadly weapon in my hands, fighting my way. Were I to escape death through any unexplainable occurrence, I still would surely become an invalid. Committing suicide was the only best way. I tried to hit my head against the wall but I had no strength left. Biting my tongue was too painful and my stamina failed me. Only one solution was left and that was to let the Viet Cong do the killing for me. I began to call Ho Chi Minh by name and yelled out invectives against him until I was hoarse. No result. Then I called the Viet Cong top leaders names that I could remember, such as Le Duan, Truong Chinh, Phamvan Dong, Pham Hung, Leduc Tho... I kept insulting them until I passed out.

When I came to, I found myself the same as I was before, stiff and numb and cold. My head still rested on a brick, my body was still lying on the jute sack, almost naked but now covered by a damaged rusty metal sheet. The wind went on howling, the rain unfeelingly pouring, raindrops pounding rhythmically on the damned metal.

The following morning, the Viet Cong called a general meeting of all the population of the Thongnhat District. They displayed about forty corpses of our men killed in the attack that they labeled 40 “cruel rebels” who had been “punished.” Eleven of us were captured, all of us wounded. The rest, about thirty men, had escaped. The Viet Cong brought me to the back of an army Jeep for the populace to view. Some shouted slogans like, “Death to the traitor,” while some others tried to stifle their cries. I sat back in my bloodshot, flimsy underwear, slightly smiling. Death was what I wished and waited for. A death sentence was therefore no longer ominous to me. It was just a normal consequence of my actions.

A young woman about my age shoved the guards aside so that she could have a closer look. She said, “this traitor, this invader, doesn’t bow to peace but goes on killing innocent victims.” She went on, her rage feeding on itself: “I want to spit on his face, to crush the skull of this creature that bears a human face but fosters inside a bloodthirsty animal.” I sat, unmoved, thinking she was just a female “Victor Charlie” performing her play. I just wanted to see this comical tragedy end. I was ready to die in whatever form, or by whatever means. I met her gaze steadily while she raised her fist against me. Instead of swinging at my face, or spitting on me, her hand touched my belly. I looked down in haste and saw a small tangerine there. I quickly covered it with my hand and met her eyes in wonder. With a glimpse of recognition for my gratitude she went on with her performance. At present time, I still wish for an opportunity to somehow meet this wonderful actress again, and thank her, for the tangerine, yes, but most importantly for the moral uplift she provided me.

Then began the days of interrogations. Interrogators from the regular PAVN from the North were somewhat bearable. Some seemed reluctant to be tough. One of them even stealthily brought me a cup of hot milk, after I had passed out. But at night, groups of VC’s came to torture me. They punched and kicked and hit me with wooden clubs. Sometimes, they stood on my broken knee, and jumped up and down on it. This went on for six or seven days. It seems they had selected me for special treatment because I was the only high ranking officer there at that time.

The interrogators from the Liberation Army of the South were the cruelest. The intense pain of their torture occasionally caused me to pass out, sometimes for several hours. During these periods, I saw myself floating above fields covered with colorful, giant flowers. I was clothed in the richest material made from the gossamer of a rainbow. The air was pure and fresh like after a light rain. And the atmosphere was crystal clear and bright even with no sunlight. I could recall every detail of my entire life as far back as the day I was born. I was happy when recalling my good deeds and then remorseful or ashamed of my bad actions. Was this the “Judgment Day” according to the Christian doctrine, or the “Nirvana and Hell Stage” of Buddhism? I don’t know, but suddenly I understood the twitter of birds and the chatter of fish, quarreling over a morsel of food. I therefore was no longer afraid of death. On the contrary, I yearned for the earliest moment when I could leave this earth behind. I wanted to exit this body of mine, which only housed my real being while it evolved through endless stages of transmigration of my soul. It was simply one among trillions of temporary addresses. When I awoke from each of these comatose bouts, I thought that all I had seen were simply dreams. But as the same experiences kept reoccurring, I then firmly believed in my afterlife. I told my torturers, sincerely and in earnest, “Please help me get through death’s portal. I have seen beauty and serenity on the other side of death. I will be forever grateful to you if you put a bullet in my brain and end it all. I don’t want to continue this terrible life. I promise I will not bear any grudge against any of you, ever and ever.” Mysteriously, my tormentors left me alone after that.

One day, a high-ranking member of the VC cadre showed me some black- and-white pictures of my slain comrade-at-arms for identification. I first of all recognized Captain Thach lying dead next to his empty M60, one eye closed, the other opened, a seeming smile on his lips. My heart sank. Tears sprang to my eyes.

The VC turned his head away as if he saw nothing. I also tried to find the body of my cousin, Warrant Officer Vuthe Cuong. His was not among the pictures. (His father, Vuthe Nghiep, was my uncle, my mother’s full brother. Nghiep was a journalist writing under the pseudonym of Than Phong. He was executed two years in Thu Duc, a borough of Saigon city). I said a silent prayer: “Good bye for now, my dear brothers, until we meet again.”

