Showing posts with label dl Những mảnh nhớ. Show all posts
Showing posts with label dl Những mảnh nhớ. Show all posts

Tổ Tiên Chính Giáo Đại Đạo Sinh Tồn

 Nghe kể; hồi bé mình hay bị đau ốm. Ông Phúng kêu bán vía mình cho mấy Cô, mấy Cậu trên am Mệ Cai Thỏ ở đường Nguyễn Công Trứ, ấp Hà Đông. Cứ mỗi lần lên đó, họ cúng lá bùa gì đó, rồi sau đó đốt cháy thành tro, đổ nước lạnh, khấn xong cho mình uống như cà phê nên da mình đen như cột nhà cháy. Chán Mớ Đời 

Nói vậy chớ vui lắm, mình thích ra am Mệ Cai, chơi với mấy tên cùng lứa lại được Ông Chín, cõng nhảy tưng tưng. Sướng kể gì. Ông Chín xem như Bố Đỡ Đầu.

Đến năm Mậu Thân, thằng em mấy tháng bổng nhiên lăn đùng ra chết. Bác sỹ cho rằng đau màng óc. Thế là phải đem đi chôn ở Mả Thánh. Chôn em ở đây mới khám phá ra đám chăn bò, những Đinh Bộ LĨnh thời nay. Phải cho chúng ăn cơm, trái cây cúng để chúng lấy, không đem về vì nếu không chúng làm loạn cho bò lại đạp bể cái mộ.

Chôn em xong thì phải cúng thất tuần. Tuần nào cũng phải làm mâm cổ để cúng, mời mấy đạo hữu lại tụng kinh. Mình là anh đầu nên quỳ lạy đủ trò, tụng kinh cả hơn tiếng đồng hồ. Sau này, gặp đồng chí gái, đi chùa, cô nàng thấy mình tụng kinh như Ba Tây nên mẹ vợ nhất trí cho cưới.

Ngay chỗ ngã ba Cường Để và đường Thành Thái, có cái dốc và mấy bậc thang bên trái, để leo lên tổ đình  của Tổ Tiên Chính Giáo Đà Lạt. Tại đây, mình thường đến đay khi còn bé, sinh hoạt với nhóm hướng đạo TTCG. Hai bác Nguyễn Đình Thừa cũng hay đến đây nên thân với bố mẹ mình từ đó. Địa điểm toạ lạc tại số 2 Cường Để. Đi tới một chút là Ấp Ánh Sáng, có con đường Bà Triệu với cầu BÁ Hộ Chúc Bắc ngang con suối Cam Ly chảy về thác Cam Ly.

Tụng kinh đây là kinh của Tổ Tiên Chính Giáo. Không phải kinh Phật Giáo như mình thường đọc cho Mệ Ngoại mỗi ngày trước khi đi ngủ. Mệ Ngoại mình không biết chữ nên tối nào cũng kêu mình đọc kinh cho Mệ nghe. Mệ còn sống đến ngày nay thì chỉ mở You-tu-be ra là nghe đủ loại kinh hay nghe Pháp Thoại, khỏi cần cúng dường cho thầy vì You-tu-be trả tiền quảng cáo cho thầy rồi.

Đạo này có Tổ Đình ở số 2 Cường Để, Đà Lạt, ngay cuối ấp Ánh Sáng, cuối đường Thành Thái. Có mấy thang cấp leo lên khuôn viên của Tổ Đình. Chỗ này là nơi người ta rước Thánh Mẫu với xe hoa đủ trò về các am tại Đà Lạt như trên Số 4, am Mệ Cai ở Ấp Hà Đông,... Khi xưa, mình hay đi theo mấy chiếc xe hoa này lắm, lại được ăn vì có ông Phúng. Ông thấy mình là hay dúi kẹo bánh chi đó cho ăn. Dạo ấy, Dì Thanh, cậu Mạnh chưa có con nên mình được xem là cháu đầu nên ông bà Phúng thương lắm.

Tụng kinh xong thì có màn cầu cơ chi đó, đợi hương tàn. Có một ông đội khăn màu đỏ, phủ lên đầu, tay cầm chiếc đũa, ngồi trước mâm gạo. Một ông ngồi cạnh để đọc những gì ông ta viết lên mâm gạo. Nếu đọc sai thì ông ta lấy chiếc đũa đánh xuống cái mâm. Một ông lấy viết ghi xuống, kêu là thơ của Mẹ hay ông thiên tướng nào như Đức Thánh Trần về báo. Họ gọi các mục này là cầu cơ chấp bút khiến sau 75 Việt Cộng rất sợ vì có thể nói ra những tư tưởng phản động chống họ nên dẹp ngay.

Tổ Tiên Chính Giáo ra đời ngày 1 tháng 1 năm 1964 tại tổ đình toạ lạc tại số 2 đường Cường Để, thị xã Đà Lạt. Mình hay đến đây chơi và đi hướng đạo của Tổ Tiên Chính Giáo. Đạo này dựa trên đấng siêu nhiên Hạo Nhiên thượng Đế, và các chư Phật, Tiên, Thánh thần và thượng phụ quốc tổ Hùng Vương. Truyền cơ bút thông qua một đồng tử để khai đạo như mình thấy ở nhà mình. Rồi lan rộng khác nơi ở miền Nam.

Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà ra nghị định ngày 26 tháng 4 năm 1966, cho phép đạo này được phép hoạt động như một hiệp hội.

 Chỉ nhớ có thằng Châu, nhà ở đâu trong Dốc Nhà Bò làm đội trưởng. Tên này đi hướng đạo Lâm Viên với anh hắn làm đoàn trưởng. Không biết sau này có còn hoạt động hay không vì mình đi mấy tháng thì chán ba vụ họp đoàn này nên nghỉ, ở nhà đi đá banh, thả diều.

Mình nghĩ mấy người di cư từ Huế vào, đem theo các lễ nghi từ làng xã của họ theo rồi từ từ, làm ăn khá, họ bắt đầu xây các am để thờ thần hoàn của quê. Am Mệ Cai Thỏ, ở ấp Hà Đông, thờ Thánh Mẫu rồi lan toả ra, người Đà Lạt khi ấy với chiến tranh nên tìm một chỗ dựa tinh thần. Hàng năm, có lễ rước Thánh Mẫu, từ Tổ Đình về các am hay đền ở các ấp ở Đà Lạt vào buổi tối với các xe hoa đủ màu. Sau Mậu Thân hình như không được tổ chức nữa hay mình không tham gia nữa.

Việt Nam có hai tôn giáo chính: Phật giáo và Thiên Chúa giáo nhưng dân gian lại thờ Thánh Mẫu, được truyền tụng qua văn hoá truyền khẩu từ xưa. Sau này, họ bắt đầu ghi lại kinh sách,…nên mới có chút gì khái niệm. Mình nghe kể có 3 vị thánh mẫu chính: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải mà người ta hay gọi Tam Mẫu Tứ Phủ. Sau này, họ thêm mấy vị khác, nghe nói lên đến 60 vị. Nghèo tới là ngưng vì không nhớ nổi.

Bố mẹ mình theo đạo này nhưng mình không rành lắm vì đi Tây sớm nên không có thời gian đi theo ông bà cụ đến tổ đình. Người hướng dẫn bà cụ mình vào đạo tổ tiên chính giáo là ông Phúng. Ông cụ mình chỉ vào sau 1975 rồi đi tù. Sau này về nhà thì rất tin tưởng vào đạo Tổ Tiên Chính Giáo, chịu khó đi làm lễ, đọc kinh,…

Người ta giải thích người Việt tôn thờ người mẹ trên hết. Không hiểu lý do. Khi xưa thuộc chế độ mẫu hệ. Có thể, trong lịch sử Việt Nam, can qua xẩy ra quá nhiều. Hết đánh tàu thì đến tây, hết tây đến mỹ, rồi đến campuchia rồi tàu lại,… cha đi đánh trận, ở nhà một mình, người phụ nữ Việt Nam, phải gánh vác hết. Nuôi con, phụng dưỡng cha mẹ chồng, buôn bán như hình ảnh thiếu phụ Nam Xương. Có lẻ nhờ đó mà người con gần gửi mẹ hơn.

Mình nhớ khi xưa, ông cụ ở trong quân đội, lâu lâu mới về phép. Sau này, làm công chức trên Ban Mê Thuột, lâu lâu mới gặp. Ban ngày, mẹ đi bán ngoài chợ, chỉ tối về mấy mẹ con hủ hỉ với nhau. 

Người ta thờ Mẹ Núi để đi rừng, gặp mấy con thú, vâng lời Mẹ Núi, không giết hại mình. Người đi biển, đi hồ đánh cá thì thờ Mẹ Nước để hà bá không bắt mình. Sau này, người ta thờ Mẹ Trời, để tránh mưa to gió lớn, làm hư hại mùa màn, lụt lội. Nay mình trồng bơ thì không biết phải thờ Mẹ Nào? Mẹ Bơ hay Mẹ Núi để mấy con sóc không ăn bơ của mình. Mình nghe một ông sư kể, ông nào có vườn ra kêu mời mấy ông đi, đừng ăn trái của tui, thì chim bỏ đi. Mình bắt chước kêu mấy ông sóc, đừng có ăn bơ của tui. Không bẩy hay cho thức ăn triệt sản, chúng sinh đẻ mệt thở luôn. Chán Mớ Đời 

Có lẻ từ đó, các bà Mẹ nói trên được huyền thoại hoá, trở thành Mẫu Thượng Hoàng, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Thiên. Họ dành cho mỗi bà này mỗi Phủ, toà nhà thiêng. Tam Toà được xem như 3 cõi Trời, Non, Nước. Từ đó xuất hiện việc thờ Mẫu Tam Phủ,… sau đó người ta nghĩ đến một phủ khác là Địa Phủ nên biến thành Tứ Phủ.

Có thể khi Phật Giáo du nhập nói đến Niết Bàn, Âm Phủ cũng có thể khi Thiên Chúa Giáo du nhập vào Việt Nam, nói đến Thiên Đường và Địa Ngục khiến dân gian kèm thêm vào các đạo thờ của mình. Ở miền Nam, nghe nói có đạo thờ ông Victor Hugo, mặt trời,…

Theo mình hiểu từ “mẫu” rất bao quát, được đại diện qua Thiên Phủ (miền Trời), được gọi là Mẫu Thượng Thiên. Địa Phủ (miền Đất), được gọi là Mẫu Địa, Thoải Phủ (miền sông biển) được gọi là Mẫu Thoải và Nhạc Phủ (miền núi), được gọi là Mẫu Thượng Ngàn. Người Đà Lạt thờ Mẫu Thượng Ngàn nhiều nhất.

Nghe kể; muốn vào đạo thì phải trên 18 tuổi, phải tình nguyện, không bị cha mẹ ép buộc. Nhờ vậy mình thoát vụ này. Đạo không phân biệt giai cấp, miễn là người muốn vào đạo phải theo các quy định của đạo Tổ Tiên CHính Giáo. Người muốn gia nhập đạo phải lương thiện, chấp nhận các nội quy của đạo. Khi mình về lại Đà Lạt thì bố mẹ mình xin tiền cúng cho tổ đình thì cứ đưa nhưng mình cũng không biết rõ ất giáp gì về đạo của bố mẹ theo.

Họ học giáo lý về vua HÙng Vương, quốc tổ của người Việt nên tổ chức ngày giỗ tổ mỗi năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Ngoài Bôn Sa, mình thấy có cái đền HÙng. Nếu mình không lầm bác Đức, khi xưa thầu khoán ở Sàigòn, cũng là đạo hữu của Tổ Tiên Chính Giáo đã đóng góp, xin tiền các cộng đồng để xây tổ đình (mướn chỗ). Nay mỗi ngày có người đến mở cửa để người Việt có thể ghé thăm, thắp hương cho tổ phụ.

Khi mẹ mình sang Hoa Kỳ chơi có gặp bác mấy lần. Nay không biết bác còn sống hay không. Lần cuối, mình ghé thăm bác ở thành phố Santa Ana trong khu người già. Ngày nay, họ giải mả cho thấy các vị vua hÙng được bịa ra. Trong cuốn sử ký Việt Nam đầu tiên, không thấy nhắc đến 18 ông vua này, tính ra thì mỗi người cai trị trung bình 183 năm. Bên tàu, nước Sở có 18 vị Sở HÙng Vương nên người Việt mình kéo đại vào để tô điểm thêm cho quá khứ giàu sang của tổ tiên mình. Mấy vụ Sùng Lãm , Âu Cơ đều được chế ra hết. Tương tự Phù Đổng Thiên Vương,… trong sách sử cận đại, chúng ta thấy có nhiều nhân vật được tạo ra như Lê Văn Tám, ngọn đuốc cách mạng,…

Mình chỉ nhớ có mấy người chính trong Tổ Tiên Chính Giáo là ông Nguyễn Văn Phúng, mẹ mình kêu bằng cậu, em của bà Võ Quang Tiềm, ông Đỗ Quang Tế, ông Lê Sơn Tùng, hình như ông này là người đồng tử, trùm khăn. Lâu quá chả nhớ ai ra ai. Người em lăn đùng ra chết, mình phải tụng kinh cho nó được đi đầu thai sớm.

