Showing posts with label Tình.... Show all posts
Showing posts with label Tình.... Show all posts

Bạn ảo , bạn thiệt

 Hôm trước, Facebook hỏi mình có muốn biết ai là bạn cực đỉnh năm 2021. Những ai liên lạc với mình nhiều nhất trong năm 2021. Tò mò mình nhấn nút thì hiện ra tấm ảnh khiến mình thất kinh. Hình một ông quen trên mạng, làm bờ lốc Mực Tím Sơn Đen, để lưu trữ mấy bài mình viết trên Facebook, một ông quen từ thời mình mới sang Hoa Kỳ và một ông khác thì chưa bao giờ gặp mặt nhưng có cái bệnh, hay gửi cho mình mấy tấm ảnh về Đà Lạt xưa, bắt mình viết về những mảnh nhớ Đà Lạt khi xưa của mình. 


Mình không biết Facebook làm cách nào mà họ lột tất cả mấy bài mình tải lên bờ lốc, rồi cứ hỏi mình muốn chia sẻ lại hay không, chỉ có vấn đề là mấy tấm ảnh dùng để giải thích biến mất. Mình viết trên OneNote thì tải hình lên Facebook thì biến mất, còn tải trên Facebook thì mấy tấm ảnh phải nằm cuối cùng nên khó giải thích nên bỏ lên bờ lốc cho tiện. Vấn đề khi mình tải bài từ bờ lốc về thì mấy trang nhóm Đà Lạt, xoá hết nên sau này mình không tải nữa. Thôi thì không duyên thì chịu. Ai muốn đọc bài mình kể về Đà Lạt xưa thì lên bờ lốc. Mình viết xong thì tải lên trên ấy. Lâu lâu mới tải lên Facebook.

Hình bên trái là một ông thần ở Cali, khá xa bolsa. Kỹ sư điện toán, có thời học tại Đà Lạt. Một hôm, mình nhận tin nhắn của ông thần này, hỏi mấy bài gì về mục gì đó, để ở đâu, anh ta không tìm không ra. Mình như bò đội nón, nói không biết. Số là mình viết trên OneNote rồi tải lên Facebook. Đâu có liệt kê gì cả thêm nữa, mình viết xong thì quên, không nhớ gì. Lâu lâu, Facebook nhắc lại thì tò mò đọc lại thì thất kinh luôn. 

Ông thần này và một người bạn tại Việt Nam, quyết định thành lập một bờ lốc rồi cứ từ từ họ tải mấy bài mình đã viết về bờ lốc, liệt kê các đề tài để thiên hạ dễ tìm khi cần tra cứu. Mình không ngờ mình viết cho mình mà lại có người thích đọc. Có một số bài mình không tải trên mạng, chỉ gửi i-meo cho bạn bè thì không có trên bờ lốc. 

Mấy bài này thì có trong cuốn Mực Tím Sơn Đen, do anh bạn học cũ, tiến sĩ Chử Nhị Anh thực hiện, kỷ yếu #2 cho trường Văn Học Đà Lạt. Có chút trục trặc kỹ thuật, viết trên OneNote, bỏ lên bờ lốc thì lộn xộn nên hai ông thần, hộ pháp bờ lốc Mực Tím Sơn Đen, kêu mình viết trực tiếp trên bờ lốc. Lâu lâu tải lên Facebook.



Mình xem trên Amazon, cuốn sách do anh bạn học cũ thực hiện đứng hạng thứ #7,855,599. Kinh. Có một chị bạn viết review, và mua mấy cuốn tặng bạn bè. Có vài người đặt mua cho vợ họ đọc. Thậm chí tại Việt Nam, cũng có người đặt mua gửi về. Mình nghe nói phải bán hơn 1,000 cuốn thì nhà in mới bắt đầu cho tiền nhuận bút. Em không nghĩ Amazon đã bán trên 200 cuốn. Chán Mớ Đời 

Ông thứ 2 thì mình quen ngoài đời, từ khi còn đi làm tại Nữu Ước, độc thân vui tính. Ông này có tính lạ là cứ gọi mình vào 4-5 giờ sáng nói chuyện rồi chấm dứt cuộc điện đàm bằng câu: thôi để tao đi đọc kinh đã. Ông này nhờ mình giúp mấy chuyện từ thiện, đóng thùng các khẩu trang, diện trang rồi liên lạc và gửi cho các nhà thương và viện dưỡng lão trong lúc đại dịch khởi đầu. Ai cũng lo sợ, anh ta đứng ra hô hào thân hữu đóng góp hiện kim hay công sức, may đồ bảo hộ, khẩu trang hay làm diện trang. Cứ sáng thức giấc, là thấy có nhắn tin thiên hạ xin Bút Nhóm Lửa Việt tiền cho một chương trình xã hội chi đó.

Hết vụ khẩu trang thì lại nhảy sang cứu lụt tại Việt Nam. Bạn kiểu ông này thì chẳng bao giờ thấy gọi đi ăn uống gì cả, chỉ kêu réo làm việc từ thiện.

Ông thứ 3 thì dân Đà Lạt cũ, nay ở gần Sàigòn. Ông này, thu nhặt được trên 700 tấm ảnh Đà Lạt xưa nên lâu lâu, bỏ nhỏ cho mình vài tấm, khiến mình lại moi ký ức ra để nhớ chỗ nào tại Đà Lạt vì ngày nay, không thể nào tìm lại hình ảnh của những tấm hình này. Đà Lạt đã thay đổi, không ai biết cả. Ai tò mò về Đà Lạt xưa thì nên cảm tạ ông này. Có ông mỹ, từng tham chiến tại Đà Lạt, có chụp mấy tấm ảnh về Đà Lạt xưa, hỏi mình tìm đâu mấy tấm ảnh do ông này gửi. Mình đâu biết từ đâu, cứ nói do ông thần này gửi. Thật ra có nhiều người khác gửi ảnh Đà Lạt xưa cho mình, hỏi ở đâu nhưng Facebook không nhắc đến. 

Facebook hỏi thì mình mới xét lại. Đúng! Bạn là những người mình liên lạc thường xuyên trong năm. Gặp nhau nhậu ngoài đời, hay ăn uống, hoặc liên kết qua các hoạt động xã hội như Lions Club, Toastmasters, Bút Nhóm Lửa Việt,… các nhóm bạn học cũ hay người quen khi xưa.

Ngoài ra, có những người bạn chỉ biết nhau qua mạng xã hội. Có nhiều người, mình không quen biết, thuộc những nhóm trên mạng. Có điều lạ là khi mình vừa bỏ lên mạng, đang mò mò chia sẻ với các nhóm khác là đã thấy họ nhấn Like khiến mình thất kinh, bất kể giờ giấc, cứ như họ là chiến sĩ an ninh mạng. Có người đọc đều bài của mình mỗi ngày. Có người ở Đức quốc, cứ lâu lâu đột suất vào mạng, đọc một lần 20,30 bài rồi nhấn Like liên tu ty. Không biết là ai. Chưa bao giờ giao lưu qua tin nhắn.

Một trong hai người làm bờ lốc, kêu mình hà tiện nối kết với độc giả bờ lốc. Thật ra mình không biết ai nên cũng không dám lộn xộn. Thời gian mình lên mạng cũng ngắn. Sáng thức dậy, tải một bài rồi đi làm việc, lên vườn,…chiều về mới bò lên lại 5 phút để xem có ai nhắn tin rồi chạy. Đồng chí gái cứ la mình đọc sách, viết bài. Nên buổi sáng, đồng chí gái chưa dậy, mình dành thì giờ đọc sách báo hay viết bài rồi chạy. Có người hỏi sao họ nhấn Like mà không thấy mình thưởng gì cho họ khiến mình như ngỗng ị, không hiểu gì cả. Hình như họ giận nên dạo này không thấy nhấn Like nữa. Muốn thưởng thì cứ đặt mua trên Amazon, cuốn sách của Chử Nhị Anh thực hiện. Xong om

Vui nhất là liên lạc được với mấy người bạn xưa hay hàng xóm cũ. Mấy tuần trước, mình có liên lạc được với một anh bạn thời bé, mất liên lạc từ 50 năm nay. Nói chuyện qua điện thoại khiến mình cảm động, bao nhiêu ký ức một thời với anh ta lại từ đâu chạy về. Mình đang viết lại những kỷ niệm của thời còn bé. Hôm nào xong sẽ tải lên. 

Trước đây, có vài nhóm hẹn nhau óp-lai rồi đại dịch đến nên ai cũng sợ chết nên hết dám gặp lại. Người già trên 60 nên chắc sẽ không còn óp-lai nữa nên Chán Mớ Đời vì thấy họ cứ chụp hình mấy món ăn, mời lai-chiêm.

Có mấy người gốc Đà Lạt, rủ mình họp mặt tuần tới, óp-lai để họ đãi bún bò. Không biết bao nhiêu người nhưng chắc sẽ vui. Có người từ miền Bắc lặn lội lái xe xuống. Dân Đà Lạt xưa, gặp mặt là ăn bún bò hoặc bánh căn. Mình thì ai mời ăn là có mặt. Không bao giờ từ chối.

Bạn ảo, bạn thân, bạn nhậu, bạn thích bạn nào? Mình thích bạn cho ăn còn loại bạn aỏ nấu ăn, chụp hình bỏ lên mạng thì Chán Mớ Đời 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Tiên học phí, hậu học văn

 Thời học sinh, mình bị nhà trường đuổi về vài lần. Lý do là đóng học phí chậm. Ông thư ký trường vào lớp, kêu tên ra cửa, bảo về kêu bố mẹ mày đóng tiền học phí tháng này rồi vào học lại. Từ đó mình thuộc nằm lòng câu của thánh hiền: “Tiên học phí, hậu học văn”. Đi bộ ra chợ, xin tiền mẹ. Mẹ mình chạy đi mượn thiên hạ, chiều đến, vào văn phòng đóng học phí. Nụ cười ông thư ký toả sáng như mặt trời cách mạng trong khi mẹ mình thì buồn như mất sổ gạo vì chợ đò, trời mưa ế ẩm như chùa bà Đanh.

Sau này, qua Văn Học, mình không bị cảnh này nữa. Thầy Chử Bá Anh cho học bổng 2 năm liền. Sang Tây, cũng được thực dân cho học bổng nên mình quên cụm từ “tiên đóng học phí, hậu học văn”. Không lo nghĩ gì cả về học phí. Ở đại học, mỗi năm đóng mấy chục quan tiền sử dụng thư viện.

Trường tây ở Việt Nam thì bắt đóng tiền, còn trường tây ở Pháp thì miễn phí. Hình như thời tây thực dân, trường học đều miễn phí. Chỉ khi tây về nước thì đám người Việt tiếp thu trường ốc của tây mới bắt đóng học phí. Dạo ấy, chỉ có trường tư mới lấy học phí còn những trường công lập thì miễn. Do đó, người ta cho thi tuyển vào trường công lập như Trần Hưng Đạo, Bùi Thị Xuân. Không đậu thì vòi tiền bố mẹ đóng học phí trường tư.

Cụm từ “học văn”, đến giờ cũng không hiểu học văn gì. Văn-phạm? Việt-văn, hay văn hoá… không ai giải thích cho mình. Thầy cô thì khuyến khích đóng học phí, tổ chức ngày thầy giáo như bọn con buôn, để được học trò, học được lễ nghĩa thánh hiền, biếu tặng quà hay tiền tươi. Khi xưa, đi học đâu có ngày thầy giáo. Mai mốt họ ra ngày gia đình của thầy cô, bắt hoc sinh đóng góp, bồi dưỡng cho gia đình thầy cô.

Mình học chương trình tây từ bé lên đến đại học, ngoại trừ 2 năm ở Văn Học. Có thể nói là mình không  rành việt ngữ lắm. Mấy từ Hán mà thiên hạ xổ ra là mình ngọng. Như tiên học “Lễ” là gì. Mình kiếm tự điển Hán-việt thì đa số từ “Lễ”  phải ghép với một từ khác. Từ lễ đứng một mình, nghĩa là sự biểu lộ lòng biết ơn. Chắc là biết ơn thầy cô, biếu tặng như mẹ mình khi xưa. Cuối năm hay đưa mình 6 cái tách để tặng thầy cô ở tiểu học. Lên trung học, nhiều thầy cô quá nên lờ luôn. Điểm không khá luôn từ độ đó.

Sau này, đọc chuyện tàu, nghe kể ông Khổng Khâu, lê lết đi khắp nơi, bao nhiêu nước lân cận, nộp Resumé để xin làm cán bộ nhưng không ai mượn hết vì xét lý lịch trích ngang, trích dọc mấy đời không đúng quy trình tuyển lựa nên cùng một số học trò, cùng một lứa bên trời, thầy trò lận đận, có cùng lý lịch tam đời hơi giống giống, đi lang thang, khắp nơi đến khi già đói, chịu không được phải về quê cũ, ăn tiền an sinh xã hội, hưu trí của nhà nước.

Hình như có lần, ông ta làm được chức quan Lễ, lo cúng kiếng mấy ngày giỗ tổ của vua chúa chi đó nên sau này ông ta chỉ biết môn Lễ LẠc này nên dạy học trò “tiên học lễ, hậu học văn”. 

Về quê dạy học. Ông ta chạy chọt, quà cáp mới được công an khu vực, cho đăng ký mở trường dạy học mang tên Cửa Khổng. Ông công an khu vực cho phép với điều kiện cho ông ta mướn người đi học và thi dùm tại chức. Lý do, bận công vụ, thi hành trách nhiệm hữu hạn. Nghe nói là trường đầu tiên lấy học phí để đào tạo cán bộ. Sau này, hình như có ông nào họ Trình, cũng bắt chước ông Khổng Khâu, mở trường nên đời sau gọi “Cửa Khổng Sân Trình”. 

