Người Pháp thành công với dự án Đàlạt?

 Đàlạt #6

Chính quyền thuộc địa pháp đã tốn biết bao nhiêu tiền thu thuế người dân Việt Nam để xây dựng Đàlạt, với ý định làm trung tâm quyền lực Đông Dương. Ngoài các tài nguyên được khai thác, người Pháp đánh thuế rất nặng và chiếm độc quyền buôn bán thuốc phiện và rượu.

 

Nghe người lớn kể; người Việt nấu rượu lậu, lính kính đi lùng bắt ở tù mọt gông hay bán thuốc phiện. Mình có kể vụ này rồi. Theo tài liệu của pháp thì khi họ đánh chiếm Việt Nam, ở thế kỷ 19, gần 50% người Việt nghiện thuốc phiện cũng như người Tàu ở Trung Hoa.

 

Mình có người dượng bà con kể là thời Tây, ở Huế làm nghề tiêm vấn thuốc phiện trong nhà chứa thuốc phiện. Dượng cạo mủ thuốc phiện dính nơi cái ống điếu, đem bán cho mấy hàng cà-phê để họ pha với cà phê, khiến dân uống ghiền, phải tới tiệm họ mỗi ngày.

 

Lý do là nhóm Phản Thanh Phục Minh bán thuốc phiện để gây quỹ kháng chiến nên người Minh Hương, người Tàu theo nhà Minh, chống nhà Thanh tải thuốc phiện qua Việt Nam, bán cho người Việt, lấy tiền để mưu đồ, chiếm lại trung hoa từ nhà Mãn Thanh .

 

Vấn nạn vẫn còn kéo tới thời mình. Trên đường Thi Sách, có một nhà chứa thuốc phiện, cạnh nhà bà Thủ, luôn đóng khoá cổng, chứa người hút thuốc phiện, gây nhiều vụ ăn cắp như quần áo phơi ngoài sân, bị dân nghiện ghé lấy bán để hút. Lần trước mình về, thấy bảng bán căn nhà đó với giá khủng.

 

ông nhạc sĩ Văn Cao kể khi xưa, làm đặt công, được lệnh vào các nhà chứa thuốc phiện để giết mấy người chống pháp thuộc các đảng phái khác. Kháng chiến chống tây mà vào thăm nàng tiên nâu mỗi ngày thì Chán Mớ Đời. Đi gây quỹ nhân dân để ngã bàn đèn như ông Nguyễn Hải Thần,… 

 

Người Pháp xây dựng Đàlạt với mục đích làm trung tâm nghỉ dưỡng cho công chức và binh sĩ của họ với tham vọng sẽ đặt nền hành chánh thuộc địa tại đây, xa lánh các vùng oai bức của vùng nhiệt đới. Như người Anh Quốc và Hoà Lan đã làm tại Rạj,..

 


Bản đồ công trình xây dựng đường hoả xa và con đường cho xe chạy đã mất 30 năm, hơn 20,000 nhân công người Việt đã bỏ xác tại đây. Tốn gần nữa tỷ quan pháp do người Việt đón thuế .


 Đàlạt ở trên cao nên không khí mát nhưng lại ẩm ướt nhất là vào mùa mưa khiến người Pháp sống tại đây, buồn chán vì thời tiết mưa hoài khiến con người chán như con gián. Ở Hoa Kỳ, thành phố Seattle quanh năm mưa như Đàlạt nên số người tự tử đông nhất Hoa Kỳ.

 

Có lẻ vì vậy mà người âu châu không đến Đàlạt định cư nhiều. Mình có kể khi bà đầm, bạn bà toàn quyền Decoux muốn thành lập một trung tâm nuôi trẻ em lai Tây. Đi xe lòng vòng Đàlạt thì phát hiện ra đồi Domaine de Marie rồi mua mấy chục mẫu, giá như bèo.

 

Có lẻ vì vậy mà đất Đàlạt sau này, trong khu vực được chỉ định dành cho người việt, được ông Võ Đình Dung thầu khoán, mua hết với giá bèo. Mình mới đọc được tài liệu về ông thầu khoán này, sẽ kể sau.

 

Khi còn bé thì không để ý nhưng khi lên trung học thì mình thấy Đàlạt chán quá, chỉ muốn thoát ly ra đi nên cứ mơ đi tây. Cứ nhìn mưa hay nằm nghe mưa ào ào đỗ xuống trên mái tôn lộp bộp hết giờ này qua giờ nọ.

 

Du khách lên Đàlạt nghỉ hè, gặp mùa mưa dầm mưa dề nên cũng chán, không đi đâu được. Vừa mưa vừa lạnh nên cũng chán đời lắm. Dạo mình về Đàlạt vào mua hè với mấy đứa con, chỉ ở có 3 ngày là chạy vì mưa.

 

Hè không đi học, ăn tối xong mình hay qua nhà hàng xóm, ngồi dưới mái hiên với tên hàng xóm, nhìn mưa rơi, hắt vào chân. Cứ vậy ngày này qua tháng nọ.

 

Cách đây 28 năm mình có làm việc cho một công ty kiến trúc được một tập đoàn đầu Tân gia BA, kêu thiết kế một trung tâm nghỉ dưỡng ở Dankia nhưng cuối cùng họ bỏ ý định này. Có thể không khả thi, không lôi cuốn được người âu châu. 

 

Đến Đàlạt mà mưa thì chán chết vào mùa hè. Khí hậu lạnh thì ở xứ họ đã lạnh quanh năm, họ cần cái nóng, phơi nắng cho da đen để về khoe với bạn bè. Đàlạt chỉ có thể thu hút du khách ở vùng đông Nam Á còn dân giàu có thì họ sang âu châu để trượt tuyết,…

 

Mình sinh sau khi người Pháp thất trận Điện Biên Phủ và về nước nên không biết thời pháp thuộc ra sao.

 

Mình học kiến trúc ở Pháp nên mình nghĩ người Pháp họ xây cất để tạo cái huy hoàng, có lẻ ảnh hưởng của thời Napoleon. Họ thích xây dựng hay phát hoạ cái “grandeur “ của văn hoá pháp.

 

Mình đoán là người Pháp biết là xây dựng Đàlạt tốn tiền nhưng họ cứ làm như họ đã từng xây dựng Versailles hay những điện khác một cách “gratuit” vô bổ để nói lên tinh thần, văn hoá của nước pháp.

 

Ý định xây Đàlạt thành thủ đô của Đông Dương tuy rất hay nhưng sau thế chiến thứ 1, Anh Quốc và Pháp quốc bị tổn thất rất nhiều. Suy nghĩ của họ cũng được thay đổi vì chủ nghĩa thực dân đang được đánh giá lại.

 

Thay vì cai trị tại chỗ như xưa, họ giáo dục, huấn luyện một tầng lớp người địa phương, giúp họ cai trị tại thuộc địa như đang làm tại các thuộc địa cũ ở Phi Châu.

 

Sau thế chiến thứ 2, các quốc gia đồng minh, thành lập hai ngân hàng quốc tế để cho vay. Họ trao trả độc lập lại với điều kiện là hội viên của Liên hiệp Pháp (Union Française) hay Commonwealth. Họ cho các sát thủ kinh tế đến dụ đọc các nhà độc tài, xây các đập thuỷ điện, xây đường xá rồi ngân hàng quốc tế sẽ cho vay.

 

Kết quả là các tên độc tài này ăn chia, rút ruột hết, phải mượn thêm và người dân đóng thuế, cuối cùng các nước này bị lệ thuộc, nghe lời các nước Tây phương. Này lãnh đạo nào có lương tâm với đất nước thì bị đảo chính ngay.

 

Ngày nay, Trung Cộng bắt chước chiêu này, với chương trình một con đường một vòng đai, cho các nước mượn tiền để xây cất các hạ tầng cơ sở. Mình thấy vụ họ cho mượn tiền xứ nào gần ấn độ, để xét tên lại, xây dựng một hải cảng to lớn quy mô nhưng không có đường xe chạy đến. Cuối cùng phải cho họ mướn 99 năm với giá như bèo. Giúp họ đem quân đội đến và là nơi các thuyền bè của họ cập bến thay vì ghé các hải cảng trong vùng.

 

Người Pháp đã sử dụng tiền đóng thuế của người Việt để xây dựng một thành phố nhỏ của pháp. Họ chỉ muốn chỉ dành riêng cho người Tây phương nhưng họ cần người Việt để phục vụ họ nên đành phải chia những vùng đất nhỏ ở các khu thấp dành riêng cho người bản xứ với mục đích nếu có bệnh tật, lây lan thì họ có thể kiểm soát.

 

Từ khởi đầu đến năm 1945, người Pháp đã có 5 kế hoạch phát triển Đàlạt. Mình sẽ kể sau. Có người kêu người Việt nhất là dân Đàlạt thiếu một lời cảm ơn người Pháp thì mình không đồng ý.