Mình nhớ, quỳ cả mấy tiếng đồng hồ, bụng đói hương tàn mà mấy ông không chịu ngưng để ăn. Cứ tiếp tục đọc thơ, ông thì cầm cái bút lông viết lên mâm gạo, ông thì đọc. Nếu đọc sai thì ông Đồng Tử, trở cái bút lông lại, khỏ khỏ trên cái mâm, báo hiệu là đọc sai.

Mấy người lớn kêu là Thánh Thần, Phật, các vua HÙng Vương bút thông qua một đồng tử thực hiện việc khai đạo. Ông mà ngồi trùm khăn đỏ, được xem là đồng tử. Sau này được phát triển xuống các tỉnh miền nam, nay có nhiều người theo lắm. Dạo ông cụ mình chưa mất, hay đi xuống các vùng này thăm các đạo hữu. Khi ông cụ mất, nghe nói các phái đoàn từ các tỉnh về dự đám tang đông như quân Nguyên. Mình thấy họ phong ông cụ mình chức gì trên Thiên Đình. Kinh

Ở ngoài Bolsa, lâu lắm rồi, mình thấy hai vợ chồng chạy chiếc xe Jeep màu xanh, có gắn mấy con rồng trên mui xe, chạy vòng vòng tự xưng thiên tướng, tướng nhà trời được giáng xuống Bolsa để làm chi đó. Có chỗ để họ lên đồng lên bóng ở đường Hazard. Có bà mời mình đến nhà, chỉ cái giường, có tượng gỗ ông tướng nào nằm. Hỏi ai thế, bà ta bảo là vua Quang Trung, chồng của bà ta. Bà là công chúa Ngọc Hân. Hỏi chồng hiện tại thì được biết là chồng cỏi tạm. Kinh. Đồng chí gái mà biết vụ này, chắc cũn kêu mình là chồng cỏi tạm, tối cho ra salon ngủ, thỉnh ông vua nào khi xưa về.

Có lần, đồng chí gái bị đau, kêu mình chở đến chỗ nào ngoài bolsa. Có một ông nào từ Texas đến, kêu mở luân xa cho. Ông ta kêu mọi người nhắm mắt lại còn mình thì hé hé để xem họ diễn ra sao. Đâu 3 phút sau, ông ta mở công tắc đèn màu vàng bật lên. Thế là mở luân xa, rồi thiên hạ đưa cái giỏ cúng tiền. Mình thấy toàn tờ $100 không nên sợ, kéo mụ vợ đi về. Mụ vợ kêu đang nhắm mắt bổng nhiên thấy màu vàng. Mình nói thì họ bật đèn vàng thì nó lên màu vàng. Cuối cùng mụ vợ vẫn đau dù có người mở luân xa. Chán Mớ Đời  bắt mình đấm bóp, mỗi cả tay mỗi ngày.

Sau 75 thì Việt Cộng cấm, và tịch thâu cái đình ở số 2 đường Cường Để. Nghe nói các người trong đạo đang tìm cách xin lại để thờ phụng, chắc tốn tiền sửa chửa bộn vì đã trên 45 năm. Chắc họ không cho vì miếng đất này là kim cương chớ không vàng.

Hình như Hà Nội ngày nay chủ trương cho tôn giáo lập lại nhưng để họ kiểm soát, kiểu tu theo kiểu quốc doanh nên nghe nói đã phát triển ra ngoài bắc. Ở làng Vĩnh Phúc, Phú Thọ có đền thờ. Khi con người càng mê tín thì không chạy theo ba cái tư duy về nhân quyền, dân chủ, dân công chi cả. Họ cứ tin thần thánh giúp đỡ làm giàu, thoát kiếp, hết đau bệnh. Xong om

Các tôn giáo như công giáo do toà thánh Vatican lãnh đạo vẫn bị Hà Nội làm khó dễ. Về Đà Lạt, mình có đi thăm mấy tu viện, nhà thờ thì được kể lại như vậy.

Mình nghe kể sau 75, tổ đình khắp nơi bị Hà Nội tịch thu nên các đạo hữu nhóm họp lén lút tại tư gia. Cứ như khi xưa, mấy người theo đạo Ki-tô bị quan quân nhà Nguyễn lùng bắt. Mấy người chính như ông Đổ Quang Tế, trốn ra Nhà Trang hay đâu đó rồi cuối cùng cũng bị bắt. Ông cụ mình thì cũng bị lên án 18 năm về tội phản động, đi tù được 15 năm thì trại cải tạo hết người nên được thả về sớm.

Tò mò tìm tài liệu đọc mới khám phá những gì xẩy ra xưa, còn nhỏ không hiểu gì cả. Người lớn bảo gì thì làm theo. Vấn đề ngày nay, mình dã sống tại hải ngoại gần 50 năm. Văn hoá, phong tục Việt thì không rành, chỉ lắc đầu không hiểu như một tên mất gốc.

Trong lịch sử nhân loại, chúng ta sống nhờ qua các câu chuyện kể. Một loại văn hoá truyền khẩu. Con người nhỏ bé trước thiên nhiên, không giải thích được các hiện tượng xảy ra thường nhật. Họ nghĩ có đấng thần linh nào đó đã gây ra nên cúng thờ các vị này để được yên ổn làm ăn.

Các chức sắc trong làng tạo ra các điều lệ, phong tục như mỗi làng đều thờ Thần Hoàn, thờ những ai thi đậu để họ giúp con cháu, người trong làng học giỏi,… ngày nay, người ta khám phá ra, chỉ cần bỏ ít tiền là có thể đậu bằng tiến sĩ, khỏi cần học hành gì cả.

Đà Lạt do các người di cư từ miền Trung vào rất đông. Người Đà Lạt đầu tiên đem theo tục lệ trong làng của họ theo. Khi làm ăn khá khá một chút thì họ đóng góp để xây các am miếu như am Mệ Cai Thỏ ở đường Nguyễn Công Trứ. Mỗi khu vực đều có nhưng am miếu như trên số 4 cũng có. Nếu mình không lầm thì ông Phúng và các người làng An Lưu, có làm một nhà thờ họ của làng trên Số 4, đường Ngô Quyền để hàng năm, các người gốc An Lưu có thể đến đó hội họp, nhận nhìn bà con.

Hay làng Dưỡng Mong, trong Ấp Xuân An mà mình hay đi vì làng của Ông Ngoại. Bên Mệ ngoại là An Lưu bên nội của mẹ mình là Dưỡng Mong. Bố ông Nguyễn Chánh Thi là anh ruột của ông cố ngoại mình ở làng Dưỡng Mong. Khi ông làm chức vụ gì ở miền Trung, có xây cái cổng làng to đùng cho làng Dưỡng Mong. Gần đây, mình thấy mấy cô hàng xóm của mình khi xưa, có về làng này để tu sửa lại cổng làng,… hoá ra ngày nay, sinh con gái được nhờ, chăm sóc làng quên cha đất tổ.

Vía mình được bán cho Ông Chín ở am Mệ Cai Thỏ hồi nhỏ, nên không biết nay đã lên chức gì trên thiên đình chưa. Thần cai vườn bơ chắc. Có người muốn mua vườn bơ của mình. Biết đâu sang năm đúng ngày vía của mình sẽ bán cái vườn bơ để đi chơi cho khoẻ đời. Mình chỉ biết là hiện nay đang theo đạo Sợ VỢ. Chán Mớ Đời 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Phố người Việt đầu tiên tại Đà Lạt

 Từ khi bắt đầu xem hình ảnh Đà Lạt xưa, có một khu vực, mình không thể hình dung được. Cứ thắc mắc hoài, không hiểu tại sao lại biến mất. Xem phong cảnh xung quanh thì biết nằm ngay hồ Xuân Hương ngày nay. Tò mò, mình tìm tài liệu đọc thì mới được khám phá là khu phố người Việt mà tây gọi là khu thổ dân (indigènes) này bị trận bão lụt ngày 4 tháng 5 năm 1932, đã cuốn trôi đi. Sau đó, chính quyền thực dân đã dời khu dân cư người Việt lên khu Hoà Bình ngày nay. Mặc dù khu này cũng như các khu đồi ở Đà Lạt, đều được dành cho người Pháp hay âu châu. Mình sẽ tải hình dưới đây để giải thích.

Có anh bạn cho biết là gia đình ông ngoại anh ta là 1 trong 100 gia đình đầu tiên được người Pháp cho đến lập nghiệp tại Đà Lạt. Nhờ ông ngoại đi lính cho Tây, sang đánh giặc ở trời Âu, sống sót trở về nên được thưởng công. Cho lên Đà Lạt lập nghiệp. Mình đoán là gia đình của anh ta lập cư tại khu vực này trước khi dọn về đường Hai Bà Trưng. Khu vực đường Phan Đình Phùng, trước kia được gọi đường Cầu Quẹo, vì có chiếc cầu ngay cây xăng Ngã Ba Chùa, chỗ lên ấp Mỹ Lộc, có một chiếc cầu, có ống cống xi măng, gần nhà Nguyễn Đắc Hớn, bán phân cá.


Hình trên, theo mình đoán là được chụp từ khách sạn LangBian. Nhìn xuống khu phố người Việt mà ta thấy thấp thoáng cái dốc Ấp Ánh Sáng và đường Thành Thái sau này. Thấy chiếc xe hơi chạy trên con đường, sau này là Trần Quốc Toản, về đường Phạm Ngũ Lão, lên dốc nhà Thờ Con Gà.

This photograph was taken from the Palace Hotel. You can see the first Vietnamese quarter. You can see the street Thanh Thai. You can see a vehicle on the street Tran Quoc Toan toward the Main Church and Pham Ngu Lao street

Nhìn góc độ khác ta thấy chiếc cầu gỗ, bắc ngang con suối Cam Ly chảy khu vực Ấp Ánh sáng sau này. Con đường nhỏ này sẽ dẫn đến cái dốc nhỏ từ Ấp Ánh Sáng lên đường Thành Thái, chỗ góc xi-nê Ngọc Lan sau này.

A closer image showing the wooden bridge, I used to see several like this one in Đà Lạt.the Cam ly river (spring) running through the first Vietnamese quarter

Đây là bản đồ của thành phố Đà Lạt, lúc khởi đầu. Có hai hồ nước. Hồ lớn (Grand lac) và hồ nhỏ (Petit Lac). Hồ lớn để cho người Pháp sử dụng, to lớn, còn hồ nhỏ để giữ nước cho người Việt dùng. Đến khi cái đê của hồ lớn bị vỡ và ngày 4 tháng 5 năm 1932 thì ngập lụt hết khu vực người Việt. Có một đoạn, suối Cam Ly rộng ra, Ấp Ánh Sáng sau này. Cái đê, đập đầu tiên bị vỡ nên họ cho xây Cầu Ông Đạo nơi cái đập thứ nhì. Lúc này thì Thuỷ Tạ chưa được xây, chỉ khi cái đê đầu tiên bị phá mới được thực hiện. 
Khu phố Việt, là dãy nhà được tô màu đỏ, có chợ.
This is an old map showing the Vietnamese quarter near the Grand Lake and Small Lake. The Grand Lake was reserved for French people, Small Lake was for Vietnamese people. When the flood (May 4, 1932) broke the dam, destroyed the Vietnamese area, killed 15 people. Then the French moved the Vietnamese quarter to the Peace area nowadays. The market was painted in red.
Thấy dân xưa, không có guốc mà mang. Bận áo dài thì đoán là người gốc Huế và người Thượng, đeo gù
Old Vietnamese didn’t wear the sandals, wearing the Áo Dai, i think people from Hue and mountaineers carrying their backpack.
Đây khu chợ người Việt, thấy xa xa cái dốc, có thể đó là dốc Lê Đại Hành sau này
The first Vietnamese quarter, you can see the future Le Dai Hanh street