Từ đó, ông Khổng Khâu kêu hai ông Hối, Lộ làm cái bảng to đùng viết câu “ tiên học phí, hậu học văn”, ký tên “hối lộ”, gắn trước cổng trường để nhắc nhở những tên học trò như mình khi xưa, nhắc bố mẹ đóng học phí đúng ngày, nếu không thì bị đuổi. Vì mua Một chữ cũng phải trả tiền, thầy Bán Một chữ cũng phải lấy tiền. (Nhất tự vi sư, bán tự vi sư).

Dạo đó đã có nhiều người làm quan nhưng không có khả năng tiếp thu lời thánh nhân nên đã nhờ thiên hạ đi học hộ, thi hộ. Dạo này, trên mạng thấy thiên hạ đang đánh ông nào kêu không mua bằng giả. Ông ta mướn người đi học và thi hộ, lấy bằng thiệt.

Ông này rất trung thực. Ông ta thú nhận là không có khả năng tiếp thu nên mướn người đi học và thi dùm, không có mua bằng giả. Mình không hiểu tại sao thiên hạ lại đánh phủ đầu ông ta. Bằng này là bằng mượn hay mướn. Ngày xưa, có nhiều người mướn bằng dược sĩ để mở tiệm thuốc tây, để làm ăn. Tương tự ngày nay, có nhiều tổ hợp bên mỹ, họ mướn, trả lương y sĩ để chẩn bệnh, chữa bệnh cho thiên hạ. Bác sĩ, nha sĩ, chỉ làm công, còn họ có tiền mở bệnh viện, tổ hợp y khoa, nha khoa,…tên mở nhà thương chưa chắc là y sĩ, có tiền thì mướn thiên hạ làm công cho mình.

Ở Đà Lạt xưa, mình thấy có đến 3, 4 tiệm thuốc tây, mướn bằng của dược sĩ đi lính, để bán thuốc. Đâu có thấy dược sĩ đứng bán đâu.

Hôm qua, con người bạn kể là sinh viên tàu, chúng mướn người học thi cho chúng. Con mấy cán bộ giàu có, đại gia sang đây trả $300 mỗi lần cho người khác làm bài tập, đi thi dùm rất nhiều. Đại học Harvard, đuổi hàng năm biết bao nhiêu sinh viên gốc tàu vì không nói được anh ngữ. Khi làm đơn xin nhập học, chúng mướn người, tổ chức làm hết giấy tờ giả hoành tráng để được nhận vào.

Mình có dự mấy buổi hội thảo về nạp đơn vào đại học. Họ có viết tiểu luận lấy tiền. Nếu họ viết tiểu luận thì chắc chắn làm bài tập, thi hộ bú xua la mua.

Về nước với bằng thật từ Harvard, …vì mướn thiên hạ học dùm, thi dùm, chỉ cần làm giám đốc cho công ty của bố mẹ là khoẻ re. Chỉ cần mánh mung, phe phái làm giàu, đâu cần phải học gì cả. Có cái bằng treo chơi cho vui. Như ông chủ công ty Tesla kêu; tôi không xuất thân đại học Harvard nhưng các người tốt nghiệp trường này làm cho tôi.

Nghe nói khi ông Khổng Khâu, mở trường huấn luyện làm cán bộ, có đến trên 3000 học sinh đến học, vào thời ấy chỉ một trường tư thục dạy học nên coi như độc quyền, chiếm trọn thị trường giáo dục. Do đó học phí rất cao vì không có cạnh tranh nên thầy trò Khổng Khâu sống an nhàn, bù lại những ngày gian lao khổ hạnh nhưng để giới hạn số lượng học trò, để được các thầy bồi dưỡng trí tuệ, tư duy đột phá nên cần phải thi tuyển vào. 

Như mình khi xưa, đi thi vào trường Yersin. Ông tây chỉ cái hình tròn, hỏi: “qu’est-ce que c’est ? “ mình trả lời : “c’est lơ cái mâm”. Ông tây kêu thằng này dốt có căn bản, mời ông cụ đem mình ra về. Trên đường về, ông cụ kêu “sao mày dốt thế! C’est lơ Cái mâm! Bố tiên sư mày, sao lại dốt thế”. Có lẻ có nhiều tên đi thi dốt hơn mình nên mấy tuần sau, nhận thư chấp nhận vào trường Petit Lycee. Thế là mình bắt đầu cuộc đời: “tiên đóng học phí, hậu học lơ cái mâm.”, đưa đến chủ nghĩa Chán Mớ Đời sau này.

Thầy trò ông Khổng Khâu khám phá ra một phương thức khác làm giàu thay vì phải thi đậu làm cán bộ như xưa. Khi xưa, tổ tiên họ nói “phi thương bất Phú”, không buôn bán thì đói, nay thì vì bán gạo muối ở chợ, chỉ cần buôn bán chữ thánh hiền là giàu có nên phân loại các giai cấp xã hội theo “sĩ nông công thương”. Cứ có chữ “Sĩ” là giàu như bác sĩ, nha sĩ, học sĩ, tăng sĩ, lòi sĩ,…

Khi xưa, muốn đi học thì người ta mua con gà, nải chuối đem đến nhà ông thầy đồ cúng tổ, ông thầy xem tướng, xem có phải thằng hiền lành, có đức độ mới thâu nhận làm đệ tử. Nay thì mở trường, bắt đóng học phí, không cần xem biết du côn du thực ra sao. Miễn là đóng tiền đều đặn, thêm làm chứng chỉ giả, văn bằng giả…. 

Dạo mình đi học, nhiều tên học chung, lớn tuổi hơn mình đâu 4 tuổi, giấy khai sinh thua mình đến 3 tuổi vì sợ đi lính. Chỉ có những tên nhà nghèo thì đi lính thôi, còn con nhà giàu thì mua bằng học bạ giả từ các trường ở miền Tây, xứ nào chưa bao giờ nghe tên trong giờ Địa Lý.

Sau này, học trò ông ta, noi theo, chúng ganh nhau, mở thêm trường, buôn bán sách, dành tác quyền nên chửi nhau như hàng cá. Nào là đạo văn của thầy, nào là bán văn mẫu, bú xua la mua, cứ như hàng cá ở chợ Đà Lạt.

Lúc đầu chỉ có những lời nói của ông dạy, sau này học trò nghĩ thêm cách làm tiền nên in ra sách, có 4 thằng lấy tựa đề khác nhau để khỏi bị mang tiếng chép của thầy: đại học, trung dung, luận ngữ và Mạnh tử. Sau đó chúng choảng nhau, thêm 5 thằng ra sách khác mà con cháu sau này bình dân học vụ cho Sơn Đen hiểu là Ngũ kinh: Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ, Kinh dịch, Kinh Xuân Thu rồi đến tên Sơn Đen lại cho ra lò Kinh Chán Mớ Đời .

Trở lại vụ thi vào trường thái giám của thầy trò Khổng chết.

Sau phần thi viết, ai khá đủ điểm trên trung bình, hồ sơ lý lịch 3 đời được duyệt thì được vào vấn đáp. Ông Khổng Khâu cho vài học trò xuất sắc nhất đảm trách phần này. Mấy tay thuộc loại giỏi, có chút tư duy và không ăn hối lộ cấp bằng tiến sĩ bú xua la mua.

Thầy giao cho 7 học trò giỏi nhất, biết tướng số, xem tướng coi thằng nào vênh váo không thuộc thành phần ngu lâu dốt sớm vì sợ mất danh tiếng của thầy nên thầy đặt tên “Tử” trước cái tên của họ để khai tử những mầm mống, cơ cấu có thể phát huy nhanh chóng làm hư danh của thầy. Thí dụ có ông tên Hối, ông tên Lộ thì kêu Tử Hối và Tử Lộ vì nếu để hai ông chung trở thành Hối Lộ,… bình dân học vụ cho SƠn đen để tiếp thu là Tử Hối tức là Chết Hối, Tử Lộ là Chết Lộ hay Chết đường.

Mỗi lần mình đến đài truyền hình Little Sàigòn, để thâu hình thì phải chào hai cô quản lý ở đây. Một cô tên Giang một cô tên Mai, cộng lại chào hai chị Giang Mai khiến mình tránh đụng chạm, sợ lây covid. Chán Mớ Đời 

Thầy thức trắng mấy đêm mới kêu 7 ông ra ban cho cái tên Tử gồm Tử Cống, Tử Nạp, Tử Hối, Tử Lộ, Tử Thâm, Tử Thượng, Tử Hạ và dặn phải thanh liêm như cán bộ, cần kiệm liêm chính. Để tránh lộn xộn mình dịch “Tử Hối” thành “Chết Hối Hận”, “Tử Lộ” là “Chết Đường”. Ông này có tật nấu cơm là xơi trước ông thầy nên kêu “Tiên ăn cơm hớt, hậu thầy ăn cháo trắng”. Từ đó người ta hay tát con nít như mình, khi xía mõm vào chuyện người lớn để tưởng nhớ đến ông Chết Đường này.

Trước khi cho các thí sinh vào vấn đáp thì phải duyệt xét lý lịch 7 đời ngang dọc, nhà có trâu bò, tiền của hay không vì nếu không đóng tiền học thì cho cán bộ đến nhà cưỡng chế đất đai, tịch thu bò heo trâu về mà bán trả nợ vì trước cửa Khổng có treo cái bảng to đùng: "Tiên học phí, hậu học văn". Lúc nạp đơn, có ký chứng nhận là nếu không trả học phí thì thầy có quyền cho công an đến nhà cưỡng chế đất đai, trâu bò,…

Hôm ấy là cuộc thi vấn đáp, người đầu tiên vào là 1 ông già, người điên điên tương tự nhà thơ Bùi Giáng, bước vào thì ông Chết Thâm (Tử Thâm) được giao nhiệm vụ ra interview thí sinh này. Ông Chết Thâm đọc hồ sơ lý lịch rồi hỏi ông lão, già rồi sao lại còn muốn đi học. Thí sinh già, chấp tay kính thầy con tuy già nhưng trước khi chết con muốn học Thầy cách nói thật 寔, sau này có chết cũng mãn nguyện đời giai.

Chết Thâm chau mày, ngạc nhiên vì câu nói của thí sinh già nên hỏi lý do anh đòi học nói thật. Thí sinh già; báo cáo thầy, em nghe người xưa kể rằng nếu ai mà nói thật một câu, sẽ làm kinh động đến cả trời đất, quỷ thần. Em sống đã trên lục tuần rồi mà chưa bao giờ thấy trời đất, quỷ thần động lòng nên đoán là cả thế gian ai nấy đều nói dối cả, kể cả em. Vì thế em muốn đến đây, xin học cái đạo nói thật, xin mong Phu Tử dạy cho, dẫu nói thật được một câu rồi chết thì em cũng cam, chui xuống hố, mãn nguyện đời giai.

Ông Chết Thâm, chậm rãi nâng tách trà lên, húp một ngụm rồi nói trường chúng tôi chỉ dạy 5 môn có hệ số 1: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín còn môn nói thật thì không có trong giáo trình của trường, anh vui lòng kiếm trường khác dạy môn này mà học. Lão thí sinh thất vọng nhưng xài nài hỏi thêm em nghe tiếng Phu Tử học rộng biết nhiều, vậy ngoài 5 môn kia Phu tử còn dạy môn gì thêm không. 

Ông Chết Thâm, vuốt râu, nhất chén trà Lypton ngửi ngửi rồi từ từ nuốt cái ực ly trà đá, rồi chậm rãi nói: thầy còn dạy 6 nghề. Từ làm chính trị đến đi buôn, tề gia trị quốc bình thiên hạ, làm hàng thật đến hàng nhái, nhờ đó mà ngày nay Trung Cộng làm hàng nhái số 1 trên thế giới … học đâu nhớ đấy, trên tinh thông vạn quyển, dưới nhìn thấy vàng trong đất, thấy trái trên cây. Học vua ra vua, học cán bộ ra cán bộ, học thầy ra thầy, học vợ ra vợ, học con ra con. Cứ xem môn nào Phu Tử đều tinh thông chỉ có cái nói thật ngay chính tôi chưa bao giờ nghe đến.

Nghe đến đây thì thí sinh già than thế mà tôi cứ tưởng bở. Cứ đến cửa Khổng là học được cách nói thật, thế thì tôi đây phải nói dối cho trọn kiếp người rồi vái ông Chết Thâm ra về. Chết Thâm lật đật chạy vào bếp, rót thêm ly trà đá, báo cáo, kể đầu đuôi câu chuyện cho Khổng Tử. Ông Khổng Khâu, vuốt râu, cầm chén trà lên nốc cái ực hết rồi lua lua xúc miệng, nghe rột rột rồi nuốt cái à. 

Sau khi chén xong một cái đùi gà Phờ Lai Chíc Cân. Ông đặt cái chén xuống, trầm tư vuốt râu có dính chút mỡ gà rồi nói: "người chưa nghe nói cái môn học Nói Thật là phải rồi vì chính ta cũng đang muốn tìm thầy để học môn này mà chưa tìm ra. Học thuyết của ta là chính trị mà chính trị thì đâu cần phải nói thật. Dạy con buôn của ta là Tiếp Thị, khuyến mại thì không nên bảo đảm chất lượng vì hàng cũ, quá date ". Gọi là mua rồi không được trả lại. No Exchange No Return. Nói xong ông Khổng Khâu, với lấy cái tăm, quẹt quẹt nghe rẹt rẹt trên hàm răng giả mới tậu ở phòng trồng răng ở Bolsa. Mua hàm trên tặng hàm dưới.