Nếu đứng trên phương diện người đã sinh ra và lớn lên tại Đàlạt thì có thể mình cảm ơn những người đi trước đã xây dựng thành phố nơi mình sinh ra. Đứng trên phương diện lịch sử và kinh tế thì mình thấy hệ quả của sự hy sinh của người Việt quá nhiều cho công việc xây dựng thành phố nghỉ dưỡng riêng cho người Pháp, bằng tiền thu thuế của người Việt nhất là có trên 20,000 người Việt đã bỏ xác (theo tài liệu của người Pháp) nhưng theo mình con số này còn cao hơn, họ bắt người thượng lao động không lương, chết vô số, khiến một số phải trốn qua Lào để sống sót.

 


 

(Còn Tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn 

Hành trình mua máy rữa chén cho vợ

 Mình lấy vợ gần 30 năm nay, đổi nhà 5 lần nhưng ít khi rữa chén bằng máy dù mỗi nhà đều có trang bị máy rữa chén. Hình như đa số người Việt hay á châu ở mỹ đều mang cái tật này; dùng máy rữa chén để úp cho ráo chén đĩa thay vì sử dụng đúng chức năng của nó.  Cho thấy chúng ta sinh sống ở hải ngoại với tinh thần “Trái Chuối”, trong trắng ngoài vàng. Mấy người bạn á châu mình mà xài máy, xem như mỹ hoá gần như hoàn toàn hay đã già nên chán vụ rữa chén bằng tay.

Có lần anh bạn trên Facebook, hỏi cái gì rất đặt trưng trong nhà người Việt. Mình kêu máy rữa chén dùng để làm ráo nước thay vì rữa bằng máy. Mình thấy ít nhất mấy trăm ý kiến kêu đúng rồi. Họ đều sử dụng làm nơi ráo nước chén đĩa và rữa bằng tay để khỏi phản bội tố chất Việt như để tự nhắc “tôi là người Việt”.

 

Trên nguyên tắc rữa chén bằng tay tốn nước hơn là rữa bằng máy nhưng người Việt mình lại rữa chén bằng tay, như để nhớ lại thời còn ở Việt Nam hay tập tính hà tiện nước từ thời còn bé ở Việt Nam. Mình thì nhớ thời đi làm bồi cho tây, rữa chén bằng nước lạnh trên núi tuyết mùa đông, khi mới sang Tây, lạnh tê cóng tay vì hôm ấy bình nước nóng hư.

 

Mỗi sáng mình dậy sớm để rữa chén vì khi mụ vợ thức dậy là nghe thuyết pháp kinh “chén đĩa”. Mình đứng rữa chén với chánh niệm của người chồng nhân dân nên cũng từ từ không nhanh, để tránh nhìn mặt mụ vợ nhăn nhó khi thấy chén bát chưa được rữa. Chỉ có phần đứng lâu mỏi xương sống nên phải đứng tấn giúp nhẹ đi.

 

Mùa cô-vi đến, mình được phong chức người chồng nhân dân và người cha anh hùng tại nhà. 3 mẹ con làm việc tại nhà nên trưa xuống hỏi ăn cái gì. Không có là 3 mẹ con thành lập ngay toà án nhân dân tại nhà bếp, đầu tố mình còn hơn bần cố nông đấu tố thành phần tiểu nông như ông bà nội mình. Con ai chết trong làng năm đói Ất Dậu, ông bà đem về nuôi, khi rồi cán bộ về làng, chúng đứng ra đấu tố ông bà như kẻ giết bố mẹ chúng.


3 mẹ con kêu lao động vinh quang trong khi mình ngồi xem đá banh những trận kinh điển xưa vì đá banh cũng ngưng. Mình nói thì để mình vào vườn, 3 mẹ con không cho vì sợ lây Lan vào mấy con coyote hay sóc.

 

3 mẹ con ăn xong thì quăn đó, nên mình phải dọn với nụ cười trên môi như đoá hoa Hàm Tiếu héo tàn. Đó là tình yêu chân chính trong thực tế, chớ không phải những ngôn tình vớ vẩn của Quỳnh Giao qua Mùa Thu Lá Bay. Mình đang ở thời điểm đóng vai trong “mùa thu tóc bạc”, 1 sản phẩm của tình yêu hữu-nghị. Chán Mớ Đời 

 

Lâu lâu mình dùng máy để tống khứ các nước đọng, lâu ngày do úp đĩa bát. Cuộc đời rữa chén ô sin của mình bình thường trôi qua gần 3 thập niên nay.

 

Bổng nhiên ông covid bò lại khiến mọi chuyện đảo lộn. Mụ vợ kêu máy hư vì không thoát nước. Máy xài từ 8 năm nay chưa tới 10 lần mỗi năm lại hư. Mình thử rữa một lần thì đúng thật. Nước còn đọng lại. Thôi thì mua máy khác cho vợ úp chén đĩa. Khi mình mua cái máy này thì mụ vợ rất ghét vì kêu mình trùm sò, mua loại rẻ tiền. Mình nghĩ không rữa chén bằng máy thì mua làm chi đồ đắc tiền thêm máy càng bình dị càng dễ xài vì các máy mới được trang bị bằng đầu điện tử, dễ hư.

 

Lại đúng mùa COVID, không đi đâu được nên lướt mạng để xem. Qua Best Buy, lựa được một cái, có 3 tầng, cực kỳ hiện đại, chỉ cần mở điện thoại, nhấn qua wifi là tự động máy chạy. Đặt hàng, chúng bảo 30 ngày sau mới đến ráp máy mới. Còn mua đến lấy thì 3 ngày. Mình không có xe truck để chở thì hỏi tên thợ, hắn kêu 150 đô để hắn chạy đến lấy đem lại ráp. Best Buy chỉ lấy $49 đô lắp ráp và lấy máy cũ đem đi. Thôi thì đợi. Quà giáng sinh cho đồng chí gái sẽ được ráp trước ngày 25 tháng 12.

 

Đúng ngày giờ, ngồi đợi tên thợ đến ráp máy như đợi người yêu khi xưa lên đồ. Chúng bảo từ 7:00 đến 1:00 nên đợi như chó đói ngáp dài. 12:30 tên thợ bò lại. Hắn đeo mặt nạ đủ trò chả biết hình dung là thằng nào, đeo tất cho đôi giày vào nhà. Mình dẫn xuống nhà bếp. Hắn mở cửa dưới cái bồn nước. Hắn kêu phải dẹp mấy đồ lỉnh kỉnh. Mình nói ok, để từ từ tao dọn theo chánh niệm. Hắn có vẻ mệt mỏi, đói nên hơi gắt với mình khiến mình nổi khùng lên kêu đem máy về, tao huỷ vụ mua máy này, kêu xếp mày hoàn tiền lại cho tao.

 

Mình lại bò lên mạng, qua Costco mua một cái máy khác, cũng hẹn 3 tuần lễ sau. 3 tuần lễ sau, không thấy gì cả, lên mạng xem cũng thấy ngày giao cho mình là hôm qua. Gọi điện thoại kêu máy tao đâu, chúng mày lấy tiền từ tháng trước mà nay chưa giao. Chúng kêu đợi thêm 3 tuần nữa mới về. Thôi trả tiền lại tao. Sau đó, mới thấy chúng để dòng chữ nhỏ, hoá ra mình phải nhấn nút này, để điền tên và địa chỉ để công ty gắn máy, gọi mình để lấy hẹn. Mình lại dạng ngu lâu, không biết nên cứ đờ ra nên chúng không biết đâu mà lấy hẹn suốt cả tháng trời. 


Hóa ra Costco nhờ công ty khác gắn máy. Họ chỉ đứng trung gian, đặt hàng cho công ty bán máy giặt và công ty thợ đến ráp, ăn tiền lời. Gọi nói chuyện thì chúng liên kết với ai bên Phi Luật Tân để nói chuyện. May là không gửi sang xứ Ấn Độ, lại phải ăn cà ri bị hôm ấy. Chán Mớ Đời 

 

Thấy mua hai lần không được nên mình Chán Mớ Đời không nhắc đến nữa. Tưởng mụ vợ quên luôn. Ai ngờ, đồng chí gái khi đã muốn mua cái gì là mụ phải mua cho bằng được. Mụ bò ra Best Buy gần nhà thích một cái máy nên gọi mình lại. Mình dùng ngôn tình để tạo dáng cho sự việc đã rồi, nói Món Amour muốn cái gì thì mua cái đó để lấy điểm. Giá rẻ hơn cái mình chọn. Có cải cũng vô ích, được cái là khi mua ba cái đồ này do mụ chọn thì khi bị lộn xộn, mình sẽ không bị đấu tố bởi tòa án gia đình là dân keo kiệt. Chán Mớ Đời 

 

Vợ chồng mình không ăn khớp với nhau. Mụ thì thích mua sắm đủ thứ. Cứ đi shopping, thấy chén đĩa đẹp đẹp đang khuyến mãi là mua về chật tủ. Tính hà tiện mang từ Việt Nam, nói để dành khi có khách dùng nhưng chả bao giờ xài vì khách đến thì dùng toàn đồ giấy cho gọn thêm được làm ô uế môi trường. Con gái lấy đem quăn là mụ la vì không còn chỗ để nhét. Hôm qua, bà Mễ đến dọn nhà, mình tặng luôn. Khỏe đời.

