Ấp Hà Đông

Về Đàlạt, được đưa đi thăm viếng lòng vòng, viếng trung tâm di sản văn hoá ấp Hà Đông Đàlạt, để hiểu chút ít về sự thành lập Đàlạt vì khởi đầu Đàlạt, có rất ít người nhất là người Việt vì chỗ này dành cho tây đầm lên đây nghỉ dưỡng.
Ấp Hà Đông được thành lập vào năm 1938, do ông tổng đốc Hà Đông thời ấy là Tổng Đốc Hoàng Trọng Phu, nhằm giải quyết nạn nhân mãn tại vùng này ở Bắc Việt, thêm trồng rau cãi cho người tây ăn nhờ khí hậu tốt, nhất là giúp những người trồng rau có thể phát triển để nâng cao đời sống của họ. Dạo ấy, người ta trồng rau ở vùng Đơn Dương, đi lại khó khăn nên người Pháp muốn trồng gần thành phố hơn.
Còn ấp Nghệ Tỉnh (Nghệ An - Hà Tỉnh) do các người từ hai vùng này vào Đàlạt, được tuyển làm cu li khi tây làm tuyến đường xe lửa Đàlạt-Phan Rang. Tương tự khi xưa, tây tuyển người đi làm ở các hầm mõ, đồn điền cao su, hay đi qua tây làm việc. Mình nghe kể là ông Võ Quang Tiềm và em rễ, may áo quần rồi gánh đi bộ, 3 ngày 3 đêm xuống công trường để bán cho mấy người làm đường rầy, nhờ đó mà giàu lên như ông thần bán quần bò Levy cho người đi tìm vàng ở tiểu bang Cali. Ai có tin tức về thế hệ này thì cho mình xin.
Sau vụ đường sắt, thì người ta mới bắt đầu trồng rau cãi ở ấp Nghệ Tỉnh. Dạo mình ở Đàlạt, trước 75 thì đi ra mấy ấp này là thấy người ta trồng rau hay ấp Đa Thiện, gần Thung Lũng Tình yêu.
Viết tới đây thì nhận ra là ông cựu bí thư thành lập trung tâm văn hoá về Ấp Hà Đông có một điểm son vì cả Đàlạt, không có một viện bảo tàng nói đến sự thành lập của thị xã này. Du khách có thể học hỏi hay học sinh, sinh viên, dân thị có chút hiểu biết về lịch sử của nơi họ sinh sống. Chán Mớ Đời

Nếu

Hôm qua đang chạy xe lên vườn, bổng nhớ đến mấy người bạn xưa, gặp lại hè năm vừa rồi sau 4 thập niên, 2/3 cuộc đời. Nhớ vì tự hỏi nếu mình không đi tây thì cuộc đời sẽ đưa số phận của mình về đâu.
Nếu mình không sang Văn Học thì sẽ không quen Cô Thuỷ. Nếu không quen tên này thì sẽ không có màn đi thăm thầy Nguyên thì sẽ không có ai khuyên mình đi tây thì có lẻ cuộc đời mình chắc cũng lêu bêu như mấy người đồng môn khi xưa.
Mình sang Pháp du học năm 18 tuổi, sau khi đậu tú tài IBM năm 1974, trước Sàigòn đầu hàng vài tháng. Mình sinh ra và lớn lên tại Đà Lạt nên kiến thức về văn hoá Việt Nam rất ngây ngô, rất ít.
Mình lại theo học chương trình Pháp từ nhỏ nên tiếng Việt không thông thạo lắm may là hai năm cuối, chuyễn sang chương trình Việt nên bập bẹ chút chút.
Mình đến Pháp với lòng kiêu hãnh của gã thanh niên Việt Nam, vừa mới đậu tú tài. Hãnh diện về Việt Nam là một quốc gia duy nhất trên thế giới đã đánh bại mấy lần quân mông cổ mà phương tây khiếp vía khi nghe đến đoàn quân viễn chinh của Thành Cát Tư Hản hay đã bắt quân viễn chinh của pháp đầu hàng tại Điện Biên Phủ.
Hãnh diện vì theo lịch sử Việt Nam có trên 4000 năm văn hiến trong khi bọn bạch quỹ còn ăn lông ở lổ khi chúa Kito ra đời. Mình từng cãi tay đôi với đám sinh viên Tây đầm về lịch sử, nay nghĩ lại thì mắc cở.
Lịch sử Việt Nam mà mình học, qua sách vở hay thầy dạy nên không có kiểm chứng. Mình nâng niêu những tấm ảnh thô sơ của những cung điện, lăng tẩm của triều Nguyễn, nơi bà cụ mình sinh ra. Mình thổn thức khi xem hình chùa Thầy, ở quê nội hay đình Bảng, chùa Hương hay Vịnh Hạ Long trong phim L' Indochine.

Văn hoá đồi truỵ 2018

Dạo này đồng chí gái hết coi đài mỹ với những chương trình hát hò như The Voice, American Idol,…, lại xem những chương trình truyền hình ca nhạc từ Việt Nam qua Youtube. Đại khái mới ra trong ngày thì họ tải lên Youtube nên mụ vợ, đi làm về, ăn uống xong cứ dán mắt vào cái màn ảnh mà xem. Tối đi tập về, ngồi đọc sách trong phòng để vợ chồng, tuy gần nhưng cách xa, cùng không gian nhưng đầu óc thì ở hai nơi.
Ra hải ngoại, có dịp nhìn lại và đọc sách báo thì hiểu được sơ sơ về mặt trận chính trị, tuyên truyền của Việt Cộng trong thời chiến tranh. Hà Nội nghiên cứu rất kỷ về Nguyễn Trãi, trong việc Tâm Công trong thời gian kháng chiến chống giặc Minh. Họ có in nhiều tài liệu về Bình Ngô Đại Cáo, để sử dụng trong cuộc tâm công nhân loại, các nước tây phương, điển hình tết Mậu Thân, tuy thất bại trên chiến trường, trên 300,000 binh lính của họ bị giết nhưng họ vẫn thắng trên mặt trận chính trị, các cuộc biểu tình khắp thế giới chống Mỹ và Đồng minh.
Đọc đâu đó, các nhà văn miền Nam nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh vào mặt mật khu để gặp Trần Văn Trà, và nhận chỉ thị viết văn kiểu lơ mơ, tiểu thuyết để ru ngủ nhân dân miền nam tương tự các nhạc sĩ nằm vùng.
Nhớ khi xưa, mỗi lần nghe nhạc của Phạm Thế Mỹ, Miên Đức Thắng,…là chán đời. Mình, dạo ấy còn nhỏ nên không hiểu những ca từ của nhưng bài hát Không Tên của Vũ Thành An,…nay mới hiểu những than van, ai oán về những mối tình tan vỡ. Hình như người Việt có cái tính lãng mạn hoá, nạn nhân hoá những cuộc tình. Cứ rên rỉ kêu bị mấy cô bồ đá. Họ đá là vì mình không xứng đáng, tội vạ gì đi lấy mình để khổ cả Đời. Có ông nào cứ rên rỉ “đừng yêu tôi, xin đừng yêu tôi, đời tôi đó em xem có gì đâu,…” đã là cà chớn lại còn thi vị hoá cuộc đời, tự cho mình được gái bu như kiến, làm như các cô gái Việt Nam ngu.

Giáo hoàng Học viện Đàlạt

Hà Nội 1 thủa đi về

Mình về Hà Nội lần này là lần thứ 5 bằng chuyến bay đêm nên không thấy gì ngoài trăng đêm 16. Mình không quên cảm giác lần đầu đáp phi cơ xuống Hà Nội. Bao nhiêu hình ảnh, những gì nghe kể từ ông cụ, người quen hay sách vở và thi ca. Đã tạo cho mình một hình ảnh mông lung về Hà Nội 36 phố phường, những gì đại diện cho Hà Nội, quê cha đất tổ và lịch sử của Việt Nam.
Máy bay bay vòng vòng trước khi đáp, qua cửa sổ phi cơ nhỏ bé, phong cảnh với những cây xanh đậm và màu nâu của mái ngói hay đất tạo cho mình một bức tranh khá đẹp đầy cảm xúc như phong cảnh vùng Toscana của Ý Đại Lợi. Có gì làm mình bồn chồn, nghe lòng say say nước mắt cay cay dù không ai đón.
Khi xe đưa về nhà trọ, vang vang bên tai giọng của ông Phan Nhật Nam 22 năm về trước, tường trình trong lần ra Bắc tham dự hội nghị 4 bên sau hiệp định Ba Lê để trao đổi tù binh trong khi mình với ông cụ dán lỗ tai vào đài radio để nghe tin tức quê nội từ khi ông cụ trốn vào Nam năm 1949. Những hình ảnh được cấu tạo trong đầu dần dần được thay đổi bởi những quan cảnh tan thương của Thăng Long, nghèo nàn, bẩn thỉu, người qua lại chơ vơ trên các chiếc xe đạp cũ kỷ.
Mình tự hỏi Hà Nội đây ư, xót xa cho những mộng mơ, hình ảnh được đan dệt trong mong đợi từ thủa bé đến 42 tuổi mới về thăm quê nội.
Kỳ này mình về thăm quê nội đột xuất để gặp lại họ hàng bên nội luôn tiện thăm mộ của ông bà nội tổ, cố, nội, cô chú… ông cụ qua đời nên phải về thay, luôn tiện xem sửa chửa lại căn nhà thờ tổ. Bà cụ dời mộ của ông bà từ ngoài ruộng về nghĩa trang của làng vì trong tương lai không biết đất ruộng về đâu trong cuộc chạy đua phát triển của thế kỷ 21. Con cháu ở xa, không nhớ hay bận tâm về quê cũ.