Hình bản đồ này cho thấy rõ hồ lớn, dành cho người Pháp sử dụng còn hồ nhỏ thì mùa khô cạn nước, nhưng mùa mưa thì để hứng nước. Có con đê-đập, chạy từ Thuỷ Tạ (được xây sau này), chạy từ khách sạn LangBian qua bùng binh Đinh Tiên hoàng và Võ Tánh.
Map showing the grand lake, reserved to the French people. You can see the dam, street from LangBian hotel through Đình Tien Hoang Street. THe grenouillere has not been built yet. (Floating restaurant)
Hình chụp cái đê- đập chạy từ khách sạn LangBian qua bùng binh Điên Tiên Hoàng và Võ Tánh. Xa xa trên đồi cao là dinh tỉnh trưởng. Hình con đê và đập từ khách sạn LangBian chạy qua. Chỗ chiếc xe bò, sau này là cây xăng Esso
Picture showing the dam from LangBian hotel to Dien Tien Hoang St and Vo Tanh. You can see the mayor palace on the hill. The location where the the chariot , later was built a gas station Esson
Chụp từ ty Bưu Điện. Hồ nhỏ này mình đoán là hồ dữ trữ, hứng nước mưa từ trên đồi (nhà thờ Con Gà hay Nazareth  chảy xuống. Nhìn kỹ bản vẽ trên sẽ thấy một hồ nhở dài tô bằng màu xanh lơ. Người Pháp gọi Petit Lac, hồ nhỏ.
Picture taken from the Post Office, in front of the main Church

Hình này, chụp cận cảnh, nhìn từ nhà bưu điện, trước mặt nhà thờ Con Gà, nhìn xuống. Ta thấy chiếc cầu khác, bắt ngang con suối Cam Ly. Đặc biệt khi qua chiếc cầu, thấy một dãy phố người Tàu bên tay phải. Sau này mình tìm được mấy tấm ảnh sau đây. Hồ do nước mưa chảy từ nhà thờ Con Gà xuống đọng lại vào mùa mưa. Phía dưới cầu là con suối Cam Ly chảy từ hồ lớn xuống thác Cam Ly.
A close look of the previous picture showing  the wooden bridge, a mini truck running a longthe Cam Ly river. I guess the small lake where it stored the rainwater come down form the hills (church)

Bản đồ cho thấy hạ lưu của suối Cam Ly là khu người Việt, thấy dinh tỉnh trưởng. Con suối từ Đa Thiện, Thung Lũng Tình Yêu, chảy về, nhập với Suối Cam Ly chỗ Abattoir, chảy về Thác Cam LY.
Map showing the Cam Ly river and another river, spring from Love valley, connecting then go to Cam ly falls.
Hình chụp từ đồi khách sạn LangBian, thấy khu nông nghiệp của người Việt, xa xa trên đồi là dinh tỉnh trưởng 
Picture taken from LangBian hotel showing the old Vietnamese quarter that has been destroyed by the flood. Your an see faraway the Mayor Palace
Hình chụp chiếc cầu bắc ngang con suối Cam Ly, bên trái là khu người Việt ở. Trên đồi phía trái là dinh tỉnh trưởng. Chỗ sau này được thay thế bởi cầu Ông Đạo. Chúng ta có thấy chút chút con dốc Lê Đại Hành và căn nhà cua rông Quản Đạo do triều đình Nguyễn cử vào đây để quản lý các người Việt.
Picture take where the latest dam has been built after the flood 5/4/1932 that Dalatois called Ông Dao Bridge
Sơn đen dạo chơi ngày xưa với ngựa. Dãy phố người Việt phía dưới sau này bị phá bỏ sau trận lụt làm thiệt mạng 15 người Việt.
Myself long time ago :)

Tương tự chụp tại khách sạn LangBian. Thấy phu người Việt đang làm việc. Bên phải là con đê-đập chạy từ bên hồ này sang hồ kia, chạy lên Võ Tánh và Đinh Tiên Hoàng. Sau này được phá bỏ để nhập hồ Lớn và hồ nhỏ lại, đỡ tốn tiền xây hai cái đập.
Same location, taken from LangBian hotel
Hình này cho thấy tổng thể khu người Việt sinh sống, sau bị phá huỷ bởi trận bão lụt 4/5/1932

Taken from LangBIan Hotel, you can see the old Vietnamese quarter before th flood.
Thấy hai chiếc cầu bắc ngang suối Cam Ly, nàh cửa người Việt đông đúc tại đây, sau trận bão lụt, được dời lên khu Hoà BÌnh. Chỗ này được lấp nước thành hồ Xuân Hương sau này.
Bản vẽ thiết kế đô thị Đà Lạt lúc đầu, cho thấy khu Hoà Bình, được dành cho người Pháp. Khu vực Phan Đình Phùng và Hai Bà Trưng sau này, nằm thấp nên họ dành cho người Việt (quartier annamite). Sau khi vực người Việt bị trận lụt phá hủ , người Pháp mới dời chợ khu phố người Việt lên trên Khu Hoà Bình sau này.
This map showing the the areas reserved to Vietnamese (quarter Annamite), usually flat. Peace are, was previously reserved for French people, you can see the mayor palace has been built in that area. Due to the flood, French People had to move the Vietnamese to that area.

Một tấm ảnh khác, giúp mình giải mả được những thắc mắc về khu người Việt cũ xưa.
One of the picture helped me to discover what happened to that area.
Điêu tàn sau trận bão lụt 4/5/1932, bị bỏ phế. Chỗ chiếc cầu, được xây lại cầu Ông Đạo
After the flood, houses abandoned.
Khu phố cũ bị ngập lụt, được người Pháp phá bỏ. Flooded zone
Chỗ này là chiếc cầu của người Việt sử dụng. Sau trận lụt thiên người Pháp phá bỏ cái đê chỗ Thuỷ Tạ, để xây cái đập lớn và cầu Ông Đạo tại đây.
This is the bridge where they would build the latest dam and road which called Ong Dao bridge later 
Hình này cho thấy họ xây nhà hai tầng bằng gỗ, tầng trệt để buôn bán còn tầng trên để ngủ. Phía sau là bếp. Có mấy tấm gỗ để đóng cửa tiệm mà mình hay thấy khi xưa tại Đà Lạt trước khi các cửa sắt ra đời.
Chinese stores have been built there. First floor for store and living area upstairs

Cửa tiệm bán tạp hoá, nồi chảo, thấy vui, mấy cây chổi được gắn nào là chổi chà, chổi lông gà,…

Hình này cho tấy mấy tấm gỗ dùng để đóng cửa tiệm mà mình  hay thấy khi xưa ở các cửa tiệm tại Đà Lạt.

You can see the wooden shutters used to close the stores in the evening. I saw a lot of those when i was kid until they made the iron shutters.

Hình này chú thích Lò Gạch nên mình đoán là trong Hoàng Diệu. Khi xưa, Đà Lạt hay bị lụt chỗ abatoir vì sau chỗ này là đường Hoàng Diệu mà người Đà Lạt xưa hay gọi khu Lò Gạch nơi có cái lò gạch để làm gạch cho việc xây cất các nhà cửa Đà Lạt.
Flood showing the area called LO Gach, Hoang Diệu street later. Where they have a brick oven to make bricks.

Hình này, mình thấy đâu không nhớ nhưng đề ngày 4 tháng 5 năm 1932. Cái đê chắn hồ lớn bị vỡ nên ngập hết khu người Việt ở. Mình đoán là chụp từ trên đường Trương Vĩnh Ký. Thấy nhà ông Quản Đạo bên tay trái. Nhờ tấm ảnh này mới giải mả được những thắc mắc của mình trước đây về khu phố người Việt đầu tiên tại Đà Lạt.

Ai có nhận xét gì mà thấy em sai thì cho em biết. Em mò mò để tìm lại dấu chân của thế hệ trước mình đi. Nên khó mà chính xác.

Nguyễn Hoàng Sơn 



Kung thê kung fu

  Đọc bài "tử vi" của thầy Phạm Kế Viêm, làm mình nhớ lại đoạn trường tìm vợ. Dạo ấy tìm vợ rất khó. Dân di tản 75 thì rất môn đăng hộ đối, mình lí lịch không ai biết nên khó mà đăng kí gửi gạo. Sau 79, có làn sóng người Việt vượt biển nhưng đa số là đàn ông, phụ nữ rất ít vì sợ cướp biển cho nên dạo ấy tìm vợ Việt ở hải ngoại như thể tìm chim đa đa. 

Đi party, một cô dù xấu đến đâu cũng có nhiều anh bu quanh đen như ruồi. Nói theo kinh tế định hướng thị trường thì hàng hiếm dù chất lượng xấu vẫn có giá cao theo nhu cầu cung ứng. Sau này có chính sách Đổi Mới, có phong trào về VN cưới vợ thịnh hành, thêm có chương trình đoạn tụ ODP và H.O., giúp thị trường gái Việt hải ngoại bớt khan hiếm hơn xưa. Ngày nay, về Việt Nam lấy người đẹp chân dài lại thiên hạ được cấp thêm tiền tươi. Đời có cái lạ không bao giờ biết trước.

Nhiều người thắc mắc, không nhớ mặt Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen khi còn tại Đà Lạt nên bỏ lại đây cho các bác học chung, nhớ lại bạn học một thời. 

Dạo mình mới sang Tây thì mê đầm lắm. Con gái tóc vàng tóc nâu, tóc đỏ, đồ phụ tùng, điện nước có đầy đủ không như các cô VN gầy như con mắm, cái bàn là như các người mẫu của nghệ sĩ Modigliani. Mình mê đầm nên khi ở Ý, Đức, Thụy Sĩ hay Luân Đôn cũng không chừa tật đó. Nhất là hồi ở Đan Mạch đầm tóc vàng mắt xanh làm mình ngất ngư không quay lại bến bờ. Cứ tưởng sau này lấy vợ đầm, nhất là lúc làm việc ở Ý.

Đùng một cái nhận tin mấy người em vượt biển sang Nam Dương nên phải quay về Paris lo cho mấy em sang định cư. Lúc đó mới ăn cơm và nói tiếng Việt lại. Tiếng Việt thì mình cũng không rành vì hồi nhỏ học trường Tây, chỉ học chương trình Việt hai năm cuối của Trung học. Thơ Đường thì nhớ man mán cái chi bằng bằng trắc trắc rồi thơ lục bát cửu vạn tổ tôm chi đó mà thôi. Nói năng hàng ngày thì được chớ cao cao, đột phá tư duy thì chịu.

Sau 10 năm, Từ khi đi du học, gần như không nói tiếng việt, gặp lại mấy người em, dùng những từ ngữ sau 75 lại càng tăm tối, u mê. Khi sang Mỹ chơi, Tam Anh giới thiệu hai cô Việt Nam làm mình ngất ngư nên quyết định sang Mỹ kiếm vợ. Tam Anh nói con gái VN thích Thơ Văn nên mình mua báo Phụ Nữ Diễn Đàn của thầy CBA làm chủ bút, đọc mục gỡ rối tơ lòng của bà Tùng Long để điều nghiên về đối tượng VN. 

Không ngờ cô nàng, dân di tản 75 lúc còn học tiểu học nên cũng i tờ tiếng Việt, đi chợ mua gạo, nhà dặn mua gạo ông Địa, ngon hơn. Ra chợ VN, lớ ngớ sao nói bán cho bao gạo ông Đĩ, khiến chủ tiệm mặt đực ra như bò đội nón. Mua hành lá thì hỏi hành lý ở đâu. Chán mớ đời. Hỏi sau này em thích làm nghề gì thì trả lời thích nghề Bán Bún. Ngồi nhìn cô nàng, đột phá tư duy mới hiểu rằng cô nàng thích nghề Buôn Bán. 

 Cứ mỗi lần cô nào hỏi tên tuổi ngày sinh của mình là coi như adieu jolie Candy! Không bao giờ gặp lại, không hiểu lí do. Có lần một cô buồn buồn nói là mẹ đi coi bói thầy 3 cầu Hoa, nói anh sinh năm 1956 là "tủi thân" không hạp. Dương Hạ Hoả thì số này nó phá tiền ở các sòng bài casino là tàn đời con luôn. Mình gạt lệ trách sao trời sinh ta lại còn sinh tử vi. Thầy Phạm Kế Viêm lại chấm tử vi, viết hàng năm. Ai muốn biết năm 2024 ra sao thì lên diễn đàn Văn Học mà đọc bài của thầy Viêm.

Ngày xưa đọc Tam quốc chí thuê của nhà sách Minh Thu, ông Khổng Minh cải số để giúp Lưu Bị nhưng không nhớ làm sao. May dạo đó Tam Anh, không biết nghiên cứu tử vi hồi nào mà viết phần mềm tử vi nên gái bu đông như kiến nhờ ông thầy bói Tam Anh coi duyên phận. Anh này cũng khôn lắm, cứ cô nào mà anh ta thích là cứ nói tình duyên sau này sẽ gặp người tương tự như anh ta. Tam Anh nói con gái Bắc kỳ tin tử vi lắm cho nên sau này lấy vợ ăn cà cuống. 