Phòng thi bên cạnh do ông Chết Thượng thì có một tên cán bộ đi xe xịn Bentley, có công an bảo vệ đi trước đi sau vào. Ông Chết Thương thấy cán bộ to nhớn, thì hoảng, mặt xanh như đít nhái, run run hỏi cán bộ làm ở cơ quan nào. Mà còn muốn đi học thêm trùng tu, bồi dưỡng văn hoá cấp 1. Cán bộ to lớn kia chậm rãi kể tôi làm cán bộ cao cấp nhất Bolsa nhưng vì xuất thân là nông dân nên bọn dưới cứ kêu ta là thượng đẳng vô học. Đời ta có tất cả mọi thứ chỉ cần thêm cái bằng Tiến sĩ để chúng không chửi ta là đồng chí vô học.

Ông Chết Thương không biết tính sao, nên chạy vào hỏi thầy. Khổng tử đang cầm cái đùi gà luộc chấm nước xì dầu gừng, để trả thù bao nhiêu năm đói rách đi xin làm cán bộ, nhai ồm oàm rồi chậm rãi nói: quan nhớn đâu cần học hành gì, hắn đến đây chỉ để cho thiên hạ thấy hắn cũng từ cửa trường học chúng ta mà đi ra như bao k sĩ khác đã đến Cửa Khổng hay Khổng Môn. 

Ông Chết Thương chạy ra gặp cán bộ to nhớn, bẩm cán bộ to, ông lo chăm trị dân chắc không có thì giờ học, thôi thì đây cái bằng tiến sĩ danh dự mà ngoại quốc hay trao tặng cho những người có công với đất nước, nhân loại. 

Quan Nhớn không có thì giờ đi học trùng tu tại chức, xin tặng ngài một cái, về làng xây cái Văn Miếu cho to rồi cắm cái bảng to đùng này để nhân dân nhớ ơn đời đời. Con cháu ghi trong gia phả làng ta có một tiến sĩ danh dự của trường “tiền học phí , hậu học văn”. Cán bộ to đầu cảm ơn rồi nháy mắt cho đệ tử đưa fong bì để lo chi phí in ấn cái bằng Tiến sĩ. Chết Thương, cầm bao fong bì dày cộm, đi vào đưa cho thầy, miệng lẩm bẩm. Ta ở trong nhà thầy, đọc sách thầy, nghe thầy giảng mà đến bây giờ mới hiểu ý nghĩa cụm từ: "Cửa Khổng" là Cờ ửa Khờ ông Hỏi.

Phòng bên thì có ông Chết Hạ làm giám khảo, có một thí sinh đội nón tơi, ăn bận như người nông dân trồng bơ vào. Ông Chết Hạ hỏi anh muốn học để làm gì? Thí sinh hỏi ông Chết Hạ, tại sao ông theo học Phu Tử làm gì? Chết Hạ cho tên này xất xược nhưng nghe lời thầy dặn, vẫn điềm tỉnh trơ trơ như hải quan phi trường Tân Sân Nhất, trả lời: Ta đây theo Phu Tử học để làm người. Thí sinh hỏi lại thế thầy đã thành người chưa? Chết Hạ muốn nổi điên nhưng vẫn cố nhịn trả lời: Chưa vì thế ta vẫn còn theo học thầy tư tưởng, và đạo đức cách mạng.

Thí sinh nói tôi muốn theo học thầy vì chỉ muốn ăn thịt khiến Chết Hạ như bò đội nón, hỏi anh muốn theo thầy học để ăn thịt. Là sao, xin nói rõ hơn. Thí sinh đáp; nghe nói Phu Tử, thịt thái không vuông thì không ăn. Gà vịt dê bò không có con nào vuông thế thì chắc chắn sẽ có những chỗ phải bỏ đi. Tôi chỉ xin theo thầy để được ăn những chỗ bỏ đi mà người quân tử không ăn. Nhờ ông Không Khâu mà ngươi ta chế biến ra cái kéo để cắt thịt sau này. Học trò của ông vào tiệm phở, kêu thịt gà chặt không vuông, thịt chó không ngay thẳng nên không trả tiền. Sau này người ta lấy kéo cắt bánh xe làm dép râu bộ đội, cắt thịt gà thịt chó rất đẹp.

Ông Chết Hạ không biết có nên đánh rớt tên thí sinh này hay không vì thấy hắn nói có lý nên chạy vào hỏi Phu Tử. Khổng tử vừa ăn xong nên đang xơi cái bánh mille feuille, nghe Chết Hạ kể thì bỏ ngay cái bánh xuống, kêu người này chính là thầy ta. Ta la cà giang hồ khắp nơi mấy chục năm để cố tìm nhưng không gặp đành trở về cố hương, mau chạy ra mời vào để ta bái làm sư phụ. Nhưng khi ông Chết Hạ chạy ra thì thí sinh ấy đã bỏ đi mất.

Chết Hạ đi vào, nói thưa thầy hắn đã đi mất đất nhưng có một tên nông dân, đưa thùng bơ này để biếu thầy. Hắn bảo bơ hữu cơ do chính hắn trồng, không có tẩm thuốc bảo quản. Ăn giúp thầy giảm cholesterol, và có nhiều HDL. Hắn chỉ xin hỏi thầy, lý do tại sao cái bảng trước trường đề “tiên học phí”.

Phủ tử nghe đến bơ hữu cơ thì mắt sáng lên, kêu cho tên nông dân vào. Tên nông dân phục người dưới đất, cảm ơn rối rít cá thầy, bận rộn mà vẫn tiếp đón hắn. Hắn họ biết là học trường Tây, đi ngang đây thấy là lạ cải bảng to đùng, gắn trước cổng trường “tiên học phí, hậu học văn”. Hắn nghe nói ở xứ người, học hành được xem là bắt buộc. Con nít phải học cho tới hết chương trình đệ nhất cấp như ở tây, sau đó dốt không học chữ thì được cho học cái nghề kiếm cơm. Như hắn học làm nông dân trồng bơ.

Tây không lấy học phí ở xứ họ nhưng qua xứ an nam thì lại bắt dân chúng đóng tiền học. Ở tây hay ở Mỹ , có những trường tư vì họ muốn dạy tư tưởng và đạo đức của ông Giê-Su hay ông Allah nên họ bắt đóng tiền. Còn con nghe người lớn hay nói “tiên học lễ, học học văn” nhưng không dám hỏi vì sợ bị chửi ngu lâu dốt sớm.

Ông Khổng Khâu, nâng chén trà lên uống một ngụm rồi từ từ bỏ xuống bàn, miệng đảo đảo trà trong mồm nghe rọt rọt, nuốt cái ực rồi mới chậm rãi nói. Sao mày ngu thế! Thầy trò tao đi giang hồ, kiếm cơm, đưa resume rất nhiều nhưng ai nhận cả vì họ thấy không cần. Một hôm, xin được bát gạo, ta sai thằng Tử Lộ, thằng chết đường, nấu cháo cho mọi người ăn. Hắn loay hoay sao lại làm bồ hóng rớt vào nồi cháo, rồi vớt ăn phần bồ hóng với cháo. Lúc đó ta mới giác ngộ cách mạng là “ có thực mới vực được đạo”.

Không có ăn thì chủ nghĩa gì cũng hoc không vào. Bụng đói thì nói kêu đói, phải ăn nếu không thì đầu óc không thể tiếp thu chữ Thánh hiền. Thời bao cấp, chúng ta ăn bo bo thì làm sao học được. Do đó, phải Đổi Mới tư duy, chúng ta thay đổi tư duy thành Kinh tế định hướng thị trường nên phải nhắc nhở học trò nhất là phụ huynh, phải đóng tiền hàng tháng vì thầy mà đói thì không thể nào dạy được. Do đó phải viết cái bảng to đùng: tiên học phí, hậu học văn” để nhắc nhở chúng bổn phận. Hiểu chưa?

Tên nông dân lạy Phủ Tử, kêu thầy đã giúp con giác ngộ cách mạng, rồi bước ra. Trong lòng hắn quá từ hào, đã giải nghĩa được câu hỏi đã đeo theo hắn từ 60 năm nay. Hắn đang cười tự mãn thì có ai tát vào mặt. Hoảng hồn, hắn thấy vợ hắn hỏi. Nằm mớ đến con nào mà kêu phu tử phu thê. Chán Mớ Đời 

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Những người đàn ông trong truyện Kiều

 Mình nhớ năm 3ème học Truyện Kiều vì khi thi bằng Brevet, có câu hỏi về ông Nguyễn Du. Mình thấy lạ một điều là các nhân vật nam lần lượt xuất hiện trong Truyện Kiều, toàn là những người đàn ông, không đáng để thiếu niên như mình, học tập noi theo đạo đức cách mạng. Ai ngờ, sau này mình cũng đi theo con đường của họ. Sợ vợ như Thúc Sinh, dại gái như Từ Hải, khốn nạn như Kim Trọng… nói chung là cứ dính vào đàn bà là theo gương một trong những nhân vật nam, ca khúc người đi qua đời Thuý Kiều của ông Nguyễn Du.

Nhân vật nam đầu tiên xuất hiện trong đời Thuý Kiều là Kim Trọng. Khi cô nàng gặp tên này, thốt lên “thằng kia gặp gỡ làm chi, 100 năm biết có duyên gì hay không” khi đi tảo mộ. Mỗi lần gần Tết, mình đi chạp mộ với người làng Dưỡng Mong ở Mả Thánh thì chán như con gián. Không hiểu sao ông Nguyễn Du lại tả thiên hạ đi đông, bận quần áo đẹp để cuốc đất nhổ cỏ, chưa kể đạp phân bò của mấy thằng chăn bò trên mả thánh. Đúng là thi sĩ, không biết gì về cuốc đất nhổ cơ.

 Nghe kể về cuộc đời xấu số của Đạm Tiên, Thuý Kiều bùi ngùi rồi tơ tưởng cuộc đời mình sẽ như cô ả đào này. Có lẻ vì vậy mà khi xưa mấy người lớn không cho con gái đọc tiểu thuyết, sợ mấy cô đọc xong cứ tưởng mình như nhân vật trong tiểu thuyết, để bắt chước theo.

Anh chàng này, con nhà giàu, học giỏi, biết thổi sáo để dụ dỗ gái vị thành niên như vài tên bạn học với mình khi xưa. Biết đánh đàn là gái bu như ruồi. Khi xưa, mình tập võ trong khi mấy tên bạn học đàn, đô rê mi Fa sol la si đô để gái bu đông như quân Nguyên. Lớn lên, thi khám phá ra chỉ cần học Đô La là đủ được gái bu. Được cái về già thì mình khoẻ hơn chúng. Hôm nay, gặp tên bạn ở Văn Học, nói tháng 4 tới, mình leo núi Machu Picchu 7 ngày 6 đêm, cắm trại trên núi khiến hắn rùng mình.

Thúy Kiều, mê tiếng sáo của tên công tử nhà giàu, ban đêm leo tường qua nhà Kim Thị. Kim Trọng thỏ thẻ bên tai, kêu yêu Kiều như điên như bao thằng đi tán gái, chỉ muốn rà xét đồ phụ tùng của gái, thuộc loại hàng xịn hay đã bị tân trang nội thất toàn diện. Khi bố cô nàng bị nạn thì anh ta kêu Kiều cứ bán thân chuộc cha đi, để trọn đạo Hiếu tử, để anh lấy Thuý Vân cho xong đời. Ngồi thổi sáo: “này em hởi con đường em đi đó, sẽ đưa em sang đâu?”. Đưa đến động Tú Bà. Chấm còm.

Bố của hai chị em Kiều Vân, không biết làm chuyện gì mà mất tiêu gia sản. Mình đoán ông này binh xập xám chướng nên phải bán nhà cửa, con gái để trả nợ.

Kiều đi theo Mã Giám Sinh, khóc lóc bài tình chị duyên em như chị em bà hàng xóm nhà mình khi xưa. Bà chị lấy chồng, không con nên kêu cô em lấy chồng mình, sinh ra 4 người con theo chủ nghĩa tình chị sex em.

Cái mất dạy là sau 15 năm làm điếm trả nợ cho TÚ Bà xong, tên Kim Trọng này, gặp lại Kiều, chắc cholesterol cao kêu về làm vợ hắn để than thuốc cho hắn. Chắc Thuý Vân, không giỏi việc chăn gối, hay hắn đã chán, muốn tìm của lạ nơi chốn bia ôm nên muốn thử nghệ tài của Thuý Kiều sau 15 năm ở lầu xanh, không bị bệnh SIDA. Hay ông thần này bị bệnh tiểu đường, lao phổi nên cần người chăm sóc, buôn bán mua thuốc thang. Có lẻ tác giả phải đặt tên Kim Trọng là Sở Khanh. Kiều đã qua tay biết bao nhiêu tên đàn ông nên từ chối, hiểu ngay, không ngây thơ như 15 năm về trước.

Mình đọc một bài tiểu luận của học sinh về Truyện Kiều ngày nay, khiến mình thất kinh. Học sinh cho biết, khi Thuý Kiều đã trả nợ xong cho Tú Bà, đại diện cho thành phần mỹ ngụy ác ôn. Chế độ phong kiến, tàn ác, phồn vinh giả tạo nên nhảy xuống Tiền Giang, thay vì sông Tiền Đường như mình đã học khi xưa. May mắn có một cán bộ cách mạng, đi công tác ngang qua, nhảy xuống sông Tiền Giang, cứu được Thuý Kiều, một nạn nhân của chế độ phong kiến, tàn ác của mỹ ngụy và đã giúp cựu gái lầu xanh, vào trại  phục hồi nhân phẩm để học tập. Kiều giác ngộ đi theo cách mạng làm hộ lý ở Trường Sơn. Kinh

Mã Giám Sinh thì như bao đàn ông giàu có khác, mua gái, chơi hoa rồi bán lại, để rút vốn. Mình đọc đâu đó, ở Việt Nam, có người đem bồ đến các quan lớn để làm “con gái nuôi”. Có ông nào, viết kể vợ ông ta được mấy quan lớn thay phiên nhận làm con gái nuôi, ông ta đi đòi thì bị bỏ vào nhà thương điên. Lâu quá không thấy ông này viết bài nữa, chắc bị cho uống thuốc an thần nhiều. Khai toàn là các quan lớn Việt Nam bắt vợ ông ta làm con nuôi vì vợ đẹp là con nuôi người ta. Con nuôi thì không mang tội hủ hoá.