Nước dùng Đà Lạt khi xưa

Nhà mình ở cư xá Công Chánh trên đồi đường Hai Bà Trưng nên luôn luôn có vấn đề về nước dùng. Hệ thống dẫn nước máy được thiết lập thời Tây nên hoen rĩ, nghẹt ống. Các ống nước bằng gang đều bị rét rĩ nên khi mở nước thì chảy từng giọt như tra tấn hay thách đố tính chịu đựng của người hứng nước, chỉ nghe tiếng hơi ọc ọc ra và nước màu vàng rét rĩ chảy nhỏ giọt ra nên không ai dám dùng.
Vì ở trên dốc thêm nhiều nhà dùng trong ngày cho nên áp suất rất yếu nên không có thể đẩy nước lên trên dốc của xóm mình nên mình phải thức khuya để hứng nước máy khi toàn khu phố ngưng dùng nước nhưng cũng không đủ vì nước rĩ cả đêm chưa đầy một thùng nước mắm Phan Thiết cho nên nhà mình phải hứng thêm nước mưa để dùng.
Đà Lạt thời mới thành lập
Mỗi nhà trong xóm có những thùng phuy nước, các thùng phuy đựng 100 lít xăng của hãng Exxo màu đỏ kẻ vàng, thuê thợ hàn cắt cái nắp rồi đặt dưới máng xối để hứng nước mưa. Khi nào nước lắng cặn một tí thì mình múc nước đem vào chứa trong lu ở trong nhà để thổi cơm hay đun nước sôi. Nước sôi rồi thì bỏ bông gòn trong cái phểu theo cách thầy cô dạy cách lọc nước qua leçons des choses rồi chế nước vào bình thuỷ, nhiều khi thấy đất hay màu vàng đục đọng lại ở bông gòn.
Lúc còn bé, nhà ít người nên nước mưa đủ dùng, khi mưa mình thường hay tắm mưa để đở tốn nước. Lâu lâu ông cụ dẫn đi tắm ở tiệm Minh Tâm đối diện rạp Ngọc Hiệp, thường là đi cắt tóc ở tiệm này, trong khi chợ đợi đến phiên mình thì đi tắm. Thường thường mình tắm, kỳ cọ rất lâu cho đáng đồng tiền bát gạo nên mấy đứa con của chủ tiệm đập cửa la hét bảo mau lên thì mình chữi lại. Họ lấy củi để đun mấy cái nồi nước sôi xong đổ vào cái bồn nước trên cao để tạo áp suất cho nước chảy mạnh ra các vòi sen. Mấy năm trước, có gặp lại con trai tiệm nước nóng Minh Tâm, mình chửi hắn lại khiến hắn cười ruồi.
Sau này mình về thăm thì thấy đa số các nhà dùng máy bơm nước lên sân thượng nơi có cái château d'eau để có áp suất mà dùng trong nhà hay khi bị cúp nước. Kế tiệm Minh Tâm có một tiệm hớt tóc khác, hình như tên đồng Tâm, có thêm dịch vụ sang băng nhạc sau 75 mới khám phá ra tên cắt tóc này là nằm vùng, làm chức lớn lắm đến khi nhà nước bố trí người từ ngoài Bắc vào tiếp thu thì ngồi kể chuyện vui buồn thời trước Cách Mạng. Mình chỉ nhớ cô con gái của tên này hơn mình 1 ,2 tuổi gì đó không xinh lắm hình như tên Thanh hay bận bộ đồ bộ chật bó rất bắt mắt, hình như học Việt Anh.
Mình mê nhất là cái máy nấu nước nóng của nhà bà Bửu Duy vì có một lần thằng Vinh cho mình tắm nước nóng ở nhà nó sau khi phụ nó làm bánh. Cái máy nhỏ gắn nơi tường sát trần nhà, nấu bằng điện nên có nước nóng thêm hai cái vòi sen. Dạo đó hè mưa bảo nên trời lạnh mà phải đi làm không công cho tên này nên được hắn ban phép cho tắm nước nóng nên nhớ mãi. Hạnh phúc rất đơn sơ. Trong khi nhà mình phải đun nước sôi nơi cái ấm nước 2 lít rồi pha với nước trong cái thau nước lạnh rồi lấy gáo múc tắm nên mình hay tắm mưa cho đã vì không phải hà tiện nước khiến mình bị đau phổi từ nhỏ đến 7 năm trước khi tập nội công Hồng Gia thì mới khỏi.
Bà cụ mình thuộc thành phần chuyên chính sinh sản nên lúc đầu thì 15 tháng ở cử một lần sau thì theo chế độ năm một vào viện bảo sanh Hiền Chi ở đường Phan Đình Phùng rồi về nhà nằm lò than, bôi nghệ trên mặt và xoa dầu long não cho cứng cáp chân tay trong vòng một tháng sau khi sinh nở. Sau này đồng chí gái đi sinh hai đứa con thì ngày hôm sau y tá bắt phải đi bộ dù bị mỗ rồi ba ngày sau là họ đuổi về. Không biết có phải nhờ ở cử một tháng sau 11 lần sinh sản cộng thêm vài lần hư thai mà ngày nay bà cụ mình trên 90 mà vẫn khoẻ, mỗi ngày đi bộ mấy cây số và tập Thái cực quyền nhất là làm tính nhẩm còn nhanh hơn mình.
Trong nhà dân số tăng dần nên mấy cái thùng phuy đựng nước không đủ cho cả nhà dùng nhất là về mùa khô nên mình phải đi xách nước thêm để có nước để dùng. Mình nhớ nhà mình có ba thùng phui, một cái luôn đậy nắp để tránh nhện, bụi,.. dùng nấu cơm, đun nước, ba cái để song song và một cái nằm dưới cái máng xối, mình lấy hai ống nước, một cái nối từ thùng 1 sang thùng 2 và một cái từ thùng 2 sang thùng 3. Khi mưa xuống thì cái vòi sẽ tự động cho nước chảy thông qua thùng 2 và thùng 3 cho nên đi học cũng giúp mình thông minh, đỡ tốn công trong khi đa số trong xóm phải đợi đầy rồi múc đỗ qua thùng khác dù trời mưa. Mình chỉ bỏ hai cái vòi nước khi nào mưa nên chả ai biết mánh của mình và khỏi sợ bị ăn cắp.
Ngoài tắm rửa, giặt áo quần thì còn có cái nạn đi vệ sinh. Trong xóm có 7 căn hộ, căn giữa thì khi xưa thời Tây được dùng làm nhà hội ( salle commune) cho 6 căn hộ kia. Khi họp hành, có tổ chức ăn uống thì dùng nhà hội này cho thoải mái nhưng sau vì thiếu nhà nên ty công chánh cấp cho một gia đình ở đó. Cuối xóm thì có nhà vệ sinh gồm 3 cái nhà cầu, 2 nhà tắm và cái bể nước để giặt quần áo. Lâu ngày thì ống nước của hai cái phòng tắm bị hoen rĩ nên nước không ra nên trong xóm tắm ở nhà. Bể nước để giặt quần áo thì nước cũng không ra nên không ai giặt cả thêm mấy cái thùng nước trên tường để dựt nước sau khi đi vệ sinh thì cũng không có nước nên dân trong xóm phải xách nước ở nhà đem theo. Thường thì họ dùng cái thùng dầu ăn bằng thiết rồi cắt cái nắp phía trên, lấy miếng gổ đóng cái quai để cầm. Để tránh đinh bị long hay tuột thì người ta hay dùng một miếng vỏ xe đạp hay cao su để lót trước khi đóng đinh.
Mỗi lần đi vệ sinh là dân trong xóm phải xách một thùng nước, đem theo tờ báo vì dạo đó chưa có giấy đi cầu, đem theo đèn pin hay đèn cầy vào ban đêm. Nhiều khi đi trúng giờ hoành đạo thì cả ba cái nhà vệ sinh đều có người cắm dùi nên mọi người đều đồng ca Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây, chỉ khổ là khi biết bên kia là con gái thì phải nín thở thả bom nhè nhè như nàng thơ, nhiều khi có vài người xếp hàng đợi lâu quá thì đến gõ cửa hối mau lên. Cứ hai gia đình thì tiếp thu một nhà vệ sinh, vì sợ các gia đình khác sử dụng cầu mình rồi không dội nước nên phải dùng ổ khoá lại.
Có nhiều lúc mình ghét tên nào là cứ rình khi hắn vào phòng cầu tiêu là lấy dây kẻm, cột cái cửa lại nên lâu lâu đang chơi mà nghe tiếng la kêu cứu mỡ cửa trong nhà cầu là biết có người bị khoá ở trong cho nên dân trong xóm khi xách thùng, báo và chìa khoá mà thấy mình là thiên hạ hay trở vô nhà đợi mình đi rồi mới dám hó hé đi ra. Mình nhớ có lần ban đêm thấy trong nhà cầu có ánh đèn cầy nên vô làm ma chọc người trong cầu làm tên đó đánh rơi cái đèn cầy khóc la vang trời. Trong nhà cầu thì có đèn nhưng khi bóng hư thì đâu có ai gắn cái mới nên đang đêm chột dạ mà đi thì phải đem theo đèn pin hay đèn cầy. Sau này mỗi gia đình làm cầu tiêu tại nhà để tiết kiệm thì giờ thì cái mục đi cầu tập thể biến mất. Ở xóm Địa Dư của Phạm Ngọc Liên cũng có nhà vệ sinh tương tự ngay cái sân mà mấy ông già tụ tập đánh pétanque hay con nít bắn bi, chơi banh tù,...
Trong khu xóm mình có hai cái giếng; một ở nhà ông Ba Đà và một ở nhà ông Ba Tây, một sự trùng hợp vì cả hai đều tên Ba. Nhà ông Ba Đà ở ngay vườn gần cái suối nằm giữa đường đất từ Hai Bà Trưng băng qua Phan Đình Phùng, góc ngã ba chùa. Sau này mình về thì nhà cửa xây đầy chả nhận đâu ra đâu. Từ nhà mình đến đây thì khá xa nhất là mùa mưa, đường đi hay bị bùn lầy dễ té. Nhiều lần đi bị té đỗ nước hết lại phải trở lại nhà ông Ba Đà đứng xếp hàng xin nước.