Mình nhớ ông Thiệu ngày xưa làm tổng thống vì có Tam Tý nên sau này cô nào hỏi ngày sinh tháng đẻ là cứ phán đại là mình sinh năm Tý, giờ Tý, tháng Tý thì cái huông bị gái cho de của mình biến mất.

Khi đến nhà xin phép đưa mấy cô đi chơi thì bố mẹ không còn vẻ mặt hình sự, công an phi trường Tân Sơn Nhất như dạo trước. Đi coi bói thì bố mẹ biết mình có mạng đế vương cho nên quý mình như kẻ thân tình, lâu năm gặp lại, mời ăn bún bò rồi bới cho đem về. Có lần mình bị một đồng chí gái lôi đến nhà ông thầy 6. Nghe nói ông này có viết sách tử vi, nổi tiếng lắm. Sau khi xin xăm, xin quẻ rồi in bản tử vi điện toán mà mình có ở nhà cả lời giải thì ông thầy phán: "Anh tuổi Tý là tuổi con chuột. Chuột thì có nhiều loại như chuột đồng, chuột chù, chuột xù, chuột nhắc, chuột nhí,... Anh thuộc dạng chuột nhí nên sợ vợ như Lưu Bị, nghe sấm chớp là đã run không dám luận anh hùng với ai cả. Suốt ngày chỉ biết khóc lóc, hát ca trù cho Tào Tháo chết. Anh có số đào hoa nhưng bị triệt vì cô thần quả tú

Đàn bà họ mến anh nhưng không lấy anh vì vía anh là con chuột nhí. Phụ nữ chỉ lấy những người như Tiết Nhân Quý của nhà Đường, có vía con cọp để có chỗ tựa tỏng cuộc đời. Số anh không ở với cha mẹ được, chỉ ở với vợ thôi. Ra về, mình man mác buồn, không lẻ kiếp trước mình là Thúc Sinh đầu thai lại mà vợ tương lai mình lại là Hoạn Thư. 

Ông Lưu Bị ngày xưa muốn thoát khỏi vòng tay lãnh đạo và quản lí của vợ, sai Quan Công ở nhà hầu bà vợ, ai ngờ bà vợ hiểu được ý nên bắt Quan Công đứng đốt đuốc sáng đêm để ông chồng không thể lấy cớ, dèm pha mà kiếm bồ nhí, đi bia ôm. Đau nhất là phải moi tiền trả cho thầy cho dù mình có bản in tử vi ở nhà. Không ngờ cô nàng lại tủm tỉm cười. Có lẻ phát hiện ra một tên có mạng đế vương. The charming prince! 

Đồng chí gái mời về nhà để ra mắt gia đình. Cô nàng dặn là phải cẩn thận, ăn nói nghiêm chỉnh, từ tốn, không được ăn nói phản cách mạng vì theo lí lịch thì gia đình mình thuộc hệ 13. Mình có tật là ăn nói bú xua, xuất khẩu không đúng không gian và thời gian. Tam Anh có nhắc là Bệnh tòng khẩu nhập, hoạ tòng khẩu xuất. 


Chưa bao giờ mà mình khổ sở như vậy, gặp ai cũng thưa gửi, nụ cười hàm méo, ngay con chó Kiki, sủa gầm gừ, ngửi mông dế mình vẫn hello! How are you? Khi thiên hạ ngồi vào bàn ăn cơm, nhà thì đông anh em lại thêm dâu rể nữa nên khúm núm, quay qua quay lại mời cha mời mẹ, mời anh, mời chị, mời tất cả, mời con ki ki xong thì mới dám cầm đũa. Nhìn lên bàn đồ ăn biến đâu mất đành nuốt cơm và cơm. 

 

Ông già đồng chí gái, trọ trẹ giọng Nghệ An hay Hà Tỉnh gì đó, rất nặng khó nghe. Mình thì ăn nhỏ nhẻ như chuột nhí trong khi ông ấy vừa gắp vừa lua, vừa hỏi cung mình. Ông hỏi: " Nì! Rựa hai bạc bên nhà còn đụ khôn?". Mình nghe đến đây, tá hoả tam tinh không biết trả lời ra sao đành thú thật " dạ cháu không biết! Để cháu viết thư hỏi Bố Mẹ cháu. Bố cháu ở trại cải tạo 15 năm mới ra nên sức khoẻ còn yếu, nếu có làm chuyện ấy thì chắc cũng lai rai". 

 

Lúc đó, mình bị đồng chí gái đá cho 1 cái dưới bàn đau điếng. Cả nhà bổng cười rầm trời, ai nấy đều mếu máo đập bàn, đập ghế làm mình ngơ ngơ ngác ngác như ngỗng ị. Sau này, nghe đồng chí gái kể là ông cụ nói thằng ni thiệt thà, được. Rứa là mình lên xe bông về Nhà vợ. Lấy vợ rồi, mình mới thành khẩn khai báo là tuổi con khỉ chớ không phải tuổi con chuột. Số mình không có mạng đế vương, mạng mình chỉ làm đồng chí chuột nhí. Đồng chí gái bảo tui biết từ khuya rồi Ôn!

 

Đồng chí gái đẹp tương đương cô đào mình mê này


 Nguyễn Hoàng Sơn 12 B

 

Tìm lại bạn cũ sau 50 năm

 Hôm qua, mình nhận được cú điện thoại từ Gia-nã-đại, của một anh chàng ở xóm trên đường Thi Sách, gần bệnh viện Đà Lạt. Anh chàng cho biết mới nói chuyện được với Sang, bà con chi với anh chàng. Mình gọi cho Sang nhưng không thấy trả lời nên nhắn tin. Mình nói Phú ở Gia-nã-đại, không thấy Sang trả lời thì 1 tiếng sau Sang gọi. Nói chuyện gần 3 tiếng đồng hồ, vẫn chưa hết chuyện. Giọng hắn vẫn nhẹ nhàng như xưa. Hắn kêu thấy số lạ nên không dám bắt. Ở Hoa Kỳ có cái bệnh là họ gọi kêu bán buôn gì, quảng cáo nên thấy số lạ không dám bắt.

Khi về Đà Lạt lần đầu tiên, mình có đi tìm 3 tên bạn học cũ: Sang, Tài và Thuỷ nhưng không gặp. 3 tên này có chung một đặt tính là rất hiền, ăn nói nhỏ nhẹ, không ba trợn như mình, chửi thề đủ trò. Sau này, nhờ qua diễn đàn cựu học sinh Văn Học Đà Lạt, tìm và gặp lại được 2 tên còn Sang thì vẫn bặt tin đến hôm nay. Cuối năm 1972, khi hắn đi quân dịch sau mùa hè Đỏ Lửa.

Mình gửi điện thư cho nhóm Văn Học, báo tin đã tìm lại HKS, người đã khai thông lộ, khởi đầu quá trình ngắm gái, con đường vào tình yêu cho mình thì có tên bạn học cũ khác, kêu cho xin số điện thoại của Sang. Tên này, ở Dallas, chắc sẽ gặp Sang. Mình chắc sang năm mới bò sang Houston. Tên này có kể ngày xưa, kết một em tên Hồng, trong lớp. Mình về Sàigòn, có gặp cô nàng, chụp hình, gửi cho hắn. Vợ hắn gọi mình kêu, xem hình đối tượng 1 thời, hắn té xỉu, phải đái 1 trộ vào mặt hắn, mới tỉnh lại.

Tên Sang này và mình chơi với nhau từ bé trong xóm, bắn bi,…khi hắn học tiểu học với anh Bình ở cạnh nhà mình. Lớn lên thì chỉ chào nhau, cười cười khi gặp nhau, khi đụng mặt trong xóm. Đến khi mình sang Văn Học, lớ ngớ vào lớp 11B thì thấy hắn. Hắn kêu đến ngồi chung bàn. Lớp thì nhỏ mà có trên 150 mạng nhét vào ngồi như cá mòi. Được vài tháng thì hắn bị động viên, mất liên lạc từ đó.

Từ hắn, mình bắt đầu tập tành đi vào con đường cách mạng, thay đổi tầm nhìn, chân lý. Thay vì tập võ, đánh bóng bàn thì mình hủ hoá, mất lập trường cách mạng, bắt đầu ngắm gái. Ăn cơm trưa xong, hắn kêu mình chở hắn đi vòng vòng Đà Lạt, hắn biết cô này tên gì, nhà ở đâu. Cô kia họ chi, học trường nào. Trước đây, mình chạy xe một lèo tới trường hay về nhà, nay bổng nhiên phát hiện ra cuộc đời có những cô gái má hồng Đà Lạt, xinh đẹp. 

Hắn và tên em bà con, Bình, ăn bận rất cực đỉnh, đi học chải tóc láng cón trong khi mình chỉ húi cua từ bé đến nay.

Mình hỏi hắn nhớ Ri không, khiến hắn giật mình. Nói mày hỏi tao mới nhớ chớ mấy chục năm nay quên mẹ nó hết. Trong lớp dạo ấy, hắn thích Ri, người Chàm, lên Đà Lạt học, ở trọ nhà trên đường Thủ Khoa Huân. Hắn thân với tên Hiệp, lớp 11A, bắt gôn. Tên Hiệp này thích thị Đức, 11B nên hay viết thư rồi nhờ mình đưa lại. Một lần, sau ăn trưa, hai tên này rủ mình đến nhà Ri. Tại đây gặp Đức. 

Hai tên này nói chuyện với hai cô nàng, mình bỏ ra sân sau, nhìn xuống đường Cường Để và Hồ Xuân Hương. Đẹp thật. Có lẻ chỗ này nhìn về hồ Xuân Hương rất lạ, thấy Ấp Ánh Sáng, Grand Lycee,… không như mấy tấm ảnh thường thấy.

Lần sau chúng rủ, mình không đi nữa. Sau hai tên này đi lính, mình chấm dứt sự nghiệp, nghề đưa thư tình cho hai cặp này. Hắn có viết thư cho mình từ quân trường, nhờ tên em họ đưa lại. Tên này, có lần gặp mình, nói là có thư thằng Sang, gửi cho mình nhưng hắn quên đưa lại, sau bỏ xọc rác. Hắn kể khi xưa, mình nói chuyện hay chế những cụm từ rất đặc biệt như có lần đi sau cô nào, khi đi học về, mình nói cô này như “khoai lang lột vỏ” nên bị cô nàng quay lại nguýt một cái cực đỉnh.

Sau mùa hè Đỏ Lửa, Việt Nam Cộng Hoà đôn quân, thằng Sang và mấy tên khác sinh 1955, không được hoãn dịch, phải nhập ngủ, bỏ học, từ giả đời học sinh êm ái. Trong lớp bổng mất đi 10% học sinh nam. Cả lớp bàng hoàng được vài tuần rồi cuộc đời như dòng suối Cam Ly chảy qua thành phố Đà Lạt. Nhà tên nào có tiền thì chạy giấy tờ giả để tiếp tục học hay có em trai thì lấy giấy tờ của em để khỏi đi quân dịch. 

Hắn kể đi nhập ngủ, vào khám sức khoẻ, gặp lại Vĩnh, học chung, ngồi bàn sau tụi này. Tên này đi lính trước đó mấy tháng mà không ai biết. Anh chàng này đi Thuỷ Quân Lục Chiến, mới ra trận lần đầu, bị thương khiến Sang đâm hoảng. Kêu hắn vào lính trong khi tên bạn học cũ lại bị thương khi ra trận lần đầu. Thất kinh.

Học quân sự xong thì hắn được bổ nhiệm đi học tháo gỡ mìn và chất nổ, đóng quân ở phi trường Tân Sơn Nhất. Ai báo cho thấy các vật khả nghi, có mìn hay chất nổ thì hắn được cử đến tháo ngòi nổ. Lạng quạng nổ banh xác. Chỗ hắn học khi xưa, nay Việt Cộng làm viện bảo tàng tội ác mỹ ngụy. Còn em cô cậu nó, tên Tuấn, cũng học chung, đi lính cùng ngày với hắn. Tên này, ngày xưa hay chở Ngọ, mà trong lớp hay chọc, hát em tan trường về anh theo Ngọ về.

Gia đình hắn được xem là 1 trong 100 gia đình đầu tiên đến Đà Lạt lập nghiệp. Không biết trí nhớ hắn còn tốt hay không để mình hỏi thêm về lịch sử gia đình hắn lên Đà Lạt lập nghiệp ra sao. Anh hắn khi xưa là đệ tử của ông Sáu Trọng, thầy võ trên Số 4. Xóm mình được gọi là xóm Thái Cực Đạo vì có nhiều tên tập Thái Cực Đạo. Nhóm đi chơi tên Ngọc, đai đen thường được gọi là băng Thái Cực Đạo.