At Camp A9, most of the inmates were former governmental officials of the Republic of Vietnam. The camp consisted of rows of bunkhouses, steel-roofed, and walled with thin wooden boards. Perpendicular to the last row house was a bunkhouse surrounded by layers of barbed wire. About fifty of us occupied it. At night only one of our arms was unfettered; but on the contrary, during daytime, one hand and both legs were free. Here were some of my cellmates: a gentleman named Phanxuan Ha, who was suspected to be a high-ranking officer of the RVN Armed Forces using a fake ID card. He bore himself with poise and dignity. I asked him whether he had any relationship to a classmate of mine in the National Polwar College by the name of Phanxuan Mai. He smiled and said, “Oh, he might be a younger relative.” There was also a woman named Mrs. Minh Dang, the only female to be incarcerated with us. Her crime was that she supplied us “rebels” with a whole truckload of rice. Her iron chain became her rosary, and she fingered it while praying until it shone like polished stainless steel. Nguyenvan Chi was the one who was mistreated and tortured the most, as they mistook him for 2nd Lt. Tranvan Chi. (The real Lt. Chi bore a bullet through his right shoulder, but later made it to California USA). And there was Ngodinh Chien with his left arm paralyzed as the result of a bullet through his left shoulder, and Nguyenvan Can who had sores all over his body, except for his eyes. Another man from Binhdinh province looked like former Emperor QuangTrung. Trinhvan Thuong had a bullet wound through his calf; Phamvan Than wore a jacket peppered with dozens of bullet holes.

Also in this cell house I met a former soldier of mine named Daovan Lanh. I had no idea when and why he was incarcerated. But by then he was assigned kitchen duty for the camp. One day, while bringing rice rations to us prisoners, he recognized me, and just nodded as a sign of acquaintance. As for myself, a real infantryman of our RVNAF, I held my cheerful countenance. I joked with everyone, as I was expecting my certain death to come as a welcome friend. Every day we were fed twice, a single bowl of rice with “tiger” meat. A play on the onomatopoeic sound kop, kop, translated into “cop,” a tiger. The “tiger meat” was really rock salt, which when chewed gave out that sound. I used only half of my ration of salt to eat; the other half I used in a solution to wash my wounded knee before licking it with my own tongue. Once in a great while, we were fed with some cabbage soup or pumpkin seasoned with salt. Then one day, Lanh, the cook, surreptitiously gave me half of a small can of something dark and viscous, which he said was reduced fish sauce. Oh my, it was divine. I used only one spoonful each time on my bowl of stale rice, and it brought back to me flavors of high-end restaurant fare I used to enjoy.

A dozen days later, when no one was around, Lanh whispered to me, “Did you find the “sauce” o.k.?” “Many, many thanks to you, my friend,” I said. “In the dire straits I am in now, what you gave me has no comparison.” Lanh said, “They (the VC cadres) asked me to wash about two pounds of dried fish. I washed that whole thing with only one bowl of water. Then I reduced the water by half and that was the sauce you got. Please use it–try to endure and survive, OK?”

The winter passed by, a winter of grief and sorrow befalling all Vietnam that had suddenly turned into a huge prison. Four months later the VC transferred me to Ngaigiao hamlet, Ducthanh district. Though my cell was warmer than the previous one, it was far more difficult to rest. Swarms of bedbugs devoured us all night long.

At night, both my feet were shackled. In the daytime, when we went to our labor duty, only one foot was fettered. And thus we went through the Binhgia village narrow paths, with clanging chains marking our steps. I muttered a song entitled “Vietnam, Vietnam, our indomitable country,” and bitterly felt the meaning of the words, “I shake my shackles noisily in the face of everyone.” My smile was not a natural one. It was a far-fetched one. It was an enraged one. I will step up and smash this chain on the face of those people. 1st Lt. Nguyenvan Tai would sing over and over one line from a romantic opera called ‘The saga of Lan and Diep’: “My name is Nguyenthi Lang, my body lies here, but my soul has gone elsewhere a long time ago.”

It was in this camp that I witnessed the horrible death of two of my soldiers, named Dongquang Nhuong and Nguyenvan Hien. They had tried to escape from the camp but were recaptured. The VC bound their hands and feet and hung them upside down from the roof-trestle as one would hang two pigs. The head of the camp came out and picked up a wooden hammer used to straighten sheets of corrugated tin plates. It was about five to six inches in diameter, over a foot in length. A handle around four feet long bore into the middle. With one single strong blow, the man swung the hammer right onto Dongquang Nhuong’s head as if it were a coconut. With a thud-like noise it hit its aim. Nguyenvan Hien turned his head to see his friend and received a blow right in his jaw. The jaw fell apart while blood shot out jet-like. I closed my eyes and stifled a scream. The two bodies squirmed a few times and then hung lifeless. They lowered the bodies. I and three other men volunteered to bury them. The bodies, still warm, were laid upon a plank about six foot long and nine inch wide. We walked forward, the dead men’s arms swinging with the uneven steps of our gait. Hien’s head was still oozing blood. Nhuong’s head looked like a gigantic overripe tomato, with its eyes bulging and its face discolored and swollen.