Còn nhà ông Ba Tây ở trên đường Thi Sách đối diện nhà ông Rị trong xóm Phạm Minh Tuấn và Bích Hường, gần nhà và ít dốc hơn mà hai chỗ này rất đông người đến gánh nước nên phải đợi rất lâu nên mình hay hỏi các nhà ở Hai Bà Trưng có nước chảy ban ngày để xin nước đỡ đi xa.
Lúc đầu thì mình xuống xin nước ở nhà ông Nhị, làm công chánh với ông cụ mình, có lò gạch ở Cầu Đất. Ông bà Nhị này có 3 thằng con trai và một cô gái út. Nhà này ngộ lắm, hai ông bà rất là thấp hơn vợ chồng Ấm Thảo sinh ra mấy người con đều thấp cả. Bảo thằng con đầu hơn mình đâu một hai tuổi, học Yersin, có lần chạy xe Honda đi học ở Grand lycée, chạy ngang qua cái am chỗ nhà bác sĩ Sohier không ngã nón bị thánh thần vật té, gãy chân nằm nhà mất mấy tháng nên từ độ ấy mỗi lần chạy xe ngang cái am này là mình phải ngã nón dù trời mưa và cuối đầu không dám ngẫn mặt lên sợ bị quở. Sau thằng Bảo thì có Toàn và Miều rồi cô gái út thì mình quên tên vì còn bé sinh sau này. Có người chết sau 75, nghe nói tên Bảo ngày nay ở Vũng Tàu.
Mình bắt chước thằng Bảo mua trứng vịt của dì Gái ở ngoài chợ về bỏ trong cái thùng carton đựng mấy cái vĩ hột lộn rồi cắm điện bỏ cái bóng đèn ở trong được vài tuần thì nở được 10 con vịt con, số còn lại khổng nở nên luộc ăn. Mình nuôi vịt để bán lấy tiền ai ngờ khi vịt lớn thì ông cụ mình mời mấy người bạn về nhà binh xập sám, kêu người làm đánh tiết canh nên từ từ đàn vịt mười con đều được đem lên bàn nhậu hết mà không được trả tiền mất vốn nên cuộc đời chăn vịt của mình chấm đứt từ dạo đó.
Dì Gái là bạn hàng với bà cụ mình, con gái của bà Cáp, dạo đó chưa chồng nên có một tên nào đi ve nhưng ông Cáp không chịu kêu thằng ni, chộ mặt là không tin nên mượn nhà mình để tên đó đưa ông chú ở quê lên thăm hỏi, ra mắt gia đình dì Gái nhưng chỉ có bà Cáp đến dự. Mình chỉ nhớ hôm đó ăn một bửa ngon, có bún bò, bánh bột lọc,...có một ông đeo kính xưng là chú ruột của nhà trai, thay mặt bố mẹ của thằng cháu đã qua đời, xin phép bà Cáp cho cháu được đăng kí quản lí đời dì Gái. Mình thấy hôm đó dì Gái khóc nức nở rồi cười khi nắm tay ông bồ. Mấy ngày sau, mình nghe kể vợ của tên bồ ở Saigon lên đánh ghen dì Gái ngoài chợ, may là không bị tạt acid như vũ nữ Cẩm Nhung.
Dì Gái ở trên số 4, cạnh nhà ông Ba Thành lái xe Lam, hay chở học sinh Yersin đi học, đối diện nhà Phạm Đình Kháng, có 3 tên em cùng cha khác mẹ tên Nghị, Ngữ và một tên út không nhớ tên. Mỗi sáng Nghị hay ghé nhà rủ mình đi chợ dọn hàng ở ngoài chợ. Bà cụ mình thuộc thành phần chuyên chính sinh sản, nên mang bầu hoài cho nên mình buổi sáng mình phải ra chợ dọn hàng giúp bà cụ rồi đi học, chiều 6 giờ ra dọn hàng cho bà cụ. Có Nghị đi chung sáng sớm cũng đỡ sợ nhất là chiều tối khi đi ngang cái trụ điện mà tên lính tự tử, sau này lớn lên thì mình cũng ít gặp hắn rồi nghe hắn đi lính. Sau này dì Gái lấy chú Ba, lính đóng ở đồn quân cụ ở trong Xú Tía , chỗ dốc Nhà Bò đi vào.
Có lần nhà mình có mấy mẫu đất vườn trong này đến sau Mậu Thân thì ngưng canh tác vì thiếu an ninh. Sau 75 nghe nói chú Ba dạy cán bộ lái xe tải,.. Kiếm tiền cũng khá. Dạo sau 30/4 nhà mình chạy di tản rồi hồi cư về lại Đà Lạt thì người thân trong gia đình lấy hết hàng hoá ngoài chợ và đồ đạt trong nhà đem bán và không trả lại một xu thì nhờ dì Gái, không di tản giúp đỡ nhất là bà Tàu bán tương ớt ở dưới cầu thang chợ cho mượn vốn để buôn bán lại. 79 thì gia đình bà Tàu bán tương ớt bị đuổi đi, chạy qua Mỹ sau này có về thăm Đà Lạt. Ghé thăm mẹ mình. Gia đình mình đội ơn bà tàu bán tương ớt này.
Nhà ông Nhị nằm thấp dưới đường Hai Bà Trưng, phía sau lưng là vườn của ông Ba Đà nên áp suất của nước mạnh nên mỗi ngày đi học về là mình mất cũng 1-2 tiếng đi xách nước. Muốn đỗ đầy cái thùng phuy 100 lít cũng oải lắm. Sau này hình như mình đánh lộn với thằng Bảo nên mình phải đi xách nước giếng ở xóm Bích Hường và Tuấn, học Văn Học trên đường Thi Sách. Gần đây, khám phá ra một chị cũng ở khu này. Chị ta ở bên Tây, về thăm nhà, đi loay hoay sao lại đụng mẹ mình, đứng lại chụp hình, gửi cho mình. Mình đoán khi xưa, chị ta còn nhỏ nên mình không nhớ. Chớ thế hệ mình thì mình đều nhớ.
Hai tên này lớn tuổi hơn mình nên cũng hay bắt chẹt, hành hạ mình đủ trò rồi mới cho gánh nước về. Khổ nhất là trước Tết, phải đi gánh nước về trữ cho ba ngày Tết, vì kiêng cữ đạp đất nhà ông Ba Tây nên thiếu điều lạy lục tên Tuấn này thì nó mới mở cửa rào. Sau này qua Văn Học thì học chung với hắn 11B còn năm 12 thì hắn di tản qua Việt Anh theo bộ Tam Sư. Mình thích đi gánh nước ở xóm Thi Sách hơn vì ít dốc còn dưới nhà ông Nhị với hai thùng nước lên dốc thì phải gánh lưng thùng khoảng 3/5 cả nước đổ ra ngoài khi lên dốc nên phải đi nhiều lần. Mỗi ngày tốn hai tiếng đi gánh nước nên chả muốn đi phá làng phá xóm nữa.
Sau này ông cụ mình được đổi sang ty công quản nước do ông Nguyễn Văn Tùng làm trưởng ty, có con tên Huân học Yersin với mình, lo về nước uống cho thị xã Đà Lạt, có máy bơm nước ở gần bờ Hồ, cạnh sân cù. Mỗi tuần ông cụ cho xe citerne chở nước đem về cung cấp cho xóm nên hàng xóm dạo đó thương ông cụ mình lắm. Mình lấy cái vòi nước bỏ vào mấy thùng phui của nhà cho đầy xong thì tên nào mình thân trong xóm thì kêu đem thùng lại để tài xế bơm cho nên dạo đó bọn trong xóm cũng gờm mình lắm. Từ tên xin nước mình trở thành tên cho nước, người lớn họ khôn nên cứ kêu con gái đưa thùng hứng nước nên mình phải ưu tiên cho đàn bà con gái trước. Đúng là ngu vì gái từ bé! Tết là hàng xóm qua nhà mình lì xì cho anh em mình khá khá. Nhà mình dạo đó có xây một cái hồ nước khoản 3m x 3m x 1.5m để xe nước về là bơm vô đó xài vô tư. Cuộc đời gánh nước của mình cũng chấm dứt từ đó. Dư thì giờ thì đi đánh bi da.
Dạo đó có chương trình thiết bị lại các hệ thống ống nước cũ ở đường Hai Bà Trưng và các đường khác ở Đà Lạt nên khi mưa xuống là bùn ngập mà thi công thì toàn cuốc đất bằng tay không có máy móc như bên Mỹ nên kéo dài cả mấy năm trời. Mùa khô thì bụi mịt mù, mùa mưa thì đi bị bùn bắn quần dơ hết. Đâu có tiền mà mang giày, đi dép nhật nên phải lết nếu không thì bắn đầy phía sau quần. Sau 75 thì các ông thợ làm dưới quyền của ông cụ đều là dân nằm vùng nên được chế độ mới đãi ngộ cho làm xếp còn ông cụ thì được đi tham quan lao động thực tế nên lại phải cuốc đất thay mấy ông thợ trước kia nên ông cụ thôi việc về làm vườn rồi bị bắt đi cải tạo 15 năm.
Ông cụ mình bắt ống nước lớn từ đường Hai Bà Trưng lên nhà mình nên áp suất của nước rất mạnh, ai đến nhà cũng bảo dinh tỉnh trưởng cũng không bằng. Dạo đó thị trưởng là bà Nguyễn Thị Hậu, hình như luật sư thì phải, người đàn bà đầu tiên làm thị trưởng ở VN, sau này thì ông Nguyễn Hợp Đoàn nên ông cụ mình phải lo đem xe nước lên bơm vào cái château d'eau để gia đình tỉnh trưởng dùng nên có lần ông này bảo ông cụ mình ra ứng cử hội đồng thị xã, chắc chắn là đắc cử nhưng ông cụ từ chối vì dạo đó các cuộc bầu phiếu đều bị tráo thùng phiếu hết. Ông cụ mình cùng quê với ông NCK nên không thích ông Thiệu. Ông cụ mình kể làm công chức thì phải đi trông coi bầu cử thì lính đem xe nhà binh đến lấy thùng phiếu rồi đổi trên xe nên khi đếm phiếu thì các người do chính quyền đưa ra đều thắng cử.