 

Ngược lại, mình không thích mua gì cả ngoài mua nhà cho thuê. Dạo này được mời lên đài truyền hình, chủ-xị chương trình, kêu bận đồ đàng hoàng nên lấy quần áo từ thời chưa lấy vợ ra bận, tạo dáng thời trang cổ điển, rétro.

 

Lại lấy hẹn 3 tuần sau. Đúng ngày mình bận trên vườn, vì tiểu bang Cali cho mình tiền để làm lại hệ thống ống nước chính. Nay làm xong, họ đến thanh tra để trả nốt 50% còn lại. Ở nhà dặn mụ vợ mở cửa cho họ vào.

 

Về thì thấy máy đã được thay, nhưng chúng không đem cái máy cũ đi, để lơ ngơ ngoài cửa. Mình xem chỉ dẫn để thử máy. Máy kêu rột rột rồi ngừng, hàng chữ ERROR hiện lên. Nước vẫn đọng như máy cũ. Chạy vô YouTube xem, chúng bảo có thể là air gap. Mình mở cái air gap ra xem thì thấy rác rưới ở trong nên chùi sạch. Máy vẫn rột rột rồi ngừng. Gọi Geek Squad của Best Buy. Chúng hẹn 1 tuần sau để cho người đến xem.

 

Một tuần sau, thợ đến xem. Hắn bấm nút, nghe rột rọt rồi ngừng. Kêu cái máy bơm hư, hắn không biết sửa cái này, để gọi cho xếp hắn, hẹn ngày nào để gửi tên thợ khách biết sửa cái bơm nước. 1 tuần lễ sau, tên khác đến. Hắn kêu không phải cái máy bơm, ống thoát nước bị nghẹt. Hắn tính bỏ về nhưng mình tuyên dương công trạng hắn, kêu hắn có kinh nghiệm, thông minh….

 

Được sơn đen đưa lên mây, hắn đồng ý mở cái ống air gap mà mình chỉ chùi ở trên. Hoá ra là air gap bị rác chui vào làm nghẹt nên không hút hơi ở ngoài để bơm nước dơ trong máy qua máy nghiền rác. Lúc máy xay rác nghiền thì nên đổ nước để chúng thoát nhanh, còn không xả nước cũng lúc thì rác bị xay có thể theo đường ống “air gap” mà chạy lên, lâu ngày sẽ làm nghẹt. Dạo này mình thấy máy xay rác không thông nhanh lắm. Chán Mớ Đời 

 

Hắn chùi ống nghẹt xong xuôi thì gắn vô lại, chạy được một vòng. Mừng quá, kêu happy New Year mút mùa lệ thuỷ, tặng thêm vài trái bơ lấy thảo.

 

Tối đó mình nhấn nút, máy chạy. Sáng hôm sau, thay vì rữa bằng tay như mấy năm trước, mình chơi sang, rữa bằng máy. Đầu năm 2021, tạo dựng cuộc cách mạng mới, rữa bằng máy, nâng cấp đời ô sin. Nhấn nút máy không chạy, nhấn đi nhấn lại, vẫn kéo rột rọt rồi ngừng. Mình gọi geek Squad chúng kêu để chúng thay cái máy mới. Lại hẹn một tuần sau.

 

Mình gửi cái cờ-líp trên YouTube cho mọi người trong nhà, cách bỏ chén bát vào máy sau khi ăn xong. Con gái mình đang ở bên pháp với bạn trong mùa Noel, nhắn tin hỏi mua cái máy rữa chén mới. Mình kêu ừ. Nó hỏi mình có thể sử dụng máy rữa chén như mọi người mỹ bình thường thay vì chỉ để úp cho ráo nước. Mình nói nhất trí.

 

Trong khi chờ đợi, mình vẫn xài được cái máy. Khi được khi không. Cuối cùng mình khám phá ra là khi ấn mạnh quá thì máy chạy một vòng rồi tắt. Máy toàn là đồ điện tử bé li-ti nên không được mạnh tay như đang cuốc đất. Có điều rữa nhưng không có làm khô nên mình cũng lạ. Thay vì gọi điện thoại kêu đã xài được rồi mình cứ để xem.

 

 Hôm qua, Best Buy gửi ông thợ người Việt đến thay cái mới, đem cái máy cũ đi. Best Buy không có đủ thợ nên họ subcontract cho công ty của anh ta làm. Anh ta giải thích cách sử dụng máy rõ ràng hơn, nhất là cách bảo trì. Hôm qua mình thử máy và sáng nay thì máy chạy tốt, cuối cùng thì máy có toả nhiệt để làm khô chén bát ở trong máy sau khi xong nhiệm vụ rữa bằng nước.

 

Máy trước không làm khô chén đĩa nên mình thắc mắc. Có thể máy hư thật, cũng có thể mụ vợ hay mình bấm mấy cái nút, vô tình làm ngừng chức năng làm khô chén đĩa sau khi rữa. Có lẻ ông Táo, quen mấy chục năm nay, gia đình mình rữa chén rồi úp cho ráo. Chán Mớ Đời 

 

Năm 2021, em sẽ dùng máy rữa để khỏi phải chánh niệm nữa, có thì giờ đọc sách báo buổi sáng khi cả nhà vẫn còn ngủ. Chúc các bác một năm 2021 rữa chén bằng máy.


Sau vài ngày thì khám phá ra là mấy cái nút điện tử rất nhạy. Phải nhấn cho đúng 3 giây đồng hồ thì nó mới chấp nhận chức năng mình muốn, nếu không là nó chạy một vòng rồi ngừng. Chán Mớ Đời 

 


Chán Mớ Đời 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Đàlạt, thành-phố thể-thao của người tây-phương

 Đàlạt #5

 

Mình mới nhận được một email của một chú quen với mẹ mình khi bị mật thám tây bắt, nhốt ở nhà Lao, trung tâm cải huấn nhưng may cả hai đều được thả trước khi mật thám tây bắn 20 người chống pháp, tại Cam Ly liên can đến vụ ám sát tên mật thám trước tiệm Đức Xương Long.

 

Email nói về xẹt Đàlạt, hội thể thao của dân Đàlạt xưa.

 

Khi Đàlạt được thành lập, các người âu châu lên đây nghỉ mát, có người sinh sống tại đây, độ 340 người vào những năm 1930. Vào mùa hạ thì đông nhất là độ 3,000 người lên đây nghỉ mát. Mấy bà đầm thì đánh cù, hay đi dã ngoại, còn mấy ông thì đi săn cọp nhưng con cháu của họ cũng cần chỗ chơi thể thao.



 Photo do Bill Robie Cho thấy toàn cảnh các trụ sở của hội thể thao Đàlạt. Trung tâm bơi lội, đua thuyền La Grenouillere (Thuỷ Tạ), nhà hàng Đào Nguyên, các sân quần vợt, nhà để chơi vũ cầu.


Từ đó mới ra đời Cercle des étrangers (câu lạc bộ người ngoại quốc), ngoại quốc đây có nghĩa là người tây phương vì có những người từ âu châu đến làm việc hay định cư. Hội này rất quy cũ, phụ nữ hay bạn của hội viên chỉ được tham dự các hoạt động trong phòng khánh tiết. Cấm không được bàn chuyện chính trị và tôn giáo. Nguyệt liễm đóng 10 quan mỗi tháng.

 

Sau một năm hoạt động thì câu lạc bộ người nước ngoài bị toàn quyền Varenne đóng cửa vì có hoạt động sòng bài, cờ bạc. Dạo ấy, cấm chơi bài, cờ bạc ở Đông Dương. Chắc chỉ áp dụng cho người Pháp còn người Tàu Chợ Lớn thì vô tư.

 

Cuối cùng thì hội cũng được mở cửa lại với cái tên Cercle Sportif (câu lạc bộ thể thao) mà người Đàlạt thường gọi tắt là Xẹt. Du khách ngoại quốc có thể tham gia như hội viên một ngày để sử dụng các cơ sở thể thao của hội như đánh Quần vợt, đua thuyền trên hồ, bơi lội ở hội quán thuyền buồm “La grenouillère “ (Thuỷ Tạ). Ngoài ra có một sân banh để tây đá banh, nằm cạnh các sân quần vợt, địa điểm nay họ làm cái chợ Big C. Nơi khi xưa mình từng đến đây đá banh mấy tháng trời vào buổi chiều.

 


Chỗ này được thiết kế như một ốc đảo, phải đi qua chiếc cầu nhỏ Nhật Bản. Đến vườn hoa, cuối cùng thì hội quán La grenouillere . Hình này cho thấy Thuỷ Tạ lúc đầu chỉ làm một nhà dù để người Pháp ra đây hóng gió, đến khi câu lạc bộ thể thao ra đời thì các hội viên đóng tiền để xây dựng Thuỷ Tạ, nhà hàng “ la chaumiere “ , mấy sân quần vợt. Có thể lúc này họ vẫn đang sử dụng khách sạn Du Lac, nhưng bị cấm vì đánh bài.