The rocky soil was extremely hard to dig, particularly so when we only had some old, broken shovels. Lt. Tai, the smallest man but also the strongest and most dedicated, encouraged us, saying, “Let’s try to dig a deep grave for them, men.” We tried and huffed and puffed. At dusk, we had reached less than three feet. So we buried our two comrades as they were, with nothing to wrap their bodies, neither poncho nor mat. I gathered some old newspapers and covered their faces. Then I picked up a few pebbles and lined them around their heads, and ever so lightly, I covered their faces.

That night, it was impossible for me to fall asleep. Around midnight, under the feeble light of our cell I clearly saw Nguyenvan Hien standing by the window, looking out with sorrowful eyes in an immense empty silence. I muttered quietly words of consolation: “Hien, dear, be gone in peace. Leave this cruel world behind.

You have paid your dues. Be free from anger and hate. Let your mind soar to immortal bliss.” And thus I kept repeating my pleas and prayers until Hien’s ghost blurred into nothingness. I then felt something, perhaps a body moving next to me. I turned around and found Dongquang Nhuong lying with me on something liked the floor of a moving train, our backs damp as we were lying on cattle dung. I whispered to him, “Where do you think they are moving us to?” He replied, “Do not fret, big brother, they’re taking you to the North, but everything will be all right with you. You’ll be then successful overseas.” He laughed. Nhuong was always optimistic. I laughed with him and asked, “What? The North has never been our country. It’s our enemy’s land. And talk about success? How do you expect an inmate, an invalid to boot, to succeed at anything on that forsaken land of those cruel communists? OK, big success considering anyway.” We both roared with laughter. I awoke. I was lonely by myself. It was just a dream, and I was awake in a nightmare.

A few months later, an order came concerning my condition: “This inmate is relieved from punishment and is allowed to enlist in a re-education camp.” I was moved to Le Loi Camp. Here, though no longer under shackles, inmates were kept away from the population. I recognized quite a few of my friends over the barbed wire, such as Ngoba Lai and Nguyenhuu Tao. We just acknowledged each other by a glint of the eye, feeling ashamed, confused and bitter. Ngoba Lai winked at me and walked to the direction of the outhouse. There crouching next to each other, we exchanged information. Lai asked if I really needed anything but I gratefully refused his help, his condition was not much better than mine. A month later, I was sent to camp Long Giao. My arms were again tied behind me with telephone wires. My feet were bare, and I had nothing on me other than a pair of flimsy shorts and a little bag hanging in front of my chest. My two classmates, Phamvan Bong and Tranngoc Hoan, voluntarily received me into their group. I shared the same camp with other friends Nguyenquyet Thang, Nguyen Nhu, Chunggia Phong. Buiduc Hung, Nguyenthanh An, Dangkim Cuong, Truong Hoi, and Phamduc Thinh. In a camp next to ours there was Nguyenduc Phuong. These Polwar classmates shared foodstuff and clothing with me. I finally got a pair of army pants, a gift from Pham Tue.

On May 23, 1977, I was sent to North Vietnam aboard the ship Songhuong. We debarked at Haiphong harbor. The trip from Haiphong to the ferry on the Red River was by train. On the floor of the train, as I laid my body down amid the water buffalo dung, my mind went back to my fellow combatants in the jungle, to the horrifying death of my two young soldiers, to my own fate, to my own people, and to the national tragedy that befell Vietnam. With much sadness, bitter tears pricked my eyes.

Tony Thang Nguyen

Editor’s note: Captain Nguyen endured over eight years of hard labor in concentration camps throughout North Vietnam. He says that he dropped in weight from one hundred and fifty pounds to ninety pounds. In all the time of his incarceration, he was allowed to see his mother and his younger sister twice, for less than an hour each time. He was released in 1983, and emigrated to the United States in 1992.

Captain Nguyen of the Republic of Vietnam Armed Forces is now a Major, the Executive Officer of the Interpreters Team, Oregon State Defense Force. He owns and operates Tigard Transmissions Center. He is married and has two daughters. He married his wife three months after his release from the prison camps. His wife is a niece of an RVNAF Chaplain incarcerated along with him a long time. This Chaplain introduced Nguyen to his relative’s family with strong recommendations. Nguyen graduated from the RVNAF Political Warfare College.

56 War, Literature & the Arts