Dạo đó mỗi lần có bầu cử là thấy các ứng cử viên dán đầy bích chương quay roneo khổ A4 đầy cột điện. Ở đường Hai Bà Trưng thì có thầy Nguyễn Văn Thành, hiệu trưởng trường Quang Trung, lấy trái bắp xú tượng trưng cho người làm vườn hay rau cỏ đặc sản của Đà Lạt nên từ dạo đó dân Đà Lạt gọi thầy là Thành bắp xú. Mình thấy có nhiều người lấy danh hiệu là cây bút, cây đuốc, cây nến,..như mấy công ty quảng cáo đồ dùng. Đại loại là phải người của Đảng Dân Chủ do ông Thiệu thành lập như chú của bà cụ mình ở trong ấp Xuân An thì đắc cử hết còn lại thì các đảng Đại Việt hay VNQĐ, tương tự thời đệ I Cộng Hoà với Đảng Cần Lao, còn thanh niên phải gia nhập đoàn thanh niên Cộng Hoà mà có lần mình thấy ông cụ mình bận áo xanh tập cho mấy người trong sở 1-2 đi diễn hành ở khu Hoà Bình vì ông cụ ngày xưa làm lính ngự lâm quân nên đi 1-2 rất nhuyễn khi Bảo Đại đón thượng khách.
Ông cụ cho thợ bắt một cái vòi ở ngoài sân để tưới cây nhưng nó trở thành cái vòi công cộng vì trên xóm Thi Sách thiên hạ không muốn đi xa nên ghé nhà mình xin nước nhất là nhanh không cần lấy gáo múc nước ở dưới giếng, nhiều khi thấy mấy con lăn quăn nhưng cũng phải lấy vì không dám đỗ đi. Từ từ ông cụ mình cho thợ về bắt nước vào từng nhà trong xóm nên ai cũng mang ơn. Dạo đó ông cụ mình có thớ ở Đà Lạt, ai mà cà chớn, thì cứ đợi đến năm Canh Dần mới có nước. Ty công quản nước có một toán thợ đâu 4-5 người và trung bình phải mất 3-4 ngày mới hoàn tất đem nước vào một nhà, cho nên khi vợ thầy Viêm lái xe con cóc VW từ trong trường Việt Anh chạy ra đụng xe mình thì thầy ra bảo đi đi vì dạo đó mình chưa có bằng lái xe nhưng thầy biết xe của ông cụ mình. Sau này, có ai gửi cho mình bài vợ thầy Viêm kể là dạo đó cô cũng không có bằng lái xe. Không thua gì dân Mễ ở lậu ở cali. Kinh
 Lâu lâu mình lái xe hơi của ông cụ thì bên đường bà con dơ tay chào mệt nghỉ. Sau này khi ông cụ đi cải tạo thì mấy tên nằm vùng trong xóm, khi xưa đến nhà mình xin nước, tìm cách đuổi bà cụ và 10 đứa em của mình đi kinh tế mới để chiếm cái nhà dù gia đình mình đã dâng cho cách mạng một căn hộ. Cô em kế mình bị đưa xuống Tà In, cái chòi ở bị cháy hoài sau vượt biên rồi sang Pháp định cư. Ngày xưa mấy tên này đến xin nước thì mình đều cho vui vẽ nhưng không ngờ vật đổi sao dời nên lòng người rất mau quên. Cuộc đời không ai lường được tương lai.
Dạo đó có con Thu, con gái của ông Đề, giám đốc Trung tâm thẩm vấn ở đường Thi Sách hay xuống nhà mình xách nước. Trung tâm thẩm vấn nằm trên cái đồi ở đường Bá Đa Lộc, lối vào Lasan Adran, nơi giam người bị tình nghi theo VC để lấy cung như thằng Vui, con bà Thủ bán quán trên đường Thi Sách, học Trần Hưng Đạo rồi bị bắt đưa vô đây sau Mậu Thân. Có lần ông Lê Công Oai, bố của thằng Hùng thịt cầy chở mình vào đây thì thấy thằng Vui ở trong xà lim, ông Oai mở cửa sổ nói thôi khai đi rồi tha về. Có lần mình thấy bà Thủ lên nhà ông Oai nhờ đưa cái gì cho thằng Vui. Mình nghe kể ông Oai này, cảnh sát chìm bắt rất giỏi dân nằm vùng như bắt dế, thằng Hùng con ông ta kể là phải đi lục thùng rác để xem thư của dân nằm vùng,...cứ như James Bond.
Nhớ xe mì vịt tiềm bên cạnh tiệm xe Công Thành, đường Phan đình Phùng
Có lần chiếc xe tải tiền của Nam Đô ngân hàng chạy qua đường từ bờ hồ lên khách sạn Palace bị cướp sau đó thì thấy xe bị bỏ lại với tên tài xế bị trói ở đèo Prenn. Ông này với một ông nào ở ty cảnh sát lấy cung tên tài xế thì một tiếng đồng hồ sau, các đồng bọn giả ăn cướp lấy hết tiền bị bắt hết. Có lần đêm du kích về đánh đồn trung tâm thẩm vấn, hôm sau đi học về mình chạy vào xem thì thấy họ để xác chết mấy người nằm trên đường, ruồi bu đen đặc nghe nói để gia đình đến lãnh hay làm gương.
Sau 75 thì thằng Vui là trời con trong xóm, tên này hình như hơn mình đâu 4 tuổi rồi không được chế độ mới dùng nên chắc cũng tiếc quảng đời đấu tranh ở tù của hắn như bài thơ của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, nổi tiếng với cuộc tàn sát tập thể ở Huế, năm Mậu Thân. Mình có mấy người bà con bị giết năm đó ở Huế.
Những chiều Bến Ngự dâng mưa
Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang.
Nhà tên Vui này bà con gì với bà Thới, mẹ thằng Minh tây lai học Văn Học, cao to hay đi học Thái cực đạo với mình. Sau 75 cũng một thời làm mưa làm gió trong xóm. Bà cụ mình ngày thì đi buôn ngoài chợ, nuôi 10 đứa con rồi cuối tháng lại đi thăm nuôi ông cụ mình ở trại Đại Bình trên đường đi Phan Thiết, tối lại phải đi họp tổ khu phố. Thơ nặc danh gửi cho phường tố cáo bà cụ mình là phản động, có nợ máu dân, cần được đưa đi kinh tế mới để giúp gia đình mình giác ngộ cách mạng, để trở thành con người mới của xã hội chủ nghĩa vì muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thì đất nước cần những người xã hội chủ nghĩa.
May dạo đó có cô Ba Chỉ, chủ tiệm Bình Lợi ở dưới chợ đỡ đầu nên tai qua nạn khỏi. Cô Ba Chỉ này không có chồng con, làm ăn rất khá, có xe hàng chạy Saigon Đà Lạt, nằm vùng nên tiếp tế gạo đường muối cho VC như đa số các xe chở hàng dạo đó nếu không thì họ đốt xe. Nay về hưu cô về tu ở Đại Ninh, mình có gửi quà về. Sau 75 thì cô Ba Chỉ làm lớn trong chính quyền mới nên các thư nặc danh gửi lên tố cáo bà cụ mình đều được cô đọc trước khi họp tổ khu phố nên thông báo cho bà cụ mình trước để chuẩn bị khi họp là nói trước có nhận thư nặc danh rồi cũng tham gia văn nghệ, hát hò như có Bác trong ngày vui đại thắng.
Con Thu con ông bà Đề học Hùng Vương thua mình đâu 2-3 tuổi mà dạo đó đã trỗ mã xem rất bắt mắt sau này bồ với tên nào, hay bị nó sai xuống nhà mình xách nước. Ông Đề hay đem tù nằm vùng về nhà làm vườn, nhà thì rào kẻm gai vòng cuống của lính Mỹ, có lần đêm tối VC muốn vào nhà làm thịt ông ta nhưng mấy cái lon nước cam hay bia mỹ được treo lũng lẳng ở mấy cuộn dây thép gai kêu leng keng báo động nên ông ta núp bắn mấy tên đang tìm cách chui vào. Phòng mình ngủ ngay đầu đường Thi Sách nên chới với.
Có dạo mình và ông cụ tối phải ra phố ngủ lại nhà bà con vì nằm vùng hay về khu số 4 giết các trưởng ấp và bắt lính cho MTGP tương tự trên các tuyến đường Saigon Đà Lạt. Mình ở khu phố 2 nhưng bà cụ mình quen ông Ngô La làm trưởng khu phố 1, có trụ sở ở đường Duy Tân, ông ta ký giấy tờ thẻ nhân dân tự vệ cho mình ở khu phố 1 nên khỏi phải đi gác như đám bạn học.
Có lần thằng Tuấn ở đường Thi Sách rủ mình đi gác nhân dân tự vệ ở khu phố 2 thì tính đi theo nhưng ông cụ không cho thì tối đó VC về đánh cái đồn nhân dân tự vệ sau lưng trường Đa Nghĩa, bắn B40 ầm ầm nên mình thôi hát "giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh, vận nước ta gặp hồi gian nguy, anh em ta ôi cùng nhau kết đoàn chống giặc không gì hay hơn, nhân dân tự vệ , nhân dan tự vệ cầm súng cầm dao,.." mà mỗi tuần chương trình "nhân dân tự vệ" được phát thanh trên đài phát thanh Đàlạt.
Ngồi viết lại những kỷ niệm ngày xưa đã gần 50 năm mà khi về thăm lại VN mình vẫn còn thấy cảnh mấy đứa bé đi xách hay gánh nước như mình khi xưa. Mấy nhà có tiền thì có trang bị château d'eau trên sân thượng trong khi ở bên Mỹ thì nước dùng tưới cỏ nhiều khi chảy đầy đường. Vào mấy câu lạc bộ thể thao thì xài nước quá phung phí như nhà tắm Đại Hàn mà mình hay đi với gia đình để cảm nhận được cái hạnh phúc đời người nhưng mình vẫn không bao giờ quên lần đầu tắm nước nóng ở nhà bà Duy, cái phòng tắm mà mình thấy lần đầu trong đời có hai vòi nước và cái vòi sen trên cao rất là cao sang, không cần phải pha nước nóng và lạnh cho đủ ấm, không phải lấy gáo múc, tự do kì cọ không bị ai đập cửa như ở nhà tắm Minh Tâm. Hạnh phúc rất đơn sơ nếu ta cảm nhận từng giây phút đang hiện hữu trong cuộc đời này.
Nous cherchons tout le bonheur, mais sans savoir où, comme des ivrognes qui ne peuvent trouver leur maison, mais qui savent qu'ils en ont une. (Voltaire)
Sơn Đen

