Showing posts with label dl Những mảnh nhớ. Show all posts
Showing posts with label dl Những mảnh nhớ. Show all posts

Tấm không ảnh của Đà Lạt

 Có anh nào dân Đà Lạt tên Phú, cựu học sinh trường Trần Hưng Đạo, gửi cho mình tấm không ảnh, lại khiến mình bay về miền quá khứ, nói như người Mỹ “back to the future”. Mình định không viết về Đà Lạt xưa vì toàn kể những kỷ niệm cá nhân, thấy bơ vơ quá nhưng lại có người liên lạc, gửi hình như thầm nói; viết tiếp. Có ông thần nào, người Sàigòn, yêu thích Đà Lạt nên cứ hỏi mình, rồi lượt gọt những từ phản động, rồi tải lên cho bà con ở Việt Nam đọc. Người Sàigòn còn chú ý đến sự tàn phá của Đà Lạt xưa nên mình kể tiếp.

Mình có tấm ảnh này nhưng thiên hạ gửi lại xem kỹ hơn thì thấy có nhiều điểm khác chưa kể. 

Tấm không ảnh này cho thấy 3 con đường: bên trái là đường Hàm Nghi trên đồi, bị cây che khá nhiều, ở giữa là đường Phan Đình Phùng mà khi xưa, thời Tây được người Việt gọi là Đường Cầu Quẹo và bên phải có một đoạn đường Hai Bà Trưng, từ trường Thăng Long (Hiếu Học) đến dốc Hai Bà Trưng. Sau khi giải ngủ, ông cụ mình đi học trường này ban đêm, lấy bằng tiểu học để vô ngạch công chức của ty Công Chánh Đà Lạt, được thêm lương mua sữa cho con. Tối mình hay đi đón ông cụ đi học ra. 

Trường này, nếu mình không lầm có lần do thầy Chử BÁ Anh làm giám đốc, sau này, dọn về đường Hoàng Diệu, đổi tên thành trường tư thục Văn Học mà mình có học tại đây hai năm cuối trung học đệ nhị cấp, được thầy Chử Bá ANh cho học miễn phí. Như có huông nên sau đó, được học bổng đi tây.

Mình đoán tấm ảnh được chụp từ trên máy bay, trước khi mình ra đời, vì thấy nhiều nơi khi mình lớn lên biến mất và những khu được xây cất thời mình còn nhỏ chưa được xây và sau Mậu Thân khi dân tình chạy giặc Việt Cộng, ở quê vào Đà Lạt.

 Nếu nhìn đường Hai Bà trưng từ bên tay phải sang thì thấy ít nhà cửa. Xa xa thấy dãy nhà của trường Thăng Long (Hiếu Học) xưa. Mình nhớ có học chung lớp hè với một cô nữ sinh trường Bùi Thị Xuân, ở khu chung cư này, tên Hoàng Lan thì phải. Khá xinh. Đối diện, trên đồi, có nhà của Hạnh, học chung khi xưa ở Yersin, mình có gặp lại một lần khi về Đà Lạt với con gái ga-ra STT, tên Phượng, chị của ca sĩ Lệ Thu bên Tây, có đến nhà mình một lần với Tú Anh, tại nhà con gái thầy Tạ Tất Thắng, thêm 1 trong hai chị em sinh đôi ở khu Nhà Chung. Cô chị thì nay ở Úc Đại Lợi.

Có con suối chảy song song đường Hai Bà Trưng, chảy về suối Cam Ly. Thật ra con suối này có chỗ được chia làm hai nhánh, 1 gần đường Hai Bà Trưng và một gần đường Phan Đình Phùng. Khu nhà thầy Thành Bắp Sú, chú Hồng dưới đồi lên nhà thương Đà Lạt, chưa được xây cất, ngay cả mấy nhà gỗ, nơi ông người Tàu, bán xắp xắp ở bên hông rạp Ngọc Hiệp ở.

Nói chung là phân nữa tấm ảnh bên phải là đất đai và nhà cửa của gia đình ông bà Võ Đình Dung. Ông này là thầu khoá có tiếng tại Đà Lạt khi xưa, người thầu xây cất nhà ga xe lửa Đà Lạt, và khu phố Hoà Bình (dãy nhà hàng Mekong, Việt Hoa và phía bên kia từ tiệm bánh mì Vĩnh Chấn đến phòng răng ông Trình). Theo mình đọc hay hỏi thiên hạ còn sống tại Đà Lạt thì từ Mã Thánh đến trường Việt Anh, toàn là đất và nhà của ông bà Võ Đình Dung. Như vườn ông Ba Đà, gần xóm mình.

Có chị bạn, nhà ở đầu đường Hai Bà Trưng, nơi mà nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, hay đạp xe đạp chở người em trai mà bạn bè hay gọi Vinh Kennedy đến thăm cô sinh viên đại học Đà Lạt, từ Sàigòn lên ở trọ sau này cưới nhau, cho hay là bố mẹ mướn nhà của ông bà Võ Đình Dung.

Chính ông bà Võ Đình Dung, đã hiến đất để xây chùa Linh Sơn và Linh Phong cho các phật tử Đà Lạt. Gia đình này có công xây dựng lên Đà Lạt khi xưa. Ông ta làm thầu khoán và nghị viên thành phố Đà Lạt dạo ấy nên biết rõ các khu vực được thiết kế, dành cho người Việt nên bỏ tiền ra mua hết đất đai và xây cất nên được xem là người giàu có nhất Đà Lạt.

Đây là rạp hát LangBian (Lâm Viên), sau này bị đập phá, biến thành cây xăng Ngọc Hiệp. Bên tay phải là tiệm Đức Lập, có cái hẻm đi vào, có tiệm mì quảng Thanh Bình thì phải của ông bắc kỳ nấu đồ ăn miền Trung, ngon có tiếng tại Đà Lạt. Mình có ăn 2 lần.

(Cảm ơn Sơn có nhắc đến rạp hát Langbian, hồi đó mình gọi là rạp Long Biên, là của ông bà nội chị là ông  Cai Sớm làm chủ. Sau vì thất bại trong việc xây dựng cơ ngơi nhà La Faro không được thanh toán sòng phẳng,  bà nội chị phải bán rạp hát lấy tiền trả công thợ. Lúc đó rạp Long Biên chiếu phim Việt Nam và phim Ấn Độ. Tụi chị vô xem khỏi mua vé. Lâu lâu cũng có hát cải lương.)

Nổi bật nhất là rạp xi-nê Ngọc Hiệp và rạp xi-nê LangBian. Giữa 2 rạp chiếu bóng nay là hai tiệm ăn của người Tàu tên Kim Linh và Như Ý. Sau này, rạp Xi-nê Lang Bian được phá bỏ để xây cây xăng Ngọc Hiệp, và dãy quán bên hông dãy phố Đức Tín, có quán mỹ quảng của ông bắc kỳ tên Thanh Bình thì phải.

Mình nghe một chị nữ sinh Yersin cho biết là con trai của rạp Xi-nê Ngọc Hiệp và Ngọc Lan, mới qua đời. Mình có nhắn tin cho Võ Hoàng Đa, bạn rất thân với anh chàng này từ bé nhưng không thấy trả lời.

Chỗ này, sau này họ xây một số nhà cửa trong hẻm này, đưa đến chiếc cầu nhỏ, băng qua vườn thiên hạ rồi đến đường Hai Bà Trưng, khúc trường Nữ Công Gia Chánh, không thấy trong ảnh. Hẻm này mình có học chung với Nguyễn Đình Tài, Lê NAm Sơn, Lê HÙng Sơn và Nguyễn Hùng. Mình có gặp lại Nguyễn Đình Tài, Lê HÙng Sơn và NGuyễn HÙng, còn Lê NAm Sơn thì nghe nói sau 75, làm CM30 nên bạn bè xa lánh, nay nghe nói ở Bảo Lộc, có tiệm mì rất nổi tiếng. 

Khu vực bên đường Hai Bà Trưng thì sau Mậu Thân thì thiên hạ cắm dùi xây nhà cửa nên khó nhận ra. Còn nay về thì chỉ biết tôi đi trong mưa sa.

Theo tấm ảnh thì khách sạn và tiệm ăn Cẩm Đô chưa được xây cất vì cao 2-3 tầng nhưng không thấy bóng dáng. Tương tự phía Hai Bà Trưng chưa thấy khu nhà của tên học chung khi xưa Vy Nhật Tảo. Ngược lại thì thấy tiệm bi-da Hồng Ngọc, nhà của bác sĩ Đào HUy Hách. Khu Dốc Nhà Làng hình như chưa được xây cất luôn. Có thấy mấy căn nhà gỗ mà anh bạn học chung khi xưa ở đó, cho thiên hạ thuê làm tiệm hớt tóc Như Ý, chưa thấy tiệm giầy Hồ Út.

Hôm trước, có đọc một bài viết của anh nào ở khu vực rạp Ngọc Hiệp, kể rất chi tiết các quán ăn, tiệm xung quanh. Ai tò mò thì lên tìm nhóm thân hữu Đà Lạt bắc Cali mà tìm đọc.

Bên phải đường phan đình PHùng, cận cảnh, sau dãy tiệm Đức Tín thì có dãy phố có tiệm sách Minh Thu. Mình gần như mướn và đọc hết sách của tiệm này vào mùa hè. Mình nghe nói con gái của tiệm này, học chung hay quen với Chử Nhất ANh tại Virginia, Hoa Kỳ.

Sau đó có tiệm Luồng Điện, của ông nội tên bạn học chung khi xưa tên Trần Trọng Ân. Mình có đến nhà hắn chơi bắn bi, xem hắn làm Sauce Mayonnaise. Phía sau có một con hẻm và vài căn nhà và đường đi ra ;hía sau vườn trồng rau. Hình như có một cô tên Bạch Tuyết, học trường Thành NGọc với mình. Lâu quá không nhớ rõ. Chán Mớ Đời 

Tên Ân này, nghe kể sau 75, làm công an, chửi bới bạn học khi lên văn phòng hắn, xin giấy đi đường chi đó rồi chết vì say rượu chi đó. Mình chỉ nhớ đi xem phim Độc Thủ Đại HIệp, Bambi với tên này. Hắn mê phim tàu lắm. Mình thì thích phim tây hơn. Sau này lên Grand Lycee thì hết chơi vì hắn học M1 còn mình học M2. Lâu lâu gặp mặt nhau thì cười một cái.

Kế bên tiệm Luồng Điện là tiệm sửa xe đạp và Honda, tên gì mà bổng nhiên quên tên. À Công Thành. Ông chủ là em của bác Cháu, có tiệm bán xe Honda ở đường Phan Bội Châu, bà con chi đó với mẹ mình. Chị em bạn dì chi đó nên mỗi lần gặp là phải chào. Hình gia đình này có một người em có tiệm sửa và bán xe Honda ở đường Mình Mạng, chỗ gần Photo Đại Việt, gần dốc Nhà Làng. Có nhà cậu Lan, từng làm trưởng ty cảnh sát Đà Lạt. Hình như là nằm vùng cho Việt Cộng.

Đại khái là khi xưa, bà cụ mình quen cả chợ Đà Lạt nên đi đâu cũng chào hỏi mà mình thì theo tục lệ xưa, phải cúi đầu chào đủ trò khi ra phố. Kể ra đây chắc ít ai còn nhớ những nhân vật này như bà Tư Bổ, bà Giáo Trình,…

Lâu lâu, đi ngang qua đây, mình hay đứng lại nghe thiên hạ chửi nhau bằng giọng Bắc và giọng Huế. Số là đối diện tiệm Công Thành có một tiệm khác, cũng sửa chửa và bán xe đạp, xe Honda. Thường thiên hạ đi hỏi giá tiệm này rồi qua tiệm kia hỏi gía, ai mất khách thì chửi thề rồi cãi nhau như mổ lợn. Thiên hạ bu lại xem rất đông. Mình nhớ cô gái tiệm Tân Tiến, chửi giọng Bắc kỳ mê luôn. Mình học để khi chửi lộn thì sử dụng. Mình học tiếng Việt nhờ nghe thiên hạ chửi lộn ngoài chợ và ngoài đường. Mình rất mê nghe thiên hạ chửi nhau nhất là phụ nữ. Họ chửi rất bài bản, có vần có điệu nên mình phục phụ nữ từ bé đến nay. Họ làm thơ qua những câu chửi. Ai buồn đời thì tìm mấy bài chửi của mình ghi lại, giọng bắc, giọng Huế đủ thứ. Chán Mớ Đời 

Có tên bạn học, con tiệm vàng Kim Thịnh, chửi tiếng Huế nghe cực đỉnh. Hắn hay đọc bài của mình nên kể lại đây để hắn tưởng niệm lại những ngày tháng năm cũ đã khiến nhiều tên trong lớp  nghe điếc con ráy. Nghe nói, sau này hai tiệm này, chuyên gia chửi ở đường Phan Đình Phùng làm sui gia, ký kết hiệp định tiệm sửa xe Honda, sinh đàn cháu mang tên Romeo và Juliet. Hôm nào buồn đời, mình kể chuyện tình của hai anh chị Romeo và Juliet đường Phan ĐÌnh Phùng. Kinh

Dãy phố cuối bên tay phải có tiệm may của ông Ba Hoà, chuyên may liểng đám ma, nay con ông ta nối nghiệp. Khi xưa, lính ra trận chết nhiều nên ông này giàu có vì Đà Lạt ít ai may liểng đám ma. Bên cạnh tiệm ông này là tiệm bán gạo, tạp hoá chi đó của gia đình một nữ sinh Bùi Thị Xuân, tên Liên, tập Thái Cực Đạo ở Thao Trường. Con trai Đà Lạt dạo đó hay gọi Liên Thái Cực Đạo, rất Tom Boy. Mình có gặp lại cô này tại Virginia, khi cô nàng chở vợ chồng Chử Nhị Anh đi xem nhà để mua. Mình không nhớ cô này có đẹp hay không chỉ nhớ là khá đẩy đà khi mình gặp lại.

Cạnh tiệm may của ông Ba Hoà, có con hẻm nhỏ mà người dân hay họp cho, thường được gọi là Chợ Nhỏ Phan Đình Phùng. Mình hay đi qua để về đường Hai Bà Trưng. Trong khu này có một tên học chung khi xưa ở Lycee tên Đào thì phải. Tên này lớn tuổi hơn mình, chở gái đi chơi khiến mình phục nức nở. Bố tên này có bồ hay sao ở Sàigòn. Mẹ hắn nhờ bà Dì mình, ở Sàigòn 20 năm, đi với bà ta xuống Sàigòn đánh ghen. Dạo ấy, dì mình, thợ may áo dài, từ Sàigòn lên, mướn chỗ may ở tiệm ông Ba Hoà. Kinh

Đặc điểm ở khu xóm này là nhà nào cũng xây một cái tường nhỏ trước cửa nhà để khi mùa mưa đến, bị lụt thì nước không tràn vào nhà. Phía sau khu nhà này có con suối. Dân xóm này, cứ đem rác ra đổ dưới suối, làm nghẹt nên mùa mưa là nước không thoát được, tràn lên bờ. Chuyện rất dễ hiểu, chỉ cần mọi người đồng ý đừng đổ rác xuống suối thì không bị lụt khi trời mưa nhưng dân khu đó theo chủ nghĩa mackeno. 