 Trong tấm ảnh này, biết đâu có hình ông ngoại của Huỳnh Kim Sang, lính khố đỏ sang tây đánh đức cứu Tây.

Ông ngoại hắn là lính khố đỏ, tây gọi là Tirailleur, bị tây chở qua xứ mẫu quốc, đánh giặc chống Đức vào đệ nhất thế chiến 1914-1918. May sao còn sống vì quân lính của tây chết như rạ vì họ dùng khí giới hơi ngạt. Về nước, Tây cho dẫn gia đình lên Đà Lạt lập nghiệp sinh sống. Mẹ hắn được gửi bằng khen, 1 trong những 100 gia đình đầu tiên di cư đến Đà Lạt. Thời Tây đổ bộ sau 1945, bị bố ráp, lính tây suýt bắn. May ông ta xổ một tràn tiếng tây bồi, cho quân số của lính pháp ngày xưa nên thoát chết.

Ông nội hắn, người Quảng Nam, làm thầu khoán, xây cầu gì ở Tháp Chàm, giàu có. Một hôm đi đâu về sao đó về bị té chết. Bố hắn với ông bác, còn bé, được mấy người bà con đem vào Đà Lạt nuôi. Ông cụ mình hay đến nhà hắn đánh bài. Bố hắn đánh bài, mèo chuột nên hắn lớn lên, không theo con đường của bố. Hèn gì bố hắn với ông cụ mình thân nhau vì có chung đặc tính. Bố hắn có bà Bồ nhí trên số 4 nên hay đi ngang nhà mình. Khi xưa có chiếc xe mô-tô. Chị hắn buôn bán giỏi lắm, có nhà chỗ đầu dốc Hai Bà Trưng. 1 trong 3 căn nhà xây sau Mậu thân, bên cạnh nhà ông tàu bán xắp xắp, chuyên môn bận áo quà màu đen ở bên cạnh rạp Ngọc Hiệp. Nhà có xe hàng. Sau này về Sàigòn buôn bán rau của Đà Lạt. Bị đổi tiền mấy lần te tua nhưng người tài giỏi thì vẫn làm lại được cuộc đời sau đó vì có nghề buôn bán.

Bố hắn mở tiệm làm nước đá Thuỷ Tinh, đối diện rạp Ngọc Hiệp. Sau này bán lại cho ai, họ mới làm thêm cà-rem cây với loại eskimo mà mình mê nhất thời ấy. Hắn cho biết cái cầu nhỏ từ xóm Địa dư qua Phan Đình Phùng, thường được gia đình hắn gọi là Cầu Quẹo. Không biết có phải vì vậy mà dân Đà Lạt xưa gọi đường Cầu Quẹo. Có người kêu là vì chiếc cầu ở cận nhà hàng Cẩm Đô nên họ gọi Cầu Quẹo. Theo mình thì không chính xác lắm vì cầu Cẩm Đô, trước đó được gọi là cầu Cửu Huần, do ông Cửu Huần đặc trách xây. Sau này, nhà hàng Cẩm Đô được xây lên, người ta gọi là cầu Cẩm Đô.

Hắn kể em gái hắn học Văn Học, dưới một lớp. Bạn gái xinh đến nhà , nhờ đó mà hắn biết mấy cô đẹp, nhà ở đâu. Kể có 2 chị em, tên Mỵ và Nương, đẹp nức nở, ở Cầu Đất, chắc nằm vùng, sau 75 làm lớn lắm. Mình không nhớ 2 cô này, chỉ nhớ em gái hắn khi đến nhà hắn.

Hắn kể sau 30/4, hắn trút bỏ quân phục rồi tìm đường về nhà. Hạ sĩ quan nên đi học tập đâu mấy tuần rồi về. Làm đủ nghề, Việt Cộng muốn đày đi kinh tế mới, không cho học, không cho làm xí nghiệp. Hắn di tứ xứ làm ăn, làm lơ xe, xuống Hà Tiên làm công nhân cho xi măng Hà Tiên, bị dân Miên rượt đủ trò. Hắn kể trước khi vượt biển, Cô Thuỷ có xuống Sàigòn, ghi danh cho hắn đi làm công nhân.

Cuối cùng, một hôm hắn đứng đón xe cuối tuần về nhà thì gặp ông cậu. Tối đó, hắn ngủ lại nhà ông cậu. Có người lạ đến bàn chuyện vượt biển trên gác. Hắn bò lên xem, nhớ mặt ông khách lạ rồi sau đó, đi theo ông ta như phim trinh thám. Ông ta lên xe buýt thì leo lên xe buýt, xe đò rồi đến Rạch Giá.

Mình có kể tên bạn học cũ, tổ chức vượt biển, bị chúa trùm công an vùng Kiên Giang bắt. Bảo lên Sàigòn, móc nối với dân vượt biển, kêu về Rạch Giá, mua bến của hắn. Tên này được hai công an Kiên Giang Kiên Cường, đi kè lên Sàigòn. Hắn móc nối, chở 4,000 cây vàng về Rạch Giá nộp cho chúa trùm công an. Dạo ấy, thiên hạ vượt biển từ Bà Rịa nhiều như vợ mình. Nên tên trùm công an Kiên Giang kêu dẫn dân vượt biển về Rạch Giá. Tên trùm công an thấy tên này giỏi, móc nối kiếm tiền cho hắn, không cho đi vượt biển, nó phải núp dưới tàu trốn. Lênh đênh qua đảo rồi định cư tại Cali. Nghe nói tên công an này sau bị tử hình hay sao, không nhớ rõ.

Ông này khám phá ra hắn đi theo, tưởng công an nên nói anh của hắn, xem có phải công an. Ông anh nhận ra nó, kêu em tui nên được đi theo diện canh-me. Anh nó tổ chức vượt biển nhưng không nói, sợ bị lộ. Ghe nhỏ, hôm đó bão cấp 6 nên cả ngàn thuyền ghe đánh cá, đậu neo trong bờ. Thuyền của hắn ra khơi, nhỏ bé. May thuyền nhỏ nếu không thì đã bị sóng đánh vỡ. Tàu chết máy, trôi dạt vào Thái Lan, rồi họ kéo xuống Pulau Bidon. Một năm sau, được định cư ở mỹ. Sống tại Houston từ 1981 đến giờ.

Cách đây, 20 năm, về lại Việt Nam, có tên bạn giới thiệu cô cháu ở Mỹ Tho. Hắn bò về miền nam xem mặt. Thấy nghèo khổ quá nên cưới cô nàng đem qua Mỹ. Hắn nói có vậy mới sống bền với nhau. Cô vợ sinh ra hai cô con gái, 18 và 14 nên chắc phải cày thêm, chưa về hưu được.

Mình hỏi gái Mỹ Tho chắc đẹp lắm. Hắn kêu thường thôi, đẹp thì nó bỏ tao từ lâu rồi. Vợ tao thấy tao hiền nên thương, thua 20 tuổi. Về già mới thấy tên này khôn, lấy vợ trẻ để khi về già nó hầu mình. Lấy vợ gần tuổi nhau, về già đau ốm, già phải lo đấm bóp, thuốc thang đủ trò. Chúc mừng hắn.

Anh chàng kêu sao mình nhớ họ của ”Bỏ tao”. Bỏ là bố đỡ đầu của giáo dân. Hắn chỉ nhớ tên của bác Oai. Mình kể về bố của thằng HÙng, tập Thái Cực Đạo với mình ở Lasan Adran. Hắn kể ăn thịt chó tại nhà này. Ông bố đỡ đầu của hắn, công an chìm của trung tâm thẩm vấn, vua bắt nằm vùng Đà Lạt. Mình nói cũng ăn thịt chó tại nhà nầy được hai lần. Một lần, mình xin con chó của ông Quyền cho nó, nhà nó làm réveillon. Xong om.

Qua hắn thì khám phá ra trong xóm trên nhà mình có rất nhiều giáo dân. Họ đi nhà thờ mà cô hàng xóm đi lễ mỗi ngày. Nhà thờ nằm cạnh nhà xác. Trên bệnh viện Đà Lạt, có 2 nhà xác: một dành cho tây và một dành cho người Việt. Nhà thờ do mấy bà sơ áo trắng trù trị. Theo mình thì là nhà nguyện, để ai có thân nhân nằm bệnh viện, đến đó cầu nguyện bề trên. Nhà thờ lãnh địa đức bà thì mấy bà sơ bận đồ xanh. Hoá ra mẹ nó là mẹ đỡ đầu của chị Lệ Khánh, con bác Mân. Cô này, nổi tiếng với tập thơ “em là con gái trời bắt xấu”. Thằng T, con bà 3 Q cũng đi nhà thờ này. Sau này đi 302, sau 75, đánh lộn bị đâm chết.

Qua hắn, mới nhớ lại chị Nga, người Nùng, 1 trong 4 cô học sinh Bùi Thị Xuân đậu ưu hay tối ư 1 thời. Cạnh nhà Dũng Đầu Bò, cũng người Nùng. Dòng họ này đi lính lực lượng đặc biệt của Mỹ, chạy xe Jeep mỹ thấp, mấy cái bánh xe bè ra ngoài để tránh bị lật… hay ông Lê, bà con hay anh em gì của ông Tô, ở ngay dốc Hai Bà Trưng, cạnh nhà hai chị em Thanh, Trúc, quen với mẹ mình. Mình có gặp khi cô còn ở Irvine, sau này bán nhà ra RiverSide thì mất liên lạc.

Hắn hỏi mình nhớ con khách sạn XXX, mình không nhớ nhưng khách sạn thì nhớ. Hắn cho biết có gặp con của gia đình này, sang đây một mình. Buồn đời ra sao, đi làm nghề giết mướn. Ai trả $10,000 dạo ấy là thịt liền. Sau này, qua Hạ Uy Di làm gì bị bắn chết. Chắc gia đình không biết.

(Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn 


Những người đàn ông trong truyện Kiều

 Mình nhớ năm 3ème học Truyện Kiều vì khi thi bằng Brevet, có câu hỏi về ông Nguyễn Du. Mình thấy lạ một điều là các nhân vật nam lần lượt xuất hiện trong Truyện Kiều, toàn là những người đàn ông, không đáng để thiếu niên như mình, học tập noi theo đạo đức cách mạng. Ai ngờ, sau này mình cũng đi theo con đường của họ. Sợ vợ như Thúc Sinh, dại gái như Từ Hải, khốn nạn như Kim Trọng… nói chung là cứ dính vào đàn bà là theo gương một trong những nhân vật nam, ca khúc người đi qua đời Thuý Kiều của ông Nguyễn Du.

Nhân vật nam đầu tiên xuất hiện trong đời Thuý Kiều là Kim Trọng. Khi cô nàng gặp tên này, thốt lên “thằng kia gặp gỡ làm chi, 100 năm biết có duyên gì hay không” khi đi tảo mộ. Mỗi lần gần Tết, mình đi chạp mộ với người làng Dưỡng Mong ở Mả Thánh thì chán như con gián. Không hiểu sao ông Nguyễn Du lại tả thiên hạ đi đông, bận quần áo đẹp để cuốc đất nhổ cỏ, chưa kể đạp phân bò của mấy thằng chăn bò trên mả thánh. Đúng là thi sĩ, không biết gì về cuốc đất nhổ cơ.

 Nghe kể về cuộc đời xấu số của Đạm Tiên, Thuý Kiều bùi ngùi rồi tơ tưởng cuộc đời mình sẽ như cô ả đào này. Có lẻ vì vậy mà khi xưa mấy người lớn không cho con gái đọc tiểu thuyết, sợ mấy cô đọc xong cứ tưởng mình như nhân vật trong tiểu thuyết, để bắt chước theo.

Anh chàng này, con nhà giàu, học giỏi, biết thổi sáo để dụ dỗ gái vị thành niên như vài tên bạn học với mình khi xưa. Biết đánh đàn là gái bu như ruồi. Khi xưa, mình tập võ trong khi mấy tên bạn học đàn, đô rê mi Fa sol la si đô để gái bu đông như quân Nguyên. Lớn lên, thi khám phá ra chỉ cần học Đô La là đủ được gái bu. Được cái về già thì mình khoẻ hơn chúng. Hôm nay, gặp tên bạn ở Văn Học, nói tháng 4 tới, mình leo núi Machu Picchu 7 ngày 6 đêm, cắm trại trên núi khiến hắn rùng mình.