Thúc Sinh, cũng hứa hẹn đủ trò khi lên giường với Thúy Kiều rồi gặp bà vợ Hoạn Thư, không dám hó hé. Rồi đến tên tướng cướp Từ Hải, nghe lời cô Điếm để chết đứng. Ông Nguyễn Du, tả Tú Bà dạy Thuý Kiều, dùng hạt lựu, để lừa mấy tên mua hoa tưởng cô nàng là gái tân. Gặp ai, cũng e thẹn, che mặt với cái quạt, khe khẽ em còn bé lắm, anh ơi. Nam mô a di đà.

Có một nhân vật nam được ông thầy dạy việt văn, chửi bới, thoá mạ nhiều nhất là Hồ Tôn Hiến. Ông quan, dụ Thuý Kiều, bảo Từ Hải ra hàng, rồi cho quân mai phục, bắn chết Từ Hải. Ông thầy kêu Hồ Thị, nào là đạo đức giả, nhan hiểm, rắn hổ mang. Ông thầy bắt học sinh học thuộc lòng để khảo bài, mỗi tuần. Mình không thấy có câu nào ông Nguyễn Du chửi ông quan họ Hồ cả.

Lớn lên, thấy tên Hồ Tôn Hiến khá bản lĩnh mới làm lãnh đạo. Gặp gái, không hủ hoá như các quan tham. Dùng Kiều như con cờ để dẹp loạn, lên chức. Thuý Kiều khóc như mưa, khi thấy Từ Hải chết đứng. Khóc đây là vì tức tối, bị họ Hồ lừa, chưa kịp lấy quỹ đen két sắt. Một cô điếm từng lấy bao nhiêu chồng người ta, đâu có khóc dễ dàng.

Đi thi Brevet, vào vấn đáp thì họ hỏi lý do Nguyễn Du, viết truyện Kiều. Mình trả lời như ông thầy dạy là ông ta làm quan nhà Nguyễn nhưng vẫn nhớ đến nhà Lê, vẫn thèm ăn rau muống và cà cuống bú xua la mua thay vì bún bò, bánh nậm nên được đậu vớt. Cứ trả lời như vẹt theo ông thầy dạy, dù chả hiểu gì. Chớ hỏi về Từ Hải thì mình cũng sẽ a-dua theo ông thầy, chửi Hồ Thị nát nước.

Em rể mình ở Pháp, có gửi cho mình 7 đĩa nhạc của một ông kỹ sư ở Pháp, mê truyện Kiều nên phổ nhạc hết mấy câu thơ của truyện Kiều. Ông này tên Quách Vĩnh Thiện, khi đọc đến câu 890 “sống trên đất khách, thác chôn quê người”, xúc động vì đúng tâm sự của kẻ xa quê, nên sáng tác nhạc nguyên cuốn Truyện Kiều. Hình như có đến 77 nhạc phẩm, ông này không được về Việt Nam. Ông này đi du học lâu rồi. Lái xe, mình nghe lại truyện kiều qua các ca từ thì mới thấm được truyện Kiều.

Mình thấy trên Shark Tank có ông Mỹ, soạn thơ của Shakespeare thành nhạc để học sinh dễ học. Rất có lý. Nếu khi xưa, học Truyện Kiều mà có nhạc Truyện Kiều nghe thì dễ học thuộc lòng hơn.

Lớn lên, thấy lịch sử thế giới đều dùng mỹ nhân kế để thu phục đám tướng, khiến vua chúa mất nước. Ngô Phù Sai bị Phạm Lãi, đưa Tây Thi vào cung, làm ông ta say mê, bất chấp lời căn dặn của tể tướng Ngũ Viên. Ông này thấy rõ âm mưu của Việt Câu Tiễn nên kêu đem ra chém. Chỉ có những người tài giỏi mới nhận ra âm mưu của kẻ tài giỏi khác.

Ông thầy cứ khen Từ Hải, cho rằng anh ta chết vì dại gái là cái chết êm ái. Cứ cho ông họ Từ chết vì đàn bà là tay anh hùng, hảo hán. Đừng có nói đến làm chính trị hay gì. Những người hèn hèn như mình mà dính vào đàn bà cũng chết lây lất.

Ông thầy kêu Từ Hải là đại trượng phu, một tay chọc trời “trơ như đá vững như đồng/ ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời” để rồi Thuý Kiều, hát bản nhạc “khi người yêu tôi khóc” của Trần Thiện Thanh thì tướng cướp họ Từ này gục ngã, chửi cả đám giai cấp công nông. Ra hàng Hồ Tôn Hiến để được hát “trái tim ngục tù, ta yêu em đến ngày mai”. Ông ta chết vì Thuý Kiều; 1 cái chết vì gái là cái chết êm ái nên phải chết đứng, chống gươm.

Hoá ra, lớn lên mình cũng như Kim Trọng, một người mà mình từng chê khi xưa. Khi một đối tượng rủ mình qua Mỹ, để thực hiện những lời thề trên đồi cát biển Normandie. Công ty ở New York mướn luật sư để lo giấy tờ cho mình, làm việc tại Mỹ. Bố của đối tượng một thời, gọi mình, bảo hát bài em xé đi, thư tình tôi đã viết thì mình bắt chước Kim Trọng. Thay vì đấu tranh cách mạng, quyết tranh đấu tới cùng để xây dựng hạnh phúc lứa đôi, kêu cô nàng hãy lấy chữ Hiếu làm đầu, rồi đi tìm đối tượng công nông khác.

Thuý Vân, dạo đó là giới công nông vì ông bố bị cướp hết tài sản như người Việt sau 1975. Cành vàng lá Ngọc gì đều đạp xe đạp, đi bán sữa đậu nành, hay đi thanh niên xung phong hết, nghĩa vụ quốc tế qua Cambuchia. Kim Trọng phản tỉnh, đi theo cách mạng, lấy giới công nông.

 Mình ăn theo diện vợ. Chuyện gì cũng đùn cho vợ làm. Cũng sợ vợ như Thúc Sinh, bạn bè rủ đi cà phê Lú đều từ chối. Tối tối phải bóp chân vợ, đấm lưng cho đồng chí gái, bạn bè xa lánh, khinh chê nên vẫn thấy cô đơn trong sa mạc. Phản tỉnh mình bỏ nghề kiến trúc sư, làm vườn, trở về giai cấp công nông của ngày xưa. Chán Mớ Đời 

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Xui hay rủi

 Sáng nay, theo chương trình, cả nhà đi Utah, Arizona để leo núi và hy vọng sẽ trúng số để vào vùng Wave, nổi tiếng thế giới mà lần trước mình không được may mắn. Chỗ này, họ chỉ cho mỗi ngày  25 người được vào. 10 người ghi tên trên mạng và 15 người bốc thăm tại chỗ. Trên mạng thì đa số dành cho người ngoại quốc, để họ có dịp sang Hoa Kỳ.

Tối qua, có mấy người bạn Hội An đến ăn cơm. Mụ vợ đang ăn, bổng điện thoại reo, cầm điện thoại nói nói, nói, đi vòng vòng rồi quên cái bậc thang nên trật chân, xưng vù. Mình lấy rượu thầy võ xoa bóp vừa khuyên không nên đi chơi, huỷ chuyến đi. Mình sợ cô nàng bị gãy chân như mấy năm trước. Về già, xương hay bị rỗng nên dễ gãy. 

Sáng nay, gọi hẹn bác sĩ khẩn vào chụp hình quang tuyến, xem sao. Thế là phải huỷ chuyến đi dù đã đóng tiền. Bác sỹ rọi quang tuyến, cho biết đốt xương chân phải bị nứt. Không được lái xe, thế là mình phải hầu vụ lái xe này trong vòng mấy tháng tới. Lần trước cô nàng bị nứt chân trái nên có thể đạp thắng với chân phải. Đang tinh s mua cho cô nàng chiếc xe mới nay chắc phải gác lại. Chán Mớ Đời 

Mình dự tính mua căn nhà khác, nhỏ, 1 tầng để ở, khỏi phải mất công leo lầu như hiện nay. Về già, đồng chí gái đi đứng lạng quạnh, té thì mệt. Vấn đề là sẽ không tìm được một khu vườn rộng lớn như bây giờ.

Cô cháu gái dự định đi chung gọi điện thoại cho biết là bị đụng xe. Chán Mớ Đời. Hai người gặp vận xui mà ngồi chung xe thì hơi mệt. Mình thì ăn cái gì bị trúng độc, nên bị Tào Tháo rượt, lạnh người, ói cả mật xanh. Được cái là nằm nhà được mấy tiếng, uống nước lạnh thì ấm người lại. Lâu lắm rồi mới bị vụ này. Lần cuối là khi về Việt Nam lần đầu. Ăn cái gì bị Tào Tháo rượt chạy không kịp.

Ngồi nói chuyện với anh bạn Hội An, cùng tuổi. Anh ta kể sống 17 năm với cộng sản. Một chế độ hà khắc nhưng anh ta vẫn sống sót. Man khai lý lịch mới sống nổi. Bố anh ta đi cải tạo, nhà cửa bị Việt Cộng tịch thu, đuổi cả gia đình đi kinh tế mới. Em út không được đi học. 1 cô em là bạn thân của đồng chí gái, sau này vượt biển qua Úc, đi học đại học lại, làm cho chính phủ. Anh ta học đại học khoa học Sàigòn, ra trường đậu thủ khoa nên được bổ đi làm ở trung tâm nguyên tử lực Đà Lạt. Lúc đó, Liên Sô quản lý nhà máy này, Việt Cộng mới siêu tra kỹ hơn thì anh ta bị lộ.

Đôi lần vượt biển hoài không lọt, sau này nhờ làm cho một công ty về công nghệ thông tin, buôn lậu đồ cấm vận qua khối Liên Xô. Dạo ấy, Hoa Kỳ cấm vận, không cho bán các máy điện toán, điện tử qua khối Liên Xô. Việt Nam đi mua ở các xứ lân cận rồi chuyển lậu bán qua khối Liên Xô. Anh ta kể đi qua mấy xứ Ba Lan, Đông Đức, Nga Sô, thấy mấy cái máy điện toán cá nhân của họ mà thất kinh. Cổ lổ xỉ. Việt Nam được xem Liên Xô là đàn anh vĩ đại nhưng khi đến nơi, xét về công nghệ thông tin thì Chán Mớ Đời. 

Hương Cảng giàu có là nhờ vụ buôn bán này qua Trung Cộng,..và khối cộng sản. Hiện nay, Hoa Kỳ cấm vận Triều Tiên nhưng theo mình chắc vãn có đám tàu buôn bán lậu với Triều Tiên và Ba Tư.

Anh cho biết đi để giao hàng và Q.A., bỏ cái đĩa D.O.S vào cho máy chạy là xong bổn phận. Ông chủ hãng này cũng bỏ trốn sau này. Anh ta đang ở đông đức thì bức tường Bá Linh bị xụp đổ, anh ta có đi vòng vòng nhưng không vượt tuyến như đa số người Việt đi lao động quốc tế tại đây.

Anh ta kể dạo ấy Ái Vân vượt tuyến khiến cộng đồng người Việt ở khối Liên Xô rúng động. Mình chưa hỏi vụ anh ta sang Hoa Kỳ ra sao. Chỉ biết anh ta là xếp của một anh bạn thân làm ở Bell Labs.

Hôm qua, đọc báo Anh ngữ, bà Phương Thảo kể khi đi học tại Nga Sô thì đã bắt đầu buôn bán, nhập cảng máy móc và xuất cảng về Việt Nam các nhu yếu phẩm nên khi ra trường đã thành triệu Phú. Mình đoán là buôn lậu như anh bạn Hội An kể. Các tỷ Phú Việt Nam ngày nay, đều xuất phát từ buôn bán khi xưa theo kiểu này.

Đi bộ với đồng chí gái, nay chắc phải đợi vài tháng nữa.

Mình theo dõi anh này qua các chương trình hoạt động từ thiện của nhóm anh ta mà Lửa Việt Youth Organization có tài trợ một số chương trình của nhóm anh này. Anh nói về hải quan làm khó dễ vì đem thuốc về phát cho dân nghèo, phải cho tiền để qua cho rồi. Cách đây mấy năm có video trên YouTube quay cảnh các học sinh đi học, phải bơi qua dòng sông.

Phóng viên của Hà Nội tường trình về các học sinh, bơi qua sông để đi học.

https://youtu.be/S1O8rwAZhfk

Lần sau, anh ta về, muốn đi lên vùng đó để xem sao có thể giúp đỡ các em được gì. Anh ta kể, gặp mấy ma sơ thì họ khuyên không nên đi. Tính Quảng Nam của anh ta thì càng thử thách thì lại càng muốn đi. Tối đó, anh ta nghe mấy ma sơ cầu nguyện, và một ma sơ đề nghị sẽ đồng hành, lên đó có người dẫn đường để tới nơi.

Sáng ra, vừa lên xe thì có điện thoại reo. Ma sơ nói là bề trên thương chúng ta, ông cha sở trên vùng đó, đã cử một con chiên ra đợi để dẫn đường lên trên đó. Tới nơi thì anh ta và vài thiện nguyện viên, đến gặp hiệu trưởng, trong khi đó một anh bạn khác đi gặp các em hỏi chuyện.