Tìm lại mùa xuân

Từ mấy năm nay, tình cờ tìm lại được mấy người bạn học cũ tại Yersin và Văn Học. Thật ra thì có người mình nhớ, có người mình chưa bao giờ nghe tên đến, thậm chí có người học khác niên khoá nhưng có cái gì thân quen với họ như cùng chia sẻ một mẫu số chung về Đà Lạt, về tuổi thơ, về những hoài bão hay những giấc mơ của một thời xa xăm,…
Mà nhớ thì phải nhớ cả họ và tên vì ai mà hỏi nhớ thằng Tâm, con Hà thì Phật A Di Đà có xuất hiện thì mình cũng chịu thua. Phải hỏi mày biết Lê Văn Đạt, Tôn Thất Hứa,…thì hoạ may , vâng hoạ may mới nhớ. Ở hải ngoại thì có nhiều tên chơi tên mỹ như Em Đi, Ăn Đi, Rô Be, Rô Bợt. Mình nhớ có vợ tên bạn, người Huế kêu hắn là Đá Đi, Đá Đi nên mình thắc mắc hỏi lý do vợ mày muốn mày đá thì hắn kêu là Daddy, nghĩa là bố mày. Chán Mớ Đời
Nói chuyện đổi tên ở hải ngoại vì nhu cầu chớ không phải người Việt muốn làm oai. Bên Pháp, mình có quen một tên, họ là Lê còn tên là Chiến, tây đọc là “Le chien” nghĩa là con chó nên sau này gặp lại hắn thì hắn đổi tên thành Henri khiến mình tối tăm mặt mũi để nhớ tên hắn. Qua Mỹ thì nghe kể có ông thần nào được bố mẹ đặt tên là Tô Đình Cự. Ở hải ngoại, người ta viết tên trước, chữ lót thì chỉ viết chữ đầu và họ lại viết sau. Một hôm ông bố nhận thư ai đề “Cu D. To” ở mỹ gửi về nên thất kinh hỏi mụ vợ có quen ai tên “cu dê to”/ Chán Mớ Đời
Có ông bác sĩ tên Robert họ Vũ, nhưng ở mỹ nhưng ta lười gọi tên cúng cơm nên thay vì Robert, họ gọi tắc là Bob. Trên danh thiếp, ông bác sĩ này đề M. D. Bob Vu, người Việt đọc là “Em Đi Bóp Vú”. Không biết nay có đổi hay không. Tên mình thì mấy thằng mỹ kêu “sony” nên sau này chết cứng luôn. Mình hay tếu là vợ mình tên “Toshiba” cho nó oai. Chán Mớ Đời

Cư xá Công Chánh

Gia đình mình dọn về đường Hai Bà Trưng, cư xá công chánh năm mình bắt đầu học Petit Lycée sau khi ông cụ đậu tuyển vào ty công chánh Đà Lạt. Ông cụ mình rời quê vào Nam năm 1950, đi lính ngự lâm quân của vua Bảo Đại. Sau này ông vua bị thủ tướng Ngô Đình Diệm truất phế nên ông cụ bị đổi sang lính chính quy của VNCH mới thành lập. Khi mới thành lập, quân đội VNCH thiếu sĩ quan nên có tuyển một số hạ sĩ quan đi học khoá tham mưu để trở thành sĩ quan.
Ông cụ mình xin đi học khoá y tá, cứu thương vì nghĩ khi giải ngủ thì có cái nghề để sinh sống. Mình chỉ nhớ hồi nhỏ có thấy cái huy chương anh dũng bội tinh và bằng khen ông cụ, trong lúc giao tranh, đã liều mình xông lên băn bó, cứu thuơng các đồng đội. Gia tài còn lại cái mũ sắc dùng làm cái cối để giả gạo, thịt khi làm chả, một hộp cứu thương bằng sắt như hộp đạn đại liên, một hộp sắt nhỏ đựng mấy ống tiêm, cái kéo để cắt băng ga. Mỗi lần đau, phải bị chích thuốc là mình sợ vì ông cụ chích rất đau. Cứ lấy bông gòn, thấm alchol, xoa xoa cái mông rồi lấy hết sức bình sinh, phóng mũi kim vào mông. Sau này ra hải ngoại, đi bác sĩ, biết tâm lý, họ xoa bên trái rồi xoa bên phải, rồi làm cái phập bên trái nên không thấy đau. Các bạn đồng ngủ của ông cụ đi học lớp tham mưu thì sau này lên tá và tướng của VNCH. Mình nhớ có đại tá Trần Văn Chuyên mà có lần ông cụ dẫn đến thăm ở cực xá Võ Bị.
Khi ông cụ mình giãi ngủ thì gia đình mình đang ở ấp Ánh Sáng và học ở trường Ấu Việt gần cầu Bá Hộ Chúc. Trường Ấu Việt thật ra là một căn biệt thự có hai tầng dùng làm vườn trẻ. Dạo đó sao thấy to lớn, Nhất Anh có nhắc đến cây trứng cá mà trong giờ ra chơi cả đám hay đi lượm mót mấy trái trứng cá màu đỏ rớt. Mình chỉ nhớ một hôm, ông cụ dẫn đi bộ lên Petit Lycée ở đường Yersin, vào phòng ông hiệu trưởng người Tây để khảo sát. Ông Tây đưa cuốn sách chỉ mấy tấm hình hỏi cái gì, mình trả lời được 9 cái còn lúc ông tây chỉ hình cái mâm thì mình trả lời "lơ cái mâm" nhưng cũng được vào học trường Tây.