Đối diện tiệm may ông Ba Hoà thì mình không để ý lắm vì ít khi đi phía bên đó. Chỉ nhớ có tiệm giò chả An Lộc, tiệm Tân Tiến, tiệm gì làm nệm ghế Salon của một tên học Yersin khi xưa tên Châu. Nhà của ông thầy Tường dạy mình Thái Cực Đạo. Ngoài ra có tiệm bán vật liệu xây cất, tên gì có chữ Ký phía sau, bổng nhiêu quên tên. Không biết có phải Lưu Hội Ký, tiệm này hình như ở đường Minh Mạng, đối diện tiệm vàng Kim Thịnh. Cứ ghi xuống rồi khi nào tìm ra sẽ bổ sung. Cạnh tranh với tiệm Đức Lập bên kia đường.

Đối diện tiệm ăn Kim Linh và Như Ý thì chưa thấy dãy nhà phía sau có nhà Chú Cương, an ninh quân đội, bạn ông cụ mình. Thiên hạ hay gọi chú là Cương Đen, có lần chú được bổ sang Nhật Bản học về an ninh quân đội mấy tháng. Sau 75, đi tù rồi đi mỹ rồi về lại Đà Lạt và qua đời tại đây.

Đây là tấm ảnh nghe nói được chụp năm 1936, vị trí rạp Ngọc Hiệp, chỗ đường Mình Mạng quẹo xuống đường Cầu Quẹo, sau được đổi lại thành Phan Đình Phùng. Có chú thích bằng tiếng tây “quartier indigène “  mình có kể theo tấm ảnh này rồi.

Có anh nào, cựu học sinh Trần Hưng đạo, có kể rất chi tiết khu rạp Ngọc Hiệp nhưng không nói đến tiệm bảo hiểm Rồng Vàng của bác Nguyễn Đình Hoè, hay họ Võ thì phải, tay vợt số một bóng bàn của Đà Lạt khi xưa, nằm ngay góc con hẻm đi lên đường HÀm Nghi, chỗ tiệm phở Tùng. Mình có chơi với con trai của bác hồi nhỏ nhưng lớn lên thì quên. (Còn tiếp)

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Ông đồ ngày xuân

 Nhớ khi xưa, học Việt-Văn với Cô Liên. Có năm cô bắt học thuộc lòng khi gần Tết bài “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên khiến mình ngọng vì chả bao giờ thấy mực tàu, ông đồ tại Đà Lạt.

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Trên phố đông người qua...

Đây là hình ảnh ông đồ mà ông Vũ Đình Liên tả. Phải chi khi xưa, mình được thấy hình ảnh này thì có thể hiểu bài thơ.

Học mà chả hiểu gì cả, mình cần có hình ảnh mới giác ngộ cách mạng. Lâu lâu lên chùa thấy mấy dòng chữ Hán là ngọng, đến nay vẫn ngọng. Đi chơi các nước như Nhật Bản, Đài Loan, Trung Cộng thì phải lấy điện thoại ra, rồi mở cái App thông dịch, bấm hình một cái để dịch, hiểu tạm tạm chưa chắc đúng vì chữ Hán rất đa dạng. Đủ để đi du lịch xứ người hay nói chuyện. Cứ bấm nút để điện thoại tự động nói để người mình hỏi đường nghe. Nay thì có gú-gồ nên ít cần hỏi đường, cứ đi theo bản đồ.

Có dạo buồn đời, mình mua sách học chữ Nôm về để học. Được vài ngày là oải. Rồi đến chữ Hán cũng theo số phận lười. Mình có anh bạn học cũ, chịu khó học mỗi ngày một chữ nay nghe anh ta khoe biết được trên 5,000 chữ hán. Có thể mình sẽ ráng neo theo anh bạn năm tới, học lại. Biết đâu sau này có thể đọc sách báo chữ Nôm.

Ngày nay, ở Hoa Kỳ khi đi chùa mình cũng thấy mấy chữ Hán hay Nôm (mình không biết), lại ngọng nữa. Đi chợ Tết ở Bolsa, thấy họ viết chữ Việt theo lối chữ tàu nên mò mò cũng hiểu.

Từ khi người tây phương sang Việt Nam giảng đạo, kêu gọi mọi người trở về đạo. Họ phiên âm Việt Ngữ ra các mẫu tự La-Tinh để giúp họ dễ học tiếng Việt để giảng đạo. Có anh bạn học cũ, kể khi anh ta đi dạy các em người Chu-Ru thì khám phá ra sách vỡ của người Mỹ làm để học chữ Chu-Ru nên dựa vào mấy cuốn sách này, anh ta học được một ít từ để nói chuyện với người dân tại đây.

Nếu mình không lầm Việt Nam là nước có gần 100 triệu người , là cựu thuộc địa của tây phương nhưng vẫn sử dụng văn tự việt ngữ, tỏng khi các nước to lớn như ở châu Mỹ, Ba tây thì dân đông nhưng vẫn sử dụng tiếng Bồ Đào Nha, Mễ Tây cơ rộng lớn nói tiếng Tây Ban Nha,…

Mấy ông cố đạo tây phương đã thành lập được hệ thống phiên âm và viết tiếng Việt bằng chữ la-tinh, được gọi là chữ Quốc Ngữ mà người Pháp đã dùng khi họ cai trị Việt Nam. Đọc tài liệu tây thời thực dân thì được biết ông toàn quyền Doumer, lưỡng lự, không biết nên để người Việt tiếp tục học chữ Nôm hay chữ Quốc Ngữ. Cuối cùng, ông ta chọn chữ Quốc Ngữ. May quá!

Sau gần một thế kỷ, người Pháp áp dụng chữ quốc ngữ để giảng dạy tại học đường đưa đến người Việt trong và ngoài nước, ít ai hiểu được chữ Nôm hay chữ Hán. Hình ảnh trên cho thấy ông đồ thời nay, đội mũ bê-rê kiểu tây, viết chữ Hán hay chữ Nôm, thiên hạ ngồi xung quanh chả hiểu gì cả nhưng bái phục vì chữ viết như rồng bay Phượng múa. Chán Mớ Đời 

Lễ Tịch Điền năm con cọp nước tại Việt Nam. Họ sơn rằn ri lên thân con trâu để biến gien con vật thành loại Sửu-Hổ, hình như con trâu này bụng mang dạ chữa. Xem tấm ảnh thì nghĩ là bên tàu vì thấy nông dân bận đồ tàu. Hoá ra tại miền Bắc, đằng Ngoài vì nông dân bận đồ nâu, trong Nam thì bận đồ đen. Nhìn lại thì thấy một cán bộ quen quen nên thất kinh. Không hiểu bên tàu hay ở Việt Nam.

Hôm qua, thấy trên mạng đăng hình “lễ Tịch Điền” mà khi xưa thường được tổ chức vào trung tuần tháng giêng âm lịch. Tục lệ này khởi đầu bên tàu. Ông vua Lê Đại Hành mới bắt chước du nhập việc tế lễ cúng vua Thần Nông. Đến thời Tây thì dẹp vụ này. Đến khi tây về nước thì người Việt có lập lại cổ tục xưa bị ảnh hưởng tàu. Hoá ra người Việt mình chỉ bắt chước tàu rồi tây rồi lại tàu. Không có gì đặc trưng hay do chính người Việt tư duy đột phá, tự làm ra. Chán Mớ Đời 

Đọc trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, mua hồi về Việt Nam. Có viết về sự tích lễ Tịch Điền.

Nhớ hồi nhỏ khi chương trình “Người Cày Có Ruộng” được quảng bá, tuyên truyền kèm theo bài hát “Một Tấc đất là một tấc vàng” do ca sĩ Mai Lệ Huyền hát. Nay nghĩ lại rất đúng. Có vài người hỏi mua vườn của mình với giá mà mụ vợ nghe tới muốn xỉu. Kinh

  https://youtu.be/fRmDMKACIWU

Thấy báo chí, phim thời sự hay chiếu hay in hình ông tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, săn quần trồng lúa với các nhà nông hay lái xe máy cày. Hoá ra, Việt Cộng chiếm đất ở miền quê khá nhiều nên chính phủ Việt Nam Cộng Hoà mua đất rẻ của mấy địa chủ rồi tặng cho người dân để họ trồng trọt, theo Việt Nam Cộng Hoà.

Không biết ông quan nhớn trong hình có đọc được hay hiểu mấy tấm biểu ngữ, để trước bàn thờ hay không. Chắc được ban tổ chức giải thích nhưng dân làng thì chắc là không. Nghe nói được chiếu trên truyền hình thì cả nước ít ai đọc được chữ Hán. Chán Mớ Đời 

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 



Tìm lại bạn thời thơ ấu sau 50 năm

 Hôm qua, nhận được cú điện thoại từ Gia-nã-đại. Một anh chàng hàng xóm xưa, trên đường Thi Sách, kêu mới nói chuyện với Huỳnh Kim Sang, em bà con chi đó của anh ta, sau 20 năm mất liên lạc. Anh chàng này, có gặp lại cách đây mấy năm tại Quận Cam. Mình chỉ mại mại nhớ vì khi xưa không thân lắm. Anh chàng ở trong xóm của Mai Thế Lương, học trường Thanh Ngọc trên mình 1 vài lớp. Hình như gia đình của Mại Thế Lương mướn nhà của bố mẹ hắn. 

Dạo ấy, mình học trường Thanh Ngọc buổi sáng, chiều thì học Yersin, được xe trường này đưa đón. Hình như có hai chiếc xe, một màu vàng và một màu xanh. Mình đi xe màu vàng. Có tên Mai Thế Lương này đi chung với một tên Thọ, lớn hơn vài tuổi. Nếu mình không lầm hắn có hai cô em gái tên Mai Thế Lan và Mai Thế Liên. Đến nhà hắn, thấy bàn thờ to đùng của ông bố bị Việt Cộng giết đâu dưới đèo Prenn. Sau này, gia đình hắn dọn đi đâu nên hết liên lạc. Có gặp lại hắn một lần trong đập Đa Thiện, Thung Lũng Tình Yêu trước khi mình đi Tây. Hắn cứ như tây, cởi truồng, làm Chử Đồng Tử nhảy xuống hồ vô tư. Chỉ tiếc là không thấy công chúa Tiên Dung đâu cả.

Xóm Thi Sách đoạn này cạnh nhà thương, mẹ anh chàng Phú bán ngoài chợ, quen bà cụ mình. Có vài người mình biết mặt nhưng không quen. Muốn đến xóm này thì phải đi ngang cư xá Pasteur. Dãy nhà này thì cửa chính trổ ra đường Hai Bà Trưng, nhưng phía sau thì đỗ về đường Thi Sách. Có một chị quen ở đây mà mình không biết, kêu là bạn học của chị Tâm, con bác Tô trên đường Thi Sách. Biết chị Mão, anh Toàn, Thằng Hiệp,… qua Cali mới gặp, sau này lâu lâu hai chị em lên đài truyền hình hội thoại của đài Little Sàigòn.

Mình xin điện thoại gọi nói chuyện với Huỳnh Kim Sang ngay, hiện định cư tại Houston. Nghe lại giọng anh chàng này khá cảm động, bặt tin hắn từ năm 1972, sau mùa hè Đỏ Lửa. Việt Nam Cộng Hoà đôn quân, anh chàng sinh 1955 nên không được hoãn dịch, phải lên đường. Có tên em họ của hắn, gặp mình kêu hắn có viết thư cho mình nhưng tên này lười đưa lại, quăn xọt rác.

Mình về lại Đà Lạt lần đầu tiên, có đi tìm anh chàng này, Nguyễn Đình Tài và Ngô Văn Thuỷ nhưng không gặp. Chỉ có Đào Văn Quý, gặp ông cụ mình, báo tin, đến nhà mình thăm. Sau này, về Đà Lạt, không thấy bóng dáng Quý đâu nữa. Ông cụ kêu dạo trước anh chàng chạy xe ôm, sau bị ngựa đá hay sao đó, người lênh bênh, đi làm bảo vệ đâu đó. Anh chàng này học rất giỏi, đậu Assez Bien tú tài tây. Sau 75, làm đủ thứ trò rồi chạy xe ôm nuôi vợ con. Nghe nói vợ bỏ hay sao đó. Gặp lại bạn thấy thương. Không ngờ cuộc đời cho hai người học chung trường, chung lớp, chung thầy nhưng kết cục lại khác nhau. Khó định nghĩa được hay định trước tương lai của mỗi người.

Cũng có thể định nghĩa về cái Duyên, hội đủ điều kiện. Mình sang Văn Học thì chơi với Hùng Con Cua và Nguyên. Có anh du học tại Gia-nã-đại. Hai tên này cũng muốn du học, theo gót chân của anh chúng nên mình cũng ké theo giấc mơ của chúng. Mẹ mình khi xưa làm ô-sin cho bà Phúng, mẹ của cậu Mạnh, du học bên Pháp. Năm 1973, cậu có về thăm Đà Lạt, đến nhà mình thăm mẹ. Cậu kể phục mẹ mình lắm nên giúp mình kiếm được học bổng đi du học bên tây. Cậu Nghị, con ông Đàng, mình có gặp một lần trước khi cậu đi du học, cũng giúp mình ghi danh đại học khiến mình được trời ị trúng đầu, đi tây. Bà cụ tốt với thiên hạ nên thiên hạ giúp mình đi du học. Tương tự sau 75, họ giúp mẹ mình, buôn bán nuôi con và thăm nuôi chồng ở trại cải tạo 15 năm.

40 năm sau, mới gặp lại Tài và Thuỷ nhờ liên lạc qua diễn đàn Văn Học Đà Lạt xưa. Thủy có cho mình số điện thoại của Sang nhưng liên lạc không được, chắc đổi số. Nay gặp lại qua điện thoại thì bao nhiêu kỷ niệm của hàng xóm khi xưa, tự đâu trôi về với vận tốc nhanh của dây cáp thay vì chế độ 3 Gờ.

Hồi bé, hắn học tư với anh Bình, con ông Khoa nên khi ra chơi, cả đám hay chơi bắn bi với nhau. Sau này lớn lên thì hắn học trường Đa Nghĩa nên ít gặp nhau lâu lâu có gặp mặt thì cười như chào nhau. Đến khi mình sang Văn Học thì ngày đầu vào lớp, mình thấy hắn nên hắn ra hiệu mình ngồi cạnh. 

Quen hắn thì mình đang ngây thơ, chỉ thích tập võ hay chơi bóng bàn nay hắn rủ đi ngắm gái. Hắn có cô em học dưới một lớp thì phải, có mấy cô bạn học chung ghé nhà nên hắn tinh thông việc gái gú. Hắn biết cô nào ở đâu, tên gì. Một hôm, hắn ghé nhà, kêu đi chơi. Mình vác xe chạy vòng vòng với hắn. Sau đó, hắn kêu chạy về đường Hai Bà Trưng. Đến gần xóm Địa Dư, hắn kêu chậm chậm lại rồi chỉ sau lưng một cô gái đang đi một mình, ôm tập vỡ như Hoàng Thị Ngọ của ông Phạm Thiên Thư. Thật ra, nhìn phía sau, ai cũng là tiên nữ cả.