Dạo ở Đàlạt, mình có vào quán Thuỷ Tạ này một lần, uống ly coca vào ngày Tết với anh em tên hàng xóm và cô bạn học của em gái hắn. Cô này chỉ mình uống coca bỏ muối vào. Sau này về Đàlạt, mình có ghé lại đây một lần uống ly nước ngọt để nhớ lại thời xưa nhưng không có gì đặc sắc lắm. Ngược lại  kiến trúc của Thuỷ Tạ rất ấn tượng trên hồ. Mình đi khá nhiều nơi nhưng chưa thấy một nhà hàng nổi trên hồ đẹp như Thuỷ Tạ. Có thể gọi là điểm nhấn của thành phố Đàlạt.

 

Hội có quán ăn tên “la chaumière “ (nhà tranh), mà sau này trước 75, tên Đào Nguyên. Nghe nói con gái của chủ tiệm này, ở nam Cali nhưng mình chưa có duyên gặp lại. Nghe kể có một ông dược sĩ Tây bán thuốc ở Bắc kỳ, về đây ở mở tiệm bán bánh mì tây, có tên là Pâtisserie dauphinoise, nhưng đến năm 1945 khi Nhật đảo chính, chiếm hết đồn bóp của tây thì tiệm này đóng cửa luôn. Chắc ông tây về nước.

 


Hình này (1930) tìm trên mạng. Cho thấy cÂu lạc bộ thể thao Đàlạt lúc Thuỷ Tạ chưa được xây cất. Lúc xây cất, họ đào thành cái ốc đảo, làm cái cầu Nhật Bản. Nhà hàng Đào Nguyên, chưa được làm lại. Có lẻ đây là quán ăn La Chaumiere chăng. Phía xa có thấy mấy sân quần vợt, còn sân đá banh chưa được thực hiện.


Không biết ông chủ lò bánh mì Vĩnh Chấn có học nghề tại đây hay không, sau này mở tiệm ở phố Hoà BÌnh, nổi tiếng. Có một tiệm bán thịt tên “la Lorraine”, chắc ông này gốc vùng Lorraine, gần biên giới Pháp và Đức quốc. 

 




Trong mấy tờ báo tây “la presse Indochinoise” có nói đến các hội, tranh tài thể thao ở câu lạc bộ La Grenouillere, đua ngựa, quần vợt, chơi cù, đua thuyền,… khiến dân tây ở Đông Dương náo nức, muốn lên Đàlạt nghỉ dưỡng. Mình nhớ có tấm ảnh tây đang đua thuyền trên hồ Xuân Hương nhưng chưa mò ra được. Để hôm nào tìm ra sẽ bổ túc.

 


Hình này cho thấy cái plongeoir để tây nhảy thi. Hồi nhỏ mình có thấy, sau này thì không thấy nữa. Chắc mục nát không ai sửa lại vì thuộc thành phố Đàlạt khi tây về nước, bàn giao lại. Dân Đàlạt không có ai ra đây nhảy. Mình có tên bạn bơi giỏi, kể leo lên đó nhảy xuống dập chim nên không dám nhảy nữa.


Năm 1956, tây về nước bàn giao lại cho chính quyền Đàlạt. Theo email cho biết thì hội viên sau 1956 hội quần vợt có đâu 30 người. Mình nhớ mấy ông như nhà may Hoàng Nho, cho con đi đánh quần vợt tại đây, ông Châu. Mình dạo đó tập đánh quần vợt trên ty công chánh đường Pasteur, phía sau lưng có sân tennis, mình hay lên đó đánh với anh Toàn, con ông Tô, và Đinh gia LÀnh ở đường Thì Sách. Lưới rách nát, chỉ còn dây cáp nên hay cãi nhau là trên hay dưới lưới. Chán Mớ Đời 

 

Có dạo ông Nguyễn Ngọc Út, giám đốc nhà đèn Đàlạt, làm chủ tịch hội, rồi đến ông Trần Công Phấn, làm nha Địa Dư, có tiệm thuốc Tây Minh Tâm ở đường Duy Tân, con rể của  ông Võ Quang Hàm. Năm 1974, ông tỉnh trưởng Tuyên đức lấy lại, vì thuộc thành phố Đàlạt để cho thuê. Mấy chỗ này là do người Pháp xây dựng nên khi về pháp thì họ giao lại cho chính quyền thị xã Đàlạt, cho thuê lại nhưng vì chiến tranh nên các hoạt động không nhiều vì giới nghiêm, cấm nhảy đầm, đủ trò,..

 


Có lẻ môn thể thao mà tây giàu có thích nhất là săn bán gấu, beo, cọp, voi… không khác chi ở phi châu mà khí hậu lại không nóng oai bức của miền nhiệt đới. Nghe kể có ông tây nào bắn chết 40 con voi để lấy vòi, 50 con cọp và báo và 600 con Nai. Vua Bảo Đại cũng mê môn giết thú vật này nên đóng đô tại đây, xây mấy cái dinh để mấy bà vợ bé ở.


Đồi cù thật ra được xây dựng để cho người Anh Quốc đến chơi. Tây thích quần vợt hơn. Dạo mình ở Đàlạt, ít ai đánh cù lắm, chỉ nhớ có bác sĩ Đào Huy Hách, giáo sư phó BÁ Long, hay lên sân cù đánh, đi bộ.

 


Đi săn thì cần các người thượng này hướng dẫn nhưng khi thấy người tây phương tàn sát dã man nhiều thú rừng vô tội vạ, không phải để lấy thịt thì họ không chịu. Chỉ muốn mỗi lần chỉ có thể giết một con cọp hay voi thôi vì tín ngưỡng của họ.

 


Dạo ấy cọp về kiếm ăn, sát hại rất nhiều người nên chính quyền thực dân thưởng tiền ai đem cái đầu cọp đến nộp. Mình nhớ có lần về Blao thăm ông ngoại, có vườn trà tên Nguyễn đăng, thấy hình chụp ông ngoại với xác con cọp.

 


Cuối cùng thì toàn quyền Albert Sarraut, cấm săn bắn man rợ, chỉ định những khu vực nào được săn bán, và phải đóng 200 đồng cho 3 tháng. Không được giết cọp cái, voi cái,… giúp bảo vệ các thú rừng. Nay thì chắc không còn gì. Ở hồ Dankia, mình thấy 2 con voi để du khách cởi.

 



Nghị định do toàn quyền Decoux và bộ trưởng bộ nội vụ Trần Văn Toàn ký thành lập Đàlạt .

 

Nhìn lại, thực dân lấy tiền thuế của người Việt và xương máu của mấy chục ngàn người Việt để xây dựng con đường lên Đàlạt để cho họ bắn giết thú vật. Ngày nay, chúng ta với tư duy thế kỷ 21, khó chấp nhận được.

 

Họ tạo dựng một vùng riêng biệt cho người tây phương, dùng người việt để khiêng họ đi săn bắn. Có đọc tài liệu, mới hiểu được lý do thế hệ bố mẹ mình chống pháp. Đất của mình, họ đến chiếm xài tỉnh bơ, còn bắt chúng ta làm nô lệ cho họ.


(Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn 

 

Đàlạt vườn rau của thuộc-địa

 Đàlạt vườn rau của thuộc địa #4

 

Sau bao nhiêu khó khăn, ngân quỹ cạn, cuối cùng thì người Pháp có thể thụ hưởng được không khí trong lành của cao nguyên Lâm Viên, xa những cái nóng oai bức nhiệt đới của thuộc địa ở miền đồng bằng như Sàigòn, Hà Nội.

 

Họ cho rằng muốn có sức khoẻ tại thuộc địa, họ cần được bồi dưỡng không khí tươi mát của đồi núi như ở quê nhà. Đàlạt là nơi giúp họ tìm lại không khí trong lành và tìm lại chút gì của quê mẹ. Không có bóng dáng dân địa phương nhiều như ở Sàigòn hay Hà Nội.

 

Dạo ấy, khi người Âu châu nghe nói đến Đàlạt, rừng thiêng nước độc, tạo cho họ hình ảnh rất tiêu cực. Các sách hướng dẫn, nói đến mùng, bệnh viêm, thiếu máu, sốt-rét…

 

Nhưng khi đến Đàlạt thì họ rất ngạc nhiên vì khí hậu ôn đới, không oai bức như ở Sàigòn hay các tỉnh miền nam. Nếu ai lên Đàlạt, khi xe bắt đầu lên đèo Prenn, là chúng ta cảm thấy ngay cái lạnh se-sẻ, nhe-nhẹ của núi rừng khiến người Âu châu yêu thích rồi đồn với bạn bè của họ, tạo nên một phong trào thăm viếng Đàlạt.


Mình có đọc hồi ký của ông Tây dạy mình địa lý khi xưa ở Grand Lycee, kể những ngày đầu đến Đàlạt ra sao. Ông này thuộc dân “coopérant “, nghĩa là thay vì đi nghĩa vụ quân sự 1 năm như các thanh niên pháp thì có thể xin đi làm việc ở một thuộc địa cũ của pháp trong ngành hành chánh hay giáo dục 2 năm. Điều kiện là tốt nghiệp đại học. Tương tự chương trình Peace Corps của tổng thống Kennedy.


Sinh viên mới ra trường biết gì, như sinh viên Tây đầm sang Việt Nam ngày nay, dạy tiếng anh tiếng Tây, kiếm tiền đi chơi. Ông vua Hassan II của xứ mA-rốc , viết thư cho ông bộ trưởng giáo dục pháp, than phiền; Pháp quốc gửi các giáo sư sang xứ ông ta, viết tiếng tây không chuẩn, lại đi dạy dân ông ta.