Thúy Kiều, mê tiếng sáo của tên công tử nhà giàu, ban đêm leo tường qua nhà Kim Thị. Kim Trọng thỏ thẻ bên tai, kêu yêu Kiều như điên như bao thằng đi tán gái, chỉ muốn rà xét đồ phụ tùng của gái, thuộc loại hàng xịn hay đã bị tân trang nội thất toàn diện. Khi bố cô nàng bị nạn thì anh ta kêu Kiều cứ bán thân chuộc cha đi, để trọn đạo Hiếu tử, để anh lấy Thuý Vân cho xong đời. Ngồi thổi sáo: “này em hởi con đường em đi đó, sẽ đưa em sang đâu?”. Đưa đến động Tú Bà. Chấm còm.

Bố của hai chị em Kiều Vân, không biết làm chuyện gì mà mất tiêu gia sản. Mình đoán ông này binh xập xám chướng nên phải bán nhà cửa, con gái để trả nợ.

Kiều đi theo Mã Giám Sinh, khóc lóc bài tình chị duyên em như chị em bà hàng xóm nhà mình khi xưa. Bà chị lấy chồng, không con nên kêu cô em lấy chồng mình, sinh ra 4 người con theo chủ nghĩa tình chị sex em.

Cái mất dạy là sau 15 năm làm điếm trả nợ cho TÚ Bà xong, tên Kim Trọng này, gặp lại Kiều, chắc cholesterol cao kêu về làm vợ hắn để than thuốc cho hắn. Chắc Thuý Vân, không giỏi việc chăn gối, hay hắn đã chán, muốn tìm của lạ nơi chốn bia ôm nên muốn thử nghệ tài của Thuý Kiều sau 15 năm ở lầu xanh, không bị bệnh SIDA. Hay ông thần này bị bệnh tiểu đường, lao phổi nên cần người chăm sóc, buôn bán mua thuốc thang. Có lẻ tác giả phải đặt tên Kim Trọng là Sở Khanh. Kiều đã qua tay biết bao nhiêu tên đàn ông nên từ chối, hiểu ngay, không ngây thơ như 15 năm về trước.

Mình đọc một bài tiểu luận của học sinh về Truyện Kiều ngày nay, khiến mình thất kinh. Học sinh cho biết, khi Thuý Kiều đã trả nợ xong cho Tú Bà, đại diện cho thành phần mỹ ngụy ác ôn. Chế độ phong kiến, tàn ác, phồn vinh giả tạo nên nhảy xuống Tiền Giang, thay vì sông Tiền Đường như mình đã học khi xưa. May mắn có một cán bộ cách mạng, đi công tác ngang qua, nhảy xuống sông Tiền Giang, cứu được Thuý Kiều, một nạn nhân của chế độ phong kiến, tàn ác của mỹ ngụy và đã giúp cựu gái lầu xanh, vào trại  phục hồi nhân phẩm để học tập. Kiều giác ngộ đi theo cách mạng làm hộ lý ở Trường Sơn. Kinh

Mã Giám Sinh thì như bao đàn ông giàu có khác, mua gái, chơi hoa rồi bán lại, để rút vốn. Mình đọc đâu đó, ở Việt Nam, có người đem bồ đến các quan lớn để làm “con gái nuôi”. Có ông nào, viết kể vợ ông ta được mấy quan lớn thay phiên nhận làm con gái nuôi, ông ta đi đòi thì bị bỏ vào nhà thương điên. Lâu quá không thấy ông này viết bài nữa, chắc bị cho uống thuốc an thần nhiều. Khai toàn là các quan lớn Việt Nam bắt vợ ông ta làm con nuôi vì vợ đẹp là con nuôi người ta. Con nuôi thì không mang tội hủ hoá.

Thúc Sinh, cũng hứa hẹn đủ trò khi lên giường với Thúy Kiều rồi gặp bà vợ Hoạn Thư, không dám hó hé. Rồi đến tên tướng cướp Từ Hải, nghe lời cô Điếm để chết đứng. Ông Nguyễn Du, tả Tú Bà dạy Thuý Kiều, dùng hạt lựu, để lừa mấy tên mua hoa tưởng cô nàng là gái tân. Gặp ai, cũng e thẹn, che mặt với cái quạt, khe khẽ em còn bé lắm, anh ơi. Nam mô a di đà.

Có một nhân vật nam được ông thầy dạy việt văn, chửi bới, thoá mạ nhiều nhất là Hồ Tôn Hiến. Ông quan, dụ Thuý Kiều, bảo Từ Hải ra hàng, rồi cho quân mai phục, bắn chết Từ Hải. Ông thầy kêu Hồ Thị, nào là đạo đức giả, nhan hiểm, rắn hổ mang. Ông thầy bắt học sinh học thuộc lòng để khảo bài, mỗi tuần. Mình không thấy có câu nào ông Nguyễn Du chửi ông quan họ Hồ cả.

Lớn lên, thấy tên Hồ Tôn Hiến khá bản lĩnh mới làm lãnh đạo. Gặp gái, không hủ hoá như các quan tham. Dùng Kiều như con cờ để dẹp loạn, lên chức. Thuý Kiều khóc như mưa, khi thấy Từ Hải chết đứng. Khóc đây là vì tức tối, bị họ Hồ lừa, chưa kịp lấy quỹ đen két sắt. Một cô điếm từng lấy bao nhiêu chồng người ta, đâu có khóc dễ dàng.

Đi thi Brevet, vào vấn đáp thì họ hỏi lý do Nguyễn Du, viết truyện Kiều. Mình trả lời như ông thầy dạy là ông ta làm quan nhà Nguyễn nhưng vẫn nhớ đến nhà Lê, vẫn thèm ăn rau muống và cà cuống bú xua la mua thay vì bún bò, bánh nậm nên được đậu vớt. Cứ trả lời như vẹt theo ông thầy dạy, dù chả hiểu gì. Chớ hỏi về Từ Hải thì mình cũng sẽ a-dua theo ông thầy, chửi Hồ Thị nát nước.

Em rể mình ở Pháp, có gửi cho mình 7 đĩa nhạc của một ông kỹ sư ở Pháp, mê truyện Kiều nên phổ nhạc hết mấy câu thơ của truyện Kiều. Ông này tên Quách Vĩnh Thiện, khi đọc đến câu 890 “sống trên đất khách, thác chôn quê người”, xúc động vì đúng tâm sự của kẻ xa quê, nên sáng tác nhạc nguyên cuốn Truyện Kiều. Hình như có đến 77 nhạc phẩm, ông này không được về Việt Nam. Ông này đi du học lâu rồi. Lái xe, mình nghe lại truyện kiều qua các ca từ thì mới thấm được truyện Kiều.

Mình thấy trên Shark Tank có ông Mỹ, soạn thơ của Shakespeare thành nhạc để học sinh dễ học. Rất có lý. Nếu khi xưa, học Truyện Kiều mà có nhạc Truyện Kiều nghe thì dễ học thuộc lòng hơn.

Lớn lên, thấy lịch sử thế giới đều dùng mỹ nhân kế để thu phục đám tướng, khiến vua chúa mất nước. Ngô Phù Sai bị Phạm Lãi, đưa Tây Thi vào cung, làm ông ta say mê, bất chấp lời căn dặn của tể tướng Ngũ Viên. Ông này thấy rõ âm mưu của Việt Câu Tiễn nên kêu đem ra chém. Chỉ có những người tài giỏi mới nhận ra âm mưu của kẻ tài giỏi khác.

Ông thầy cứ khen Từ Hải, cho rằng anh ta chết vì dại gái là cái chết êm ái. Cứ cho ông họ Từ chết vì đàn bà là tay anh hùng, hảo hán. Đừng có nói đến làm chính trị hay gì. Những người hèn hèn như mình mà dính vào đàn bà cũng chết lây lất.

Ông thầy kêu Từ Hải là đại trượng phu, một tay chọc trời “trơ như đá vững như đồng/ ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời” để rồi Thuý Kiều, hát bản nhạc “khi người yêu tôi khóc” của Trần Thiện Thanh thì tướng cướp họ Từ này gục ngã, chửi cả đám giai cấp công nông. Ra hàng Hồ Tôn Hiến để được hát “trái tim ngục tù, ta yêu em đến ngày mai”. Ông ta chết vì Thuý Kiều; 1 cái chết vì gái là cái chết êm ái nên phải chết đứng, chống gươm.

Hoá ra, lớn lên mình cũng như Kim Trọng, một người mà mình từng chê khi xưa. Khi một đối tượng rủ mình qua Mỹ, để thực hiện những lời thề trên đồi cát biển Normandie. Công ty ở New York mướn luật sư để lo giấy tờ cho mình, làm việc tại Mỹ. Bố của đối tượng một thời, gọi mình, bảo hát bài em xé đi, thư tình tôi đã viết thì mình bắt chước Kim Trọng. Thay vì đấu tranh cách mạng, quyết tranh đấu tới cùng để xây dựng hạnh phúc lứa đôi, kêu cô nàng hãy lấy chữ Hiếu làm đầu, rồi đi tìm đối tượng công nông khác.

Thuý Vân, dạo đó là giới công nông vì ông bố bị cướp hết tài sản như người Việt sau 1975. Cành vàng lá Ngọc gì đều đạp xe đạp, đi bán sữa đậu nành, hay đi thanh niên xung phong hết, nghĩa vụ quốc tế qua Cambuchia. Kim Trọng phản tỉnh, đi theo cách mạng, lấy giới công nông.

 Mình ăn theo diện vợ. Chuyện gì cũng đùn cho vợ làm. Cũng sợ vợ như Thúc Sinh, bạn bè rủ đi cà phê Lú đều từ chối. Tối tối phải bóp chân vợ, đấm lưng cho đồng chí gái, bạn bè xa lánh, khinh chê nên vẫn thấy cô đơn trong sa mạc. Phản tỉnh mình bỏ nghề kiến trúc sư, làm vườn, trở về giai cấp công nông của ngày xưa. Chán Mớ Đời 

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Nhà tôi, con dốc nhỏ

 Hôm trước, viết về những con hẻm Đà Lạt xưa, bổng nhớ đến bài hát của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, nhà ở gần xóm mình trên đường Calmette. Bài hát mang tên “tình tôi, con dốc nhỏ”. Anh ta nói về những con dốc nhỏ của Đà Lạt, những con đường rất ngắn, bụi đỏ. Anh ta lồng 1 cuộc tình vào đó. Anh ta nói đến những con dốc nhỏ của Đà Lạt xưa kia như Dốc Nhà Làng, Dốc Nhà Bò,… nhưng mình lại hình dung đến con dốc nối liền ba con đường của Đà Lạt. Tạm gọi “Dốc nhà Sơn Đen” cho dễ nhớ. 

Mình có tấm ảnh này nhưng không rõ lắm. Đà Lạt xưa chắc đã dùng phần mềm để làm cho rõ lại nên đưa lên đây, để mấy người hàng xóm xưa, có đọc thì nhận ra nhà họ. Thấy rõ cột điện mà mình sẽ nhắc phần dưới và nhà mình. 

Có người kêu mình sao không viết về con hẻm từ trường Đa Nghĩa băng qua Phan đình Phùng. Chỗ hãng cưa Xu Tiếng và ga-ra Phan Xứng. Chỗ này mình hay đến thăm thầy Hồ Thanh Tâm.  Không thấy anh nhắc hẻm Cơ đốc Phục lâm trên đường PĐP, và con hẻm gần đó băng qua suối tới trường Đa Nghĩa trên đường HBT.  Có đường hẻm đi từ cổng trường Bồ đề, đi ngang Lữ quán Thanh niên, lên tới cổng Dinh Tỉnh trưởng nữa. Mình chỉ viết về những con hẻm khi xưa thường đi qua. Mấy bác nào nhớ hẻm khác thì cứ ghi vào đây, em sẽ bổ túc.

Đây hẻm từ garage Phan Xứng, đường Phan Đình Phùng qua đường Hai bà Trưng. Mình mới kể hôm trước .

Từ nhà anh ta, phải đi qua con dốc nhỏ này hàng ngày đi học, hay ra phố. Bố anh ta làm gì ở nhà thờ Tin Lành trên đường Hàm Nghi. Mình có chơi nhưng không thân lắm với em trai của anh ta, tên Nguyễn Đức Vinh, trong xóm hay gọi Vinh Kennedy, học trên mình một lớp ở trường Trần Hưng Đạo.