Hắn nói xem mặt cô gái. Mình chạy qua, ráng hết cam đảm, quay lại thiệt nhanh để xem cô nàng, sợ cô ta bắt gặp. Hắn hỏi đẹp không. Mình nói Duyệt. Dạo ấy, mình đã cận thị nhưng chưa đeo kính. Trông xa thì ai cũng là hoa Thiên Lý cả. Mình thấy cô ta đi vào chiếc cầu khu nhà ông Lào nên ngạc nhiên. Không ngờ có cô gái ở khúc này mà mình không biết. Nay phải nhờ một tên ở xóm khác chỉ. Chán Mớ Đời 

Khi mình về Hà Nội, tham dự buổi hội thảo về phát triển Việt Nam, sau thời Đổi Mới. Có một bà trong phái đoàn thanh niên cộng sản Việt Nam, đến chào mình, tự xưng là người Đà Lạt. Kêu biết em gái của mình, bố mẹ của mình, và ở xóm Địa Dư, cạnh nhà ông Lào. Mình hỏi có phải em gái của một tên mình hay đá banh chung hồi nhỏ. Cô nàng kêu đích thị khiến mình thất kinh, suýt ngất đi trong sự hổn loạn tinh thần. Mình hỏi anh chàng nhớ cô này, hắn cười, kêu mày còn nhớ à. Chán Mớ Đời

Dạo ấy, hắn và một tên khác thích hai cô trong lớp nên cứ viết thư truyền cho nhau. Mình thấy chúng sao gan cùng mình. Dám nói chuyện với gái. Ở xóm mình, gặp mấy cô láng giềng, mình mở mồm không ra, cứ cúi đầu lủi nhanh.

Mình hỏi hắn còn nhớ Nguyễn Thị Ri? Anh chàng bật cười, kêu mày còn nhớ à. Mày nhắc tao mới nhớ. Mấy chục năm nay, quên mất tiêu. Dạo ấy, mình mới sang trường Văn Học, ma mới nên cái gì cũng lạ. Trong lớp 11B, có độ 20% là nữ sinh. Mấy cô được xếp ngồi phía trên bên tay phải của lớp, bên trái thì con trai và phía sau mấy bàn con gái là đực rựa. Nói chung, mấy cô là thiểu số nhưng mồm rất to. Có một bàn toàn là mấy cô, cứ cười nói rất ồn ào, ăn vụng trong lớp. Gà trống thì gáy còn gà mái thì tục tát để gây chú ý cho gà trống.

Đó là trong lớp, khi ra chơi, tương tự, mấy cô tóm lại từng tụ, mấy tên gom lại một đống, nói chuyện chi đó rồi có thằng bổng ré lên như bệnh thần kinh, rồi lén lén địa về mấy cô. Sân trường cứ như cái chuồng gà. Nay kể lại mới thấy những giây phút ấy quá ngây thơ, giúp mình còn chút gì để nhớ, hồi tưởng lại thời, khởi đầu hỏi ai biểu em là con gái cho đời anh te tua. 

Hắn kể khi xưa, mày hay dùng mấy từ, câu rất lạ tai. Có lần đi sau một cô, mày nói câu … khiến cô ấy quay lại, chửi đồ mất dạy. Chán Mớ Đời . Sau này, khi viết tiếng Việt, bí chữ mình chế luôn cho khoẻ như khi xưa, nói tiếng Việt mình không biết từ vựng nhiều nên hay chế khiến tụi bạn đực ra, kêu hay hay dù mình hay chúng chả hiểu nhưng đại khái là hiểu ý mình muốn nói gì.

Trong số đó có Nguyễn thị Ri, gốc Chàm, từ Phan Rang lên học. Hết năm 11B thì mất tiêu, về quê lấy chồng hay vô bưng. Cũng có thể di tản qua trường Việt Anh. Lên năm 12B, một số rất đông học sinh, chuyển qua trường Việt Anh vì bộ Tam Sư, 3 ông thầy nổi tiếng dạy Toán Lý Hoá Đà Lạt dạo ấy, đầu quân  qua trường Việt Anh. Có hai cô rất xinh, mất tích. Chán Mớ Đời 

NGuyễn thị Ri và Nguyễn thị Đức như cặp bài trùng. Tên Sang và tên Hiệp, lớp 11A kết hai chị này, viết thư nhờ mình trao cho hai cô nàng. Tự nhiên mình được công tác người đưa thư. May mà không bị dính cái huông nếu không ra ngoại quốc đi làm cho bưu điện.

Học buổi sáng, chiều tên Sang này và em họ hắn tên Tuấn rủ mình đi đá banh ở sân vận động, với xóm kho bạc. Có tên Cường nhỏ nhỏ người nhưng đá khá hay. Có 2 anh em Nguyễn Mơ, Nguyễn Ước ở Cô Giang. Thành ở ngay xóm Giếng, trước khách sạn Mimosa, và đám học sinh Việt Anh… cả đám đá banh, trời mưa cũng đá, xỉn lầy, vũng nước cứ lăn ra đá. Cuộc đời thấy nhẹ nhàng.

Có hôm, hắn kêu mình không đi đá banh, đến nhà Nguyễn thị Ri, ở đường Thủ Khoa Huân. Cô này chắc nhà giàu vì ở trọ căn biệt thự to đùng hay là Việt Cộng nằm vùng không biết. Đứng đợi trước cổng thì thấy tên Hiệp 11A bò lại. Hoá ra hai tên này, viết thư hẹn hò với 2 cô kia, nhưng sợ sao đó lại kéo mình theo. Mình để hai cặp đả thông tư tưởng trong nhà. Mình bò ra sân sau, nhìn về hướng hồ Xuân Hương rất đẹp vì thấy luôn ấp Ánh Sáng và đạp cầu ông Đạo. Sau này, chúng hẹn hò ra sao thì không thấy rủ mình nữa. Mình lại bò đi đá banh.

Đùng một cái, Việt Nam Cộng Hoà ra lệnh đôn quân. Mình nhớ khuôn mặt của tên Sang này, cầm giấy gọi nhập ngủ rồi 2, 3 ngày sau. Hắn và tên em họ tên Tuấn, trong lớp có đâu 10% nam sinh, biến mất sau vụ đôn quân. Cả lớp đang vui đùa như trẻ thơ, bổng nhiên cảm nhận ra mình đã lớn, có trách nhiệm với đất nước. Bổng nhiên trở thành Phù Đổng, ra trận, không hiểu vì sao, phải học giết người.

Sang kể đi lính, vào chỗ khám sức khoẻ thì gặp tên Nguyễn Văn Vinh, bạn học chung lớp, đi Thuỷ Quân Lục CHiến, tước đó mấy tháng, bị thương, đang nằm viện. Hắn Chán Mớ Đời. Ngày đầu tiên nhập ngủ mà gặp tên bạn học đi trước hắn đâu trước khi vào học. Ra trận đầu tiên, bị thương. Mình thì không nhớ anh chàng này.

Học tập quân sự xong thì Sang được gửi đi học gở mìn, chất nổ, được biệt phái về phi trường Tân Sân Nhất. Ngày ngày đi tuần, xem có vật nào khả nghi, do mấy ông kẹ gài hay ai đó báo cho biết thì đến lần mò, gở. Không may thì cái đùng to lớn tiêu diêu miền cực lạc. Chiến tranh rất vô tình và tàn ác. Anh chàng kể chỗ ngày nay, Việt Cộng thành lập bảo tàng tội ác mỹ ngụy là nơi anh ta đóng quân. Anh ta thì đi gỡ mìn, chất nổ của đặc công Việt Cộng mà họ lại gắn tội ác mỹ ngụy.

Sau 75, thì bò về nhà. Đi làm thợ, lơ xe đò. Ngô Văn Thuỷ rủ ghi tên vào làm công nhân nhà máy gì đó. Một hôm cuối tuần đón xe về thì gặp ông cậu, đang lái xe tải. Ông cậu cho quá giang về nhà. Tối đó, thấy người lạ lên gác nói chuyện với ông cậu. Hắn bò lên gác, lén lén nghe. Sau đó, ông khách lạ đi đâu thì bò đi theo đến Rạch Giá. Ông khách lạ gặp anh của Sang, nói có thằng nào như công an, cứ đi theo ông ta. Ông anh kêu em tui. Ông anh tổ chức vượt biển nhưng không nói cho ai. Thế là hắn được lên tàu. Ra biển, thuyền chồng chành tưởng chết nhưng được tàu kéo vào bờ.

1 năm sau, định cư tại Hoa Kỳ, ở Houston. Cách đây, 20 năm, về Việt Nam một chuyến, có tên bạn giới thiệu cô cháu. Hắn bò về Cần Thơ gặp. Thấy nghèo quá nên lấy, đem qua Hoa Kỳ. Nay có hai mụn con. Chưa về hưu được vì con gái út mới 14 tuổi. Mình hỏi vợ chắc đẹp vì nghe nói gái miền tây đẹp như tây. Hắn nói không, đẹp thì nó đâu ở lâu ở dài với mình. Anh chàng có gửi hình vợ con thấy cũng hạnh phúc lắm.

Mình nghe hai anh bạn học cũ, kể chuyện vượt biển. Một anh thì khá hài hước, kể chuyến đi ra sao, một anh thì khá ly kỳ. Một anh thì tổ chức vượt biển, bị công an còng đầu, kêu lên Sàigòn, kiếm người về mua bãi. Một anh chàng thì cứ đi theo ông đầu nậu vượt biển. Có thể ông cậu muốn anh ta đi nên kêu đi theo ông này kiểu canh me. (Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn 


Học và viết tiếng Việt

 Dạo này, có ông thần nào “dán tên mình” vào một bài viết của cô nào, than là ngày nay người Việt viết tiếng Việt rất cẩu thả, sai lỗi chính tả, đủ trò. Thiên hạ nhảy vào hội đồng, ném đá những người viết sai chính tả như mình. Chán Mớ Đời 

Mình đoán là các chiến sĩ an ninh mạng, đang định hướng dư luận để họ quên đi vụ công ty Việt Á, được gắn huy chương nhà nước gì đó.

Thật sự, trình độ tiếng Việt của mỗi người Việt rất khác nhau nên không thể so sánh được. Mình lấy thí dụ: một cô bạn học khi xưa ở Yersin. Từ bé tới lớn học trường Tây, sau 75 qua tây học tiếp. Nay sống ở tây nên tiếng Việt không rành lắm. Ông chồng nói với mình là cô nàng đọc nhưng không hiểu những gì mình viết. Lý do là tiếng Việt không rành, chỉ biết nói chuyện vớ vẩn với người Việt tại Pháp. Dạo mình mới sang pháp, gặp người Việt, nói tiếng Việt như con mình ngày nay.

Một cô khác, tương tự, kêu ông chồng dịch ra tiếng tây những email của mình. Rồi email tiếng tây cho mình nhờ, dịch ra dùm tiếng Pháp, khiến mình ngọng. Chắc ông chồng Chán Mớ Đời cứ phải dịch ra tiếng tây cho cô nàng. Nói chung là mấy ông chồng liên lạc với mình nhiều hơn vì phải đọc i-meo của mình, rồi giải thích cho vợ còn mấy cô đọc không xong thì viết gì nổi. 

Mình theo dõi mấy người bạn học cũ Yersin, nay vẫn còn sinh sống tại Việt Nam. Họ viết rất chuẩn tiếng Việt. Lâu lâu có người sửa lỗi chính tả của mình. Lý do từ 1975 đến nay, họ sống tại Việt Nam thì tiếng Việt của họ phải được hoàn chỉnh, khác với các người bạn học cũ, ở hải ngoại.

Do đó, chúng ta không thể nào gọi những người không rành tiếng Việt là mất gốc, khinh thường chữ Mẹ Đẻ,… một người Việt tại Việt Nam, có thể không viết chính tả chuẩn vì họ không được học cao. Ngày nay, nhờ Internet, họ có thể lên mạng, giao tiếp với thiên hạ, nên có thể còm tiếng Việt sai chính tả. 

Nếu mình không lấy vợ việt thì chắc ngày nay cũng ngọng tiếng Việt. Mình đọc sách báo việt ngữ lại khi sang Hoa Kỳ làm việc. Tại New York, mình có gửi mua báo việt ngữ để đọc hàng tháng nên lò mò được chút tiếng Việt.

Cách đây mấy năm, một cô bạn i-meo kêu có liên lạc được với một cô học chung lớp khi xưa nên mình liên lạc và kể qua i-meo những kỷ niệm một thời đi học chung. Ai ngờ, cô bạn kêu còn nhớ gì không, kể tiếp. Thế là từ đó mình khởi đầu nghiệp dư viết ba-láp, ba-sàm cho đến nay. Cô bạn phải sửa chính tả cho mình khá nhiều, gửi cách thức đánh dấu hỏi ngã tùm lum nhưng vẫn sai chính tả. Hình như họ gọi là biên tập viên ở Hà Nội.

Mình nhớ có mua sách của ông Nguyễn Hiến Lê nói về tiếng Việt, xuất bản trước khi mình sinh ra đời. Không ngờ ngày nay, mình vẫn theo ý của ông ta. Khi nói hay viết tiếng Việt, mình cố gắng ít dùng tiếng địa phương (anh ngữ hay tiếng Ý Đại Lợi, tiếng Pháp,…). Có những từ không biết, phải dùng từ tiếng Việt sau 75.

Có anh bạn khi xưa học Marie Curie, ghét mấy người bạn học cũ, gặp nhau là cứ xổ toàn là toi, toi, moi moi,.. có lần anh ta kêu hôm qua tao đi xe lửa, tao lên toa, tao đái trên đầu toi,… cứ tưởng tượng mình đang nói chuyện với người Mỹ, bổng nhiên xổ một tràng tiếng Việt vào, hỏi họ có hiểu không. Mình có tên bạn người Tàu, đại hàn, khi gặp chúng, đang nói chuyện chúng xổ một tràng tiếng tàu hay tiếng Hàn với mấy người đồng hương của họ khiến mình ngọng.

Có lần mình viết tiếng Mễ, dặn ông thợ đến sau thì làm những việc như sau. Khi ông ta đến, mình mới khám phá ra ông ta không biết đọc tiếng Mễ. Ông thợ hay người mướn nhà gốc Mễ, nhắn tin cho mình sai chính tả tiếng Mễ rất nhiều. Mình đâu thể đánh giá họ là mất gốc. Tại quê nhà, họ là nông dân như mình, không được đi học nhiều hay thậm chí không được đến trường.

Mình tham gia hội Toastmasters để tập nói anh ngữ trước công chúng. Mình khám phá ra rất nhiều người Mỹ cũng lấn cấn vấn đề văn phạm nên mỗi buổi họp đều có người thay phiên nói về văn phạm hay nêu ra cái sai của mỗi người khi nói chuyện. Nói chung thì chỉ có những người mỹ lớn tuổi mới để ý đến cái sai văn phạm.

Thật ra tiếng Việt là một sinh ngữ nên thay đổi liên tục, cập nhập hoá với đời sống hiện đại. Nếu chúng ta mở mấy cuốn sách của nhà thi hào Anh quốc Shakespeare, chúng ta thấy anh ngữ thời của ông ta rất khác những gì chúng ta học ở trường. Đọc đã không hiểu mà bà thầy anh văn, dẫn mình đi xem King Lear ở hí viện Luân Đôn. Mình hiểu câu truyện trước đó, chớ khi xem kịch diễn thì ngọng.

Việt Nam có chữ Nôm, được dùng trước khi người Pháp đến, nay xem như là “TỬ NGỮ”, một ngôn ngữ chết như Hy-Lạp-ngữ. Có dạo mình mua sách để học chữ Nôm nhưng được 3 ngày thì bỏ cuộc. Có anh bạn xưa, rất chăm chỉ, mỗi ngày học một chữ, nay khoe học được mấy ngàn chữ.

Mình học chương trình Pháp từ bé, đến khi sang Pháp thì mình ngọng. Cách mình nói, được dạy trong sách vỡ nhưng gặp tây đầm thì họ nói cách khác. Điển hình: mình được ông tây bà đầm dạy nói: “je ne sais pas” thì bọn sinh viên học chung với mình kêu “sais-pas moi”. Ngoài ra là một sinh ngữ nên người pháp dùng tiếng lóng khá nhiều nhất là dân Paris. Mình phải mượn truyện thời đại để đọc, học các từ lóng của Tây đầm.