Anh ta thấy công an ngồi đó rồi, rất nhẹ nhàng, không lên tiếng gì cả. Một anh nha sĩ cũng đi về Việt Nam, vùng Quảng Nam, quê anh ta để chăm sóc răng cho người nghèo, cũng gật đầu. Kêu công an chìm ngồi đầy, khi họ đi làm công tác y tế từ thiện. Việt Cộng bán các phiếu thứ tự cho người nghèo do lái đoàn cấp phát. Chán Mớ Đời 

Ông hiệu trưởng cho biết là phóng viên nào đó chụp hình các em bơi sông vào mùa hè rồi viết bú xua la mua. Chớ anh thấy trời mưa bão như thế này thì ai dám bơi qua sông. Đúng thật, hôm ấy trời mưa, nhìn xuống sông thì không thể nào bơi qua được. Hiệu trưởng chỉ trên tường có đầy phao cứu hộ,… anh  và nhóm anh phát quà cho các học sinh nhưng chúng không trả lời những câu hỏi có bơi qua sông để đi học. Lên xe, anh bạn ở địa phương cho biết, có hỏi chuyện các em trong khi anh ta và phái đoàn nói chuyện với hiệu trưởng. Thì có thật, các em phải bơi qua sông. Qua bài báo thì Hà Nội mới chửi bới hiệu trưởng nên họ mới mua sắm các phao cứu hộ, cho các em.

Cuộc đời anh này khá ly kỳ. Mình nói anh ta nên viết kể lại 17 năm sống dưới thời cộng sản. Làm thế nào để anh chui lọt được, để giúp con cháu miền nam, học hỏi. Chế độ lý lịch sẽ cản trở không cho phép con dân miền nam ngất đầu lên. Thủ khoa đại học khoa học Sàigòn dù con của Nguỵ quyền.

Mai anh ta đi sớm về New Jersey. Hôm nào mình rảnh, điện thoại hỏi thêm về vụ đi buôn lậu ở Liên Sô. Khi xưa, mình có đọc những bài viết của ông nào khi xưa ở khối Liên Xô, đi buôn lậu. Người Việt với nhau bên đó, cạnh tranh, chém giết, thanh toán nhau rất ghê. 

Tin giờ chót: công ty đang mua miếng đất , xin gia hạn thêm 60 ngày, trả thêm 25% giá tiền nên mình ưng ngay. Mình đã đợi 5 năm rồi, thêm 2 tháng để  được thêm 25% thì cũng được. Lý do là người tay trong của họ trong hội đồng thành phố, lăn đùng ra chết nên phải chạy chọc người mới.

(Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn  

Thiên tài Việt Nam ở đâu?

 Tuần lễ này, được tin học trò của nhạc sĩ Đặng Thái sơn, đoạt giải dương cầm nhạc Chopin, được tổ chức tại Ba Lan mỗi 5 năm, khiến mọi người nức nở. Hai người có chút gốc gác việt được tham dự giải âm nhạc này đều ở hải ngoại, còn Việt Nam dù có trên 100 triệu người vẫn không cử được một thí sinh sau ông Đặng Thái Sơn. Nghe nói vào giờ chót, một người học trò của ông ta đã đoạt giải quán quân. Thầy giỏi đào tạo ra học trò giỏi.

Trên thực tế, Hà Nội không muốn gửi ông Đặng Thái Sơn đi thi khi xưa, tốn tiền cho con tên phản động, chỉ khi ông ta thắng giải, mới kêu hãnh diện quá Việt Nam ơi. Theo mình đọc tài liệu của Việt Nam, thì được biết bố ông ĐTS, được quy vào thành phần phản động nên khi được ông thầy người Nga, đề cử đi du học tại Mạc Tư Khoa, cũng bị bác đơn vì lý lịch. Đến khi ông thầy người Nga doạ, không cho các người được Đảng tuyển, những “hạt giống đỏ” đi, ĐTS mới được chấp thuận cho du học.

Người ngoại quốc khi phát hiện ra nhân tài thì họ tìm cách giúp đỡ dù không thân thích, khác chủng tộc. Mình thấy tấm ảnh, các bạn đồng môn người Pháp của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, công kênh ông ta trên vai, khi ông đoạt giải khôi nguyên Grand Prix de Rome. Dạo ấy sau Điện Biên Phủ, người Pháp rất ghét người Việt tại Pháp quốc. Mình nghe kể người Việt đi ngoài đường hay bị tây con chận đánh. 

Người Việt mình thấy ai giỏi hơn mình là tìm cách vùi dập nên ít khi có nhân tài vì mới lộ trong trứng đã bị bóp nát. Nghe nói mấy người đoạt giải quán quân Olympia đều ở lại nước ngoài khi có cơ hội.

Nga Sô dạo ấy như một đế chế, cần tìm kiếm các tài năng của đế chế để đào tạo. Khi ông ĐTS đi thi, toà đại sứ của Việt Nam cũng không màng đến, ông ta phải đi tự túc từ Nga Sô đến Ba-Lan, được ông thầy giúp đỡ. Sau này, thành danh, ông ta có trở về Việt Nam, Hà Nội phát nhà ở cho bố sống được một thời gian ngắn trước khi qua đời. Bố ông ta được chế độ bớt hà khắc lại. Phản động thường sinh ra nhân tài.

Có một anh bạn kể; một người đậu đầu miền nam, có danh sách đi du học tại Nga Sô, đến khi các ông từ ngoài bắc vào, loại tên ra để con họ, những hạt giống đỏ, đi thế. Người bạn thủ khoa, tự tử chết. Anh ta xuống tàu vượt biển. Mình nhớ dạo đi dạy ở đại học bách khoa Lausanne, bà thư ký cho biết, phải cẩn thận vì có nhiều học trò từ phi châu ghi danh học cao học, lại có bằng cấp hữu nghị của Liên Xô cấp. Bà ta cho biết các sinh viên ngoại quốc sang Liên Xô học, đều được cấp bằng cả dù học dốt. Gọi là bằng hữu nghị.

Đọc trong cuốn “bên thắng cuộc” của Huy Đức, kể có anh chàng nào đậu thủ khoa tại miền nam, không được vào đại học, đổi tên, đổi thành phố cũng vậy, vẫn bị đánh rớt. Mình có cô em đậu vào trường kiến trúc Sàigòn nhưng vì lý lịch gia đình, không được đi học, ở nhà đan áo len nay bán cà phê. Mình còn bận cái áo len của cô ta đan cho lần đầu tiên về thăm nhà.

Không biết bao nhiêu nhân tài của Việt Nam, bị loại bỏ vì chế độ lý lịch. Mình nói chuyện với một bác, khi xưa có giúp các sinh viên việt du học tại Hoa Kỳ. Bác nói mình nghĩ giúp chúng sang đây, dù con mấy ông lớn đảng viên. Chúng sẽ học điều hay, sau này có thể thay đổi đất nước. 20 năm sau, bác về thăm Việt Nam, gặp lại mấy người này. Bác kêu chúng học được sự khôn ngoan của người Mỹ , nay chúng còn ăn chận nhiều, tham nhũng hơn thế hệ bố của chúng. Chúng còn dã man hơn bố chúng vì có học. Chán Mớ Đời 

Tuần này thấy báo chí Việt Nam đánh ông bác sĩ nào, của bệnh viện Bạch Mai, đôn giá tiền mua máy móc trợ tim gì đó. Trí thức, có học ở hải ngoại về, còn ăn hơn những kẻ không ra hải ngoại. Chán Mớ Đời 

Nói cho ngay, chế độ lý lịch đã khởi mầm từ thời phong kiến xưa. Điển hình, ông Đào Duy Từ, con của các nghệ nhân, mà chế độ phong kiến cho là phường xướng ca vô loại. Ông ta giỏi nhưng không được đi thi. Nghe kể, đi thi, phải được làng xóm đề xuất mới được ghi danh đi thi. Bà mẹ, nhờ tên chủ làng phường xóm chi đó, nhận làm con nuôi, để lấy tên họ của ông ta đi thi. Ông Duy Từ đậu thủ khoa, bà mẹ xù ông cán bộ trong làng nên ông này đi thưa. Ông Đào Duy Từ bị tước bằng cấp dù đã đậu, khác với các cán bộ ngày nay, có bằng tiến sĩ ma. Đọc báo Việt Nam, cho biết có trường học nào mà đến 23 giáo viên có bằng giả, chưa học qua được bậc tiểu học.

Ông Đào Duy Từ, vượt biên, xuống miền nam được Chúa Nguyễn trọng dụng, đã giúp Nhà Nguyễn tại vị đến 274 năm, với những Luỹ Thầy, để chống bọn phương bắc đánh phá, chiếm đóng, ăn cướp.

Ông Đặng Thái Sơn, ở lại Gia-nã-đại, tiếp tục sự nghiệp âm nhạc quốc tế, không dám về Việt Nam ở, nay có học trò đoạt giải dương cầm quốc tế.

Nếu khi xưa, không có ông thầy người Nga, có lẻ thế giới đã mất đi một Đặng Thái Sơn.


Bao nhiêu người ở Việt Nam không may mắn như Đặng Thái Sơn, được người thầy can thiệp, đã phải bỏ ngang tài năng đi cấy lúa, lao động. 

Hình ảnh khi gặp lại một anh bạn học cũ khi xưa tại Sàigòn khiến mình không bao giờ quên được. Anh ta kể đang học đại học y khoa tại Huế, công an vào lớp, gọi tên anh ta, đem sách vở đi theo. Anh ta không bao giờ được trở lại lớp học. Mộng làm y sĩ để chữa bệnh cho người Việt tại các làng quê nghèo của Huế tan theo mây khói. Phải đi lao động nuôi thân. Nghe anh ta kể với sự luyến tiếc, bao nhiêu ấp ủ của một người thanh niên, muốn vào đại học để thay đổi, xã hội cộng đồng, biến theo mây khói. Chỉ vì hai chữ Lý-Lịch. Anh ta đâu có tội tình gì. Chỉ sinh ra tại miền nam. Cũng như tại miền bắc, bố phải đi quân dịch, đánh nhau cho Mỹ, tương tự ngoài bắc, thanh niên lao ra chiến trường, để đánh cho tàu cho liên sô. Chán Mớ Đời 

Nghe nói có ai đi học, thi đại học được 30 điểm mà vẫn không được học tỏng khi những thí sinh khác ít điểm hơn lại đậu.


Nguyễn Hoàng Sơn 

Chùa Linh Sơn

 Hôm trước, xem lại mấy tấm ảnh Đàlạt, có chùa Linh Sơn, nơi mình có nhiều kỷ niệm của thời con nít, nói theo ngôn ngữ thời A còng là Sữu Nhi. Nhớ nhất là dạo chùa đúc cái chuông mà khi về Đàlạt, mình có ghé lại để xem, để ở ngoài hiên, ngay bên phải chánh điện và Ăn cơm Chùa theo nghĩa đen.

Mình không nhớ rỏ năm nào, chỉ nhớ thằng Dư, hơn mình đâu 2, 3 tuổi, anh con Thuý, cạnh nhà, dẫn mình đi qua chùa vào buổi tối. Trong khi người lớn ê a cầu nguyện trong chùa, con nít ở trước sân chùa, được xem phim trắng đen của hai tên hề 1 béo 1 gầy Laurel & Hardy khiến con nít cười ồ, khá vui. Đó là lần đầu tiên mình xem phim lộ thiên ở Đàlạt.

Nếu mình không lầm hồi nhỏ có ông đẩy xe đạp đi trên đường Hai Bà Trưng, có màn trả ông ta tiền rồi đưa cái đầu vào chỗ ông ta trùm cái bọc lên đầu, xem phim khi ông ta quay vòng cuốn phim. Lớn lên sau Mậu Thân không thấy ông ta nữa. Mình chỉ thấy con nít lối xóm có tiền, thò đầu vào coi. Rồi chúng nói đủ trò khiến mình thèm nhỏ nước miếng.

Trước sân chùa, họ căng tấm vãi trắng, từ hai cây, không nhớ máy để ở đâu. con nít lao nhao đến khi trời tối hẳn mới được chiếu phim. Sau này, ra hải ngoại, xem lại mấy phim này nhưng không thấy vui bằng khi còn bé.

Hai tài tử Laurel và Hardy đã đem đến những nụ cười tuổi thơ của mình tại sân chùa Linh Sơn

Chùa Linh Sơn, được xây cất trên ngọn đồi ở gần cuối đường Hàm Nghi, khúc Võ Tánh và Phan đình Phùng. Đất do ông bà Võ Đình Dung tặng. Ông bà cũng tặng và cúng dường để xây chùa Linh Quang ở Cây Số 4 ở trên đường Hai BÀ Trưng. Nghe người lớn kể, ông Võ Đình Dung đi thầu, bị người ta ghét, trả bằng tiền giả. Sử dụng tiền giả là tội hình sự.

Hình này chụp từ nhà thờ Tin Lành, nhìn xuống đường Hàm Nghi, phía bên phải thấy ngọn đồi, sau này là nơi toạ lạc chùa linh Sơn, đất do ông bà Võ Đình Dung tặng. Thấy dãy nhà của cư xá chạy xuống đường Phan Đình Phùng, mình cố tìm ra căn nhà của Bích Thuỷ nhưng chịu, không nhớ rỏ căn nào. Dù khi xưa, chạy ngang đây, hay đưa cô nàng về. Chán Mớ Đời 

Tối đó, bà Dung nằm mộng thấy có ai mách, khó ngủ nên thức dậy, mở cái cặp đựng tiền mà ông Dung đem về tối qua, thấy bạc giả nên đem đốt. Mới 6 giờ sáng, mật thám của tây bao vây nhà, vào xét, không thấy bạc giả. Hú vía. Mình đọc tài liệu tây về thời này, được biết ông Võ Đình Dung có chân trong hội đồng thị xã, tranh đấu cho quyền lợi người Việt sinh sống tại đây nên bị Tây ghét. Điển hình là trong thiết kế của người Pháp, các lô đất của người Việt chỉ có 2 mét x 6 mét, sau ông ta đòi nên họ mới đổi thành 3 mét x 10 mét trong khi các khu nhà của người Pháp thì mỗi lô đất to rộng, xây được biệt thự như ở đường Hùng Vương, Trần Hưng đạo.