Con dốc này đã để lại cho mình rất nhiều kỷ niệm, của tuổi thơ và tuổi dậy thì. Khởi đầu từ đường Hai Bà Trưng, nằm giữa nhà ông Hiển số 43B Hai Bà Trưng, nay là gia đình ông Châu ở và số 45A của nhà ông Quán. Chỗ này lúc đầu chỉ có mấy thang cấp do ty công chánh làm để cho công chức ở trên đi lên xuống dốc. Dần dần, thiên hạ chạy xe gắn máy, xe đạp, lấn vào khúc đất của nhà ông Hiển, biến thành một con dốc nhỏ để xe gắn máy, xe đạp chạy, khỏi phải dắt xe lên thang cấp. Nay thì họ làm rộng thêm con đường mòn này để xe hơi có thể chạy xuống từ đường Thi Sách.

 Đi lên đường Thi Sách, sau nhà ông Q là cái ga-ra để chiếc xe Peugeot 203 của ông. Sau này, ông ta đánh bài thua, bán mất. Đối diện cũng có một cái ga-ra khác, của nhà ông Hiển. Hình như sau này, ông cụ mình với ông Q có choảng nhau vì ông ta lấn đất vào sân nhà mình, từ ga-ra của ông ta. Ông ta rào xung quanh ga-ra không có xe, cách vách độ 2 mét và chiếm luôn dàn xu của nhà mình. Hai căn nhà đầu của cái dốc, trấn yểm nhà mình vì cãi nhau với ông cụ mình.

Sau đó là nhà mình, đối diện là nhà bà Phú, sau này dọn qua Phan Đình PHùng, cạnh nhà thuốc Tây Lâm Viên. Gia đình bà R, em ông Phú hay bà Phú dọn đến. Ông Tước muốn xin dọn vào nhà này nhưng bà R xin trước. Gần đây, mình liên lạc lại được với Chị Mẫn, con gái đầu của bà Phú, ở Seattle. Chị nói cả gia đình hiện ở Seattle. Xứ mưa gió quanh năm suốt tháng. Hồi tháng 5 vừa rồi mình lên vùng đó chơi thì chị ta lại đi Texas thăm gia đình.

Chị có hai em trai tên Phúc với gì đó quên tên. Hồi nhỏ mình hay qua sân bên nhà chị bắn bi với hai tên này. Sau này, gia đình chị dọn qua Phan Đình Phùng thì hết liên lạc. Chị này bạn học với chị Gái, con bà Tước, phát hiện ra mối tình hữu nghị với anh bà con của chị Gái, ở Sàigòn, học Kiến trúc, lên Đà Lạt chơi. Sau này, mình ở Pháp thì nhận thư của anh Đức gửi, nhờ chuyển về cho chị Mẫn. 

Nhớ thằng Hậu, con bà H, một hôm chạy sang nhà mình, kêu lại nhà bà Tước, nhìn qua cửa sổ, thấy hai anh chị đang mớm nhau như trong xi-nê. Thằng Hậu nay chết lâu rồi, mình có gặp lại Hiếu, làm cho khách sạn Novotel. Hai tên này có bà chị đầu tên Hợp, học Văn Học, mình có gặp một vài lần khi về Đà Lạt, chị ta bán chui ở phố Hoà Bình, chị hỏi đổi đôla cho chị kiếm lời. Sau này, có cô em bán vàng nên nhờ cô em đổi. Nghe nói chị Hợp đã qua đời. Lần cuối về, mình không qua nhà vì bà H đã chết.

Để kể thêm nếu không thì không ai hiểu, ngoại trừ dân xóm xưa. Nhà của ty công chánh ở đường Hai Bà Trưng, thường được xây 2 căn nhập một, bên Anh quốc người ta gọi “semi-detached” , do đó căn nhà ông Hiển mang số 45B, vì là căn thứ 2. Căn bên cạnh là nhà bà K số 45A. Mình có gặp lại T, con của bà K tại nhà mình, trong buổi họp mặt cựu học sinh Văn Học. Cô này, mình đặt tên là Thánh Nữ Văn Học, vì khi xưa, ngày nào cũng đi nhà thờ cả. Sáng mình tập võ, thấy cô nàng đi chánh niệm lên nhà thờ bệnh viện Đà Lạt, gần nhà xác, chiều cũng vậy. Nay ở Ohio. 

Tấm ảnh này, đoán chụp từ đường Hàm Nghi, rồi ai đó, thâu ngắn lại. Chấm đỏ là nhà của mình, hiện bà cụ và cô em út ở. Phía trước có 3 dãy cư xá Địa Dư, đối diện là dãy nhà cư xá Pasteur và cư xá Công Chánh.

Phía trước ảnh, có con đường mòn, nối đường Hai Bà Trưng và Phan Đình PHùng, phải đi băng qua mấy vạc đất của gia đình Võ Đình Dung, cho người làm vườn mướn. Đến cư xá Địa Dư, gồm 3 dãy nhà. Dãy bên tay trái có nhà ông Thạc, dãy giữa có nhà Phạm Ngọc Liên và Văn tài Phát, học chung với mình khi xưa. Bên phải là dãy nhà có gia đình ông Lào, mẹ chú Be và nhà của đối tượng của Huỳnh Kim Sang, nay làm lớn ở Việt Nam. Mình có kể gặp cô ta khi về Hà Nội lần đầu tiên.

Trước cái chấm đỏ (nhà mình) có 3 căn nhà lớn (semi-detached). Căn đầu tiên gồm hai gia đình ở số 41 A, nhà ông Mai, em ông Lào, ba của thằng Banh và nhà ông Tân Ù số 41B, có cô con gái tên Trần Hoàng Giang, cùng tuổi mình. Sau đó đến số 43A, nhà ông K, bố của T và 43B, nhà ông Hiển, sau này chết thì gia đình ông Châu dọn đến. Ông Châu mới qua đời, còn lại bà vợ, thường gọi là cô giáo Thanh, hay đi chơi với bà cụ mình. Căn thứ 3, số 45A là nhà ông Q, còn số 45B là nhà ông N, hay chứa bài. Có lần 302, đột nhập vào nhà chỉa súng lấy hết tiền mấy ông công chức đang binh xập xám.

Sau đó là căn 47A, nhà của bà T gầy, mẹ của Đôn, Chị L, rồi đến hai người em tên Ân Ái, hình như có cô út tên gì quên rồi, hình như Tú. Mình có gặp một lần khi về Đà Lạt, cô ta chăm sóc mẹ ở nhà. Căn 47B thì người ra người dọn vô nhiều lắm không nhớ rõ. Sau đó là căn cuối số 49A, B của nhà ông Hân và ông Ngọc. Mình có liên lạc được với hai cô con gái của ông Ngọc, hiện sinh sống tại Úc.

Nhờ bờ-lốc Sơn Đen mà mình tìm lại được khá nhiều hàng xóm ngày xưa. Nay mình khám phá ra căn nhà xây sau Mậu Thân, ngay vườn ông Bắc kỳ mang số 49 C. Ông thần ở nhà này không biết có nhớ thằng Hiếu, khi xưa học với mình ở Yersin, ở nhà 2 căn, ngay dốc hẻm đi vào khu nhà Cò đào.

Thấy cột điện trước nhà ông Hiển mà tên lính cho nổ lựu đạn chết theo cuộc tình vớ vẩn. Kế bên chấm đỏ là nhà bà Phú (Ron) và bà Ngà. Sau lưng là nhà ông Đề, giám đốc trung tâm thẩm vấn đến mấy căn nhà bà Ấm Thảo, bà Phúc, Hồ Thanh Hy,… mờ mờ thấy nhà anh Nguyễn Đức Quang, Vinh Kennedy, cạnh nàh Thạch, sau này đánh lộn bị ai đâm chết, bên tay phải gần Domaine de Marie là nhà thi sĩ Lệ Khánh (em là con gái trời bắt xấu).

Dạo mình mới qua Tây, đến nhà cậu Võ Quang Miên, con ông bà Võ Quang Tiềm, có gặp một tên trung uý, con của ông bà bán quán ở đường Trương Vĩnh Ký, người Huế, quen với mẹ mình. Tên này đánh bài, thua, biển thủ lương của đại đội, dọt qua Miên, lúc Việt Nam Cộng Hoà đánh vào Cao Miên, rồi dọt đi Tây luôn. Qua Pháp làm bồi. Dạo ấy, có một tên đại uý, đánh bài thua, lấy gạo của đại đội, đem bán cho mẹ mình. Lần sau, hắn lấy tiền trước nhưng không giao gạo. Mẹ mình có kiện như tiểu khu trưởng xin tha vì hắn hết tiền.

Trước nhà ông K và ông Hiển có một trụ điện. Khi xưa, có một tên lính “yêu người mà người chẳng yêu tôi” bò lại đây, trước nhà đối tượng. Mở chốt lựu đạn vào 7 giờ sáng, sau hết giờ giới nghiêm, nổ cái đùng. Mình mới thức dậy, nghe cái đùng, chạy xuống đường thì thấy thiên hạ bu quanh cái xác ông ta. Nữa cái đầu bay mất tiêu. Cái xác ông ta nằm trên đường với nữa cái mặt, ám ảnh mình cả chục năm. Mỗi lần ban đêm, đi về nhà phải đi ngang cái trụ điện này, mình khấn chết bỏ, để ông ta đừng bắt mình chết thế để ông ta đi đầu thai vì tình phụ. May quá, ông này chết không linh thiêng nên không ai lập am, thờ cúng. Cũng có thể vía mình được bán cho Ông Chín ở am Mệ Cai Thỏ ở đường Nguyễn Công Trứ nên không có thánh thần nào dám đụng tới mình, ngoại trừ Ma Cái.

Ông H, người Nam, ghét bố mình lắm, hình như ông ta là nguyên nhân khiến bố mình bị đổi lên Ban Mê Thuột. Ông này uống rượu nhiều lắm, sau này đau gan chết. Bà H, trả nhà lại để gia đình ông Châu đến ở. Bà H, mới phá cái ga-ra, cắm dùi xây căn nhà 2 tầng. Bà có mấy cô gái, Đ học Yersin, thằng S cũng học Yersin, L H thì không nhớ. Nghe nói LĐ sau 75, lấy ca sĩ Duy Quang. Con trai đầu tên K, an ninh quân đội, lấy vợ, chiếm miếng đất của nhà Bà R, xây cái nhà. Bà R với tên này, cãi lộn hoài. Tên này có lần, vác súng ra bắn đùng đùng, khiến bà R im re. 

Bà R này tội lắm. Ông chồng theo vợ bé, một mình bán cơm ở chợ Đà Lạt, nuôi đàn con. Ông chồng chạy chiếc xe Vespa, lâu lâu ghé nhà. Nhà có mấy cô con gái và một thằng con trai tên Cu L thì phải. Có một cô bị câm, con gái đầu tên P, thì phải. Không biết bệnh gì mà bôi vôi trên đầu. Con pH này ghét mình lắm vì mình hay bợt tai thằng Cu L, em nó. Nghe nói nay là đại gia tại Sàigòn. Thằng Cu l vẫn sống tại Đà Lạt, xây nhà trong sân khi xưa mình chơi bắn bi, tạt lon. Có cái cổng to đùng nên không mò lại hỏi thăm.

Từ đó, tên K và Bà R không cãi nhau nữa. Giặc ngoài đã bình định xong thì giặc trong nhà nổi dậy. Bà vợ tên K, người Nam, bà H về quê ở đâu đó, cưới đem về. Bà này, dữ lắm. Có lần mình thấy cãi nhau với tên K, hắn bỏ chạy, bà này rượt theo, kêu “đụ má mày, chạy hả” rồi cầm cái dao bầu đang thái rau, phóng theo. Con dao bay tới trúng cái lưng của hắn, mình nghe hắn kêu cái hự. May quá cán dao trúng lưng hắn, cắm xuống đất nghe cái phụt. Hắn bỏ chạy vào nhà mẹ, bên cạnh bụi Hoa Quỳ. Vài hôm sau, thấy hai vợ chồng ôm hôn thắm thiết lại. Vở tuồng K an ninh quân đội lâu lâu tái diễn lại cho con nít lối xóm xem miễn phí. Sau này, đi kiếm vợ, mình không bao giờ đụng mấy cô gốc miền nam.

Bà H, không làm gì, chỉ cho vay tiền ăn lời. Mỗi ngày, thấy bà ta xách cái giỏ, đi qua chợ Nhỏ ở đường Phan Đình Phùng, chỗ nhà thuốc Tây Lâm Viên, ngồi xuống trước mấy gánh hàng rong, lấy tiền lời. Chắc bà ta cho vay 2%/ tháng. Rồi từ từ đi lên Chợ Mới, thấy mấy bà ngoài chợ, gạt nước mắt, trao tiền lời cho bà ta. Đà Lạt dạo ấy mấy tên du đảng theo bà này, giựt tiền là trúng mánh. Nhà mình không chơi với nhà bà H vì có mối thù khi xưa. Ông H làm ông cụ mình bị đổi lên Ban Mê Thuột mấy năm.