Dạo còn sinh viên, có một ông nhạc sĩ tây khá nổi tiếng với giới trẻ, tên Renaud. Mình nghe mấy đứa bạn trong lớp mở radio để nghe. Điệu nhạc thì rất đương đại nhưng mình không hiểu gì cả vì ông ta sử dụng tiếng lóng của người Pháp. Mình nghe như vịt nghe sấm nhưng từ từ rồi cũng hiểu được tiếng lóng của Tây đầm.

J'étais tranquille j'étais peinard
Accoudé au flipper
Le type est entré dans le bar
A commandé un jambon beurre
Et y s'est approché de moi
Et y m'a regardé comme ça
T'as des bottes, mon pote
Elles me bottent
Je parie que c'est des santiags
Viens faire un tour dans le terrain vague
Je vais t'apprendre un jeu rigolo
A grands coups de chaînes de vélo
Je te fais tes bottes à la baston
….

Dạo điện thoại bắt đầu có phần nhắn tin. Mình thấy mấy đứa con nhắn tin rất ngắn khiến mình tăm tối như LOL, idk,… nhưng từ từ rồi cũng hiểu ý chúng muốn nói gì.  Mình về Việt Nam, nói chuyện với mấy người em. Mình kêu mai ra “phi trường” khiến mấy cô em nhìn mình như bò đội nón. Một cô em khác nhanh trí kêu là “sân bay” mới giúp cô em kia thoát cảnh bò đội nón. Ngay trong gia đình còn không hiểu nhau thì người ngoài còn khó gấp bội.

Khi xưa, họ có làm mấy cái tách uống cà phê cho người có râu. Do đó, chúng ta không nên vơ đũa cả nắm về người viết không rành tiếng Việt.

Có người ở hải ngoại dị ứng với những từ dùng tại Việt Nam. Ngôn ngữ mà người ta dùng hằng ngày được xem là Sinh Ngữ, một ngôn ngữ sống thì có những từ mới, được phát minh và được người dân sử dụng. Mình học tiếng Việt thời Việt Nam Cộng Hoà, nên khi dùng từ được học ở trường khi xưa. Nhiều khi quên, đọc báo việt ngữ ngày nay, ngay các báo xuất bản tại Hoa Kỳ, cũng sử dụng những từ sau 75. Lý do là người Việt rời sau 75 khá đông. Giới di tản, dần dần vào viện dưỡng lão hết. Trong tương lại sẽ không có ai dùng các từ vựng Việt Nam Cộng Hoà. 

Chúng ta có thể dị ứng với các từ hậu 75 nhưng không thể chối cãi đó là ngữ vựng đang được sử dụng thường nhật. Vài năm nữa, thế hệ di tản ở hải ngoại qua đời, chúng ta sẽ không thấy ai sử dụng các từ trước 75 nữa.

Mình thấy nhiều người dị ứng với các cụm từ hậu 75 nhưng lại tải về trong nhóm các bài viết từ Việt Nam. Theo mình là do các chiến sĩ an ninh mạng viết để định hướng dư luận. Họ viết nhiều chuyện không thể tin được nhưng họ cứ tải về, câu Like mút mùa.

Hồi mình ở Anh quốc, học anh ngữ với người Anh nên dùng mấy từ của người Anh quốc dùng. Đến khi sang Hoa Kỳ thì lộn xà ngầu, các từ người Mỹ dùng hơi khác với người Anh quốc. Còn người Gia-nã-đại vùng Québec thì còn cha thiên hạ. Họ dùng từ của người Pháp 2, 3 thế kỷ trước đây. Giọng của họ khó nghe. Mình nhớ đi xem một phim pháp ngữ của Gia-nã-đại. Đâu 1 tiếng đồng hồ đầu tiên, mình chả hiểu gì cả. Hỏi cô bạn đầm, cũng lắc đầu nên sợ tới già, không dám xem phim tây Gia-nã-đại.

Mình thấy ở Việt Nam, giới trẻ dùng các từ lạ như “cu-te”, hoá ra là đọc từ anh ngữ “cute” theo cách phát âm của người Việt. Hôm trước, mình xem một chương trình hội thoại ở Việt Nam về giới trẻ. Mình thấy họ sử dụng các từ anh ngữ khá nhiều như thế hệ bố mình, xổ tiếng tây.

Có cô ca sĩ, nghe đồng chí gái kêu rất nổi tiếng ở Việt Nam. Cô này nói bận độ “Bờ lắc” khiến mình ngọng, đồng chí gái cười rồi giải thích. Hoá ra cô ta đọc tiếng anh từ “Black” theo âm điệu quan họ. Cô ta kể hôm nay cô ta bận đồ đen vì lý do gì đó. Mình theo dõi mấy đứa cháu trên mạng. Thấy chúng dùng những từ rất lạ. Trong tương lai, các từ chúng dùng ngày nay, sẽ được phổ thông hoá, mang vào tự điển Việt Nam. Xong om

Ngày xưa, nghe mấy ông thầy người Việt dạy trường tây, nói tiếng tây thì quen. Đến khi sang tây thì chới với vì phát âm sai. Mình cần một thời gian khá lâu mới quen phát âm theo tây đầm. Lý do phát âm theo mấy ông thầy, bà cô người Việt dạy chúng không hiểu. Nay mình theo học lớp phát âm tiếng anh tại đại học, để bỏ bớt cái âm hưởng nước mắm.

Có câu chuyện: một ông sư đi ngang một căn nhà, thấy hào quang toả lên. Tò mò ông ta đi vào xem. Ông thấy một bà cụ, ngồi lần chuỗi đọc Chú Đại Bi. Bà ta niệm “Tô Bò Kho”. Ông thầy ngứa mồm, nói bà ơi; Ta Bà Ha, bà niệm sai rồi. Bà cụ tiếp thu lời dạy của thầy nên tiếp tục niệm “Ta Bà Ha”. Bổng nhiên hào quang biến mất. Ông sư thấy lỗi của mình, nên nói tôi nói đùa với bà đấy, cứ tụng “tô Bò Kho”. Chán Mớ Đời 

Năm nay, mình theo học đại học cộng đồng, lớp miễn phí về cách phát âm anh ngữ. Mình tham gia hội Toastmasters, khi nói bọn mỹ có vấn đề hiểu mình vì nhiều từ mình phát âm không chuẩn lắm. Thấy khiếm khuyết thì đi học thêm, nhất là miễn phí. (Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn 

Những bức ảnh Tết Mậu Thân

 Mình có viết về những hình ảnh Tết Mậu Thân, đã ghi khắc trong trí nhớ của mình từ dạo ấy đến giờ. Mỗi lần mình ở trong nhà, bên Mỹ mà nghe tiếng máy bay trực thăng là trong đầu óc mình, các hình ảnh ảnh Mậu Thân lại trở về. Những hình ảnh bắn súng từ trực thăng bay trên đầu xóm mình về phái Số 4, bom dội từ các khu trục cơ Skyraiders xuống Số 4 vẫn đeo theo mình đến giờ. Sau Mậu Thân, hình hư mình bị buột phải lớn nhanh, tuổi thanh xuân hồn nhiên bị cướp mất. Từ đó mình bắt đầu nghi ngờ hàng xóm, người lớn, ai là nằm vùng.

Tuần trước, có người nào nhắn tin, hỏi mình, bài viết về Tết Mậu Thân nhưng tìm không ra nên mình viết lại. Lâu lâu, Facebook nhắc về bài nào thì mình mới đọc lại. Khi đọc lại thì mình hay cập nhật hoá những chi tiết mà mình đã nghe hay ai kể lại sau khi mình viết rồi tải lên lại. Ai có tò mò thì chịu khó tìm trên bờ lốc vì ngay chính em cũng tìm không ra, dù biết mình đã có viết về vụ nào đó.

Mình chỉ có 3 tấm ảnh Mậu Thân tại khu Hoà BÌnh. Một là chiếc xe Jeep bị cháy, một chiếc xe nhà binh của quân đội Mỹ đậu trước rạp Hoà BÌnh và khu photo Hồng Châu bị cháy sau Mậu Thân, có chiếc xe Traction đen, và người đứng bên cạnh xe, hao hao giống ông cụ mình. Lý do dạo ấy, ông cụ mình có chiếc công xa, hiệu Traction. Dạo ấy Đà Lạt chỉ có một chiếc xe loại này còn lưu dụng. Tiệm hủ tíu Nam Vang có một chiếc nhưng đã bán trước đó.

Chiếc xe jeep bị cháy ngay khu hoà bình. Gần cầu thang chợ, trước photo Hồng Châu
Burned Jeep at Hoà BÌNH SQUARE.

Có người còm: Năm 1968 , ông Kỳ là Phó tổng thống, không còn làm Chủ tịch UBHP trung ương .
Sáng mùng 1 Tết MT , chiếc xe jeep chở vài người lên khu HB tìm quán phở ( có thể là phở Bằng ở đường Hàm Nghi )  , bị vc núp trên lầu photo Hồng Châu bắn xuống , mấy ông liệng xe chạy xuống cầu thang chợ ( sát bên Mộng Đẹp ) .

Xem còm này thì có lý hơn. Việt Cộng núp trong mấy căn phố của dãy photo Hồng Châu bắn chiếc xe Jeep do đó mới nằm ụ tại đây. Bố cô bạn học xưa, sống sót nhờ chạy về phái cầu thang giữa khách ăn Mộng Đẹp và La Tulipe rouge

Tuần trước, có người nhắn tin, cho biết chiếc xe Jeep bị cháy, có thể là chiếc xe đã chở bố của họ trong ngày 1/2/1968 và ông ta bị tử nạn khi cũng đồng đội, vào trung tâm Hoà Bình để họp về phòng thủ trường Tham Mưu. Khiến mình tò mò tìm thêm tài liệu và kể bài kế tiếp bài này.

Sự vụ lệnh của đề đốc Chung Tấn Càng, chỉ huy trưởng trường Chỉ Huy và Tham Mưu, Đà Lạt, đã ký giấy phép cho 3 sĩ quan: thiếu tá Nồng Văn Thắng, đại uý Vũ Xuân Sinh, đại uý Trần Hương Trung vào ngày 1/2/1968. 1 trong 3 người này là bố của một chị bạn học khi xưa ở Yersin. Năm ngoái về Sàigòn, họp mặt thì chị ta nói nhỏ cho mình biết.

Permission signed by admiral Chung Tấn Cang, allowed the 4 officers to get out their camp so they could attend the meeting to protect Đà Lạt against the enemies, signed on February 1st, 1968. Last year, in Sàigòn during a reunion, one of my classmates told me one of the officer was her father, the person described by Skip, rolling down the stairs to avoid the shooting range of the Việt Cộng.
Bên hông tiệm ăn Mekong, quân cảnh Hoa Kỳ đậu để kiểm soát các hành vi các lính mỹ tại Đà Lạt.

American MP used to park here to check on GIs in Đà Lạt.
Tiệm ăn Mekong bên tay trái, đối diện tiệm cầm đồ Bùi Thị Hiếu, ngay góc Tăng Bạt Hổ, nơi cô Vi KHuê vào ngày mồng 3 tết Mậu Thân.

Mekong restaurant where my headmaster’s wife wrote about the day before the Việt Cộng attacked Đà Lạt.

Theo hồi ký của cô Vi Khuê, ngày mồng 3 Tết Mậu Thân, cô và Thầy Chử Bá Anh, còn gặp bạn bè tại tiệm ăn Mekong. Lúc đầu, mình đọc bài của cô thì mình thắc mắc vì trên nguyên tắc, tổng tấn công của Việt Cộng là ngày mồng 1 Tết. Lý do nào thầy cô vẫn vui vẻ ở nhà hàng Mekong ngày mồng 3.

Theo âm lịch thì ngày mồng 4 tháng giêng năm Mậu Thân (1/2/1968)

Lunar calendar February 1st, 1968 was the 4th of January the Monkey year.

Trong giấy phép của đề đốc Chung Tấn Cang ký, đề ngày 1/2/1968. Mình truy ra ngày âm lịch của ngày này là ngày mồng 4 tết Mậu Thân. Lý do mình thắc mắc vì ngày mồng 1 là đã nghe trên đài Sàigòn, ông Nguyễn  Cao Kỳ, uy ban hành pháp trung ương, kêu gọi các công chức, cảnh sát, quân đội về phép thì đến trình diện tại địa phương. Do đó, mình nghĩ Việt Cộng đã tấn công Đà Lạt rồi. Nay đọc lại hồi ký của cô Vi Khuê và giấy phép của đề đốc Chung Tấn Cang thì mới giải mả được thắc mắc của mình từ bấy lâu nay.

Đọc bài của mình thì một ông mỹ, Steve Broaring, từng tham chiến tại Đà Lạt, có gửi cho mình bài viết của một binh sĩ mỹ, có mặt hôm ấy. Ông ta ngụ tại khách sạn Mộng Đẹp, của ông Nguyễn LInh Chiểu, cạnh chợ Mới Đà Lạt. Ông Chiểu này, thầu khoán xây dựng chợ mới Đà Lạt. Sau đó ông ta xây khách sạn Mộng Đẹp. Ông này mất dạy cho là xây thêm một tầng, dù không được phép. Theo mình hiểu là kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, thiết kế cảnh quang của KHu Hoà Bình, có thể nhìn xuống hồ Xuân Hương, cũng như mọi nơi tại Đà Lạt, có thể nhìn thấy tháp chuông của Khu Hoà BÌnh. Do đó hạn chế khách sạn Mộng Đẹp, nhà hàng La Tulipe rouge, chỉ được xây 3 tầng nhưng ông này chơi cha nên xây 4 tầng rồi chạy chọt mấy ông lớn để bỏ qua. Đó là sau đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà, trước đó thì luật lệ rất kỹ luật, ít tham nhũng hơn.

Hôm qua, đọc tin tức mấy chỗ đang xây tại sân cù Đà Lạt, không có giấy phép. Kinh

Theo hồi ký của ông mỹ thì ông ta leo lên sân thượng của khách sạn Mộng Đẹp để quan sát. Theo mình đoán thì thằng bé đạp xe đạp chạy lên dốc Lê Đại Hành, Việt Cộng núp trên mái nhà của rạp Hoà BÌnh, kêu nó dừng lại sau đó, bắn chết. Khi chiếc xe Jeep chạy lên khu Hoà Bình, nếu họ không dừng lại để xem đứa bé bị bắn chết cạnh chiếc xe đạp thì có thể không bị B40 bắn trúng. Theo ông Mỹ thì tài xế lãnh đủ còn 3 người kia chạy xuống cầu thang chợ chỗ cái cầu, chỗ Photo Hồng Châu. Có lẻ bị thương nên qua đời như ông tài xế, rên rĩ.

The aerial picture showing the distance from the Mong Dep (MOdern hotel) where Skip stayed during the attack. He mentioned he went up to the roof of Modern hotel to take a look. So i guess he could see whole area of the square.
Đây hình chụp khách sạn Mộng Đẹp, nơi mấy ông mỹ ngụ lại trong mấy ngày Tết. Theo hồi ký của ông mỹ thì ông ta leo lên sân thượng của khách sạn với đèn đường rọi sáng tương tự có thể trên khách sạn cũng có đèn. Từ đó ông ta có thể quan sát toàn khu Hoà bÌnh. Theo mình ông ta đứng chỗ này, bắn M14 làm chết một Việt Cộng nằm trên mấy bậc thang cấp trước rạp Hoà Bình.

Based on his story, i guess Skip was on the top of the hotel, Lighting from the street could shed some lights on the hotel’s roof . 