Ông ta thầu rẻ hơn thầu khoán tây nên lấy được nhiều công trình xây cất từ người Pháp như ga xe lửa Đà Lạt. Tương tự ông Xu Tiến, người thầu xây Nha Địa Dư. Mình nghĩ mấy ông xu như Xu Tiến, Võ Đình Dung, chống pháp ngay ở thành thị trong buôn bán, thương mại, khó hơn là vào rừng làm kháng chiến.

Sau vụ này, ông bà hiến đất để xây chùa Linh Sơn và trường học Bồ Đề, rồi ngưng làm ăn, lo tu hành. Khi họ cũng hiến tặng cho người Đà Lạt đất Mả Thánh để làm nghĩa địa, đến trường Việt Anh, cho người ta thuê làm vườn thì đi làm chi nữa cho cực đời. Có thể xem như gia đình ông bà Võ Đình Dung có công rất lớn đối với người Đà Lạt. Chỉ tiếc mình không có tài liệu về ông bà này để viết lên đây, để mọi người biết. Ai có tài liệu thì cho mình hay, liên lạc với con cháu họ.

Chính điện, mình và con gái đứng trú mưa ở đây, phía bên phải là nơi để cái chuông, mà khi xưa, mình có lên đây chơi khi họ đúc chuông. Mệ ngoại mình tặng một chỉ vàng khi họ đi quyên, bỏ vào lò luôn. Thấy hai con lân hai bên cầu thang. Mình nhớ là từ dưới đường lên cũng có nhưng nay mất tiêu.
Hình này chụp sau 75, trước kia thấy chữ Linh Sơn Tự, dọc mấy thang cấp đi lên, theo trí nhớ của mình có mấy con rồng mà mình hay leo lên chơi, bị người lớn chửi, kêu mi đòi cởi rồng à. Giao thừa, bố mẹ mình hay dẫn đi lễ chùa, sau đó về, phật tử xúm nhau bẻ cây, bẻ cành xem như hái lộc chùa. Sau đó thì mấy cây te tua, trụi lá, thiên hạ kéo gọi la hét in ỏi. Hình như bên tay trái cổng đi vào chùa, là vườn chè.

Mình đọc đâu đó là trường Việt Anh, khởi đầu do con trai của ông bà Võ Đình Dung xây cất, sau này, thầy Lê Phỉ mướn lại đến năm 1975. Ngoài ra, ông có một cô con gái đi du học bên pháp, lấy chồng cũng du học sinh. Sau 1954, đem con về Đàlạt, giao cho ông bà nuôi, rồi tập kết ra Bắc để xây dựng xã hội chủ nghĩa, theo tinh thần của trí thức ở âu châu thời đó. Sau 1975, về lại Đàlạt, và qua đời vì bệnh ung thư.

Hình này chụp sau 75, bên tay phải lối vào chánh điện, là nơi có cái chuông mà khi xưa, còn bé, mình có đến đây khi họ tổ chức đúc chuông đồng.
Chỗ này chụp nơi con đường nhỏ từ đường Hàm Nghi, chạy lên chùa. Chỗ này khi xưa, mình thấy xe GMC chở cảnh sát dã chiến đến đây, rồi họ nhảy xuống xe, chạy đi bắt sinh viên học sinh, do Việt Cộng chủ động, biểu tình, bắt loa, kêu gọi đem Nguyễn Cao Kỳ lên đoạn lầu đài.

Nhật Bản khi xưa, không cho các sinh viên trẻ đi du học. Lý do là trí óc non nớt sẽ bị ảnh hưởng của văn hoá nước ngoài. Họ chỉ cho các người đã học xong tại Nhật Bản, đi làm có kinh nghiệm, rồi cho đi tu nghiệp. Các sinh viên Việt Nam rời Việt Nam còn trẻ, nhiều khi dưới 18 tuổi nên dễ bị ảnh hưởng của văn hoá âu châu. 

Hình này chú thích năm 1957, phía tay phải, sau dãy nhà cư xá công chức ở đường Hàm Nghi, thấy cổng chùa Linh Sơn và các thang cấp dãn lên chùa. Phía xa xa là ấp Mỹ Lộc và cuối cùng là Núi BÀ.


Điển hình ngày nay, người Việt ở Hoa Kỳ, chia nhau ra hai phe: theo đảng Dân Chủ và phe theo Cộng Hoà. Thậm chí người Việt tại Việt Nam, cũng có người theo ông Trump, có người chống ông Trump, dù chả có dính dáng đến Việt Nam. Báo chí cứ tung lên để bán quảng cáo.


Khi xưa, thời mình qua tây, 25% người Pháp là cử tri của đảng cộng sản Pháp nên các sinh viên hay người Việt tại đây, dễ bị ảnh hưởng của chính trị của nước họ đang đi học hay làm việc. Không hiểu rỏ tình hình ở miền nam, quay sang chống đối, dẫn đến sự sụp đỗ chính phủ miền nam nhanh chóng hơn. Ông Hoàng Đức Nhã, cựu học sinh Yersin Đà Lạt, có thời làm tổng trưởng Dân Vận, mà trong hồi ký của Kissinger có nhắc đến ông ta, là một người khó thương lượng, có tổ chức các chuyến viếng thăm Việt Nam trước 75 cho sinh viên và kiều bào nhưng hơi trễ.

Mình có người quen, đi du học bên tây thời còn học sinh đệ nhất cấp. Có về thăm gia đình năm 1973, theo đảng cộng sản Pháp, quốc tịch tây nhưng toà đại sứ Việt Nam Cộng Hoà vẫn cho về thăm. Theo lời ông ta là người đầu tiên phá cửa toà đại sứ Việt Nam Cộng Hoà ngày 30/4/75. Sau này được Hà Nội cho về thăm Đàlạt, được xem là phái đoàn Việt kiều đầu tiên ở pháp về thăm Việt Nam. Trở về tây, ông ta kể cho mình là nhà cậu, mà Việt Cộng mỗi ngày cứ đi vào, ngồi cả ngày. Đi đâu cũng phải xin phép, khác với thời Việt Nam Cộng Hoà cách đó 3 năm. Ông ta buồn cho tuổi trẻ của mình bị lợi dụng, sau này qua đời.

Nhớ sau 1963, có mấy cuộc chỉnh lý, sinh viên và học sinh Đàlạt, kéo vào chùa Linh Sơn, mở loa kêu gọi đem “ông nguyễn Cao Kỳ lên đoạn lầu đài”,… rồi lựu đạn cay, cảnh sát dã chiến đổ bộ từ xe GMC, vào bắt thiên hạ. Sinh viên, học sinh bỏ chạy như ong bị  hun khói.

Mình có gặp và nói chuyện với hai anh sinh viên của đại học Đà Lạt thời đó, sau này ra trường đi dạy tại các trường trung học ở Đàlạt. Họ kể hồi đó đâu biết gì, bạn bè rủ thì đi cho vui. Ở nhà, mình nhìn sang thấy vui lắm. Mình có anh bạn, cháu của ông thầy Từ Mãn, kêu ông này mà tu gì. Ông tu ở chùa Linh Sơn nhưng ăn mặn khi đến nhà anh bạn ở Đàlạt. Sau này mới hiểu Việt Cộng cài người vào các chùa để chống đối chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. Chán Mớ Đời 

Có lần về Đàlạt, mình đi bộ với con gái lên chùa. Đi kiếm nhà thằng Khoa, và Phan thị Thu Thuỷ để chụp cho cô nàng không ra. Nay họ đập phá xây lại hay lên tầng. Mình tính chụp ảnh nhà xưa rồi gửi cho cô nàng nhưng tìm không ra, hỏi thiên hạ thì họ nhìn mình như bò đội nón. Cô nàng kể là chính cô nàng còn tìm không ra huống chi mình.

Đi viếng phía sau chùa thấy bé nhỏ không như xưa khi mình đi chùa với Mệ Ngoại. Có một nhóm gia đình phật tử từ Đắc Nông về chùa, cắm trại. Họ hát những bài ca sinh hoạt hướng đạo, khiến con gái mình hát theo. Nó nói ở đây người ta hát vui ghê sao ở mỹ, tụi con đi hướng đạo hát mấy bài này chán như con gián. Cho thấy chúng ta cho con theo văn hoá Việt Nam ở mỹ, là một vấn đề. Chúng hát nhạc sinh hoạt nhưng không hiểu lắm nên Chán Mớ Đời.

Trời bổng nhiên đổ mưa kinh hoàng, gia đình phật tử, đang sinh hoạt, bỏ chạy như đàn kiến. Hai cha con đứng núp mưa, mình nhìn xuống đường dốc Hàm Nghi, thấy nhà đối tượng một thời. Có ông thần nào đọc bài mình kể chuyện đời xưa, nói là mê cô nàng rồi cứ lên chùa, nhìn xuống nhà cô nàng. Không thấy mưa tạnh, đành gọi taxi đến đón, đưa về nhà. Trong những giây phút đợi Taxi, mình kể cho con gái lại thời gian còn con nít, đến đây xem phim, hay đi chùa với mệ ngoại. Nó nhìn mình như bò đội nón nhưng mình kể cho chính mình.

Trong khi trú mưa, mình nhớ khi xưa, cứ rằm là đi theo Mệ Ngoại lên chùa Linh Sơn, và chùa Linh Quang. Mình xách cái giỏ đựng hoa quả. Lên tới chùa, Mệ đưa cho mấy người ở chùa rữa trái cây rồi bỏ lên bàn Phật. Mình được họ kêu vào thọ trai. Ăn cơm chùa thấy ngon kể gì. Sau đó, mệ ngoại, ra ngồi vấn an thầy trù trì, rồi đưa cho ông cái phòng bì. Có lần, Mệ kêu mình phụ chị người làm, khiêng cái bàn Phật xuống đường Hai Bà Trưng, rồi bắt mình phải canh vì sợ con nít chôm mấy trái cây. Rồi đi lên Núi Bà, lấy nước suối về, vì có Phật Bà hiện về. Có dịp mình sẽ kể vụ này khá vui. Đều do Việt Cộng xúi dục cả.

Mệ ngoại mình hay cúng tiền cho chùa, rồi kêu mẹ mình đưa tiền trả cho thầy như cái bàn thờ cho chùa khá bộn tiền. Sau này, mẹ mình cũng hay hỏi mình tiền để cúng tổ đình chi đó. Hôm nào Chán Mớ Đời, mình sẽ kể về Tổ Tiên CHính Giáo ở Đà Lạt.

Thấy trên Facebook có bài này, mình xin phép đem về đây cho thiên hạ đọc vì khá chi tiết, khỏi mất công viết: https://www.facebook.com/MocDalatLuquan/

Chùa Linh Sơn

1/ Vị trí:

Chùa Linh Sơn là một trong những ngôi chùa lớn và lâu đời ở thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Chùa nằm trên sườn ngọn đồi thấp tại số 120 đường Nguyễn Văn Trỗi – phường 2, và cách trung tâm thành phố khoảng 700m về phía Tây Bắc.

Chùa được xây năm 1938 theo đề nghị của bà Từ Cung (thân mẫu vua Bảo Đại) với Giáo hộ Tăng già Trung Phần từ năm 1936, sau lần bà từ Đà Lạt trở về kinh đô Huế, và hoàn thành năm 1940 (Hòa thượng Thích Trí Thủ trụ trì). Chùa mang tên một ngọn núi ở Ấn Độ, được nhiều lần trùng tu tôn tạo. Chùa Linh Sơn nằm trên ngọn đồi gần 4 ha, là quần thể gồm nhiều công trình kiến trúc có quy mô lớn nhỏ khác nhau. (Phần này mình thấy không đúng lắm, có dịp sẽ nói rỏ chi thiết hơn)

2/ Kiến trúc:

Chùa do ông Võ Đình Dung đứng ra điều khiển kỹ thuật và ông Nguyễn Văn Tiếng cùng với công đức của thập phương bá tánh. 

Chính điện ngôi chùa được thiết kế theo lối kiến trúc Á Đông giống như các chùa cổ ở Kinh Thành Huế. Trên đỉnh mái chùa có đắp đuôi rồng uốn lượn theo thế “lưỡng long triều nguyệt”.

Thông thường cổng chùa thường xây theo cổng tam quan. Song cổng vào chính điện chùa Linh Sơn chỉ xây hai vách cao 4m, cách nhau 5m có mái lợp, bậc cấp được xây bằng đá, cửa cổng có thể hiến cho du khách một chỗ tạm nghỉ chân mà không sợ mưa nắng (?). Đường vào chùa được dẫn lên nhiều cấp, hai bờ đường là hai hàng cây thông, bạch đàn, sao, cao vút quanh năm thì thào với gió núi mây ngàn. Đêm về những ngọn đèn bên ngoài tỏa sáng mông lung trong sương lạnh điểm tiếng chuông ngân nga vang vọng làm cho cảnh trí Linh Sơn thêm phần trầm mặc, u nhàn.

Trên lối đi trước sân chùa cách cổng chính 30m có dựng một bức tương Quán Thế Âm Bồ Tát màu trắng đứng trên đài sen cao, khói hương nghi ngút, nơi chiêm bái của tín đồ và du khách vì tinh thầncứu khổ độ sinh là bản nguyện của Ngài. Hướng bên phải là một bảo tháp ba tầng hình bát giác, mái ngói cao 4m. Bên trái là hồ nước, những cụm giả sơn và cây cảnh rất đẹp.

Ngõ vào phía đông Chùa được xây theo lối tam quan truyền thống kết nối với con đường lát đá, tráng nhựa là đường dành cho xe cộ từ ngoài vào bọc quanh sân chùa, chạy qua sau lưng bức tượng và trước sân chùa rồi rẽ phải lên đến sân của cánh hậu tòa viện. Bên phải phần cuối con đường này là giả viên Lâm Tỳ Ni được trang trí rất nghệ thuật, có các giả sơn, có các thảo mộc quý. Giữa đám xanh của cây cỏ là một cái ao nhân tạo bên trong có hoa súng và cá vàng.

Qua sân cỏ là đường dẫn đến cầu thang có mười ba bực lên đến hành lang Phật đường. Hai bên cầu thang có bể nước trong đó nhô lên hòn non bộ có các cây kiểng gợi cảnh thiên nhiên. Xuôi theo cầu thang là cặp Rồng lớn há miệng được điêu khắc một cách nghệ thuật làm vị song thần gìn giữ ngôi chùa.

Bên trong chính điện chùa Linh Sơn ở Đà Lạt bài trí nghiêm trang, tiền đường có bốn trụ gỗ lớn chạm khắc đôi câu đối bằng chữ Nho sơn son thếp vàng mang nặng ý nghĩa tâm linh:

Sơn sắc đạm tùy nhân nhập viện

Tùng thanh tĩnh tính khách đàm phiền.

Tạm dịch là:

Màu núi nhạt theo người vào viện

Tiếng tùng im nghe khách bàn thiền.

Trên điện Phật thờ tượng đức Thích Ca Mâu Ni bằng đồng xanh đang tham thiền nhập định trên một tòa sen đúc bằng đồng, nặng 1.250 kg, được đúc năm 1952.

Bên trái chính điện là Tổ đường - nơi thờ Đạt Ma Sư Tổ, ngoài cái trống lớn có đường kính 0m75 thì đây cũng là nơi đặt bài vị các vị sư đã viên tịch và những người đã khuất mà thân nhân họ đưa vào chùa với niềm tin “để linh hồn được hưởng hương khói và nghe kinh mỗi ngày”.

Bên phải chính điện là tượng Hộ pháp Di Đà, gần đó đặt khung gỗ quý treo “Đại Hồng Chung” nặng 450 ký. Lầu chuông và lầu trống được bố trí cách nhau 12m trước Phật đường. Quả chuông đúc vào năm 1950, cao 1m80 cân nặng 40 ký do các nghệ nhân “Phường Đúc Huế” tạo thành. Phía trái là ngôi tháp ba tầng đứng trên một nền cao 14m, hình bát giác góp phần vẻ tôn nghiêm, mỹ thuật cho chùa. 

Hiện nay, chùa Linh Sơn là nơi đặt văn phòng của Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng.

3/ Đôi dòng ghi lại những cảm xúc … khi Vãn cảnh Chùa:

Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm!

Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa!

Giữa phố thị Đà Lạt với vô vàn sắc thanh hỗn tạp, người đang có chuyện ưu tư hay phiền não khi nghe tiếng chuông Linh Sơn tự cũng thấy vơi nhẹ trong lòng, xua tan đi tất cả những vấn vương tục luỵ, những nỗi trần tâm. .

….

Sư VIÊN TRÍ cảm khái viết:

Khách trần ai viếng Linh Sơn tự

Hồn tục lâng lâng khỏi xứ phiền”

Chất liệu khiến “hồn tục lâng lâng” khi viếng “Linh Sơn tự” hẳn là hương vị giải thoát lan tỏa từ dòng nước từ bi, trí tuệ ở “đỉnh Linh Sơn” hơn 2500 năm trước. Cảm thức thoát lụy liên đới mạnh mẽ với cảm thức cội nguồn khiến thế nhân dường như không hề khởi niệm phân biệt xưa và nay. Vì rằng giây phút lìa xa ái thủ là giây phút con người tìm thấy bản lai diện mục của mình ở đấy mọi ý niệm không và thời gian đều vắng bặt. Có lẽ trong ý nghĩa như vậy mà Linh Sơn đã hiện ra không khác một Linh Sơn Ấn Độ trong lòng nhiều thế hệ Phật tử Việt Nam.” 

… 

Thi sĩ VIỆT TRANG trong một Mùa Báo Hiếu ghé thăm chùa Linh Sơn cũng cảm hứng đặt bút viết xuống những vần thơ và trịnh trọng ghi tiều đề là “Ánh Đạo Vàng”:

Trời thanh gió tịnh nét minh quang

Ánh đạo Linh Sơn, ánh đạo vàng

Giác Ngộ hồi chuông reo Phật pháp

Ưu Đàm tiếng kệ vọng Tăng đường

Chơn Tâm trì hướng lên Tam bảo

Thiện Trí chan hòa với Thập phương

Thân giữa đường trần bao ấm lạnh

Sáng ngời đuốc tuệ, cọng trầm vương.

Dù cho kiến trúc và quy mô không được bề thế như Thiền viện Vạn Hạnh, Thiền viện Trúc Lâm, không có lịch sử lâu đời như Tổ đình Linh Quang hay những chùa triền khác ở Đà Lạt nhưng chùa Linh Sơn vẫn là điểm đến chính của du khách khi đến Đà Lạt.

4/ Đôi nét về thầu khoán Võ Đình Dung:

Võ Đình Dung quê ở Thừa Thiên-Huế. Khi người Pháp chiêu mộ lao công từ miền Trung vào Đà Lạt xây dựng nhà cửa, công sở... ông đến Đà Lạt lập nghiệp năm 1930. Ban đầu ông làm thợ xây cho những nhà thầu người Pháp. Một thời gian sau, khi tay nghề vững vàng, ông đứng ra nhận thầu khoán lại một phần công trình. Nhờ làm ăn uy tín, từ từ ông được giao thi công nhiều ông trình tại Đà lạt như: Ga xe lửa, Dinh Bảo Đại, Đâị học Đà lạt cùng nhiều khu biệt thự Pháp ở Đà Lạt.

Nhờ nghề thầu khoán, ông Dung giàu lên nhanh chóng. Ông mua đất cất nhiều dãy phố cho người Hoa thuê buôn bán quanh khu Hòa Bình, dọc đường Trương Công Định và 3/2 ngày nay. Khu đất từ bùng binh 3/2, chạy dọc hai bên đường Hải Thượng vòng qua Hai Bà Trưng đều của ông Dung.

Tuy giàu có nhưng đời sống của ông là đời sống rất mực thanh đạm của một cư sĩ, tu tại gia, làm nhiều việc nhân đức. Khu Mả Thánh, phần nghĩa địa với diện tích rất rộng lớn cũng do ông cúng dường cho âm linh của thành phố. Mả Thánh là một nghĩa trang Phật Giáo được thành lập năm 1938 trên một quả đồi gần cây số 4, trên đường đi Suối Vàng.”

Ông đã cúng tiền và bỏ công sức xây chùa Linh Sơn. Trước đó vợ chồng ông cũng cúng tiền để cùng với bà con phật tử Đà Lạt xây dựng Tổ đình Linh Quang.

5/ Về Đức Từ Cung:

Từ Cung Hoàng thái hậu tên thật là Hoàng Thị Cúc (黃氏菊), người ở làng Mỹ Lợi, Phú Lộc, Thừa Thiên-Huế[1]. Thân sinh của bà là ông Hoàng Trọng Tích (黃仲錫), từng đậu Tú tài làm Tri huyện Hòa Đa (Bình Định), mẹ của bà là bà La Thị Sơn (羅氏山).

Sinh ra trong một gia đình quan Tri huyện, nhưng từ nhỏ, Hoàng Thị Cúc đã sống cuộc sống hết sức vất vả, khó khăn. Ông bà Tri huyện mất sớm, khi Hoàng Thị Cúc còn nhỏ tuổi, phải sống nhờ gia đình người anh trai cả là Hoàng Trọng Khanh. Bà Hoàng Thị Cúc được đưa vào làm cung nữ hầu hai bà Thánh Cung Nguyễn Hữu Thị Nhàn và Tiên Cung Dương Thị Thục – vợ góa của vua Đồng Khánh[2].

Từ đây, bà dần tiếp xúc với ông Phụng Hóa công Nguyễn Phúc Bửu Đảo (奉化公阮福寶嶹), con của bà Tiên cung.

Lúc quen biết ông hoàng, thì ông đã có vợ chính là bà Trương Như Thị Tịnh, con gái đại thần phụ chính Trương Như Cương, nhưng cả hai chung sống không hòa thuận và cũng không có một mụn con nào. Đầu năm 1913, bà mang thai với ông Phụng Hóa công. Ngày 22 tháng 10, năm 1913, bà hạ sinh hoàng nam Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy.

Năm 1916, Phụng Hóa Công lên ngôi, tức Hoằng Tông Tuyên hoàng đế (Vua Khải Định), bà được phong là Tam giai Huệ tần (三階惠嬪), qua năm 1918 thăng lên Nhị giai Huệ phi (二階惠妃), đứng thứ 2 trong Hậu cung của ngài, sau bà Ân phi Hồ Thị Chỉ. Tước Hoàng quý phi ông vẫn dành tặng cho bà Tịnh, dù bà đã xuất gia và từ chối nhận phong.

Năm 1923, tháng 2, nhân vì Vĩnh Thụy phong làm Thái tử, Huệ phi Hoàng thị được phong làm [Nhất giai Hậu phi; 一階厚妃][3].

Năm 1945, Vua Bảo Đại thoái vị, bà Từ Cung cùng bà Nam Phương hoàng hậu và con cháu hoàng thất dọn ra cung An Định ở.

Những năm 1949 - 1954, khi Vua Bảo Đại trở về làm Quốc trưởng bà Từ Cung trở lại Hoàng cung, ở tại cung Diên Thọ. Năm 1954, khi Vua Bảo Đại qua Pháp lưu vong bà lại phải ra khỏi Hoàng thành về sống ở cung An Định.

Năm 1955, khi Quốc trưởng Bảo Đại bị lật đổ, Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng thì chính quyền miền Nam Việt Nam không cho phép bà Từ Cung ở lại trong cung An Định. Trong tình cảnh này bà đã mua lại ngôi nhà của bà Ân phi Hồ Thị Chỉ, là nhà 79 phố Phan Đình Phùng và ở đây cho đến ngày cuối đời. Trong thời gian chiến tranh loạn lạc, mọi hoạt động cúng bái các bậc tiên tổ, hội họp Nguyễn Phước Tộc đều diễn ra tại căn nhà này. Cũng trong thời gian này bà hoàn toàn mất liên lạc với Vua Bảo Đại.

Bà Lê Thị Dinh là người phục vụ bà Từ Cung hơn 60 năm, là người cung nữ cuối cùng triều Nguyễn phục vụ cho Từ Cung Hoàng Thái hậu[4]. Bốn cung nữ hầu Hoàng Thái Hậu gồm: bà Lê Thị Dinh (nhiệm vụ là trang điểm cho đức Bà, là người hầu hạ Đức Bà tới lúc cuối đời), Lê Thị Tìm (đọc truyện cổ tích và tụng kinh cho Đức Bà nghe hàng đêm), Nguyễn Thị Vân và Trần Thị Vui. Đây là bốn cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là những cung nữ cuối cùng của Việt Nam đang sống vào thế kỷ XXI[5].

Năm 1980, Từ Cung thái hậu qua đời, thọ 90 tuổi, bà được an táng gần Ứng Lăng tại xã Hương Chữ, Hương Thuỷ, Thừa Thiên-Huế. Căn nhà 79 Phan Đình Phùng mà bà đã ở những ngày cuối đời hiện nay được tu bổ trở thành điểm tham quan cho khách du lịch.

Theo "Bức Tâm Thư" tức "Di Chúc" của đức Đoan Huy Hoàng Thái hậu - Từ Cung thì ngôi nhà của Bà sau khi Bà qua đời, sẽ là nơi thờ phụng "Liệt Thánh" (tức Tổ Tiên nhà Nguyễn) và thờ Bà. Ngôi nhà của Bà sẽ giao cho Hội Đồng Hoàng Tộc Nguyễn Phước (gọi tắt là Hội Đòng Nguyễn Phước Tôc) quản lý và sử dụng làm Văn phòng của Nguyễn Phước Tộc để đón tiếp bà con và sinh hoạt Hoàng tộc. 

Từ Cung Hoàng Thái hậu rất trọng đạo Phật và chú tâm đến việc thờ cúng các vị vua triều Nguyễn. Bà được coi là người có công lớn trong việc chấn hưng Phật giáo thời Nhà Nguyễn. Chính bà đã khuyên vua Bảo Đại dành nhiều tiền đóng góp cho An nam Phật giáo Hội, vận động Bảo Đại góp tiền xây chùa và phát triển Phật giáo.

Bà chưa khi nào rời khỏi Kinh thành Huế . Bà nguyện sống cả đời ở đây để giữ gìn nơi thờ phụng các bậc tiên đế, các bảo vật của triều Nguyễn. Bà nói: Ta sinh ra ở đâu thì sẽ chết ở đó. Tổ tiên Nhà Nguyễn còn ở Huế thì ta còn phải ở lại lo chuyện thờ cúng, chăm sóc lăng mộ các bậc tiền nhân. Nhà Nguyễn đã cho ta hưởng lộc cả đời. Ta có chết cũng chưa báo đáp hết được. Bà chưa bỏ một lễ giỗ nào, kể cả khi tiền bạc gần như đã suy kiệt hoàn toàn.