Tuổi nào nên dạy con về tài chánh

Hôm kia, thằng con hỏi có nên trả dứt nợ mà nó mượn khi đi học. Mình hỏi có mấy nợ thì được biết là 2: một đâu $2,600 và một độ $20,000. Mình nói là cố trả cho hết cái nợ $2,600 còn $20,000 thì cứ trả đều đều mỗi tháng để tạo dựng “credit” để sau này có thể mượn tiền mua nhà hay xe,…
Nó hỏi thêm là nên để dành tiền trong Roth IRA hay IRA, mình nói cả hai vì nay lương ít nên thuế rất ít do đó nên bỏ vào Roth IRA còn IRA thì chịu khó bỏ vào để trừ thuế. Mình có cho thằng con đi học về tài chánh cơ bản nên mấy năm nay có bỏ tiền vào quỹ hưu trí.
Dạo còn học sinh, mình có để dành tiền cho hai đứa con vào quỹ giáo dục Coverdell, và chỉ cho chúng mỗi năm, bỏ trong Mutual Funds, lên xuống bao nhiêu. Thằng con được trời ị trúng đầu nên khi đi học chỉ mượn 25% tiền học, còn thì được nhà nước giúp phần còn lại, nhờ học trường công còn con gái thì được ít hơn vì học trường tư.
Vấn đề là thuế chỉ cho khai được $3,000/ năm nên bù trớt. Để xem coi Hoa Kỳ có chơi khăm, cho sinh viên xù tiền nợ đi học hay không vì đảng Dân Chủ, đang xây dựng cách chạy đua vào Bạch Ốc, quốc hội năm tới bằng chiêu này. Nếu không có đạo luật xù nợ đại học thì mình sẽ bán cho con mình một căn nhà rồi cho vay lại, sau một năm thì chúng có thể tái tài trợ ngân hàng để trả nợ mượn đi học, có thể khấu trừ thuế nhiều hơn $3,000/ năm, và tiền depreciation để bớt thuế lợi tức. Luật thuế quá cũ nên chưa cập nhật hoá thời nay. Chán Mớ Đời
Trong xã hội tây phương nhất là các nước theo thiên chúa giáo thì thông thường người ta ít nói với con cháu về tiền bạc vì trong kinh thánh, cho đó là “Evil”, tà ác chi đó. Mình đoán là họ nói như vậy để con chiên lo ngại nên cúng tiền nhiều cho nhà thờ. Mình đọc đâu đó, nếu không lầm trong Tân Ước không nhớ khúc nào, hình trong “Luke”. Nói về một bà nghèo nhưng cho nhà thờ hết số tiền của bà có, cho thấy bà ta thương chúa hơn những kẻ giàu có dù cho tiền nhiều hơn bà này. Tin lành thì khá hơn, chỉ lấy 10% lợi tức hàng tháng.