Mình kể vụ này, khi đọc bài kể của ông mỹ thì mới hiểu tại sao ông ta lên sân thượng của khách sạn này, và có thể thấy những diễn biến xung quanh khu Hoà BÌnh vì tầng cuối được xây thêm bất hợp pháp.

Hình chụp năm 1968, có thể trước Mậu Thân vì chỗ Photo Hồng Châu chưa bị cháy. Chỗ khách sạn Mộng Đẹp trên sân thượng có thể thấy hết khu Hoà BÌnh. Theo lời ông Skip thì ông ta bắn chết một Việt Cộng nằm trên thang cấp. Mình đoán là trước rạp Hoà BÌnh, có thể phía tiệm đồng hồ Tiến Đạt. Độ 50-70 mét, ngắn hơn sân vận động.

Mới đọc lại thì thấy sau khu Hoà Bình, đường Hai Bà Trưng, có dãy nhà cư xá Pasteur với trường Nữ Công Gia Chánh, nhà mình thì quá mờ để nhận rõ. Ai có phần mềm làm rõ hình thì làm dùm em.

This picture taken in 1968. I guess before the Tet offensive because the Hong Chau photo area wasn’t burnt yet. Behind the downtown, I can see Hai Ba Trung Street, houses near by my home. Too far away. 

Hi Sony:
Your last posting on the Dalat History site intrigued me. I'm glad you translated the photo captions to English. That is one article I wish I could read in its entirety.
For the record, the aerial photo I took of the downtown area you included in the article was taken after Tet,1968, November or December. I didn't arrive in SVN until mid-March, 1968.
By the way, attached is photo of my 1949 Willys CJ-3A Jeep.
Bill

Ông này, tên Bill Robie, người chụp hình ảnh Đà Lạt rất nhiều, cho biết ông ta được phái về Đà Lạt vào trung tuần tháng 3 năm 1968, kể lại trong trang nhà của đại đội hay tiểu đoàn của ông ấy về Tết Mậu Thân tại Đà Lạt như sau:

I explained in Vietnamese what Warren Skip Galinski described what happened those days when he stayed at the Modern hotel. I don’t know what Mr. Galinski was doing in Đà Lạt. Any ideas?

Mình tóm tắc hồi ký của ông Warren “Skip” Galinski, tiểu đội 2, 101st RRC, TDY tại Đà Lạt. Mình không biết ông ta có nhiệm vụ gì, chỉ biết là ông ta kêu ít khi sử dụng vũ khí. Ông ta cho biết là xong quân vụ, đang đợi rời Đà Lạt ngày hôm sau. Ông ta ngụ tại khách sạn Mộng Đẹp (Modern), cạnh CHợ Mới. Tối đó, ông ta thấy người Việt bắn pháo bông, đốt pháo mừng xuân. Mình nghĩ chắc ngày mồng 1 hay Giao thừa thôi vì mồng 1 thì Sàigòn đang bị tấn công.

Ông ta nhớ, ai đó đánh thức ông ta dậy giữa đêm. Mọi người đều cẩn trọng vì quân đội Mỹ bị pháo kích, tấn công. Mình đoán là tại phi trường Cam Ly vì có ông mỹ đóng tại phi trường Cam Ly kể là Việt Cộng tấn công phi trường . Ông ta ngồi dậy và nói với họ là họ điên vì chưa bao giờ có đánh nhau tại Đà Lạt. Đà Lạt là trung tâm nghỉ dưỡng của hai bên. Vừa nói xong thì nghe đạn bắn trúng khách sạn. Ông ta lên sân thượng của khách sạn để xem tình hình. Vài phút thì ông thật ấy hướng phi trường Cam Ly bị pháo kích. Việc này thì ông Howard đóng quân tại Cam Ly có nói cho mình biết hôm ấy. Sau này, tiểu đội của ông ta được lệnh phản công, lái trực thăng, đánh phá các mục tiêu của Việt Cộng tạm chiếm như nhà thờ Tin Lành, ở đường Huỳnh Thúc Kháng hay Phạm Phú Thứ.

Hình chụp khách sạn Mộng Đẹp từ khu Hoà Bình. ông Chiểu cho xây khách sạn cao hơn 2 tầng nên choáng hết cảnh quang của phía hồ Xuân Hương. Theo lời kể của ông Skip thì ông ta đứng trong một trong những cửa sổ của khách sạn, mình đoán là tầng chót để bắn hạ một Việt Cộng tại khu Hoà Bình. Chiếc xe Jeep màu xanh da trời là của ông cụ mình. Đà Lạt dạo ấy chỉ có một xe Jeep màu xanh này.

Based on his account, i guess Skip was shooting from one of those windows to kill the Việt Cộng. The hotel’s owner cheated by building extra story which hide the landscape of the lake from the Hoa Binh square. For that reason Skip could stay on the roof and observed what was going on up the square. The blue Jeep, owned by my parents. There was one Jeep with that color at that time in Dalat. During the debacle, the Charlies confiscated it.

Khi trời sáng, ông ta khám phá ra Việt Cộng đã có mặt xung quanh khu khách sạn. Mình đoán là sau Mậu Thân thì quân đội mỹ, mới mướn hoàn toàn khách sạn này, vì có lính mỹ canh và hàng rào kẽm gai xung quanh chỗ này. Lính mỹ hay ngồi nơi mấy cửa sổ của khách sạn, hay dọc cầu thang, xem người Việt đi lên xuống cầu thang. Có cô nào xinh xinh thì la ó khiến mình bực mình mỗi lần ra chợ, đi ngang đây, thấy cảnh này. Có lần em gái của mợ mình đến Đà Lạt chơi, đi xuống cầu thang này với mình và anh Việt, con dì Ba Ca thì lính mỹ la ó chụp hình bú xua la mua. Cô Sương, sinh viên luật khoa tại Sàigòn, đi lại đám lính mỹ, nói tiếng Mỹ như mít. Mình phục quá cỡ. Sau đó, cô trở lại nói là lính mỹ kêu chụp hình nhưng không có phim vì cô hỏi khi nào rữa hình thì gửi cho cô ở Sàigòn. Chán Mớ Đời

Khi xưa, lâu lâu thấy xe nhà binh mỹ chạy ngang đường Hai Bà Trưng, binh lính mỹ thấy mấy đứa ở xóm Địa Dư chạy theo nên hay quăn kẹo cao su cho chúng. Chúng hả hê tranh nhau trong khi mình thì không bao giờ. Dù rất thèm. Lâu lâu có tiền thì đi qua rạp Ngọc Hiệp, có cái quán nhỏ trước tiệm ăn Kim Linh, mua kẹo cao su nhai. Mở tấm giấy bạc ra, đưa lên mũi hít như cho tháng 3. Thơm nức nở. Từ từ mới bỏ thỏi kẹo vào mồm. Nhai sơ sơ, rồi nhả ra, đưa cho mấy đứa em thay nhau nhai, mũi chảy lòng thòng, rổi hít cái rẹt vào. Kinh 

Trong khách sạn có vài sĩ quan mỹ, họ liên lạc với MACV (Military Assistance Commend, Vietnam), được biết là không chỉ Đà Lạt bị tấn công mà khắp nam Việt Nam. Việt Cộng không tấn công khách sạn thì không nên đá động gì cả, không được đánh đấm gì cả nếu không bị tấn công. Được lệnh, lính Mỹ trong khách sạn, ngồi đợi, phòng thủ trong trường hợp bị tấn công.

Trong lúc này thì Việt Cộng bắt đầu bắn chết người Việt. Ông ta nhớ một đứa bé, đạp xe đạp từ dốc Lê Đại HÀnh lên khu Hoà bÌnh. Đứa bé trai này bị Việt Cộng kêu dừng lại. Đứa bé bỏ xe đạp ngoài đường rồi ngồi nơi lề đường theo lời quát tháo của Việt Cộng. Thằng bé cứ nhìn chiếc xe đạp, cuối cùng thì chạy lại ngồi bên cạnh xe đạp, chắc sợ mất. Vài phút sau, Việt Cộng bắn chết đứa bé vì cãi lời cách mạng hay để lấy chiếc xe đạp đem về chiến khu tải đạn.

Howard did give me his chief’s email so he can explain much better the situation at that time but no responses from him. I explained why Skip called the Jeep White mice due to the Disney cartoons.

Một lúc sau khi đứa bé bị bắn thì ông ta thấy một chiếc xe Jeep, mà ông ta gọi là White Mice (chuột trắng, mình đoán xe Jeep này có hình thù như con chuột nên gọi như vậy. Trong mấy phim hoạt hoạ của Disney hay vẽ các chiếc xe Jeep này theo hình thù con chuột), chạy lên đường Lê Đại HÀnh. Mấy người trong xe, chắc không biết Việt Cộng đã làm chủ tình hình ở khu Hoà Bình nên cứ chạy xe tự nhiên như người Hà Nội. 

Có 1 lính mỹ, đứng canh chừng, ngay khách sạn Mộng Đẹp, giơ tay báo hiệu cho họ và họ vẫy tay lại theo tình hữu nghị quân đội Mỹ-Việt. Xe chạy đến gần xác chết của đứa bé thì ngừng lại để xem xét. Đùng 1 quả B40 bắn vào chiếc xe Jeep. Ông ta thấy 3 người trong xe nhảy ra xe và chạy xuống đường Lê Đại Hành rồi Việt Cộng bắn theo. Theo lời kể của ông thì mình không biết là địa điểm chính xác nơi thằng bé và chiếc xe Jeep bị bắn. Chỉ đoán là nơi chiếc xe Jeep bị cháy.

Hôm ở Sàigòn có cô bạn học chung Yersin khi xưa, cho biết 1 trong 3 người nhảy xuống là bố của cô ta, người lăn xuống cầu thang chợ. Mình cập nhật nơi đây.

Có lẻ người tài xế lãnh trọn trái B 40. Ông ta bị thương, la cầu cứu nhưng Việt Cộng thay vì bắn chết, cứ để ông ta rên rĩ đến khi tắt thở. Trong khi 3 người kia chạy xuống cầu thang chợ như hồi ký của cô Vi Khuê kể lại qua lời của bà Sơ. Không hiểu mấy người ở khu phố photo Hồng CHâu có mục kích vụ này hay không. Nếu có thì cho em hay. Cảm ơn trước. Chỉ muốn định xác địa điểm xe bị bắn.

 Trong ngày, MACV cho biết sẽ phản công với quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Lính mỹ cư ngụ tại khách sạn Mộng Đẹp cho biết là Việt Cộng nằm trong khu Hoà BÌnh. Ông ta ở Việt Nam 18 tháng nhưng chưa bao giờ sử dụng vũ khí. Hôm đó lần đầu tiên, ông ta bắn và giết một Việt Cộng, đang nhắm bắn về phía ông ta từ cầu thang. Mình đoán là mấy thang cấp chỗ Khu Hoà Bình hơn là cầu thang đi xuống chợ vì quá gần. Lúc đầu ông ta bắn trật vì không quen bắn. Đó là lần đầu tiên ông ta thấy sức công phá của súng M14 khi viên đạn trúng người lính Việt Cộng. Ông ta vẫn bị ám ảnh hình ảnh giết người lần đầu tiên. Ông ta khó ngủ vì cứ thấy hình ảnh Việt Cộng nhắm bắn ông ta.

Mình không biết những người theo Việt Cộng, bắn đứa bé có bị ám ảnh cả đời như ông lính Mỹ kể trên.

Ông Howard có cho mình email của xếp ông ta để mình liên lạc hỏi thêm tin tức về Mậu Thân nhưng không có hồi âm. Lớn tuổi nên họ cũng lười.

Mình không hiểu, tại sao chiếc xe jeep bị cháy, lại nằm gần chỗ Photo Hồng Châu. Có thể, người ta lấy xác ông lái xe rồi kéo để ở đây, cho xe cộ di chuyển ở khu Hoà Bình, điều tra rồi sau đó mới kéo xe đi. Cũng có thể là nơi chiếc xe bị bắn cháy và đứa bé bị bắn chết. Nếu ở trên sân thượng của khách sạn Mộng Đẹp thì có thể thấy được hết vì chỉ cách độ 100 mét.

Bức ảnh này cho thấy chiếc xe nhà binh mỹ, không bị bắn cháy. Đậu trước rạp HOà Bình, có cảnh đồ bể bị bắn tùm lum 

There was a GMC of American Army, stationed in front of the movie theater. Don’t know why? Any idea?  Howard gave me his boss’ email to contact but he didn’t answer.

Nay đã giải mả được hình ảnh chiếc xe Jeep, có một chiếc quân xa của Hoa Kỳ, đậu trước khu Hoà Bình. Mình đoán là không bị bắn cháy, có thể lính mỹ đậu ở đó vì trên véranda của rạp Hoà BÌnh, mình thấy mờ mờ 2 người ngồi sau bao cát. Nếu mình không lầm thì sau 68, có mấy bao cát để trên sân thượng chỗ này và lính Việt Nam Cộng Hoà phòng thủ.

Còn hình photo Hồng Châu thì mình đoán khi phản công, trực thăng hay thiết giáp Việt Nam Cộng Hoà bắn cháy. Hình như mình có nghe ai nói là Việt Cộng, đốt khu này với cây xăng trước khi rút lui. Ai có tin gì thì cho mình biết để cập nhật hoá để nhìn lại lịch sử Đà Lạt xưa.


Nguyễn Hoàng Sơn 


Hàng xóm không quen

 Hôm nay, mình nhận tin nhắn chúc mừng giáng sinh, nhưng không biết là ai. Theo phép lịch sự, mình nhắn lại cảm ơn và cầu chúc gia đình chị ấy được nhiều sức khoẻ. Lại được hồi âm, kêu em nhỏ tuổi hơn chị Thuỷ, cô em kế mình. Đoán là chắc quen thân gia đình mình vì biết đến cô em kế của mình ở bên Tây. Nên hỏi tiếp mới khám ra một chị hàng hàng xóm, ở cư xá Địa Dư khi xưa, có bà mẹ bán bánh căng.

Mình nói, chỉ nhớ khi xưa xóm này có một bà bán bắp nướng. Chị ta kêu cũng là bà đó, khiến mình suy nghĩ khá nhiều, moi óc trí nhớ mình để xem có ai bán bánh căng khi xưa tại đây. Hoá ra, trước 75 thì bán bắp nướng, thơm dứa cắt từng miếng, rồi sau 75 thì bán bánh căng mà mấy cô em mình là khách hàng quen. Cứ kéo nhau xuống đây ăn chịu, rồi mẹ mình trả sau, kiểu khi xưa mình hay ăn ghi sổ ngoài chợ. Mình chưa có dịp ăn bánh căn của mẹ chị ấy. 

Khi xưa, công chức có đồng lương cố định nên nhiều bà vợ, phải buôn bán thêm. Xóm mình có Bà Ron đi bán thêm ngoài chợ, bà Phúc gánh nồi bún bò đi bán thêm mỗi sáng, chỉ tiếc mình không có tiền để mua ăn. Dì Tân, con bà Dụ cũng mở cái quán nhỏ trước nhà để bán tạp hoá, kiếm thêm chút tiền nuôi con. Mình đoán bà Chí cũng tương tự, chiều chiều, ra ngồi trước cư xá, ngay chỗ con hẻm đi qua Phan đình Phùng, bán bắp nướng. Mình cũng không có tiền để mua ăn nên chỉ nhớ mại mại, có thấy một bà bán bắp nướng.

Chị này cũng tốt bụng, chắc nhờ ăn bánh căn của mẹ khi xưa. Đọc bài mình viết về Đà Lạt, lên nhà mình chụp hình để gửi cho mình xem, đỡ nhớ nhà. Lâu lâu có gì lạ thì cho biết. Chị hứa khi mình về Đà Lạt, sẽ lên nhà đổ cho ăn bánh căng gia truyền của gia đình. 