Bây giờ nói đến nhà bà Q (số 45A, nhà ông Ngần 45B). Mình chỉ nhớ bà Q hay làm bánh tráng khoai lang. Tới mùa khoai lang, là thấy bà ta làm bánh tráng bằng khoai lang Đà Lạt, sau đó phơi khô trên mái nhà, ruồi bu đen nghịt nhưng mà rất ngon. Mình hay mua của bà ta. Có lần, một con hoảng chạy lạc đâu từ Lãnh Địa Đức BÀ xuống, chắc của mấy bà sơ nuôi. Chạy sao lọt vô nhà bà ta, họ đóng cổng lại. Tối đó, họ đem lên nhà mình một miếng thịt hoảng, lấy thảo. Ăn ngon cực.

Bà này sinh con cũng nhiều. Mình chỉ nhớ 4 người con trai. Ông đầu chết trận thì phải sau đó tên Đ, Đ, Đ, và Đ, còn mấy cô con gái thì chị H, chị N, chị L (có liên lạc được với chị này qua Facebook), chị M. Hình như M cùng tuổi với mình. Nếu mình không lầm thì mấy chị em này đẹp lắm, trai đến nhà đông như ruồi. Nhà này, khi xưa có nuôi một con chó berger, nó cắn mình một lần, phải lên viện Pasteur chích 21 mũi. Kinh

Khi xưa, trong xóm, có nhà bà Tước, bà Hân đông con gái nhưng nhà bà Q thì trai đến đông như ruồi. Có lần mình thấy hai tên bạn của thằng Đ, đánh nhau trước cửa nhà này. Sau đó thằng Đ chạy ra can. Hình như một tên chạy xe lạng qua mặt tên kia nên rượt nhau tới nhà ông Quán, đánh nhau. Một tên có học nhu đạo vì thấy hắn ra đòn nhu đạo, căn bản thứ 1. Chắc hai nhà kia cấm không cho trai đến nhà trồng cây si. Để hôm nào hỏi mấy bà hàng xóm xưa xem.

Mình về Đà Lạt, có lần gặp chồng của chị M ở Thuỷ Tạ, anh ta kể gia đình sắp đi định cư tại Hoa Kỳ, nói tên Điệp, khi xưa hay chơi với mình, sau này đi hải quân, 75 chạy qua Mỹ. Không biết ở đâu. Tên Đ này lớn hơn mình đâu 2, 3 tuổi, học Việt Anh, bắn ná hay lắm. Hắn dạy mình bẩy chim sẻ, lấy cái thúng, để cái que chống cái thúng lên, cột sợi dây dài rồi núp, khi chim sẻ đậu xuống, nhảy đến dưới thúng để ăn gạo thì giựt cái sợ dây, cái thúng úp lên con chim. Chỉ tội là khi mình mở hé cái thúng thì con chim bay đi.

Nhà ông Q có cái chuồng bồ câu. Nhà mình dạo ấy cũng nuôi bồ câu, và gà. Có cái chuồng bồ câu. Vấn đề là chim Bồ câu nhà mình hay bay đi ăn mỗi ngày, đậu lại chuồng Bồ câu của nhà ông Q, rồi không bao giờ trở lại. Mình sơn phết chuồng lại cho đẹp thì chim nhà ông Q bay lại. Mình chộp, đem ra tiệm Chic Shanghai bán. Chị L đọc bài của mình nên kể lại đây để nhớ lại một thời nghèo đói khi xưa trong xóm. Nay nghe nói con gái chị N, xây nhà bên dốc, chị L cũng ở đó, hay ghé thăm bà cụ mình. Hôm tước, sinh nhật bà cụ có nói chuyện với chị ta ở nhà hàng qua điện thoại.

Cạnh nhà bà Phú, có nhà ai mình quên tên, trước khi bà Đàng dọn đến. Có thằng con tên Hoàng thì phải. Chị nó học Bùi Thị Xuân, to béo lắm. Chị ta nghe ai, uống dấm trừ cơm, rồi lăn đùng ra chết. Thằng Hoàng hay hát bản nhạc “cớ sao buồn này Kim,..” sau này gia đình này dọn đi đâu. Xong phần mấy nhà cạnh “tình tôi, con dốc nhỏ của Sơn Đen”.

Mình chỉ kể những gia đình thời anh Nguyễn Đức Quang còn đi học tại Đà Lạt. Vì sau Mậu Thân thì thiên hạ đến cắm dùi khắp nơi.

Từ Hai Bà trưng, con dốc dẫn đến đường Thi Sách. Chỗ này trước Mậu Thân, toàn là Vệ Đường Hoa, hoa Quỳ mọc đầy, con nít trong xóm ít dám bò tới đây vì sợ rắn. 

Hôm qua lên vườn, thấy con rắn giữa đường. May chớ đi vào trong mấy cây bơ, tối tối khó thấy.

Từ đường Thi Sách đi lên dốc về hướng đường Calmette, có mấy thang cấp. Bên phải là nhà bác của tên Bi, ở trường gọi là Đinh Gia LÀnh. Sau này, ông ta đi Pháp để để lại căn nhà này cho bố hắn là đại uý Hải, làm việc trong trường Võ Bị. Nhà tên Bi này, cũng nằm trên đường Thi Sách, cạnh nhà ông Tô. Căn nhà to đùng. Mình có gặp lại 2 lần tại Bolsa, anh chàng ở cách 3 tiếng lái xe thành phố Seattle.

Đối diện nhà bác của thằng Bi, là nhà của ông Đề, giám đốc trung tâm Thẩm Vấn. Lâu lâu, ông ta đem tù Việt Cộng về nhà, phát mấy bụi hoa Quỳ, làm hàng rào kẽm gai, sợ nằm vùng vào ban đêm thịt gia đình ông ta. Mình chỉ nhớ con gái đầu ông ta, học HÙng Vương, tên Thu, hay xuống nhà mình xách nước. Sau này, nó bồ với thằng nào, sai xuống xách nước mệt thở.

Đi lên thì bên trái, cạnh nhà bác thằng Bi là nhà của ông ấm Thảo. Mỗi lần lên nhà này, mình ra trước sân nhà, để vái cái trang. Mẹ mình xẩy thai một lần, chôn cái nhau ở đây. Mình nhớ có thằng Thọ, thằng Hậu, còn mấy cô con gái thì chịu. Hình như một cô tên Chi. Chỉ nhớ anh Ngữ, con đầu, hướng đạo sinh Lâm Viên. Hồi nhỏ, thấy anh ta điều động đám hướng đạo sinh LÂm Viên, xây cái cầu gỗ bắt qua con suối ở xóm Địa Dư. Sau này, anh đi Thuỷ Quân Lục Chiến. Trong trận đánh vượt sông Thạch Hãn, chiếm lại Quảng TRị, anh ta bị thương, hư mất một con mắt, giải ngủ. Nay không biết trôi dạt về đâu. Mình về Đà Lạt, có ghé thăm bà Ấm Thảo và thằng Thọ.

Đi lên chút nữa thì gặp nhà của tên Hồ Thanh Hy, anh của Hồ Thành Hải. Bố hắn làm ở Địa Dư hay ty Kiến Thiết. Sau này dọn qua Phan Đình Phùng, chỗ ngã ba chùa, cạnh nhà Nguyễn Đắc Hớn. Hắn học Yersin trên mình một lớp. Có lần hắn liên lạc với mình trên Facebook, mình như bò đội nón, không nhớ hắn, chỉ nhớ em hắn. Nghe nói ở San Diego. Bố hắn hay đi chiếc xe Lambretta, chở cả đám con phía sau. Sau này, Đinh Anh quốc nói thì mới nhớ hắn học chung với mình khi xưa ở Yersin. Có nhắn tin cho hắn nhưng không thấy trả lời.

Sau này, nói chuyện với Đinh Anh quốc, một nghiên cứu sinh về gia phả các gia đình Đà Lạt. Tên này, người độc nhất nhớ tên ông cụ mình. Hắn nghiên cứu gia phả dân Đà Lạt hay sao đó. Khi hỏi hắn về tên nào, hắn kể ra bố thằng này tên gì, ông nội cô kia họ gì. tên này, nhắc lại Hồ Thành Hy, mình mới nhớ bố hắn đi chiếc xe Lambretta. Khi xưa, trong xóm, người ta cấm con họ chơi với mình nên quên. Trước 75, hàng xóm đã cấm con họ chơi với mình, thành phần bất hảo, không cùng giai cấp. Chán Mớ Đời 

Bên cạnh là nhà bà Cúc hay Phúc, bán len ngoài chợ. Có mấy đứa con nhỏ hơn mình nên không nhớ tên. Hình như có một cô con gái, bằng tuổi mình, học BÙi Thị Xuân. Một tên đi vượt biển chung ghe với em mình. Sau đó, định cư bên Úc Đại Lợi, mở tiệm bánh mì, nghe nói giàu lắm.

Sau đó thì có một nhà của một chị lớn tuổi, dáng người mập mập, hay bận váy, mang giày cao góc, đi ngang nhà mình, để lại dấu ấn của nhưng gót giầy escarpin. Đến nhà ngay góc dốc và Calmette là nhà của thằng Thạch, học Yersin trên mình mấy lớp. Sau đi 302, rồi sau 75, đánh lộn với ai bị đâm chết. Nhà của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang ở trên đường Calmette, hình như căn số 2 hay bên tay phải của nhà thằng Thạch. Đối diện, phía góc đường Thi Sách và Calmette, sau lưng nhà Ông Đề có một căn nhà đầu tiên của đường Calmette nhưng mình không biết nhà ai.

Mình chỉ nhớ có gặp anh Nguyễn Đức Quang một hai lần khi vào nhà anh ta vì hay đánh bóng bàn với Nguyễn Đức Vinh, em trai của anh ta, con nít trong xóm hay gọi Vinh Kennedy, vì hắn giống Tây Lai. Tên Vinh này học chung lớp với anh bà con mình tên Thành, mà dân Trần Hưng Đạo gọi là Bồn Lừa, vì đá banh hay. Vinh Kennedy chơi thân với Đinh Gia Lành trong xóm. Năm Mậu Thân bắt đầu đánh bóng bàn trong xóm với anh Toàn, con ông Tô, ông Đức, em của ông trồng răng Nguyễn Văn NGhi,… lúc đầu mình học đánh bóng bàn với thằng Vinh Kennedy. Sau đó thì mình hạ hết mấy người khác trong xóm. Lớn nhỏ đều hạ hết.

Mình thấy tên Vinh Kennedy học đánh đàn dạo ấy. Mình nghe nói anh hắn là Du Ca chi đó nhưng không rõ lắm. Lớn lên thì mới biết về phong trào Du Ca Việt Nam dạo ấy. Khi ông Kennedy lên làm tổng thống, với câu nói bất hủ “đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho tôi,…” có thành lập một đoàn thanh niên mang tên Peace Corps, gửi các thanh niên mỹ đi sang các nước nghèo để phục vụ về y tế, dạy anh ngữ,… chắc là để chống lại các đoàn thanh niên cộng sản của Liên Xô, đi nghĩa vụ quốc tế tại các nước anh em.

Dạo ấy, có một cuốn sách viết về người Mỹ mang tên “the ugly American” (người Mỹ xấu xí) mà tân tổng thống Hoa Kỳ, bắt các nhà ngoại giao, trước khi được bổ nhiệm tại các nước, phải đọc cuốn sách này. Phong trào này nhằm nối kết tình hữu nghị hai nước, thông hiểu nhau hơn. 

Tại Việt Nam, có nhiều phong trào kêu gọi các thanh niên về nông thôn, xây cất các trạm y xá, đào giếng,..được sự ủng hộ của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà.

Sau này, ở hải ngoại, tò mò mình tìm đọc về phong trào du ca này. Có nhiều bản nhạc sinh hoạt khi xưa mình nghe mà không biết xuất xứ từ đâu. Mình thích nhất bài “Người Anh Vĩnh Bình”, mới hiểu thêm về ông cụ. Du kích trong làng bao vây nhà ông bà nội mình vào ban đêm. May ông cụ mình phòng bị từ hồi chiều, nên vượt tường nhà, nhảy qua hàng rào nhà bà cô bên cạnh rồi trốn vào nam. Nếu ông cụ có kết cuộc như người anh Vĩnh Bình thì Sơn Đen không có mặt trên đời. Và bài “chiều Tuy Hoà”, nghe buồn não ruột. Thôi mệt rồi, ngưng đây.

Nguyễn Hoàng Sơn