Dạo mình ở Tây, lúc gần ra trường, cũng có xin đi phi châu thay vì quân dịch 1 năm nhưng khi đi khám sức khoẻ ở trại lính. Mình rên với thằng Tây, phỏng vấn mình, kêu sinh trưởng tại Việt Nam, chán ghét chiến tranh, nghĩ là nó sẽ chấp thuận cho mình đi phi châu 2 năm, ai ngờ nó ghi là miễn quân dịch khiến mình phải lang thang các xứ khác kiếm việc sau khi ra trường.

 

Đàlạt bổng nhiên trở thành địa danh mà các người Âu châu sống trên các thuộc địa tại Đông Nam Á, muốn đến thăm vì có thể ăn thức ăn như ở quê nhà, ăn trái cây như dâu, hay khoai Tây, artichaux,.. như ngày nay chúng ta đến Tiểu Sàigòn ở miền nam Cali.

 


Quảng cáo cho khách sạn LangBiang (tiền thân thân của Palace). Chỉ thấy hình ảnh người thượng Sơn cước.


Đàlạt đã giúp các người Pháp sống tại thuộc địa, tìm được chút gì của quê hương họ. Quan trọng hơn là giúp phổ biến thức ăn nổi tiếng của pháp khắp Đông Dương. Muốn nấu thức ăn pháp thì người ta cần các loại trái cây, rau cải của pháp như khoai Tây, Xà lách, poireaux,… các loại này không thể nào trồng ở nam kỳ.


Hôm qua đi chợ, con gái nói mình phải nấu món 

“Raclette” của Tây. Nó mới đi chơi bên pháp về, ăn món này nhưng tìm đâu ra món phô-mát loại này để làm. Đó là tại Hoa Kỳ ngày nay, còn 100 năm về trước ở Việt Nam thì tìm đâu ra. Chán Mớ Đời 

 

Khi ông Doumer phái ông Jacquet, lo về canh nông ở Đông Dương tìm cách trồng trọt rau cải pháp thì kết quả rất khả quan. Tướng Pennequin nhận xét rằng nếu chúng ta có thể trồng rau cải ở Đàlạt, sẽ giúp cho người Pháp ở lâu bền hơn tại thuộc địa này. Lý do là người Pháp rất chán đồ ăn Việt Nam, họ thèm thức ăn pháp mà các loại rau cải dùng để nấu cơm Tây không có. Bò ở miền nam, nóng quá chúng ốm như bò ma. Đọc trên mạng, có ông nông dân nào cấy được giống bò húc, to lớn, cán bộ kêu để cán bộ quản lý rốt cuộc bò ốm như ma đói. Chán Mớ Đời 

 

Mình đi đâu chơi ở ngoại quốc hay Hoa Kỳ nhưng độ 15 ngày sau là bắt đầu thèm ăn cơm Việt Nam. Mình có ông anh vợ, đi chơi bên Mễ, ông ta đem theo thức ăn Việt Nam đông lạnh cho 5 ngày. Qua đó hâm lên ăn vì không thích ăn đồ Mễ hay đồ Tây. Huống chi người Pháp tự xưng là món ăn của xứ họ là số một, phải nhai cơm mắm bò hốc hay mì chợ lớn hàng ngày.

 

Nghe kể, các người Tây phương sinh sống tại Nam kỳ, đứng xếp hàng và mua với giá cao khi tàu cập bến từ Pháp quốc, bán các thứ như artichaux, táo, dưa Tây,… họ thèm ăn thịt cừu. Họ có tìm cách nuôi ở đảo Phú Quốc nhưng chỉ làm mồi cho cọp và đỉa. Họ có cho nuôi thử cừu ở Đàlạt nhưng bị ký sinh trùng hay cọp xơi hết. Mình không nhớ là có thấy cừu tại Đàlạt. Gà tây thì có ngay góc đường Lê quý Đôn và Hùng Vương, có hai nhà tây, nuôi mấy con này để thịt vào đêm Noel.

 

Ông Doumer có nhờ ông Jacquet, giám đốc canh nông ở vùng Annam, tìm cách gieo giống trồng rau cải tại Đàlạt nhờ vậy mà ngày nay ở Đàlạt mới có cà phê, mận, dâu tây, artichaux, poireau, xà lách,..

 

Trồng rau cải thành công nên người ta đem bán cho tây đầm ở các tỉnh lỵ miền nam như Sàigòn. Vấn đề là chuyên chở rất đắt mà các người làm nông Tây phương rất ít nên không thể sản xuất nhiều để cung ứng cho thị trường Đông Dương. 

 


Đây là hình ảnh mà mình đoán của người Âu châu lập nghiệp trông rau cải tại Đàlạt. Hình ảnh những nhà như nông tại bên Tây. Sau trận bão lụt năm 1932, khu này bị giải toả và biến thành cái hồ lớn. Mình đoán là của vợ chồng ông O’neil vì sau đó không thấy làm lại ở đâu khác. Có hình mộ chôn ông ta nên có lẻ bà vợ về Âu châu.


Do đó, người Pháp mới có kế hoạch cho người việt lên Đàlạt sinh sống, trồng rau để cung cấp cho thực dân ở Đông Dương. Mình nghe anh bạn học cũ, kể ông bố làm cho công ty canh nông nào ở Hà Nội, quên tên rồi, được đưa vào Đàlạt để thử trồng các giống rau cải của Tây. Sau khi Tây về nước thì ông bố anh ta làm vườn ở ấp Hà Đông, cũng cấy các giống rau khác sau này thì đổi qua trồng hoa như Pensée, ...bán.

 

Sau đó, họ mới tuyển các người ở Hà Đông, Nghệ Tỉnh vào để trồng rau cho Tây ăn. Từ đó họ thành lập ra các ấp Nghệ Tỉnh, Hà Đông ở Đàlạt.

 
























Năm 10 ème, mình có học với ông Tây tên Didier, nhà ở đâu gần đèo Prenn. Mình đoán ông ta là một trong những người đến Đàlạt để sinh sống vì nghe nói ông ta có đồn điền trồng cà phê. Nhớ có lần đến nhà ông ta với cả lớp thì được cho uống cho chocolat  Tây lần đầu tiên trong đời. Sau này, có người gửi tấm ảnh của thập tự giá trên đồi. Mình gởi cho một anh lính Mỹ khi xưa thì anh ta cho biết tọa độ của thập tự giá dựa trên bản đồ của mỹ, làm trong thời chiến tranh và nói do một người Tây, có đồn điền làm. Có thể là ông Didier.


Nói chung thì thầy cô tây đầm dạy ở Việt Nam là muốn kiếm thêm lợi nhuận chớ ít ai xuất thân từ trường sư-phạm ở pháp cả. Mình nhớ khi cô HUệ đi du học bên Tây thì trường kêu bà vợ ông Proviseur của Grand Lycee dạy thế. Còn lên trung học thì càng te tua. Có lẻ vì vậy tây có loại bằng thuộc địa và bằng mẫu quốc. Bằng thuộc địa thì dễ hơn nhưng cũn ghét ra lửa với dân ngu khu đen như mình. Nhớ khi xưa, đi học, có mấy cuốn annales luyện thi, đề đề thi thuộc địa và mẫu quốc.

 

Mình không biết mấy người nhà vườn ở ấp Nghệ Tỉnh hay Hà Đông, trồng rau bán cho Tây ra sao. Mình chỉ nhớ là bà vợ của ông Marcel, hay đi mua rau cải trước mùa của nhà vườn. Nhà vườn thì cần tiền để chuẩn bị cho mùa sau nên phải bán rẻ nên bà ta giàu là nhờ vậy.

 

Có lẻ, người Việt trồng rau rồi Tây mua sĩ với giá bèo để bán lại cho Tây thuộc địa ở các tỉnh khác với giá khủng. Hồi nhỏ mình có thấy vài ông Tây làm vườn ở Đàlạt nhưng sau khi ông Kỳ lên làm thủ tướng, ông ta đuổi Tây về hết nên ai có tiền dạo ấy mua lại đất của họ rẻ như bèo nhưng rồi 75 đến thì cũng bay hết. Điển hình là căn nhà của ông Sohier, cạnh hồ Xuân Hương, bán rẻ cho nhà dòng nào quên tên.

 

Hôm trước, nói chuyện với anh bạn học cũ, cháu nội bác sĩ Lương ở đường Phan ĐÌnh Phùng. Mình nhớ khi xưa có ghé nhà anh ta chơi vài lần khi còn học Grand Lycee, nhà số 5 Quang Trung. Anh ta kể khi Việt Cộng vào thì có người ngoài Bắc nói cần nhà nên xin ở căn phía sau dành cho người giúp việc. Dần dần họ xin vào trong nhà nên cuối cùng hiến nhà cho họ, rồi về Sàigòn.