Sự phát triển Đàlạt

Đàlạt nằm ở vùng nhiệt đới, nhưng ở cao độ 1,500m nên khí hậu tương đối mát so với khí hậu Sàigòn, được người Pháp xây dựng hoàn toàn từ đầu vì trước đó chưa có một người Việt nào sinh sống tại đây, ngoài vài bộ lạc người Thượng trong vùng. Gần Việt Nam, các nước Tây phương cũng xây cất tại các thuộc địa của họ những thành phố tương tự Đàlạt. Hoa Kỳ thành lập Banguio (1,800 m) ở Phi Luật Tân, người Anh lập Ootacamund (2,200 m) ở Nam Ấn độ, người Hoà Lan lập Tosari (1,800 m) ở Nam Dương.
Người Việt đầu tiên đến đây là những người tù, thay vì đưa đi Côn Đảo thì người pháp đày lên rừng cao nguyên. Nghe nói cọp nhiều lắm, thợ săn cũng bị cọp xơi tái nên tù hết dám trốn vì sợ ông 30 làm thịt. Ngay Tây có súng cũng bị biến thành steak cho cọp.
Người Pháp cho xây dựng Đàlạt trên cao độ 1,500 m trong mục đích làm nơi nghỉ dưỡng cho người Pháp làm việc tại Đông Dương, thay vì về nước nghỉ ngơi vì mẫu quốc đang lâm chiến trong cuộc chiến thế giới 1914-1918. Cô bạn đầm Catherine, năm ngoái sang Việt Nam chơi, đi lại các vùng như Nam Định, nơi bà ngoại đi dạy và mẹ cô nàng sinh ra tại đây, có kể lên Đàlạt nghỉ dưỡng nên có bò lên đây để viếng lại những dấu chân của gia đình cô ta khi xưa đã đi qua.
Trước đó, người Pháp có xây khu nghỉ dưỡng ở Bà Rịa, Vũng Tàu mà người ta hay gọi Cap Saint Jacques, cho công chức và quân nhân của họ. Sau khi viếng thăm Ấn Độ, thì toàn quyền Paul Doumer, muốn thành lập một khu nghỉ dưỡng trên núi như Ootacamund ở Ấn Độ, rất ích lợi cho người Pháp tại Đông Dương, như được tái tạo lại hồng huyết cầu khi ở độ cao.
Đúng lúc ông bác sĩ Yersin lại khám phá ra cao nguyên Lâm Viên, và đệ trình cho toàn quyền Doumer. Ông này cử hai phái đoàn quân đội đi trinh sát để báo cáo lại. Đến năm 1900 thì ông ta đích thân lên Đàlạt và lấy quyết định thành lập khu nghỉ dưỡng và tính sẽ thành lập trung tâm hành chánh Đông Dương tại đây luôn.
Bác sĩ Yersin, đề nghị làm khu nghỉ dưỡng tại hồ Dankia, trong khi bác sĩ Étienne Tardif lại đề nghị thiết lập tại Đàlạt theo hồ sơ y tế. Dankia hay bị sương mù và độ cao hơn Đàlạt.
Ông ta nhờ kiến trúc sư Hébrard thiết kế hoạ đồ phát triển Đàlạt. Có một con đường bộ nối liền Phan Thiết lên Đàlạt, và một đường rày xe lửa từ Phan Rang lên Đàlạt. Dạo ấy, người Pháp đã xây dựng quốc lộ 1 và đường rày xe hoả nối liền Nam -Bắc.
Đàlạt nếu biết khai thác, sẽ trở thành một trung tâm nghỉ mát của Đông Nam Á hay Á châu. Vâng nếu biết khai thác vì theo những thay đổi mà mình chứng kiến từ năm về thăm lần đầu tiên 1992 đến nay thì họ phá nát ý tưởng nguyên thuỷ của người Pháp trên 30 năm qua.
Cao nguyên Lâm Viên có cao độ 1,500 m, rộng 400 km2, khí hậu mát mẻ (nay thì thấy nóng vì họ chặt cây và đông dân cư). Theo đường chim bay thì cách Sàigòn 250 cây số, cách bờ biển 100 km, gần Hải Cảng Cam Ranh, Nha Trang, Phan Rang,…
Mình đọc tài liệu thì các chuyên gia đã ngắm, sẽ dùng hải cảng Cam Ranh làm thủ đô hành chánh của một nước Việt Nam thống nhất như Hoa Thịnh Đốn của Hoa Kỳ. Sàigòn và Hà Nội chỉ là vùng khai thác kinh tế như New York và California.
Hai nhân vật đã kiến tạo ra Đàlạt là toàn quyền Paul Doumer và bác sĩ Yersin. Ông Doumer sau này làm đến chức tổng thống pháp. Mình đang gửi mua cuốn hồi ký của ông ta. Theo tài liệu, được biết ông Yersin là người Thuỵ Sĩ nhưng gốc Pháp, mình đoán là ông ta theo đạo tin lành vì khi xưa, một số người Pháp theo đạo tin lành bị ruồng bố, bỏ chạy trốn sang Thuỵ Sĩ mà người tây gọi “Huguenot” theo ông Calvin (calvinist).
Vì lẻ đó, có thể ông ta vẫn xem Pháp quốc là quê hương như đa số người việt hải ngoại dù mang quốc tịch ngoại quốc vẫn hướng về Việt Nam. Do ông ta đệ trình và toàn quyền Paul Doumer phê chuẩn, thành lập khu nghỉ dưỡng này để đỡ tốn tiền, thời gian cho công chức tây đầm về Pháp nghỉ phép vì Việt Nam không phải là một nơi nghỉ dưỡng, khí hậu nóng bức. Mình về Việt Nam được 1 tuần, nóng khủng khiếp ngay Đàlạt ngày nay, chỉ có tối thì lạnh, khó mà tạo nên một nơi nghỉ dưỡng để du khách ngoại quốc đến, ngoại trừ các bãi biển mà nay họ cũng tàn phá.
Tên Đà-Lạt là do người thượng tại địa phương đặt mà ra. Theo ông Cunhac, một trong những người đầu tiên đến Đàlạt để nghiên cứu, kể trong tập san Revue Indochine người Pháp hỏi các người địa phương, bộ lạc “Lạt” và Đà hay Dak là “nước” vì có con suối chảy qua. Đà-Lạt có nghĩa là con suối của người Lạt. Mình có thấy ai kêu là do cụm từ la tinh, bú xua la mua, cho có vẻ trí thức. Chán Mớ Đời
Được biết căn nhà đầu tiên được chính quyền thực dân xây dựng là đồn nhà binh vào năm 1898, sau đó là một nhà thị sảnh năm 1900. Sau này là toà hành chính Đà Lạt trước 1975.
Đùng một cái ông Doumer bị đổi về Pháp nên bao nhiêu dự án thành lập Đàlạt đều bị bỏ quên vì các toàn quyền khác không chú trọng đến. Đến khi thế chiến thứ nhất xẩy ra, các nhân viên của chế độ thực dân, không về Pháp nghỉ an dưỡng nên mới dùng Đàlạt là nơi nghỉ dưỡng, giúp Đàlạt được tiếp tục phát triển.
Nhưng dạo ấy đường rầy xe lửa từ Phan Rang lên Xon-Gom, gần Song Pha ngày nay đã được thiết lập, và từ đó người ta lên Đàlạt bằng ngựa. Tuyến đường từ Phan Thiết lên Đàlạt cũng bắt đầu được sử dụng. Bà cụ mình kể là khi di cư vào Đàlạt, bà cụ dùng tuyến đường này để đi xe đò lên Đàlạt. Dạo mình đi Đàlạt xuống Mũi Né thì có đi đường này.
Khu nhà Decoux, gần hồ Vạn Kiếp. người Pháp mướn mấy căn này để ở khi lên Đà Lạt nghỉ dưỡng.
Nhà ga xe hoả Đà Lạt, được xem là đẹp nhất Đông Dương.
Năm 1915, người âu châu mới bắt đầu lên Đàlạt để nghỉ dưỡng, hay sinh sống, trước đó chỉ có 3 người tây ở thành phố này. Đến năm 1920 thì đường từ Song Pha lên Đàlạt mới được hoàn thành và bắt đầu thiết lập đường xe lửa răng cưa từ Xóm-Gon lên Đàlạt.
Khách sạn Palace được khởi công vào năm 1916, hồ Lớn (Grand lac) mà nay người ta gọi hồ Xuân Hương được thành lập năm 1919 do ông công sứ Cunhac và kỹ sư Labbé, bằng cách chắn con suối Cam Ly. Sau đó họ chắn thêm bởi một cái đập khác ở dưới tạo thành hai cái hồ, do đó mới có tên Grand Lac (hồ lớn) và Petit Lac (hồ nhỏ) nhưng đến năm 1932 thì hai cái đập này bị vỡ sau một cơn bão lớn. Đến năm 1934-1935 thì người Pháp mới cho xây lại cái đập bằng đá, mà ngày nay người Đàlạt gọi là cầu Ông Đạo vì xe có thể di chuyển ở trên, tạo thành cái hồ Xuân Hương ngày nay. Cách đây đâu 10 năm, Việt Cộng có cho làm lại cái đập này và vét bùn trong hồ, giúp khu cạnh vườn Bích Câu bớt đầm lầy.
Cùng thời gian ấy, nhà máy điện và nhà máy nước được xây cất để cho người Pháp dùng. Nhà máy nước nằm cạnh bên bờ hồ, chỗ đường Đinh Tiên Hoàng nhưng nay hình như bị dẹp bỏ, không biết họ đem đi đâu. Bù lại phía trên đồi phía sau, họ xây cái chùa tổ chảng màu vàng khè to đùng, thấy bảng đề Thích Tâm Ấn hay chi đó như đang hiếp dâm hay giải vong môi trường và không gian Đàlạt.
Cầu xe lửa từ Phan Rang lên Đà Lạt 
Khách sạn đầu tiên tại Đà Lạt.
Nhà dây thép, trường Nazareth,… bắt đầu được xây dựng. Nghe anh bạn kêu là nhà dây thép (bưu điện) là ngôi nhà dùng cho công sở được xây dựng đầu tiên tại Đàlạt, cạnh nhà thờ Con Gà, đối diện Hôtel du Pảrc, sau này người ta dời qua chỗ bên cạnh.
Đến năm 1923, toàn quyền Q. Long giao cho kiến trúc sư Hébrard thiết kế đồ án phát triển thành phố Đàlạt có thể chứa trên 300,000 thị dân. Ý tưởng chính của đồ án là tập trung dân cư xung quanh vùng Hồ Lớn, một khu quân sự ở viện đại học Đàlạt ngày nay, cạnh bên trường chính tranh chính trị xưa và khu trung tâm hành chánh ở vùng trường Võ Bị Quốc Gia xưa, gần hồ Than Thở nhưng sau này bị bãi bỏ.
Xem bản thiết kế thì cái trục chính của thành phố là con đường Trần Hưng Đạo, Hùng Vương ngày nay từ phi trường Cam Ly về, đường Lê Thái Tổ từ Tháp Prenn lên, đều có các dinh thự, cơ quan hành chánh, biệt thự nhất là ở đường Trần Hưng Đạo. Ở khúc Lê Thái Tổ thì có phát hoạ nhà ga xe lửa, sau này được dời xuống đường Nguyễn Trãi, còn khu nhà ga thì trước 75, ông Nguyễn Hợp Đoàn, tỉnh trưởng tỉnh Tuyên Đức, có cho ủi miếng đất để làm bến xe Đàlạt, nay thì các xe đò đến Đàlạt đều đậu ở đây thay vì ở gần cầu Ông Đạo, khu Ấp Ánh Sáng.
Xung quanh hồ lớn thì có trung tâm thể thao mà sau này người ta xây Cercle Sportif nơi đánh tennis rồi Thao Trường, sân Vận Động, vườn Bích Câu, sân cù, trường học… còn chợ thì toạ lạc tại Ấp Ánh sáng, sau 1945 mới được đưa lên khu Hoà Bình, thường được gọi là Chợ Cây vì làm bằng cây và lợp tôn, có lần bị cháy. Sau 1960 mới dời xuống chợ Mới hay chợ Lớn ngày nay.
Khu xung quanh khu Hoà Bình, đều do thầu khoán Võ Đình Dung xây cất. Mình có thấy hình xưa mấy cái kiosque bên tay phải từ đường Lê Đại Hành lên, sau lưng vũ trường La Tulipe, xây theo kiểu arche của vùng Normandie. Sau này, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, thiết kế cái cầu thang vô chợ trên và chợ dưới, cho dẹp các kiosque này để khỏi choáng phong cảnh chợ và hồ Xuân Hương xa xa. Thậm chí khách sạn Mộng Đẹp, có thời cho quân đội Mỹ thuê, cũng được thiết kế thấp hơn để khỏi chướng ngại tầm nhìn từ khu Hoà Bình ra hồ. Khi xây, ông thầu khoán này chơi cha thiên hạ thêm mấy tầng rồi bôi trơn chính quyền mới nên im ru bà rù.
Chính ông kiến trúc sư Hébrard thiết kế Thuỷ Tạ mà ông ta gọi “La Grenouillère” khiến mình điên điên vì không hiểu tại sao lại có cái tên cúng cơm tây rất ư là hoành tráng. Cứ đoán là dân Tây thích ăn thịt ếch nên đặt cái tên này. Sau này sang tây thì mới khám phá ra có một nơi thanh lịch mà dân giàu có ở paris hay đến đây chơi thuyền trên sông hay nhảy đầm, có cái tên La Grenouillère, do đó mình đoán là ông kiến trúc sư này thiết kế chỗ này để nhớ về quê hương của ông ta như người Việt hải ngoại đặt tên Phở Sàigòn, Phở Hà Nội,… người Việt mình gọi Thuỷ Tạ vì chữ hán viết là Thuỷ Tạo, rồi người mình đọc thiếu trở thành Tạ, khiến mình có dạo cũng ngu ngu không hiểu lý do chữ “Tạ”.
Petit Lycee Yersin, nơi mình học các lớp tiểu học khi xưa
Grand lycee Yersin, nơi mình học trung học đệ nhất cấp, premier cycle 
Năm 1926, tây bắt đầu xây trường học Le Petit Lycée, Grand Lycée Yersin sau đó năm 1935 thì Couvent des Oiseaux, do bà hoàng hậu Nam Phương đề xướng, tặng 8 mẫu tây đất để xây dựng trường này mà mình đã có kể…
Căn nhà tiêu biểu cho khu nhà Decoux, gần trường Trần Hưng Đạo, gần hộ Vạn Kiếp mà người Pháp lên Đà Lạt nghỉ mát, mướn để ở. Như ngày nay, chúng ta lên núi mướn mấy cái châlet ở.
Năm 1923, Đàlạt chỉ có đâu 10 căn nhà làm bằng gỗ, 15 năm sau thì có đến 398 biệt thự và năm 1939 có tổng cộng là 427 biệt thự. Sau đó có những biệt thự được xây cất để bán hay cho thuê như cư xá Saint Benoit, Chi Lăng ngày nay, cư xá Bellevue hay Des Piques, còn được gọi là cư xá Decoux,mang tên toàn quyền Decoux mà khi xưa học lịch sử, trong lớp hay nói ông tây 2 cu cho dễ nhớ, kiểu bình dân học vụ. Sau này được dùng làm chỗ đóng quân cho Ngự lâm Quân của Bảo Đại, rồi trường trung học Bảo Long, sau đó đổi lại Trần Hưng Đạo.
Mình không biết kiến trúc sư nào, đã thiết kế trường Võ bị rất đẹp, so với thời gian đó.
Đường Hai Bà Trưng được người Pháp cho xây các cư xá cho nhân viên làm việc tại Nha Địa Dư, ty Kiến Thiết, Bưu Điện, Công Chánh, viện Pasteur, nhà đèn,…do đó thời đó không có hàng quán, tiệm buôn bán ở đường này như ở đường Phan Đình Phùng. Trước 75 thì có vài cái quán nhỏ được mọc lên để bán thuốc lá lẻ, bánh kẹo cho con nít,…
Dân số Đàlạt năm 1923 chỉ có 1,500 cư dân đến năm 1939 thì lên đến 11,500 trong đó có 600 pháp kiều. Như mình có kể, người Huế vào Đàlạt, rồi có người từ Hà Đông vào để trồng rau cải ở Đàlạt do tổng đốc Hà Đông, Hoàng Trọng Phu đưa vào nhằm giải quyết nạn nhân mãn của vùng Hà Đông, thêm người Nghệ An và Hà Tỉnh vào Đàlạt để làm cu li, xây dựng đường rầy răng cưa từ Song Pha lên Đàlạt.
Trong thời gian đệ nhị thế chiến, người Pháp đổ xô lên Đàlạt nghỉ dưỡng vì không về Pháp quốc được. Họ càng chú tâm phát triển Đàlạt để trồng hoa, rau cho pháp kiều tiêu thụ. Hầu như các loại rau của Pháp đều được đem sang Việt Nam trồng tại Đàlạt.
Toàn quyền Decoux kêu kiến trúc sư Lagisquet phác hoạ chương trình phát triển Đàlạt, vẫn giữ ý chính của ông Hébrard. Các trường học việt khác được xây dựng, nhà thờ,… cho thấy cuối năm 1945, Đàlạt có trên 1,000 biệt thự.
Ngoài ra, người ta có nhà máy thuỷ điện ở Cam Ly dẫn về Đàlạt qua trạm biến điện ở đường Lê Quý Đôn, mà mình hay thấy ông Tây Nhà Đèn, say rượu, cầm ba toong rượt tụi này đi học về, rồi vùng Song Pha,.. Dân số cũng tăng dần đến 25,500 người vào năm 1944, rồi thiên hạ chạy tản cư vì tây đổ bộ. Đến năm 1955, có 1 triệu người Bắc di cư vào nam, một số lên Đàlạt sinh sống nên dân số nhân gấp đôi, lên đến 53,390 người. Rồi chiến tranh tràn lan, dân xứ Quảng, Thừa Thiên, bỏ làng chạy vào Đàlạt làm vườn nhiều.
Với hiệp định Geneve được ký kết, người Pháp rời Đông Dương, Đàlạt được chính quyền miền nam cai quản, không còn được xem là Hoàng Triều Cương Thổ nữa. Theo mình bắt đầu xuống dốc vì dân số nhân gấp đôi nên nhà cửa bắt đầu mọc lên như nấm thêm nạn thương phế binh cắm dùi, xây nhà lộn xộn, không theo quy hoạch làm bước tiến cho sự phát triển vô tội vạ và di dân từ miền bắc vào sau 1975, khiến dân số nhân gấp 10.
Có vài người hỏi mình về sự phát triển của Đàlạt. Theo mình thì Đàlạt được phát triển một cách cẩu thả trong thời kỳ chiến tranh nhất là sau Mậu thân vì nông dân, chạy giặc được đưa vào thành thị nhưng sau 1992, Đàlạt được phát triển một cách man rợ, vô tổ chức theo kiểu tư duy ao làng.
Điển hình nhà bên cạnh căn nhà mà gia đình mình ở của cư xá Công Chánh. Ông bà cụ mình kêu mình và một ông người Huế nào, cuốc đất, ban đất rồi xây cái nhà, chả cần xin phép gì cả. Trong xóm, tương tự, ông Hiển chết nên gia đình ông ta, trả nhà cho gia đình ông bà Châu ở và xây cái nhà ngay ga ra khi xưa, làm tạm, rồi con bà Hiển, cắm dùi ở sân nhà Bà Ron, em của ông bà Phú, xây cái nhà, rồi trên đường Thi Sách, có bà Hành chiếm đất, bà Thới, bà mẹ thằng Khánh Ù,…. Khiến bà Ron chửi đủ trò nhưng tên Kiệt, đi An Ninh Quân Đội, vác súng ra bắn vài phát, huề cả làng. Nhà bà Địch dưới đường Hai Bà Trưng cũng chơi một căn nhà hoành tráng,… thương phế binh cắm dùi miếng đất mới được ủi ở đường Hai Bà Trưng hay đường Cường Để, ôi thôi loạn. Dạo đó trong xóm thiên hạ chửi nhau vì dành đất của nhau, vui không thể tả.
Mình về Huế, làng An Cựu thăm nhà thờ tổ của bên vợ thì thấy vườn tược chi đều được phá hết để xây nhà cửa cho mỗi đứa con hay cháu, hằm bà lằn. Dân di dân vào Đàlạt với tư duy ao làng nên họ cũng xây cất loạn lên, vô tổ chức như thể Đàlạt bị hiếp dâm tập thể rồi sinh ra đủ loại con vô thừa nhận.