Ảnh chị ta chụp trong sân nhà mình. Thấy hoa bà cụ trồng.

Mình có một cô hàng xóm xa xa một tị, cũng không biết nhau khi xưa, con Cò Đào, ở xóm hai ông thần Sơn Tánh, thợ may khi xưa. Chị này, khi mình đi tây chắc còn bận quần thủng đáy. Cũng tìm tin tức về Đà Lạt xưa, để gửi cho mình đọc. Họ biết mình thích hóng chuyện nên có gì là lạ về Đà Lạt xưa thì gửi cho mình. Còn chuyện ngày nay thì mình chịu.

Có nhiều người đọc bài của mình, lại biết mẹ mình nên hay gặp mẹ mình trò chuyện, giúp bà cụ có chuyện để nói, bớt nổi cô đơn khi về già. Bố mình đã ra đi, bạn bè, người quen cũng lần lượt ra đi, để lại cỏi trống vắng trong đời. Mình đi tây, gần 20 năm mới trở lại Đà Lạt nên bà cụ nhớ nhiều. Thích nói chuyện với mình để kể chuyện ai đó, nhắc đến mình.

Từ ngày, có hai ông thần làm bờ lốc cho mình thì làm quen người Đà Lạt khá nhiều. Họ gửi hình Đà Lạt xưa hay kể những mẫu chuyện ngày xưa tại Đà Lạt ra sao. Ai chết vì tình, ai chết vì yêu gái Đà Lạt, đủ trò. Nghe họ kể thì mình thất kinh vì không biết đến mấy chuyện này. Chuyện trong xóm thì nhớ còn chuyện ở ngoài phố hay phường khác thì chịu.

Mình nhớ nhất câu chuyện, một cô gái chết đuối ở hồ Xuân Hương. Có một cặp trai gái yêu nhau, thề non hẹn biển nhưng bố mẹ cô nàng không chịu. Kêu tên này không đàng hoàng, cứ ham chơi, chi đó. Thế là hai anh chị họp khẩn, đề suất một kiến nghị và cả hai nhất trí là tìm cái chết, lấy nhau ở suối vàng như Romeo và Juliet Đà Lạt. Để lại tuyệt mạng thư, xin hãy chôn chúng con gần nhau trên đồi thông để các cặp trai gái yêu nhau sau này lên Đồi Thông hai mộ, để đắp mộ cuộc tình sớm nắng chiều mưa. Sau đó, cả hai ra bờ hồ, đứng trên cầu chữ Y, hôn nhau lần cuối rồi nắm tay nhau nhảy cái đùng xuống hồ.

Cái khốn nạn là tên con trai, thề non hẹn biển nhưng lại biết bơi. Nên khi nhảy xuống hồ thì hắn theo thói quen bơi trốn qua bên kia bờ trong khi cô gái như cơn mưa phùn của Đức Huy, từ từ chìm theo cuộc tình. Tên con trai bơi qua Thuỷ Tạ, leo lên bờ, sợ quá, đi xe đò về Sàigòn. Mấy ngày sau, cảnh sát còng đầu ở Sàigòn, giải về Đà Lạt. Từ đó con trai Đà Lạt mang tiếng là hứa lèo nên mình bỏ đi Tây để khỏi mang tiếng ác. Chán Mớ Đời 

Hình chị hàng xóm gửi, chỗ Ấp Ánh Sáng, họ giải toả để xây nhà nhưng mới được phần bên của con đường Ấp Ánh Sáng. Trong khi chờ đợi, mua khu bên kia thì họ cho trồng hoa cho thiên hạ chụp hình.

Có mấy người Đà Lạt xưa, tính tổ chức, gặp mặt ngày mai, ăn bún bò. Con gái mình từ Nữu Ước về ăn giáng sinh với gia đình, kêu chắc dính covid. Hôm qua, nó bảo kết quả thử nghiệm là dương tính nên mình báo cho họ, hẹn khi khác. Giáng sinh năm ni sao thấy lạ. Con gái về, thường thấy nó vui, kể chuyện đủ trò, nay nằm trong phòng xem phim. Thằng con theo mình lên vườn, hái bơ cho cô cháu bán kiếm tiền ăn Giáng Sinh. 

Đồng chí gái thì bệnh, ăn uống không đủ chất bổ nên chở đi bệnh viện xem. Bác sĩ kêu thiếu Sodium và Potassium nên chóng mặt. Về nhà mình phải bồi dưỡng thức ăn. Mấy hôm nay ngủ được nên cũng mừng. Đồng chí gái bắt đầu tập Trạm Trang Công và thở nên thấy đỡ. Ngủ tương đối khá hơn trước. Mình nói tập Hồng Gia và Trạm Trang Công, không chịu vì lãnh đạo lúc nào cũng quang vinh, vĩ đại, không thể nghe thằng chồng nông dân. Đau quá, phải nghe nên bắt mình tập chung thì đỡ. Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời vợ lớn mà nghe lời chồng.

Dạo này, mình đang lo bán mấy căn nhà ở xa, lái xe cả tiếng để mua mấy căn hộ gần nhà mình, nên cũng lu bu, không nấu ăn cho vợ. Vợ làm việc ở nhà nên không nấu cơm được. Mới bán được vài căn ở xa để mua vài căn hộ khác thuộc thành phố mình ở. Đang truyền nghề cho thằng con.

Tuần trước, có hẹn với một cặp vợ chồng mỹ trên Torrance, họ bán 4 căn hộ thuộc vùng Rent Control nên mình không thích lắm nhưng họ có thể cho vay lại. Dẫn thằng con theo để họ nghề thương lượng. Mình kêu nó đem theo hồ sơ tất cả mấy căn nhà mình mua, do chủ nhà vay lại để đưa cho chủ nhà xem làm bằng chứng. Người già, họ rất cẩn thận nên phải rò trước những lo âu của họ.

Mình đoán là chủ nhà cần tiền để làm gì đó. Họ không có con cái. Họ muốn bán lấy tiền rồi đóng thuế cho khoẻ việc đời. Chắc sức khoẻ không khá vì mình thấy bà vợ, người quyết định, bố mẹ để lại, khuôn mặt không thấy khoẻ lắm. Khu này cho mướn mỗi căn hộ giá $1,750/ tháng mà họ chỉ cho thuê $650/ tháng. Chắc họ không lên tiền nhà từ 20 năm nay. Cuối cùng thì họ bán cho ai trả tiền liền, dù phải đóng thuế. Không có duyên mua thì đành chịu nhưng thằng con cũng học được chút gì.

Dạo này mưa đầu mùa nên phải lên vườn xem có hư hại gì không. Nên cũng bận. Mỗi ngày lên vườn đi bộ tối thiểu 4 dặm, để chuẩn bị leo núi Machu Pichu 7 ngày 6 đêm tại Peru trong 4 tháng tới rồi Đỉnh Whitney mà năm ngoái mình không thực hiện được vì họ đóng cửa các công viên tại Cali phòng cháy rừng.

Tối qua, mình nấu tôm hùm và cá hồi, cả nhà ngồi 4 góc bàn lớn để ăn giáng sinh. Uống champagne, sau đó hát karaoke, khá vui. Sau những giờ phút căng thẳng vì con gái dính covid. Hôm qua, 3 cha con đi bộ 4 dậm, che dù dưới mưa. Đi dưới mưa Cali, lại nhớ mưa Đà Lạt.

Đầu năm, chúc các anh chị cùng gia quyến được nhiều sức khoẻ.

Nguyễn Hoàng Sơn 

ADU, SB 9, và SB 10

Đầu năm nay 2022, hai đạo luật về địa ốc SB 9 và SB 10 sẽ bắt đầu hiệu lực. Hai đạo luật tiểu bang này được thông qua nhằm cải tiến tình trạng khan hiếm nhà cửa tại California. Dân số lên đến gần 40 triệu người, thường được tập trung tại miền bắc xung quanh San Francisco và miền nam xung quanh Los Angeles. Còn miền trung Cali thì chỉ ruộng và ruộng, ít dân cư. 

Theo thống kê, tiểu bang Cali cần tối thiểu thêm 3.5 triệu căn hộ và 2 đạo luật SB 9 và SB 10, sẽ giúp Cali có thêm 3.5 triệu căn hộ trong vườn 4 năm tới. Hơi hoang đường nhưng khiến mình thích nên tính đi làm nghề vẽ và xây nhà lại.

Theo thống kê thì năm 2020, vùng Los Angeles có đến 65,000 người vô gia cư. Hôm qua, mình ghé lại Bolsa để mua cháo cho vợ. Xe vừa vào bãi đậu xe, phía sau thấy số người vô gia cư gia tăng khá nhiều. Khi xưa, thấy một hay hai người, nay đông hơn quân Nguyên. Cho thấy, vụ đại dịch đã làm nhiều người mất nhà.

Theo mình hiểu việc khan hiếm nhà cửa tại tiểu bang Cali vì luật lệ xây cất năm 2000. Từ khi tiểu bang chuyển hướng chính trị, bầu cho đảng Dân Chủ. Luật lệ bắt buộc phải đóng tiền đủ thứ để bảo vệ môi trường,..khiến xây cất rất mất công, mất thời gian khiến nhà cửa lên giá như điên. Mình nhớ xây căn nhà 2 tầng, 4 phòng ngủ 3 phòng tắm, ga-ra 2 xe chỉ mất có 6 tuần lễ trong khi thủ tục giấy tờ phải mất đến 7 tháng trời. Từ đó, mình bỏ nghề xây nhà cửa vì lâu lắc. Mượn tiền để xây nhà mà chúng bắt phải đợi cả năm thì chết.

Giá xây nhà ở Cali đắt gấp 3 lần các tiểu bang khác.

Thật ra, các luật mới về xây cất, giúp kỹ thuật xây dựng tốt hơn, nhà cửa sẽ bảo đảm khi bị động đất,… vấn đề là các thủ tục hành chánh gây thêm phiền phức, mất thời gian. Mình đi Seminar, gặp mấy ông giám đốc than trời. Họ muốn đầu tư, xây công ty, mướn thợ, tạo thêm công ăn việc làm cho một thành phố Moreno Valley lên đến 40,000 công việc. Vấn đề thành phố, không cho phép. Bắt phải mướn một chuyên gia về môi trường xem xét có loại kangooroo chuột chi đó hay cắc kè,… một loại thú hoang mà không ai biết hay nghe đến bao giờ.

Các nhà đầu tư, mua đất để xây nhà, chi phí quá cao nên khi bán thì chỉ có dân trung lưu , có chút tiền mới mua được. Còn dân nghèo thì đành chịu, đi thuê chung cư. Luật xây cất, công nhân lao động, bắt buộc đủ trò khiến tiền lệ phí giấy tờ lên đến 15-20% tổng số xây cất nhà cửa.

Vấn đề này đưa đến vấn nạn khác là họ phải mua các khu đất ở gần rừng, giá rẻ, đất hoang để phát triển, gây nhiều vấn đề về hoả hoạn, cháy rừng tại Cali.

Từ 20 năm qua, Cali không thấy xây cất chung cư hay nhà cửa cho dân nghèo. Khó làm! Ai cũng hiểu vấn đề nhưng không nói ra. Trước năm 2000, mình xin phép xây cất, ngay tại chỗ. Chỉ vào thành phố, đem bản vẽ rồi tên kỹ sư của thành phố, xét rồi đóng dấu. Nếu sai nhiều thì hắn kêu về sữa lại rồi hẹn ngày khác.

Nay thành phố, sợ bị thưa kiện nên giao cho mấy công ty kỹ sư tư nhân để họ xét duyệt. Bọn này thì mình không gặp mặt được, cứ viết thư kêu sửa cái này, cái kia để câu thêm giờ, kiếm thêm chút tiền. Thủ tục xin giấy phép kéo dài, mất thời gian. Tốn thêm tiền vì thành phố ở giữa kiếm chút tiền, làm thủ tục đưa cho kỹ sư tư nhân xem xét hồ sơ.

Khi ông Trump lên thì có ra chương trình Opportunity Zone, hầu giúp tái thiết lại các khu phố cổ nhân đụng phải các luật lệ xây dựng mới của tiểu bang và địa phương nên cũng ngọng.

Để giải thích thêm vụ khan hiếm nhà cửa tại Cali. Khác với các tiểu bang khác, Cali được xây dựng, phát triển sau đệ nhị thế chiến thứ 2. Dạo ấy, xe hơi được xem là phương tiện, giải phóng con người. Ở các tiểu bang khác, đi đâu phải leo lên xe buýt, xe Tram, xe lửa hay máy bay. Hệ thống hạ tầng cơ sở khá ổn định.

Ở Cali, các công ty bán xe hơi khuyến khích mua xe hơi, để được tự do nên các thành phố, hạ tầng cơ sở, kiến thiết đô thị được dựa trên việc di chuyển xe hơi. Đi các tiểu bang khác thì chạy xe trên xa lộ cả tiếng đồng hồ không thấy một bóng con bò. Cali trở thành biểu tượng của người Mỹ, vùng đất hứa nên ai nấy cũng dọn về đây ở, nhất là vùng Silicon Valley, khởi đầu cuộc cách mạng công nghệ điện toán.

Xa lộ Cali được xây đến 5, 6 làn mà vẫn chật cứng. Thiên hạ dọn về đây ở vì khí hậu và công việc. Tiểu bang lại khuyến khích xây nhà cửa, biệt thự nên cần đất. Trước đây ở Los Angeles, mỗi miếng đất là 3,000 sq.ft., xây một căn hộ 2 phòng ngủ 1 phòng tắm. Không cần ga ra, chỉ cần có chỗ đậu cho một chiếc xe.

Nay xây nhà phải có ga-ra 2 xe và chỗ đậu cho ít nhất hai chiếc xe khác. 5 năm gần đây, mình thấy người ta xây các chung cư nhiều hơn là nhà. Trong các thành phố, họ đập phá hay sử dụng các khu kỹ nghệ để làm chung cư.

Cách đây 2 năm, luật ADU ra đời nhằm giải quyết vấn nạn nhà cửa ở Cali. Đạo luật này cho phép chúng ta xây trong lô đất của mình thêm 1 ADU (accessory Dwelling Unit), một căn hộ khác và 1 JADU (junior accessory dwelling unit), hoán đổi ga-ra thành căn hộ nhỏ. Luật ADU bổng nhiên biến vùng đất Cali từ 1 căn hộ thành khu có thể xây 3 căn hộ trong một đêm. Luật này ra đời cũng khiến dân Cali nức nở nhưng vẫn gặp phải vấn đề thủ tục hành chánh. Người dân đi xin phép xây cất thì bị chính quyền địa phương, thành phố bác đơn xin xây thêm ADU. Thế là ngọng. Một ông thầu khoán kể là khách hàng ở thành phố Thousand Oaks, xin xây thêm ADU nhưng bị bác đơn hết.

Từ đó họ mới cho ra luật SB 9 và SB 10. SB 10 giúp các thành phố có thể thay đổi các vùng lại để gia tăng các căn hộ. Điển hình là các thành phố bắt mỗi lô đất phải 10,000 sqft. Họ có thể bớt lại sự đòi hỏi.