 

Cái hay là nay họ vẫn giữ hình ảnh gia đình anh ta, bàn ghế như xưa. Tự kêu là con cháu của bác sĩ Lương, nhờ ở đây để giữ nhà thờ từ đường. Người này khôn, cứ kêu như vậy thì không bị đuổi như ông thầy Bất, chiếm nhà thầy Chử BÁ Anh, cách đó vài căn sau 75. Anh ta kể là về Đàlạt vào thăm nhà được hết. Họ giữ kỷ lắm như viện bảo tàng cua gia đình.

 

Nếu không có Đàlạt chưa chắc người Việt chúng ta có món pHở nổi tiếng hoàn vũ. Nếu không có rau cải từ mẫu quốc đem qua Đàlạt trồng thì không có món ăn Tây, không có món Pot-au-feu thì sẽ không có món phở ngày nay. Hay cà phê sữa đá, bánh croissant, bánh mì baguette,..

 

Ngày nay, về Đàlạt các nhà làm vườn, thành lập các nhà bằng plastic đầy nơi, để trồng rau, làm mất vẻ mỹ quan của Đàlạt. Xứ này lại sống về du lịch nên có thể trong tương lai, Đàlạt sẽ mất đi phong thái của Tây phương do người Pháp muốn lập một tiểu vương quốc của xứ họ.

 


Không hiểu sao mình thấy bà hoàng hậu Nam Phương này đẹp cực kỳ. Ông Bảo Đại theo mấy bà kia, ra răng. 

(Còn tiếp)

 

Nguyễn Hoàng Sơn 

 

 

Những năm tháng đầu tiên của Đàlạt

 Những năm tháng đầu tiên của Đàlạt #3

 

Nhiều khi nhìn những tấm ảnh Đàlạt xưa, khiến mình tưởng tượng về Đàlạt thời mới khái phá, hoang vu. Không có người kinh, chỉ có các bộ lạc người thượng sống bình yên tại đây lâu năm. Như châu mỹ trước khi bị người Tây phương xâm chiếm.


Cứ tưởng tượng người thượng khi gặp mấy đoàn người Âu châu lên đây săn voi hay cọp với những tiếng nổ chát chúa từ nhưng khẩu súng trường, so sánh với những mũi tên của họ như người xứ Inca, khi mới gặp mặt lần đầu các binh sĩ của triều đình Tây BAn Nha và dần dần dân tộc của họ bị tiêu diệt.


Dạo mình ở Đàlạt, thấy người thượng, đem ngo và lan rừng ra bán ở chợ cho người Việt. Có dạo bà cụ mình mướn họ để làm rẩy khi mua 2 mẫu đất trong Suối Tía để làm vườn. Tuyệt nhiên mình không có bạn là người thượng vì dạo ấy rất ít. Nghe nói trường Văn Học có vài người thượng, được khuyến khích đi học. Mình chỉ nhớ 2 anh chàng người thương to lớn đá banh cho đội Văn Khoa.


Có lẻ họ bị tuyệt giống khi người Pháp bắt họ phá rừng, phá núi để thành lập khu nghỉ dưỡng cho công chức, binh sĩ của họ với giấc mơ xây dựng một chính quyền trung ương Đông Dương tại Đàlạt. La grandeur de France.


Trong thời gian ông cụ mình ở trại cải tạo Đại Ninh, đi thăm nuôi, xe bị hư nên được mấy người Chu-Ru mời bà cụ và mấy bà đi thăm nuôi chồng con vào buông của họ để ngủ qua đêm. Sau này, nhớ ơn họ mình giúp đỡ, tặng xe đạp cho con cháu của họ. Khi xưa, ở Đàlạt mình chỉ nghe nói đến người Mọi, sau về Đàlạt lại mới nghe đến người Chu-Ru. Có anh bạn đi dạy 5 năm trời ở trong Buông Chu-Ru, kể chuyện xôm trò. Khi xưa học địa lý với thầy Hứa Hoành, nghe nói có nhiều bộ lạc người thượng ở Việt Nam như Ra-đê, Mọi,... nhưng chả bao giờ nhớ.


 Năm 1904, ông Pierre Dru, một địa-phương-quân (Garde indigène), mình đoán là lính Tây, kiểm soát người thượng và người kinh tại Đàlạt, để bảo vệ người Pháp ở cao nguyên kể: Đàlạt có nhiều đồi cỏ thấp; mỗi đồi có một căn nhà bằng gỗ, tiện nghi hơn căn nhà ông ta được bố trí.


Dạo ở Đàlạt đồi cù ít cây lắm, trơ trọi vài cây thông. Có lẻ khi xưa, các đồi vùng này cũng tương tự, chỉ người pháp đến mới trồng thêm. Nay thì Việt Cộng chặt hết cây như thể muốn xoá tan hết dấu tích của thực dân tại Đàlạt. Mình không hiểu sao, họ không đặt tên hồ Xuân hương thành hồ Lê Văn Tám, hồ Than Thở thành hồ Võ Thị Sáu,...

 




Trên một ngọn đồi, căn nhà của ông thanh tra địa phương quân, Joseph-Jules Canivey, có vợ là một người phụ nữ âu châu. Một căn nhà của một ông độc thân, làm cho bưu điện. Không biết có phải ngọn đồi nơi ty bưu điện được xây cất sau này, cạnh Hotel Du Parc.

 

Ngọn đồi thứ 3 là của ông Résident supérieur d’AnnamJean Auvergne, nhà cửa sổ, đàn Dương cầm và một bàn đánh bi-da. Ngọn đồi thứ 4, là ông Paul Champoudry, thị trưởng đầu tiên của Đàlạt. Nói chung các người này chả làm gì ngoài đi săn bắn cọp trong vùng, trong khi các người khác phải lo cung cấp thực phẩm cho họ. Mình có thấy mấy tấm ảnh xưa, cho thấy mấy căn nhà này.



 Đây là những nhà nghỉ đầu tiên được xây cất cho người Pháp lên đây sống tạm


Năm 1902, Paul Doumer muốn thành lập khu nghỉ dưỡng Đàlạt, với ý định trở thành một trung tâm quyền lực của Đông Dương. Lý do để chữa bệnh sốt-rét thì không đúng hẳn vì dân địa phương bị đau ốm mệt thở. Đọc tài liệu do các người pháp được chỉ định đi khảo sát cho ông Doumer thì Đàlạt không đủ tiêu chuẩn để xây một trung tâm nghỉ dưỡng, tốn tiền và sinh mạng do người Âu châu ước đoán là trên 20,000 người Việt. Khiến các bộ lạc người thượng dời đi, chạy trốn sang Lào, vì bị bắt đi phá núi, phá rừng để thành lập con đường lộ và dường sắt dẫn đến Đàlạt. 


Mình đoán con số này còn cao hơn nữa vì mỗi ngày có đến trên 6,000-7,000 làm việc công tác phá rừng, phá núi với những điều kiện không như ngày nay. Ông Trần Tiến có làm bài hát “giấc mơ Chapi” khiến mình nhớ đến các người của mấy bộ lạc ở vùng này bị sát hại khi bị bắt lao động, phá núi phá rừng.

 

Ông ta nghĩ thành lập Đàlạt, để giúp các công chức hành chánh của chính quyền bảo hộ, có thể lên đây nghỉ dưỡng, đem gia đình và con cháu họ học hành tại đây. Do đó trong bản phát hoạ thiết kế đô thị Đàlạt mới có các trường học tiểu học và trung học (Petit và Grand Lycee). Các trường Bảo Long (Trần Hưng Đạo) và (Phương Mai?) Bùi Thị Xuân được thành lập sau này cho con cháu các người Việt làm việc cho chính quyền thực dân, được lấy tên của ông Bảo Đại để đặt tên trường.

 


Bản vẽ tổng quan của thành phố Đàlạt. Ta nhận thấy có 2 hồ mà người Pháp gọi là Petit Lac và Grand Lac được ngăn chia bởi con đường vừa là cái đập nước. Cấu trúc phân chia rõ ràng, khu người Việt ở phía dưới gần mấy con suối như Phan Đình Phùng (Cầu Quẹo) khác hẳn khu người da trắng (trên đồi núi)


 Có lẻ vì vậy mà ông Bảo Đại ra chỉ dụ, biến Đàlạt thành “Hoàng Triều Cương Thổ”, không cho người Việt định cư ở đây, dù vùng này thuộc về Annam, dưới quyền kiểm soát của triều đình nhà Nguyễn. Chỉ có người âu châu mới được phép sinh sống, và người Tàu làm ăn tại đây. Mẹ mình kể là khi vào Đàlạt năm 1948, cần phải có giấy bảo chứng của người cậu bà con.

 

Nhìn bản đồ các con lộ dẫn đến Đàlạt từ Phan Thiết khiến mình hình dung đến cảnh một cô gái Huế, 15 tuổi, đi vào Tourane, ở nhờ nhà bà con, đợi ngày có tàu thủy để vào Phan Thiết rồi từ đó, đi xe lên Đàlạt, mà sau này về Đàlạt, mình có đi lại con đường này với gia đình. Thấy mẹ mình miên man nhìn phong cảnh xung quanh, đoán là mẹ nhớ lại thời vào Đàlạt định cư. Bố mình thì chỉ phía trại cải tạo Đại Ninh, nơi bị Việt Cộng giam giữ 15 năm của đời người.