Theo mình thì vẫn còn có cách cứu chữa Đàlạt. Quy hoạch do kiến trúc sư Hébrard có thể chứa 300,000 cư dân ở Đàlạt. Thứ nhất là nên ra nghị quyết biến Đàlạt thành một công viên quốc gia, cấm không cho xây dựng thêm ở Đàlạt rồi từ từ chỉnh đốn sau. Dời kinh tế, hành chánh về Bảo Lộc, vườn hoa, rau về vùng Đức Trọng, dân sẽ dời về Bảo Lộc làm ăn hay Đức Trọng để làm nông vụ. Còn hành chánh thì về hồ Than Thở,.. Thuê chuyên gia cực giỏi để họ làm luật lệ xây cất, và vẽ lại Đàlạt, trồng lại thông 3 lá vì khi bị phá đi như hiện nay thì thông ba lá sẽ mất vĩnh viễn. Mình thấy dự án mới về Đà Lạt, họ kêu thằng tây nào vẽ cà chới không thể tả. Cứ vác một thằng tây dốt vào để nổ người Việt. Dân mình thì cứ nghe ông tây là chắc phải giỏi hơn người Việt. Chán Mớ Đời 
Họ phá rừng thông để trồng cà phê dỡ nhất thế giới, bán rẻ cho ngoại quốc thay vì để rừng thông, giúp đem du khách lên tham quan kiến tiền nhiều hơn là trồng cà phê. Phải bán bao nhiêu tấn cà phê để mua một cái điện thoại Iphone. Nhà chức trách cần có tư duy Phù Đổng để đem thế giới về Đàlạt. Họ cần cho người đi tham quan các khu nghỉ dưỡng trên thế giới, để tìm một lối phát triển Đàlạt đặc thù cho thế kỷ 21 nếu không thì chúng ta sẽ mất Đàlạt vĩnh viễn. Hôm trước, mình đi viếng các hồ ở vùng Mammoth lần thứ hai, vẫn thấy họ thiết kế rất hay và gìn giữ thiên nhiên quá chuẩn. Nếu Đà Lạt mà được giữ gìn và thiết kế theo mô hình này thì dân giàu thành phố mạnh. Hàng năm mấy triệu người vùng đông Nam Á sẽ viếng Đà Lạt.
Có người nói mình đi xa về rồi chê Đàlạt, Việt Nam. Không phải. Nếu họ có thể ra khỏi Việt Nam, đi chu du thì sẽ thấy sự khác biệt giữa Việt Nam và thế giới. Mẹ mình, cả đời chưa bao giờ được đi học, sang Hoa Kỳ và Nhật Bản đã đưa ra những nhận xét, so sánh với Việt Nam rất đúng. Mình đi nhiều và có ở Thuỵ Sĩ một thời gian, hay Hoa Kỳ có những vùng miền núi, họ giữ thiên nhiên rất kỹ. Không cho xe cộ vào. Người Mỹ phải trả tiền đặt cọc trước cả năm hay 2 năm để vào đấy tham quan. Xe cộ không được vào công viên này. Muốn ở lại cắm trại mỗi đêm tốn cả $150.


Ở Đức, họ có cho xây dựng lại những thành phố bị quân đội đồng minh thả bom tan nát trong thời kỳ thế chiến để giữ lại kiến trúc cổ xưa, di sản văn hoá của tiền nhân thay vì xây dựng lại kiểu mới, rẻ hơn. Có thể nói là văn hoá Đàlạt do tây mà ra nhưng thật ra Đàlạt có cái hay với nét tây phương sẽ giúp du khách á châu ngay cả âu châu đến tương tự Hội An có nét phố tàu còn phố Việt Nam thì nên về làng sẽ thấy. Bú xu la mua, không đầu không đuôi.
Mình vẫn hy vọng một ngày nào đó, nhà chức trách Đàlạt có trách nhiệm, sẽ có viễn kiến, tái tạo trùng tu lại Đàlạt xưa, sẽ giúp thị dân giàu có hơn và Đàlạt sẽ là dấu ấn của nhà chức trách cho muôn đời sau thay vì ăn xổi như dự án ở khu Hoà Bình.
Chán Mớ Đời
Nguyễn Hoàng Sơn