SB 9 thì cho phép chúng ta có thể chia lô đất đang ở thành 2. Và có thể xây 2 căn hộ. Xem như từ 1 căn nhà, chúng ta có thể biến thành 4 căn. Cái hay là họ không đòi hỏi phải thêm chỗ đậu xe, nhất là ga-ra. Trước đây, trung bình 1 căn nhà 3,4 phòng ngủ thì tiêu chuẩn ga-ra 2 xe. 5 phòng thì 3 xe nên tốn tiền. Nay chỉ cần từ nhà đến bến đậu xe buýt chỉ cần không quá nữa dậm là không cần phải có chỗ đậu xe hay ga-ra.

Vấn đề sẽ xẩy ra là trong các khu dân cư sẽ có vấn đề đậu xe. Ngày nay, vào các khu dân cư bình dân là thấy xe đậu đầy nhất là vụ đại dịch, thiên hạ học hay làm việc ở nhà. Ban ngày đã không có chỗ đậu xe. Đêm về là một vấn đề hay sáng nào mà thành phố cho xe đi quét đường.

Dạo này, mình dự seminar và đọc tài liệu về ADU và SB 9, 10 khá nhiều để có cái nhìn rõ ràng hơn.

SB 9 biến các lô đất tại Cali thành vùng R-2. Chủ nhà có thể chia lô đất của mình ra làm 2, không dưới 1,200 sqft. Hai lô đất bằng nhau hay 40% của lô rộng nhất. Thành phố có thể đòi hỏi thêm một chỗ đậu xe.

SB 9 không áp dụng vào các chương trình đập phá hay sửa chửa các chung cư dành cho người nghèo. Hay những công trình cần phải phá đập hơn 25% hay những nhà nằm trong khu phố cổ, lịch sử. Mình có sửa chửa một căn nhà trong phố lịch sử. Mệt lắm.

SB 9 cho thấy nhiều vấn đề sẽ xẩy ra: chỗ đậu xe, an ninh cho dân cư vì càng đông thì khó kiểm soát, đưa đến trộm cướp phạm pháp. SB 9 xem như đã xoá sổ các vùng dân cư biệt thự.

Xem hình giữa nhà cửa hiện nay, biệt thự. Người ta có thể chia ra làm hai, gọi là Duplex, rồi thêm JADU, thêm một ADU (bên phải) hay chia ra làm hai, thành 2 duplex mỗi lô và thêm mỗi lô một JADU. Xem như 6 căn hộ.

Đây là bản vẽ cho ADU được xây mới. 1 phòng ngủ, 1 phòng tắm.
Bản vẽ hoán dổi ga-ra 2 xe thành căn hộ, 1 phòng ngủ và 1 phòng tắm.
Bản vẽ hoán chuyển ga-ra 2 xe trên lầu. Xem như vẫn giữ 2 xe đậu trong ga-ra.

Xem về tài chánh, có nên làm hay không? (Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn 

Xóm tôi, con dốc nhỏ

 Mình có viết về mấy con hẻm Đà Lạt khi xưa nhưng chưa viết về mấy con dốc Đà Lạt xưa. Đà Lạt là xứ đồi núi nên đi đâu cũng phải leo dốc. Theo ký ức mình thì có vài con đường không có dốc như Phan Đình Phùng, Cường Để, Hoàng Diệu, dọc bờ hồ Xuân Hương. Ngoài ra đều có những con dốc nhỏ.

Theo mình, dốc cao nhất và khó đi nhất vào mùa mưa là dốc Sòng Sơn. Chỗ đường Triệu Việt Vương và đồn Quân Cụ đi vào Suối Tía. Mùa nắng thì đất đỏ, leo lên tới đầu dốc là mặt mũi mình bị bụi đỏ bám như mọi da đỏ. Còn vào mùa mưa thì xem như phải chụp ếch. Đường đất, chưa được tráng dầu hắc. Hay dốc vào đập Đa Thiện, Thung Lũng Tình Yêu. Ngoài ra có mấy con dốc Đào Duy Từ, dốc Xuân An.

Dốc mình hay đi qua là Dốc Nhà Làng, từ đường Phan đình Phùng, ngay khách sạn Cẩm Đô đi lên đường Minh Mạng hay quẹo qua đường Duy Tân. Lối đi thường khi mỗi lần mình ra chợ. Sau này lớn lên, mẹ mua cho chiếc xe gắn máy thì chạy đường Phạm Ngủ Lão ra chợ. Ít dốc. Dạo ấy, xe chỉ có 50 phân khối, không như bây giờ, leo dốc Đà Lạt là một vấn đề. Hai chiếc xe của mình BS và Honda đều được độ lại nên mạnh hơn.

Dốc Nhà LÀng có căn nhà bà giáo Trình trước khi ông Đoàn và tiệm chụp hình Mỹ Dung xây ba căn nhà lầu 

Có lẻ con dốc mà mình nhớ mãi vì đi lại mỗi ngày. Con dốc này có đặc trưng: nối dài 3 con đường nổi tiếng của Đà Lạt: Hai BÀ Trưng, Thi Sách và Calmette. Đường Hai Bà Trưng nối liền với Thi Sách thì nối với đường Calmette. Khu vực này có thi sĩ Lệ Khánh và nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang và một chị đậu tú tài hạng tối ưu, người Nùng, thêm thủ khoa của trường Võ Bị.

Mình có kể là khu vực dành cho người địa phương (người Việt hay người Thượng) mà Tây gọi là indigènes là khu vực dưới thung lũng, đất tương đối bằng như khúc đường Phan Đình Phùng và Hai Bà Trưng. Khu đất này kéo dài từ Mả Thánh đến đường Cường Để mà ông Võ Đình Dung mua rất nhiều và cho thuê các nhà vườn trồng xú, rau cải.

Mình đọc tài liệu tây thì được biết trong hội đồng thành phố dạo ấy, có 5 thành viên. 3 người Pháp và hai người Việt. Ông Võ Đình Dung là một. Ông ta lên tiếng khi thấy sơ đồ quy hoạch thành phố Đà Lạt, dành cho người Việt rất ít đất, và kích thước các nhà cửa trong khu vực này rất nhỏ so với khu vực người Pháp ở trên đồi xung quanh hồ Đà Lạt. Nhờ đó mà kiến trúc sư Hébrard mới sửa lại chút chút.

Dọc hai còn đường Phan Đình PHùng và Hai Bà Trưng là do người việt ở. Phan ĐÌnh Phùng thì xem là phố tiệm nên có hàng quán còn đường Hai Bà Trưng thì dành cho cư trú. người Pháp cho xây rất nhiều cư xá công chức làm việc tại ty Kiến Thiết, viện Pasteur, ty Bưu Điện, Nha Địa Dư, Ty Công Chánh,…

Giữa hai đường này là các vườn trồng rau cải nên có mấy con đường mòn để nối với hai đường trên để nhà vườn đem phân bón, rau cải ra xe hàng. Hai con đường này được nối với 3 cái chiếc cầu. 1 là trên Mả Thánh, cầu La Sơn Phu Tử, 2 là chiếc cầu ngay khách sạn Cẩm Đô, mà trước đây người Đà Lạt gọi cầu Cửu Huần và 3 là cầu Hải Thượng ngay trường Việt Anh. Giữa 3 chiếc cầu này thì có những con đường mòn nhỏ. 1 ngay chỗ ga-ra Phan Xứng, hãng cưa Xu Tiến đi qua đường Hai Bà Trưng, chỗ trường Đa Nghĩa. Con đường mòn này, ngày nay, xe hơi có thể chạy vào thì phải. Hôm trước nói chuyện với anh bạn Đà Lạt xưa. Gia đình anh ta được xem là 1 trong 100 gia đình người Việt đầu tiên đến định cư tại Đà Lạt. Mẹ anh ta nhận giấy khen thưởng khi xưa. Anh ta cho biết Mẹ anh ta thường gọi Cầu Quẹo là cầu chỗ đi qua Chợ Nhỏ, chỗ tiệm thuốc Tây Lâm Viên và tiệm may của ông Ba Hoà, chuyên may liễn.

2 là chỗ Ngã Ba Chùa đi băng qua vườn ông Ba Đà đến xóm Địa Dư và Công Chánh, 3 là chỗ chợ NHỏ, ngay tiệm thuốc Tây Lâm Viên, tiệm may của ông Ba Hoà, qua cư xá Địa Dư dường Hai Bà Trưng, 4 là chỗ cây xăng Ngọc Hiệp, đi qua tiệm mì quảng của ông Bắc Kỳ đến Hai Bà Trưng và một ngay gần trường Tân Sanh đi qua Hai Bà Trưng, chỗ trường Hiếu Học khi xưa.

Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang ở gần xóm mình, trên đường Calmette. Khi xưa, anh ta có làm một bản nhạc mang tên “tình tôi, con dốc nhỏ”. Có thể anh ta lồng cuộc tình vào những lúc đi về nhà, sau khi đến nhà đả thông tư tưởng một nữ sinh viên, từ Sàigòn lên Đà Lạt trú học tại nhà một chị bạn ở đầu đường Hai Bà Trưng.

Nhìn hình này thì mình đoán được chụp vào những năm 1950, trước khi gia đình mình dọn về đây. Nhìn hình thấy đơn sơ thật, nay thì Chán Mớ Đời. Thấy cư xá Bưu điện bên tay phải, đường Hai bà Trưng trước khi đến trường Đa Nghĩa. Còn trên đồi thì lãnh địa Đức BÀ (Domaine de Marie). Dãy nhà ông Lê, bà con chi với ông Tô trên đường Thi Sách, chưa được xây cất. Chỉ thấy nhà thằng Hiếu học Yersin khi xưa. Thậm chí dãy nhà Cao Quốc Tuấn, ông Định chưa được xây. Mình nghe người lớn kể là dạo mới dọn về đây, heo rừng, Nai thậm chí ông 30 về. Hình của Đà Lạt Xưa, lấy trên Facebook.

Hình này, có lẻ chụp từ đường Hàm Nghi. Cận cảnh cho thấy căn đầu của cư xá Địa Dư mà căn đầu tiên bên phải là gia đình ông Lào ở. Nghe nói ông ta mới mất đâu 3 tuần trước. Mẹ mình có đi đám.

Mấy căn nhà hình chữ A thuộc cư xá Công Chánh (8 căn). Mỗi nhà như vậy được chia làm hai căn kiểu duplex. Căn đầu tiên, số 42 bên tay phải của cư xá Địa Dư do nhà ông NHị ở, bên cạnh là ông Điện, bố của thầy Trịnh Minh Đức, dạy Pháp Văn. 

Bác Nhị có 3 người con trai và một cô con gái út. 3 người con trai là Bảo, Toàn và Miều còn cô gái út thì chịu không nhớ tên. Mình hay chơi với thằng Bảo khi xưa, học trên mình một lớp. Nghe nói hiện ở Vũng Tàu, Toàn thì nghe nói ở Hoa Kỳ, còn Miều bằng tuổi em trai mình thì nghe nói đã qua đời. Có lần mình ghé thăm bác Nhị Gái thì có thấy cô em út chăm sóc bác gái. 

Hồi nhỏ mình hay thấy ông Điện đi chiếc xe Lambretta. Thầy Đức có mấy cô con gái, con trai. Hồi nhỏ, thấy đi học trường Thanh Ngọc với mình, còn nhỏ lắm. Hình như có cô tên Thảo thì phải.

Căn thứ hai số 44 là gia đình Dì Tân, con bà Dụ, chị bà Võ Quang Tiềm, kêu Mệ ngoại mình bằng Dì, mới qua đời năm nay thì phải. Bà con với mình, chỉ gặp ở khi có kỵ giỗ hay tết ghé nhà đổ Xâm Hường. Dì có một người con trai tên Thăng, hơn mình một tuổi còn mấy chị kia thì chịu vì xa Đà Lạt quá lâu.

Nhà bên là gia đình ông Địch. Có hai người con trai: một tên Thắng, học y khoa và Võ Việt Điểu, hình như bằng tuổi mình hay nhỏ hơn một tuổi. Nay ở Virginia. Có mấy người chị, mình nhớ có người tên Lực, một cô em gái tên Thu. 

Căn tiếp 46 là nhà của gia đình bác Bửu Ngự và bên cạnh nhà của bác Bửu Duy. Cuối cùng là nhà của ông Sâm, trưởng ty Công Chánh. Có hai người con trai. Con trai đầu thì không nhớ tên, người thứ 2 tên Chiến, học Trần Hưng Đạo, trên mình một hay hai lớp.

Bác Bửu Ngự, đá banh giỏi lắm, bác Ngự Gái thì gia đình ở trong Hoàng Diệu, chỗ Lò Gạch, có người chị lấy bố của anh Phong, con dì Bê, bán chuối ngoài chợ. Lúc chưa lấy chồng thì bán lòng heo hay chi đó, có máu buôn bán nên sau này mở tiệm bánh Thành Nhàn ở Khu Hoà Bình. Con của bác thì để xem, cô gái đầu tên Mina, sau đó đến Hội, rồi một cô khác, rồi đến Huy,…chỉ nhớ tới đó thôi. Mấy người này rất thành công tại Hoa Kỳ.

Bên cạnh là nhà bác Bửu Duy, chuyên làm bánh Bông Lan bỏ mối cho mấy tiệm ngoài chợ Đà Lạt. Con đầu là Vinh, sau đó là Dũng, đến con gái đầu tên Hương, rồi đến Hải cũng tuổi với em trai mình, đến Hồ, rồi Hà. Có lần, Tết, ông cụ mình lì xì vài roi mây, đánh mình kiểu mở hàng đầu năm, đốt phong long. Đau quá mình chạy xuống nhà bác Duy. Bác kêu ngủ lại đợi ông cụ nguôi rồi về. Tối đó mình ngủ lại trên lầu với thằng Dũng, cùng tuổi mình. Thấy nhà ấm không lạnh như nhà mình giường nệm chi êm và ấm ghê. Mình thì ngủ trên giường có trải tấm chiếu rồi 3 anh em nằm như cá mòi. Sau này, mới hiểu vì không có lỗ thông hơi. Thường thì người ta hay bỏ mấy cục gạch trên cửa sổ hay cửa để cho không khí bay vào, để hạ thấp độ ẩm trong nhà nên ban đêm khá lạnh vì độ lạnh bên ngoài lan vào trong nhà.

Dãy nhà của cư xá Công Chánh đối diện cư xá Địa Dư. căn đầu tiên hình chữ A: số 41 A, nhà ông Mai, em ông Lào, ba của thằng Banh, cùng tuổi mình, hồi nhỏ hay chơi với nhau và bên cạnh là nhà ông Tân Ù số 41B, có cô con gái tên Trần Hoàng Giang, cùng tuổi mình. Sau đó đến số 43A, nhà ông Kham, bố của Thanh Tịnh và 43B, nhà ông Hiển, sau này chết thì gia đình ông Châu dọn đến. Trong xóm có hai ông tên Tân. Để dễ nhận khi nói chuyện, người ta gọi ông Tần Ù, khá to con và ông Tân Gầy, vì ông này gầy. Nói cho ngay thì gia đình mình không có liên lạc với gia đình ông Tân Ù vì ở xa. Nói chung là các nhà ở dưới đường Hai Bà Trưng, ngoại trừ mấy căn gần nhà mình.

Khi nào đầy tháng thì có mời ông Tước, ông Duy, ông Ngự ăn cơm hay khi cúng thì đem chén chè đĩa xôi sang mời lấy thảo.

Căn thứ 3, số 45A là nhà ông Quán, còn số 45B là nhà ông Ngần, hay chứa đánh bài, lấy tiền xâu. Có lần 302, đột nhập vào nhà chỉa súng lấy hết tiền mấy ông công chức đang binh xập xám. Lần đầu tiên về Đà Lạt, mình thấy mấy cô con gái ông bà Ngần, ông Nghi, đi tù với ông cụ mình, bán chỗ tiệm Đức Xương Long, nay chắc đi Mỹ hết.

Nhà ông Quán thì con đông lắm. Đa số là lớn tuổi hơn mình nên ít chơi với nhau. Mình chỉ chơi với tên Điệp, học Việt Anh, người con út tên Điềm. Hình con trai được đặt theo chữ Đ, nào là Đường, Độ, Điệp, Điềm. Hình như người con trai đầu tử trận thì phải. Nhỏ quá mình không nhớ rõ. Gần đây, có liên lạc với chị Liễu hơn mình đâu 2 tuổi. Còn chị Hoa, Nguyệt, Mai thì không biết ở đâu.

Sau đó là căn 47A, nhà của bà Tân gầy, mẹ của thằng Đôn, cùng tuổi với mình. Chị Lan, hơn mình 1, 2 tuổi gì đó rồi đến hai tên Ân, Ái, hình như có cô út tên gì quên rồi. Nhà này có hai người cậu thì phải, sinh đôi. Chỉ nhớ mại mại hồi bé có thấy họ khi đến nhà chơi. Mình có gặp một lần khi về Đà Lạt, cô ta chăm sóc mẹ ở nhà. Căn 47B thì người ra người vô nhiều lắm không nhớ rõ. Sau đó là căn cuối số 49A, 49B của nhà ông Hân và ông Ngọc. Mình có liên lạc được với hai cô con gái của ông Ngọc, hiện sinh sống tại Úc. Bà Ngọc đã mất, ông Ngọc, đánh bài, mấy ông hay kêu Robert. Chắc tên thánh của ông. Ông ta có một người con trai, bằng tuổi mình thì phải, tên Chân. Nghe nói chết ở Sàigòn trước 30/4, bị Việt Cộng pháo kích.

Nhà bác Hân thì đặt tên con theo chữ H. Con gái đầu là chị Huệ, sau đó đến chị Hương, sau này lấy thầy Tôn Thất Trai, nghe nói hiện ở San Diego nhưng không biết cách nào để liên lạc, đến 2 người con trai, không nhớ tên vì nhỏ tuổi hơn mình. Có một cô khác khá xinh, rồi nhiều người nhỏ quá không nhớ.

Nhờ bờ-lốc Sơn Đen mà mình tìm lại được khá nhiều hàng xóm ngày xưa. Nay mình khám phá ra căn nhà xây sau Mậu Thân, ngay vườn ông Bắc kỳ mang số 49 C. Ông thần ở nhà này không biết có nhớ thằng Hiếu, khi xưa học với mình ở Yersin, ở nhà 2 căn, ngay dốc hẻm đi vào khu nhà Cò đào.

Đó là những căn nhà thuộc cư xá Công Chánh, nằm ngay đường Hai Bà Trưng. Ngoài ra, còn một dãy nhà chung cư gồm 7 căn ở trên đồi, phía sau mấy căn nhà hình chữ A. Có một con dốc với thang cấp, nằm giữa nhà Bà Ngần và nhà bà Tân Gầy, đi lên ngay nhà ông Mãn, cán sự công Chánh, số 47/2. Trước đó chú Điềm, cán sự ở đó với một ông kiến trúc sư, dạy mình vẽ bản đồ và tô màu. Mình có liên lạc được với chú Điềm, nay ở Sàigòn. Khi gia đình mình dọn về đây thì ở tại căn này. Đến khi ông bà Hai, ở căn đầu tiên 47/1, dọn đi thì bố mình mới xin dọn qua. Rộng hơn nhất là có vườn, đất sân rộng. Bố mẹ có xây một căn bên cạnh. Nhờ đó mà khi Việt Cộng vào đuổi cổ đi, mới có nhà ở riêng, không phải đi kinh tế mới.

Bên cạnh là nhà bà Thường, số 47/3 có 4 cô con gái và một người con trai tên Dũng học Yersin trên mình đâu  5 lớp. Cô đầu tên Oanh, lấy ông chồng nào thổi sáo rất hay. Tối tối hai người ra trước mấy thang cấp, thổi sáo nghe phê không thể tả. Sau này, cô Oanh sinh con so. Bà Thường, mỗi sáng chạy qua nhà mình dựng cổ dậy, đưa cái bô để mình tè vào, cho cô Oanh uống. Nghe nói uống nước tiểu của mình tốt. Đó là lần đầu tiên trong đời mình được thiên hạ trân trọng nước tiểu. Sau này, có chú Nhân, đi Xây Dựng Nông Thôn, có cô vợ làm thư ký cho ty Công Chánh, dọn đến. Chú Thân hay kêu mình vô nhà, cho mượn sách của ông Hoàng Xuân Việt đọc. Nghe nói chú nay giàu lắm, có tiệm ăn hay nhà nghỉ to đùng cạnh nhà ông Mai. Mình có tìm chú khi về Đà Lạt nhưng chưa có duyên.

Bên cạnh số 47/4, là nhà ông Khoa, làm ty kiến thiết. Có 3 trai hai gái thì phải. Mình nhớ con đầu là anh Bình, sau đó đến Chú Sanh, chú Hành. Con gái thì chỉ nhớ cô Cúc, một cô khác đi lấy chồng ở xa nên chưa bao giờ gặp. Sau này, ông KHoa về hưu ở Ba Ngòi. Nhà để trống, mình và mấy đứa trong xóm chạy vào căn này chơi khi trời mưa. Sau này, khu công chánh cao nguyên trung phần từ Ban Mê Thuộc dọn về Đà Lạt, thì gia đình ông Tước dọn vào. Nhà này con đông như nhà mình. 7 gái 3 trai. Con đầu là anh Lâm, sau đi biệt kích rồi Biệt Cách Nhảy Dù, tham dự giải vây An Lộc, Phước Long, nay ở Hoa Kỳ.

Kế đó là chị Gái, hay cho mình mượn sách việt ngữ đọc với điều kiện là phải trả sáng hôm sau. Nhờ vậy mà mình đọc sách rất nhanh. Trung bình một cuốn sách là 2-4 tiếng đồng hồ. Sau đó là thằng Bi, Tí Chị, Tí Em cùng tuổi với mình, rồi đến Bé Lớn, Bé Nhỏ, thằng Tèo, nghe nói đang ở Bolsa, con Nguyên, và Con Oanh, đang ở Bolsa, chưa gặp lại. Mình có liên lạc lại chị Gái, tự kêu là fan cứng của mình, Tí Em, Bé Nhỏ và Nguyên.

Kế đó là 47/5 là nhà ông Kiếm. Bà Kiếm hay kêu mình vào nhà, nhờ xỏ chỉ luồng kim cho bà vì mắt kém hay nhổ tóc bạc cho bà. Bà có một người con trai độc nhất tên Sửu lớn mình đâu 4 tuổi. Sau này, về hưu, nghe nói về lại Quảng Trị. Mình không nhớ gia đình nào dọn về đây.

47/6 là nhà con Thuý, thằng Dư. Thằng Dư hơn mình đâu 3-4 tuổi, có con em nhỏ hơn mình 1 tuổi tên Thuý, hay chơi với mình hồi nhỏ. Thằng Dư hay dẫn mình sang Chùa, hay lên trường Bùi Thị Xuân nghe hướng đạo Lâm Viên chơi văn nghệ. Mẹ nó bán cơm ngoài chợ. Mỗi lần chợ đêm vào trước Tết, mẹ mình nhờ nó đưa mình về nhà. Sau này, gia đình này dọn lên Ban Mê Thuột. Khi khu Công Chánh Cao Nguyên Trung Phần dọn về Đà Lạt, mình hy vọng con Thuý cũng dọn về nhưng bặt tin. Mình có kể về chuyện con này bắt mình cho nó xem chim đa đa của mình. Sau đó gọi mình là thằng cu đen.

Căn này sau đó có nhà bà Hoà dọn đến. Nhà này cũng con đông. Con đầu là chị Hợp, học Văn Học, sau đó đến chị Hiền, nay ở San Jose, mình có gặp lại một lần. Kế đó là Phương, cùng tuổi mình, học Bùi Thị Xuân, rồi đến thằng Hiếu, thua mình 2 tuổi, rồi thằng Hậu, rồi mấy cô con gái nữa nhưng không nhớ tên. Hình như có một cô tên Hằng. Nhà này đặt tên con theo chữ H tương tự nhà ông Hân.

47/7 là nhà của ông Nhân, người Bắc. Có hai đứa con gái. Một đứa tên Oanh hơn mình 1 tuổi và con em tên Hoà thì phải thua mình 1 tuổi. Sau này, dọn về Sàigòn trong cư xá Thanh Đa. Gia đình ông Vinh dọn đến. Nhà này có 3 gái 3 trai. Để xem có nhớ tên hay không. Người đầu tên Thanh, đi pháo binh, sau đó anh Tú, học đại học khoa học Sàigòn, đến chị Tân, rồi đến thằng Tiến, thua mình một tuổi, học Trần Hưng Đạo. Đến con Tâm, rồi con Tuyết. Sau này, dọn về đường Phan CHu Trinh, xây cái nhà to đùng. Mất liên lạc từ đó.

Ngoài ra, có gia đình anh Bình, con ông Khoa. Khi ông Khoa còn đi làm, thì gia đình anh Bình ở chung với ông Khoa. Sau ông Khoa về hưu, dọn về Ba Ngoài thì anh Bình chiếm miếng đất, phía sau cầu tiêu của xóm, làm một căn nhà để ở. Nhà này thì con đầu là Đắc, thua mình 1 tuổi, đến Thái, Thu Oanh, rồi Trâu,…Thu Em, mấy người con sau nhiều quá, không nhớ tên. Mình có thăm cô Kim, em dâu của Dì mình.

Bên kia con dốc, đối diện nhà mình thì có nhà bà Phú. Sau này dọn qua đường Phan Đình PHùng, cạnh tiệm thuốc tây Lâm Viên, bán gạo đường gì đó. Con đầu là chị Mẫn, sau này lấy chồng là cháu bà Tước. Kế đến có một chị khác rồi đến thằng Phúc, rồi một tên nữa rồi sau này bà Phú còn sinh ra mấy trự thì không nhớ vì đã ở bên đường Phan Đình Phùng. Nay cả gia đình ở vùng Seattle. Chị Mẫn là người đầu tiên tìm ra mình. Sau đó nói lại với con bác Tước, rồi có con bác Ngọc ở Úc Dại Lợi.

Nhìn tấm ảnh trên, thấy cột điện trước nhà ông Hiển (Châu) khiến mình nhớ đến vụ ông lính tự tử ở đây. Hình như ban đêm, nghe tiếng nổ cái đùng lớn. Tuy hoang man nhưng không ai làm gì cả. Sáng ra, dì Gái, con bà Cáp, nhà trên phía trường Đa Nghĩa, đi chợ hay ghé vào nhà mình, rủ mẹ mình đi chung. Hôm đó, mặt dì xanh như đít nhái khi vào nhà mình, nói không ra hơi. Dì kêu có cái xác ông lính nào chết, nằm dưới đường. Mình nghe đến là chạy xuống ngay. Thấy có ông lính bị nữa cái mặt bay mất tiêu, máu me tùm lum đường. Cho đến giờ này, mình không biết lý do. Nghe đồn tùm lum, người thì kêu ông ta thất tình nên đến trước nhà người yêu, cho nổ lựu đạn. Ai biết thì cho em xin. Chỉ tội cho mình là mỗi lần đi ban đêm về là phải đi ngang cột điện này, mình phải vái, đọc kinh kêu đủ thứ Phật về phù hộ cho mình. May quá ông này chết không linh, nếu không đã có người cho xây cái am nhỏ rồi.

Khi gia đình bà Phú dọn đi thì gia đình bà Ron, em của ông bà Phú dọn về đây. Ông Ron có vợ bé nên lâu lâu mới về, kiếm nhà cho vợ con ở rồi dọt đi nhà vợ bé. Bà Ron, bán cơm ngoài chợ. Có toàn con gái, người trừ một tên con trai tên Long. Bên cạnh nhà bà Ron, là nhà thằng Hoàng thì phải, cùng hay hơn mình một tuổi. Hắn hay rống bản nhạc: “cớ sao buồn này Kim, ai yêu em hơn anh mà tìm,…” chị nó đẩy đà, nghe ai uống dấm nhịn ăn sao đó, lăn đùng ra chết. Sau đó thì gia đình này dọn đi đâu mình không nhớ.

Nhà mình thuộc về Hai Bà Trưng nhưng lại gần đường Thi Sách. Do đó mình chơi với đám con nít trên đường Thi Sách nhiều hơn là đám dưới đường Hai BÀ Trưng. Ngay đường Thi Sách, ngay con dốc là nhà của bác Đinh Gia Lành. Sau này ông đi Pháp nên để lại căn nhà này cho gia đình Đinh Gia Lành chăm sóc rồi cho ai ở. Sau 75 thì mất luôn.

Đi lên dốc về phía Calmette thì bên cạnh là nhà ông Ấm Thảo, người Huế. Mình hay ghé lại nhà này. Trước sân có cái trang thờ mà mẹ mình đem cái thai bị xẩy đến đây chôn và thờ. Ông Ấm Thảo có tài tán gái, có đến 3 bà vợ. Mình nhớ con đầu tên Ngữ, đi Thuỷ Quân Lục Chiến, bị mất một con mắt khi tái chiếm Quảng Trị. Sau đó thì nhớ có hai tên khác, tên Hậu thì phải rồi đến thằng Thọ, thua mình một tuổi, rồi tên con út, con bà thứ 3.

Cạnh đó là nhà thằng Trí thì phải, bố làm nha Địa Dư, có mẹ bán ngoài chợ. Nghe nói đi vượt biển cùng tàu với em mình, định cư tại Úc đại Lợi. Rồi đến nhà Hồ Thanh  Hy, Hồ Thanh Hải,.. rồi đến nhà thằng Thạch, hơn mình đâu 2, 3 tuổi, học Yersin. Sau này đi 302, sau 75 cãi lộn với ai bị đâm chết. Nhà hắn ngày đầu đường Calmette.

Tấm ảnh này hơi mờ nhưng cho thấy rõ ràng 3 dãy nhà cư xá Địa Dư nhất là 3 con đường song song: Hai Bà Trưng, Thi Sách và Calmette mà con dốc đi ngang nhà mình đã nối liền 3 con đường mà mình đã đi qua rất nhiều lần, hằng ngày. Nhà Phạm Ngọc Liên và Văn Tài Phát, nằm ngay căn giữa. Dãy bên trái, có nhà ông Thạc, thợ thiết. Dãy cuối có nhà ông Lào, chú Be.

Phía sau chỗ đường Thi sách, thấy có nhà hội của cư xá Pasteur, nhà của thằng Cường lùn. Nhà ông Đề, giám đốc trung tâm thẩm vấn.

Trên 3 dãy nhà Địa dư là dãy nhà của cư xá Pasteur. Giữa nhà ông Mai và một căn của cư xá Pasteur, con dốc đi lên từ đường Hai Bà Trưng lên Thi Sách, qua nhà ông Tác, nhà thằng Thạch, bà Thủ.

Thấy con đường mòn từ Phan đình Phùng, chỗ Cầu Quẹo, băng qua mấy cái vườn, qua con suối rồi lên mấy thang cấp giữa hai dãy cư xá Địa Dư. Thấy bên phải ngay vườn có nhà Cậu Liễu, bán thuốc Cẩm Lệ, con bà Dụ, chị bà Võ Quang Tiềm. Cứ đến mù mưa thì chỗ này bị lụt. Nước dâng lên đến chân khu cư xá Địa Dư. Thôi ngưng ở đây.

Nguyễn Hoàng Sơn