 


Bản đồ này gợi nhớ đến hành trình của mẹ mình, 15 tuổi đi từ Huế vào Đà Nẳng (Tourane). Lấy tàu thuỷ đến Phan Thiết rồi từ đó mới lên Djiring rồi đến Đàlạt năm 1948.


Một khi Đàlạt được nối liền với Sàigòn bằng đường xe chạy và đường xe hoả thì thành phố này có thể giúp người Pháp bình định lâu dài tại Đông Dương. Nếu rau cải được trồng tại đây, sẽ tạo dựng cuộc sống tương tự mẫu quốc cho các người Pháp định cư tại á châu.

 

Đầu năm 1898, Paul Doumer cử một phái đoàn lên nghiên cứu cao nguyên, do đại uý Thouard và thiếu uý H. Wolf hướng dẫn. Hai người này được lệnh vẽ trắc địa của hai vùng cao nguyên và các đường khả dĩ thực hiện để kết nối với đồng bằng.   

 

Louis Jacquet, giám đốc canh nông của Đông Dương, được lệnh phải thử nghiệm trồng trọt rau cải tại vùng này với ý định, khu nghỉ dưỡng sẽ trở thành nơi cung cấp rau cải cho người Âu châu tại thuộc địa.

 

Kết quả, ông Jacquet cho thấy sự thực hiện trồng trọt tại đây rất tốt. Ngược lại hai ông chuyên gia trắc địa bày tỏ sự lo ngại của kế hoạch xây dựng thành phố núi này. Ngày 29 tháng 1898, ông Thouard than phiền với bác sĩ Yersin là ông ta đã hết tiền để trả lương các cu-li. Ngoài ra cao độ không làm giảm thiểu các bệnh sốt rét. Tất cả các người âu châu trong đoàn đều bị bệnh. Người việt đi theo đoàn, làm cu-li đều bị bệnh. Ông ta kể nếu làm lại cuộc hành trình này thì ông ta phải suy nghĩ thật kỷ thay vì nhận 12 quan pháp mỗi ngày. (365 x 15 = 4,380 quan pháp/ năm).

 

Người Âu châu vào thế kỷ 19, sau cuộc cách mạng long trời lở đất tại Pháp, các nước Âu châu đi tìm tài nguyên để cung ứng cho cuộc cách mạng kỹ nghệ của họ. Họ cần người của họ để cai quản ở bản xứ. Do đó có nhiều người bần cố nông, muốn thoát nghèo nên tình nguyện đi, lập nghiệp rất đông. Hy vọng kiếm một số tiền làm vốn, trở về quê như mấy người Việt Nam đi lao động ở Hàn quốc, Mã-lai, Tàu hay nhiều khi phải chết để sang tới Anh Quốc.

 


Xe hủ-lô kiểu dã chiến khi xưa, thấy dân công người Việt đội nón lá vì người thượng không đội. Làm đường lên Đàlạt . Ông Võ Quang Tiềm và ông Phúng gánh 3 ngày 3 đêm đem đồ bán cho mấy người nhân công này.


 Thay vì xây dựng đường nối kết Langbian với Nha Trang, họ đề nghị xây dựng con đường xe lửa trong tương lai từ Phan Rang, Songkra (Song-Pha), ngắn hơn là từ Nha Trang như ông Yersin đề nghị. Nếu mình không lầm, ngày nay họ có xây một đường cao tốc Đàlạt -Nha Trang. Kết quả họ lấy trắc địa được vùng cao nguyên này. Mình rất ngạc nhiên khi xem bản vẽ xưa về đồ hình của Dankia và Đàlạt. Không ngờ chính là đoàn thám hiểm này.

 

Khi ông Doumer hỏi tỉnh trưởng Biên Hoà, Alphonse Chesne, về sự thành lập đường rày xe lửa Sàigòn và Đàlạt. Ông này giới thiệu một tay săn cọp và voi ở Đông Dương, người ý, tên Oddera.

 

Ông này có liên lạc các bộ lạc sống ở vùng này, và có vẽ các người này như người Cho-Ma, Chu-Ru,… người Việt hay chửi nhau “đồ Chó Má”. Mình không biết có phải từ bộ-lạc này hay không. Tây làm việc với người Mọi, Chu-Ru, Cho-MA nên có lẻ hay dùng Cho-MA để chửi thề rồi người Việt bắt chước. Tương tự “Mẹc xà lù” (merde salaud). Ông ta cho biết về phong tục, tập quán các bộ lạc sống ở vùng, giúp người Pháp cai quản các bộ lạc sau này.

 

Mặc dù nghe phái đoàn này đưa ra những kinh nghiệm của hành trình nhưng ông Yersin, vẫn nhất quyết muốn tiếp tục kế hoạch này, và viết thư mời ông Doumer lên viếng để xem cho tận mắt trước khi lấy quyết định huỷ bỏ. Ông toàn quyền nhận lời và lên thăm viếng Dankia vào năm 1900.  

 


Đại uý Léon Garnier tốt nghiệp trường võ bị Saint-Cyr của Pháp trước khi được bổ nhiệm làm việc tại biên giới Việt-Hoa. Ông ta ngã bệnh và được hồi hương năm 1894. Sau đó ông được gửi trở lại Đông Dương 1898-1899. Ông ta được bổ nhiệm tìm cách xây dựng một con đường nối liền Sàigòn và Langbian.

 

Người từng có kinh nghiệm về nghỉ dưỡng khi bị bệnh tại Đông Dương, ông ta hiểu rõ tầm quan trọng sự thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng trên cao nguyên. Sau này ông trở thành tổng đốc của vùng này. Mình tưởng bà con hay con cháu gì với ông đại uý Garnier, nổi tiếng chết, để pháp kiếm cớ xâm chiếm Việt Nam mà thầy dạy trong giờ lịch sử Việt Nam.

 


Đây là hình ảnh (1930) nhà thương được xây cất và các dãy nhà phía sau,mình đoán là các bệnh xá để binh sĩ và công chức pháp nghỉ dưỡng. Xa xa thấy nhà thờ Domaine de Marie. Cư xá Công Chánh chưa được xây cất.

 

Ngoài ra còn có đại úy Paul Guynet đã kể khi đi khảo xét thành lập con đường giao thông từ Phan Rang lên Langbian. Ông ta kể là sống ở Đàlạt quá sướng, với khí hậu mát mẻ so với khí hậu Sàigòn. Chúng tôi đi săn cả ngày mà không mệt so với khí hậu ở Pháp vào mùa này. 

 

Mình sống tại 5 quốc gia, đi du lịch trên 35 nước thì thấy không khí Đàlạt vẫn tốt hơn hết nhất là vào mùa khô. Đến khi mình lập nghiệp tại Cali thì không khí ở miền nam Cali tuyệt vời. Mình ở cách biển 20 phút, 60 phút lên núi trượt tuyết. Có lần, sáng mình đi với vợ con lên núi trượt tuyết, chiều về ghé ra biển, đốt lửa ăn cơm với bàn bè. Tuyệt vời.

 

Ông đại uý này là người đã gây ảnh hưởng, giúp Doumer quyết định xây thành phố Đàlạt thay vì Dankia, làm ông Yersin buồn lòng. Chỉ vì 50 mét cao hơn Dankia, càng cao thì càng tốt. Mình nhớ khi xưa, đi Tùng Nghĩa là thấy nóng, cứ xuống đèo Prenn là thấy nóng.


Từ tháng 3 năm 1900, con đường từ Phan Rang lên đến Daban đã được hoàn tất. Và từ đó lên Đàlạt hay Dankia thì có đường mòn cho người đi bộ và lừa đã được dọn xong. Chỉ cần hoàn tất cầu ở Balach (Ba-lạch?) là xong.

 

Xây dựng con đường này đã làm mồ chôn rất nhiều người địa phương. Chết chóc, bỏ trốn, bị bắt lại, bị đánh đập tàn nhẫn. Chúng ta không biết con số chính xác nhưng chắc phải trên mấy chục ngàn người. Mình xem hình ảnh cái hủ-lô họ dùng khi xưa, khi chưa có chiếc hủ-lô, chạy bằng nước như hồi bé mình có thấy tại Đàlạt. Năm 1908, theo tài liệu của thuộc địa thì có trên 20 ngàn người cu-li (Tây gọi là coolies), đã chết khi thực dân khai phá con đường lên đèo Ngoạn Mục.

 


Theo báo cáo của thuộc địa Đồng Nai thì mỗi ngày, họ đoán là có từ 6,000-7,000 người làm việc tại công trường, đa số là bị ép buộc lao động. Một năm sau, họ muốn thêm người thượng, khiến nhiều nhóm đã bỏ trốn qua Lào. Người ta có ghi lại những câu thơ của người thượng bị ép buộc lao động không lương.

 


Theo tài liệu của người da trắng, kể là khi họ lên Đàlạt, các người thượng, khoẻ mạnh được sử dụng để gánh họ và lương thực, quần áo, dạ hội đủ trò. Nội ông thần gì ở trên Đàlạt, có cái đàn dương cầm, và bàn đánh bi-da, để giải sầu, được người thượng gánh đem lên tới nhà. Theo tài liệu kể thì người ta gánh mấy ông Tây bà đầm lên tới đèo Ngoạn Mục và từ đó xe hơi sẽ rước họ lên Đàlạt. Mấy tù nhân bị bắt buộc, gánh mấy ông tây bà đầm lên núi để trị bệnh.