Dù thời thế đổi thay, Từ Cung Thái hậu vẫn luôn mang theo bên mình tất cả những bảo vật của triều Nguyễn và cả những bộ y phục mà nhà vua đã từng mặc trước đây. Để có thể duy trì cuộc sống, bà đã phải bán dần từng món đồ trang sức mà mình có. Phần lớn tài sản mà Từ Cung Thái hậu mang ra khỏi cung Diên Thọ bà dùng để phục vụ cho việc thờ cúng,[6]. Theo một tài liệu Cao Đài, cuối năm 1971, bà nhập đạo và được cơ bút phong chức Phối sư THÁNH DANH hương cúc.[7]

Lúc còn sống trong cung, Từ Cung Thái hậu đã ăn uống rất đơn giản, bà ăn chay 10 ngày mỗi tháng và hiếm khi dùng sơn hào hải vị. Sau khi Nhà Nguyễn mất, càng về già, Từ Cung Thái hậu càng ăn uống đơn giản hơn bao giờ hết. Y phục bà mặc và những thứ đồ dùng của bà cũng hết sức giản dị. Đức Từ Cung Thái hậu là một người nghiêm cẩn, khoan dung, độ lượng.

19/10/2018 

Thông Đà lạt #mocdalatluquan

“Mộc Đà lạt lữ quán” hỗ trợ cho bài viết.

https://www.facebook.com/MocDalatLuquan/


Bên cạnh chùa Linh Sơn, có trường trung học Bồ Đề, học sinh hay bận áo len đen thì phải. Mình nhớ có một trường bận áo màu nâu nhưng không nhớ rỏ trường nào. Thằng Khánh Ù , ở xóm Thi Sách khi xưa, đi ăn cắp buồng chuối với mình, học ở trường này. Sau này làm đến chức hiệu trưởng. Kinh

Hình như mình có một tấm ảnh khác của trường, để hôm nào tìm lại sẽ bổ túc sau.
Đây tấm ảnh mới tìm thấy, rất mờ, chụp trường Bồ Đề, từ nhà ai ở Phan Đình Phùng. Ai biết thì cho em xin. 

Hình em tải lên đây cho bà con, không phải của em, không biết tác giả nên xin phép đăng.

Nguyễn Hoàng Sơn 

Am Cô Bảy Đàlạt

 Hôm trước, mình thất kinh khi thấy tấm ảnh Am Cô Bảy mà người Đàlạt xưa thường gọi là Am Sohier, vì nằm ngay trước mặt trung tâm điều dưỡng của ông bác sĩ người tây này. Người ta hay gọi ngã ba Sohier, chỗ đại lộ Thống Nhất, đường Bà Huyện Thanh Quan, chạy quanh hồ và đường Nguyễn Trãi chạy về phía ga xe lửa.

Lúc đầu, ai đó làm cái trang nơi cây thông, rồi từ từ thiên hạ cúng dường, xây to ra thêm, rồi có ông Pháp Râu, lái xe cho ty Công Chánh, người Huế, trở thành ông Từ của am này, rồi dọn đến ở. Nay con cháu cũng ở tại đây, hình như còn cái bàn thờ trong nhà.

Ở Cali, lâu lâu chạy ngang những nơi có xẩy ra tai nạn xe cộ, gây chết người, đều thấy có cái am nhỏ với cây thánh giá, đoán là có người Mễ nào chết tai nạn giao thông, họ cũng thờ như ở Việt Nam. Người mỹ thì lúc đầu, chỉ đem hoa đến chỗ tai nạn, dần dần thì hết dấu vết.

Mình nhớ lần đầu gặp ông Pháp Râu ở ty Công Chánh, cạnh viện Pasteur . Số là mình bị con chó Berger của nhà bà Quán, hàng xóm cắn nên phải lên viện Pasteur chích thuốc chống chó dại, hình như chích ở bụng. Sáng đi với ông cụ. Ông cụ nhờ ông nào làm chung viết chữ đẹp, bắt mình ngồi nơi bàn, để đồ và viết lại chữ của ông ta. Đến giờ thì bố mình dẫn qua viện Pasteur, làm một phát. Chỉ nhớ là cái kim dài kinh hoàng.

Pasteur, nằm bên trái của ty Công Chánh, nơi mình đến chích ngừa chó dại khi xưa

Có hôm, ông cụ hỏi ăn chè không, mình nghe ăn là gật đầu, không hỏi chè gì như mấy đứa con sau này. Ông cụ dẫn ra phía bên hông ty Công Chánh, và viện Pasteur. Thấy một đám đàn ông đứng xung quanh bà bán chè hàng rong, bà gánh nồi chè đi trên con đường Pasteur, ghé vào mấy sở và biệt thự để bán. Mình thấy một ông người Huế, to béo, có râu như hộ pháp, đang ngồi ăn chè trong khi bà bán hàng rong, đang múc mấy chén bỏ lên mâm.

Hoá ra, họ đang cá cược với ông Pháp râu, ăn hết nồi chè hay không. Thiên hạ đang đưa tiền ra để cá độ, ông Pháp râu thì má đỏ phừng phừng, ngồi nơi cái đòn, đang múc từng muỗng chè bỏ vào mồm, nuốt. Mình nhìn ông cụ, như hỏi sao không mua chè. Ông cụ nói người ta đã mua hết chè. Mình ghét ông này lúc đó vì thấy ông ta tham ăn, ăn hết nồi chè trong khi mình chỉ cần một chén nhỏ. Chán Mớ Đời 

Mình nghe người ta nói am Cô 7 này thiêng lắm nên khi chạy ngang chỗ này, mình đều cởi mũ ra, chạy chậm lại, kính cẩn với Cô 7. Mình nhớ thằng BẢo, con ông Nhị, cạnh nhà ông Lào, lái xe Honda đi học ở Grand Lycee, bị té xe, băng bột mất mấy tháng. Không hiểu tại sao họ gọi Cô 7 vì có nhiều Cô, thường họ gọi Cô 7 hay Ông 9 về, trường hợp mình thì Ông 9 về, cỏng mình mình tỏng cái gù Mọi. 

Hình như mình có kể về rước Thánh Mẫu hàng năm tại Đàlạt khi xưa, từ Đình Tổ Tiên Chính Giáo ở số 2 Cường Để về các đền thờ ở Đàlạt. Để hôm nào, mình kể thêm về Tổ Tiên CHính Giáo, mà ông bà cụ theo, sau Việt Cộng cấm tiệt, tịch thu cái đền tổ ở đường Cường Để. Nay lên đồng lên bóng khắp Việt Nam. Ở Bolsa cũng có vài chỗ, lên đồng.

Đây là chỗ ngã ba am Sohier, (am Cô 7), người bận áo vàng là thiết vương Trương Kim Hùng, lên Đàlạt tập luyện để đi thi thế vận hội ở Mễ Tây Cơ năm 1968.

Sau này, mình nhận ra ông Pháp râu khi ông ta lặn xuống hồ Xuân Hương để cứu một đứa bé chết đuối. Mình chạy xe hồ Xuân Hương với tên bạn, bổng thấy thiên hạ la hét nơi chỗ lữ quán hướng đạo Lâm Viên, nên bò lại xem. Hoá ra có ai bị chết đuối rồi có chiếc xe gắn máy, đậu lại cái kịch, ông Pháp Râu bước xuống. Lấy chai nước mắm, tu một ngụm như uống rượu tây, cởi áo nhảy xuống hồ. Các người đi biển đánh cá cũng đem theo nước mắm để tu cho ấm người, vì có muối sodium.

Một hồi sau, ông nổi lên, lấy chai nước mắm, tu thêm một cái nữa rồi lặn tiếp. Một lúc sau, thấy ông trồi đầu ra, đi lên bờ, bồng theo thằng bé. Lên đường, ông ta vắt 2 chân thằng bé trước ngực, còn đầu và thân mình để thòng ra sau lưng ông ta. Ông chạy vòng vòng thì nước bắt đầu ọc ra từ miệng thằng bé, khiến thiên hạ la hò. Thằng bé chết từ đời nào. Từ dạo đó mình mến ông Pháp Râu này. Ông quen thân với bà cụ mình.

Con nít khi xưa, đi bơi ở hồ này, hay bị chết đuối. Không biết có tên nào trong ảnh này bị chết đuối hay không.

Sau này, lớn lên, mình đi đón mấy đứa em học trung tâm giáo dục Hùng Vương, hay thấy ông Pháp Râu, trù trì tại am CÔ 7 này. Mấy ngày rằm, thiên hạ đến cúng đầy, hương khói đầy ngập khu vực này. Dần dần người Đàlạt cúng tiền, xây cái am lớn hơn, rồi ông Pháp Râu, dọn về đây, cắm dùi bên cạnh để tiện việc làm ông từ của cái Am.

Dần dần, thiên hạ đi cúng cái Am này nhiều hơn am Mệ Cai ở ấp Thánh Mẫu, đường Nguyễn Công Trứ, nơi vía mình được ký bán cho mấy Cô Cậu ở đây. Nghe người lớn kể, hồi nhỏ mình hay bị đau nên ông Phúng, tiệm Hiệp Thạnh, kêu bán vía mình cho thần thánh ở am Mệ Cai để ma quỷ không dám phá mình.

Có ông Chín, bỏ mình trong cái gù Thượng, rồi nhảy múa lên đồng, vui lắm. Say này, có con mình hay cổng chúng múa cà xình cà xàng như Cậu 9 ngày xưa khiến chúng cười như mình dạo nào. Mỗi lần mình đau, ông Phúng chạy xe ra ngoài am Mệ Cai, chở mệ vào nhà để chích lể cho mình, xoa dầu. Ông Phúng xem như ông Ngoại Nuôi vì ôn mệ mình ngoài Huế. Hồi nhỏ vào nhà, ông thương mình lắm nên sau này về Đàlạt, mình có viếng thăm mộ của ông bà. Có lần mình lên lầu, vào một cái phòng, thấy hai cái hòm để song song khiến mình rợn tóc gáy. Hoá ra khi xưa, người lớn tuổi, hay cho đóng hòm trước để lỡ qua đời thì có hòm mà chôn.

Sau này, mỗi khi đau, mình hay nhờ bác Tước, hàng xóm chích lể, chỉ tiếc là không học được nghề của bác. Hỏi con gái bác, có học nghề gia truyền không, để lần tới về, ghé lại học nghề thì cô nàng kêu không, Chán Mớ Đời 

Thời buổi chiến tranh nên không biết được ngày mai. Mệ mình kể có mấy ông cậu chết trong thời kháng chiến chống pháp, không có hòm, phải bó chiếu đi chôn. Sau khi Việt Cộng vào, đói quá, ông bà qua đời, may có hòm đóng sẵn nên cũng đỡ, nếu không chắc phải bó chiếu. Sau này Việt Cộng giải toả Mã Thánh nên mình không biết có dời mộ phần về đâu. Mình có thấy mộ của ông bà Võ Quang Tiềm, hình như do dượng Ngô Viết Thụ thiết kế, tròn, mình có chụp hình. Ông Phúng là một tỏng những người đứng ra kêu gọi xây Am Mệ Cai và rước Thánh Mẫu, hình như có cái nhà họ trên Số 4 mà hàng năm họ hàng người làng An Lưu, tụ họp để đi chạp mộ. Mình đi bên làng Dưỡng Mong, quê ôn ngoại mình còn phía bên mệ ngoại mình thì ít khi đi.

Vía mình được bán ở am Mệ Cai nên rằm là phải lên đây cúng, ăn xôi chè, thấy nhạc sỹ Vĩnh Tường, sau này lấy dì Mến, làm cho ông bà Phúng. Mình nhớ có mấy ông ngồi trên chiếc chiếu, đánh đàn cò, đàn gáo, có bà nào hát chi mà cứ ơ ơ ơ ơ trong khi mấy bà khác, bận đồ sang lắm, xanh có , vàng có, đội khăn đóng, cầm gươm, múa hét hay cầm mấy đèn hoa sen mà người ta hay thả xuống hồ Xuân Hương. Có lẻ vì vậy mà nay mình thích nghe nhạc cải lương, hát bội hơn là tân nhạc.

Năm mình thi tú tài, mẹ mình hỏi phiếu báo danh, mình hỏi làm chi, mẹ nói đem xuống am Cô 7 cúng để thi đậu. Mình không chịu, mẹ mình lấy khi mình đang ngủ rồi đội mưa đi xuống am Cô 7 để cúng. Nhờ vậy mình mới đậu và được đi du học. kinh

Hình ông bác sỹ tây, Sohier, có cái nhà đẹp nhất Đàlạt, trên cái đồi nhìn ra hồ đẹp cực đỉnh. Ông ta làm trung tâm nghỉ dưỡng cho ai bệnh, lên Đàlạt chữa bệnh, chụp với nhân viên của ông ta. Hồi nhỏ, mình mơ đi tây về, sẽ mua lại căn nhà này ở Đàlạt, thị dân sẽ gọi Am Sơn Đen thay vì Am Sohier nhưng Việt Cộng vào thì hết mơ.

Trước khi đi Tây, mình có ghé am Mệ Cai để vái mấy Cô mấy Cậu để đi, nghe bà giữ am nói; mẹ mình có xuống đây cúng nên mình mới đậu, còn bà nào không cúng đường nên con bà rớt đi lính. Hú vía.

Mệ Cai Thỏ có người con trai út tên Châu, có tiệm giặt ủi Châu, ở đường Minh Mạng, ngay góc Tăng Bạt Hổ, đối diện quán chè Vọng Nguyệt Lầu. Hồi nhỏ mình thấy cậu Châu, làm trọng tài đá banh, sau này có đánh quần vợt ở câu lạc bộ thể thao cạnh tiệm Đào Nguyên. Dạo mình về Đàlạt lần đầu đi ngang thấy tiệm karaoke. Thời bao cấp không có ăn nên không có vụ giặt ủi.

Sau này, khu dọc cái am Cô 7, mọc đầy nhà, chả thấy am đâu nữa. Nghe nói còn bàn thờ trong nhà con ông Pháp râu. Xong om

Nguyễn Hoàng Sơn