 

Ngoài ra còn có thợ người Kinh, do các người Tàu tuyển mộ từ các nơi nghèo khổ như Huế, Qui-Nhơn, BÌnh Định vào làm, được trả tiền nhưng cũng châm vì họ bị bắt làm cực nhọc nên có lúc phải đình công. Mình có đọc bài của ông Lê Đức Anh, cai đồn điền cao su cho Tây, kể lại những xâm nhập của Đảng viên cộng sản vào các đoàn thể nhân công, kêu gọi họ đình công. Mình đoán trong nhóm thợ làm việc để xây con đường nối liền với Đàlạt, cũng có những Đảng viên cộng sản mò vào để khuấy động phong trào chống lao động áp bức.

 

Mình đoán thôi là các ông xu (surveillant) mà người Đàlạt hay gọi, có thể là họ khởi đầu làm việc tại mấy công trường này, rồi nhờ thông minh, học nghề nhanh nên được bổ nhiệm làm Surveillant mà người việt gọi là Xu. Sau này ở lại Đàlạt, xây cất nhà cửa cho Tây, về quê cưới vợ chân dài, đem vào Đàlạt, làm việc xây cất cho Tây rồi khi Tây về nước thì họ biết cưa gỗ bán cho Đàlạt, Sàigòn, giàu to.

 

Mình nghe kể ông Võ Quang Tiềm, vào Đàlạt lập nghiệp bằng nghề thợ may, sau đó về quê, cưới vợ đem vào Đàlạt. Bà Tiềm là chị em cô cậu hay chú bác, không nhớ rõ, với mệ ngoại mình. Sau đó, bà Tiềm đem mấy người em vào như ông Phúng, (tiệm Hiệp Thạnh), ông Đàng (tiệm Long Hưng), như dì Tân, mới qua đời năm ngoái. Cậu Liễu giúp cho ông Tiềm bán thuốc Cẩm Lệ, sau đó ra chợ mở quán bán thuốc Cẩm Lệ bên cạnh hàng của bà Bỉnh, mẹ của Phú Nguyễn, nay ở Gia Nã Đại, rể rượu Lafaro Đàlạt xưa, ở xóm trên đường Thi Sách. Gian hàng guốc dép, giày dép.

 

Sau này ông Phúng làm ăn khá giả cần người tin cẩn nên về làng đem bà cụ mình vào lúc ấy mới 15 tuổi. Sau này cho ra riêng, gả chồng. Rồi sơn đen ra đời.

 

Trong báo cáo năm 1898, ông Fernandez Bernard tường trình bên Ấn Độ, người anh đã sử dụng đường rày răng cưa để chạy lên đỉnh Darjeeling tương tự ở Lebanon.

 

Cuộc xây dựng đường rày xe lửa khiến thuốc địa hao tốn. Lúc đầu họ dự trù 200 triệu đồng Đông Dương . Mình không nhớ vào thời gian nào, hối đoái dạo ấy một đồng bạc Đông Dương ăn 10 quan pháp. Mấy người giàu có tại Đàlạt đều cho con đi du học vì quá rẻ. 200 triệu đồng Đông Dương là 2 tỷ Phật-lăng pháp. Cho thấy thuộc địa đem lại lợi tức cho mẫu quốc khá nhiều.

 


Đoán là cầu Balach vì có nhiều người chết ở đây khiến nhân công người Việt đình công.


Tuyến đường này bắt đầu năm 1898 đến năm 1910 thì ngưng vì hết ngân quỹ. Hai năm sau, mới tiếp tục lại nhưng chỉ đến Xomgon (xóm Gòn?) cách Đàlạt 83 cây số. Ai biết thì cho em hay để bổ túc. Đến năm 1926 thì đến Sông Pha (cách Đàlạt 40 cây số) và đèo Ngoạn Mục năm 1927. Cuối cùng đến Đàlạt năm 1932. Mất 34 năm mới hoàn thành con đường Ngoạn Mục này với bao xương máu của người Việt đổ và chết tại đây.

 

Tuyến đường này được sử dụng đến năm 1968 thì mấy ông Việt Cộng đặt mìn phá hoại rồi sau 75, gở ra bán ve chai cho Thuỵ Sĩ. Xem như 20 mấy ngàn người Việt chết thảm khi bị ép buộc xây dựng con đường này và gần tỷ đồng Đông Dương do người Việt đóng thuế cho Tây, biến thành mây khói. Chán Mớ Đời 

 

Các người Âu châu định cư tại Đàlạt thử nuôi bò, trồng rau, lúa,…như trường hợp vợ chồng ông Jean O’Neil. Không biết người xứ nào vì tên thì có vẻ Ái Nhỉ Lan. Ai có tin tức gì thì cho mình xin. Cảm ơn trước. Đọc lại thì ông ta là người được phái lên Đàlạt để thiết kế kiến thiết đô thị Đàlạt.

 

Có lẻ không thành công lắm vì khi xưa mình thấy bò có vài con được nuôi trên đường Trần Bình Trọng , gần Thánh Địa Đức Bà. Nghe kể là sau vụ đập hồ Xuân Hương bị vỡ năm 1932 thì bà O’Neil không làm lại, có lẻ chồng qua đời.





 

Đọc lịch sử về Đàlạt thì khám phá có nhiều cá nhân khá đặc biệt, giúp hoàn thành thành phố không tưởng Đàlạt ngày nay.

 

Có một ông cựu hội đồng thủ đô Paris, tên Paul Champoudry, thuộc Đảng xã hội từng là giám sát công trường xây dựng Métro của Paris cho hội chợ thế giới năm 1900. Về già, con cái đông nên ông sang Việt Nam và giám sát các công trình xây dựng các cơ quan hành Chánh của chính quyền thuộc địa và người thị trưởng đầu tiên của Đàlạt. ông này là thị trưởng đâu tiên của Đàlạt, người có ảnh hưởng về địa hình, kiến trúc của Đàlạt sau này. Ông ta xin phép được thuyên chuyển năm 1901, vì điều kiện sức khoẻ, viêm phổi. Còn nếu không thì phải cho thêm ngân sách để thành lập Đàlạt với hệ thống ống cống, nước, điện,… các người đến Đàlạt thời đó kể lại là thành phố tiêu điều vì chưa có gì đã xây dựng khi chính phủ hết tiền.

 

Năm 1898, hành chánh mượn 200 triệu quan pháp, đến năm 1910 thì hết ngân quỹ. May thay trong thời gian đệ nhất thế chiến, người Âu châu không về nước nghỉ hè thường niên được nên họ kéo nhau lên Đàlạt, giúp thành phố này sống lại với ngành du-lịch nhưng năm 1913, Đàlạt vẫn chỉ hơn 1 chục nhà nghỉ. Họ yêu thích khí hậu ở đây và khuyến khích chính quyền thực dân tiếp tục cải tiến Đàlạt.

 

Nhìn lại, nếu không có đệ nhất thế chiến thì có lẻ Đàlạt, đã trở thành thành phố ma, mà người Pháp bỏ biết bao nhiêu tiền của của người Việt, bao nhiêu người Việt đã chết để xây dựng một trung tâm nghỉ dưỡng với tầm xa là thủ đô của Đông Dương.

 

Trên 20 ngàn người thượng du chết trên đường từ Phan Rang lên đèo Ngoạn Mục. Có lẻ vì vậy dạo mình còn bé, ít thấy người thượng vì cha ông của họ bị giết khi xây dựng công trường này.


Nếu người pháp không đốt tiền cho thành phố nghỉ dưỡng thì có thể, cao trào kháng chiến chống pháp không lên cao. Với những tin tức chết người, thêm hình ảnh của Tây đá đít phu xe kéo người Việt trên các tờ báo Tây, đổ thêm dầu vào cuộc kháng chiến chống pháp.

 


 Những nhà nghỉ đầu tiên được làm bằng gỗ tại Đàlạt.

Khác với Việt Nam, khi người Tây phương đánh chiếm các vùng Nam Mỹ hay Bắc Mỹ thì khí hậu ở đó tương tự ở Âu châu nên họ không có vấn đề hội nhập thời tiết tại địa phương. Ngược lại khi họ qua Phi CHâu hay Đông Dương thì khó chịu đừng thời tiết vùng nhiệt đới với muỗi, bệnh số trét nên công cuộc đánh chiêm của họ lâu dài có vấn đề, cần phải giải quyết nêu họ muốn chiếm ngự Vĩnh viễn như tai Mỹ Châu.


Khi chúng ta đi thăm viếng các đền đài như Angkor Vat, Kim tự Tháp,… chúng ta chiêm ngưỡng cái đẹp của đền đài nhưng không ai nhắc chúng ta, nhớ đến những người lao động đã nằm xuống để thực hiện các điểm nhấn du lịch này. Có lẻ nên khấn thầm cho vong hồn họ siêu thoát.

 

(Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn