Giáo dục để trị vị

 Khi người Pháp đánh chiếm toàn cỏi Đông Dương, họ khởi đầu chiến lược lâu dài để giữ vững thuộc địa của họ qua giáo dục, giáo hoá người dân sở tại. Cuộc chiến ở dưới hình thái khác, chiếm cảm tình, tinh thần để người sở tại phải tâm phục khẩu phục kẻ cai trị mới như đã từng yêu mến, cảm phục người Tàu từ hơn 1,000 năm qua.

Lý do đó mà các đoàn quân chiến thắng trong lịch sử đều phải đốt sách của chế độ cũ như Tần Thuỷ Hoàng, Hitler, .. để dạy cho người bị trị đường lối mới của cuộc sống để nô lệ hoá họ. Một khi biến người Việt thành bảo hoàng còn hơn vua là họ sẽ cai trị mãi mãi như người Tàu đã làm hơn 1,000 năm qua.


Người Triều Tiên, khi xưa đã có chữ viết riêng của dân tộc họ, tạo dựng một nền văn chương khá cao nhưng đến đời nhà Tống, có nhiều người được cử sang học bên tàu. Khi về nước, họ khen văn minh trung hoa này nọ và bắt buộc người Triều Tiên học và viết chữ Hán. Khi học ngoại ngữ, thì khó nên dần dần họ không tạo dựng được một áng văn hay như xưa. May thay, họ đã giác ngộ kiện thời nên đã xoay về với chữ của cha ông họ để lại.


Dạo mình về Đàlạt, có anh bạn dẫn mình đến một tiệm sách, xây ở dưới hầm của sân vận động khi xưa, để mua một cuốn sách dịch về ông Paul Doumer. Mở ra trang đầu tiên, là thấy tác giả ca tụng ông hồ, rồi đảng,...nên không mua. Anh bạn giải thích là sách báo đều phải viết như vậy để có thể được in. Khiến mình hiểu lý do nào không có một nhà văn nào ở miền nam viết khá sau 75.

 

Sau ngày 30/4/75, cầm quyền Hà Nội cho lệnh đốt sách báo, nhạc, xem như nguyên nền văn hoá của kẻ thua cuộc, để xoá hết những gì người dân sở tại đã học, để học tập một chủ nghĩa mới. Những ai đã có lý lịch làm việc với chính quyền Việt Nam Cộng Hoà thì phải đi học cải tạo. Tuỳ khả năng hấp thụ của họ, để được tha sớm về với gia đình.

Ảnh sau 75, Việt Cộng tìm cách tiêu diệt văn hoá Việt Nam Cộng Hoà, cho là phản động, đồi trụy. Ngày nay, người Việt hai miền đều thích văn hoá Việt Nam Cộng Hoà, còn văn hoá đỏ, như nhạc sĩ Trần Tiến tuyên bố; nên quên đi.


Dạo ấy, vẫn còn những cuộc tấn công đánh phá của ông Phan Đình Phùng vào cửa thành Hà Nội. Do đó người Pháp cần phải thi hành một cuộc cải cách giáo dục cấp bách. Họ đang ở thế lưỡng nan, có nên tiếp tục để các trường dạy tiếng tàu như xưa nay hay dạy bằng chữ quốc ngữ do các ông tu sĩ tây phương thành lập để truyền giáo.


Trường của tây dạy thời đó chỉ nhắm vào đào tạo một thiểu số làm việc cho hành chánh thuộc địa cấp thấp, rất đơn sơ nên chương trình không phong phú như trường quốc tử giám của Việt Nam.


Năm 1890, họ có tổ chức một cuộc hội thảo các công chức tây thuộc địa và 2 người Việt thành dự là ông Kiều Công Thiện, một người chủ trương pháp hoá nền giáo dục và ông Pétrus Trương Vĩnh Ký. Họ muốn đem vào nền giáo dục tại thuộc địa các môn học mới như Toán Lý Hoá, pháp ngữ và quốc ngữ. Thời mình học Yersin Đàlạt thì có đâu 2-4 giờ việt văn từ 10 ème trở đi.


Họ cũng bắt buộc các công chức thuộc địa phải học tiếng người sở tại như Anh Quốc đã áp dụng tại các thuộc địa của họ. Ngoài ra trong khi đợi chờ ngành giáo dục đào tạo thì họ mở lớp trường thông ngôn để giúp nền hành chánh thuộc địa như ngày nay ở Cali, trong các toà án đều có thông dịch viên tiếng việt , tiếng tàu, tiếng Mễ,...


Dạo ấy ở Pháp quốc có ông Jules Ferry, sau này có thời làm thủ tướng. Ông này muốn giáo dục phải bắt buộc cho người Pháp và miễn phí. Ông ta chống lại sự ảnh hưởng hiện hữu của nhà thờ trong học đường mà người Pháp gọi là école laique. Ông này theo chủ nghĩa cộng hoà. 


Ở Đông Dương, các nhà điều hành thuộc địa đứng giữa hai con đường giáo dục cho người dân sở tại. Cho người Đông dương học miễn phí thì sợ họ có kiến thức sẽ trở lại chống đối tây thuộc địa, mà theo chủ nghĩa Jules Ferry, áp dụng dạy pháp ngữ trong trường đã làm mất mát rất nhiều các phương ngữ (patois) tại Pháp quốc. Ngược lại chủ nghĩa của ông này đã giúp thống nhất nước pháp về pháp ngữ được sử dụng hoàn toàn trong lớp và nền đệ tam cộng hoà. Cho nên khi người di dân từ Phi châu sang, các chính phủ xã hội, muốn giữ gìn văn hoá của họ, sẽ giúp đóng góp thêm phần trù phú cho văn hoá tây, các đảng phái thiên hữu chống lại việc này, muốn áp dụng chủ nghĩa Ferry cho người di dân, đưa đến xung đột.


Dạo mình ở Pháp quốc, có mấy vụ khủng bố đòi tự trị tại các vùng như Bretagne, Corse, Basque, người dân địa phương ra công sức học phương ngữ của cha ông của họ mà nền đệ Tam cộng hoà đã vô tình giết chết.


Sau khi thất trận 1870 với nước Phổ, Pháp quốc qua ông Jules Ferry hoạch định thu dụng, biến các quốc gia trên thế giới thành thuộc địa của pháp để làm bàn đạp kinh tế của Pháp quốc. Khi xưa, học sử mình tưởng là mấy ông giáo sĩ là những người xúi chính phủ pháp chiếm các thuộc địa trên thế giới nên căm thù thiên chúa giáo nhưng sau này sang tây học thì mới khám phá ra nền cộng hoà đệ tam, chống đối nhà thờ đã có ý tưởng thâu dụng các thuộc địa. Chính ông Ferry đã ra quyết định chiếm đóng Đông Dương. Năm 1884, ông ta tuyên bố: “ đó là một quyền cho các giống dân, dân trí cao cấp, đó là bổn phận của họ, khái trí các giống dân hạ cấp”. Không thua gì ông Hitler 80 năm sau. Kinh


Chủ trương của những người ủng hộ chủ nghĩa Ferry tại Đông-Dương, cho rằng giáo dục tại các thuộc địa, là bổn phận của người thực dân, vừa nhân đạo và chính trị. Dựa theo các nguyên lý của nền Cộng Hoà “l’égalité de tous devenant le Savoir ». Do đó sử dụng pháp ngữ trong nền giáo dục tại Đông-Dương như nền giáo dục tại mẫu quốc đã loại các phương ngữ cùng thời gian đó. Mình không biết nay ra sao nhưng thời mình ở Pháp quốc thì có đến viếng thăm vùng Alsace, thấy cô bạn nói chuyện bằng phương ngữ của vùng này với bố mẹ. Dạo mở bên Thuỵ Sĩ, vùng đức ngữ họ cũng có phương ngữ, trong khi vùng pháp ngữ thì chỉ nói tiếng tây. Có lẻ ảnh hưởng của chủ nghĩa Ferry trong giáo dục pháp ngữ.


Vấn đề là chủ trương của chủ nghĩa Ferry đem đến một vấn nạn; người thực dân, tự cho mình là văn minh, có bổn phận giáo hóa người địa phương, nên xem thường, khinh bỉ văn hoá các người dân địa phương. Cộng thêm sự yếu kém của người á châu cùng thời. Tinh thần trọng nể và lo sợ trước ông tây bà đầm mà hệ luỵ này còn kéo mãi đến ngày nay.


Mình nhớ, 25 năm về trước, có quen một ông mít ở Bolsa. Ông này, tính làm ăn ở Việt Nam nên thành lập một công ty rồi về Việt Nam với một tên thợ sửa ống nước người Mỹ. Ông ta in danh thiếp tên Mỹ là chủ tịch còn ông thì phó chủ tịch công ty. Mình hỏi tại sao, ông ta kêu có người Mỹ theo thì bọn Việt Nam mới tin. Làm gì cũng phải bỏ thằng da trắng vào để cũng cố niềm tin của đối tác. Chán Mớ Đời 


Người Pháp cho rằng nhà nho Việt Nam, được dân chúng mến mộ và trọng nể vì họ đại diện cho văn minh tàu, nho giáo, đúng hơn là sự hiểu biết như bài ca dao mình học khi xưa ở trung học đệ nhất cấp:


 Chẳng tham cái bút cái nghiên

Chẳng tham ruộng cả ao liền gì đâu
Phải duyên phải lứa cùng nhau

Dẫu mà áo vải cơm rau cũng về


Trên thực tế thì người học chữ Hán, gọi là kẻ sĩ, không tham tiền vì “quân tử ăn bất cầu no.” Họ có một nhân sinh quan khá tốt về mặt đạo đức nhưng lười lao động với quan niệm “sĩ nông công thương”. Do đó người có học chữ Hán từ bao nhiều năm nay, được trọng vọng trong xã hội Việt Nam.


Sau khi Mao thị lên ngôi, càng quét đốt sách nho giáo rồi Đặng thị cho làm ăn thì trong vòng 30 năm nước tàu bổng biến thành con rồng của thế giới nhưng về đạo đức con người thì hầu như không có. Họ sẵn sàng bỏ các chất hoá học có thể hại khách hàng để được lợi nhuận,..


Người Pháp thực dân cho rằng người a-nam chỉ là một kẻ cu-li được Hồng ân của chúa ban cho để sai khiến.... (Ông Rocca Sierras, phó hiệu trưởng trường Chasseloup-Laubat tuyên bố.)


Dạo ấy, người Việt nói tiếng Việt, và chữ quốc ngữ dễ học hơn chữ Nôm hay chữ Hán nhưng người Việt lại thích viết chữ Hán với những bút pháp lâu nay.


Người Pháp đã nhận thấy từ thế kỷ trước là người đàn bà việt có những đặc tính hơn đàn ông việt như thông minh, thích học hỏi và giáo dục phụ nữ là điều tiên quyết vì chính họ là những người dạy dỗ con họ sau này.


Cùng có thể về chính trị người Pháp muốn giáo dục phụ nữ để giúp họ, ủng hộ nhà cầm quyền thực dân vì trong nền văn hoá nho giáo, phụ nữ không được đi học, ngoại trừ một thiểu số con nhà giàu.


Từ đó các cuộc khai trí cho người Việt qua các tạp chí như Nam Phong Tạp Chí do ông Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác ra đời, để phổ biến chữ quốc ngữ. Nghe nói là do người Pháp đài thọ ngân quỹ, tương tự ở miền nam có tờ Tribune indigène bằng pháp ngữ, cũng với tinh thần khai trí người Việt. 


Năm 1904, có hai phong trào Đông Du do ông Phan Bội Châu và phong trào Duy Tân do ông Phan Chu Trinh khởi xướng, nhằm kêu gọi thanh niên Việt Nam tìm cách phát triển Việt Nam thì bị người Pháp dập tắt ngay, cho thấy người Pháp không muốn người Việt thâu thập nhiều tin tức, trí tuệ vì sợ sẽ chống lại họ. (Còn tiếp)


Nguyễn Hoàng Sơn 

 

Đàlạt phát triển dưới thời đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà

Người Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ nên đồng ý rút quân ra khỏi Việt Nam nhưng sau 1945 thế giới được chia làm hai phe: khối cộng sản và khối tư bản nên họ thống nhất chia đôi Việt Nam ở bờ vỉ tuyến 17. Mình nghe kể ông cựu ngoại trưởng Trần Văn Đổ; hai phe miền nam và miền bắc đi phó hội hội nghị Geneva cho vui vì có hôm, sau buổi họp thì chiều tối đó, ông Phạm Văn Đồng gọi điện thoại, cho biết là phía Liên Xô đã cho biết các đồng minh và Liên Xô đã nhất trí việc chia cắt Việt Nam, không thèm hỏi hai phái đoàn Nam Bắc Việt Nam.

Hai phái đoàn mới họp khẩn tối đó, bàn xem có thể chống chọi hay chia cắt ở khúc nào. Ai ngờ hôm sau, Mỹ và Liên Xô đã quyết định dùng vỉ tuyến 17, làm ranh giới cho hai miền quốc cộng. Bao nhiêu người chết cho cuộc chiến thắng quân đội pháp để rồi chả có tiếng nói gì cả, ngoại bang quyết định hết tương tự ngày nay. 

Sau này khi Hà Nội và Hoa Kỳ ký kết bang giao, nhóm người Việt hải ngoại, cố vấn cho phái đoàn Hoa Kỳ, đã yêu cầu Hoa Kỳ đòi Hà Nội cho người tù cải tại ra đi theo diện H.O. Nhờ đó mà có nhiều gia đình H.O. Được sang Hoa Kỳ để đổi lấy bang giao lại với Hà Nội để tư bản có thể làm ăn kiếm lời. Đó là một điểm son của người Việt hải ngoại giúp các người bạn ở tù cộng sản, tìm tự do cho con cháu họ.

Theo hiệp định Geneva, sẽ có tổng tuyển cử để thống nhất 2 miền nam bắc, ai muốn theo Việt Cộng thì tập kết ra bắc còn ai muốn theo tự do thì xuống thuyền di cư vào nam. Hơn 1 triệu người Việt bỏ quê cha đất tổ vào nam lần đầu để tìm sự sống, sau vụ cải cách ruộng đất long trời lở đất. Hà Nội để lại miền nam đâu 300,000 cán bộ của họ, nằm vùng.

Miền nam có lỗ hổng về chính quyền khi người Pháp rời Đông Dương. Sau này mình mình đọc tài liệu thì mới hiểu chính ông Ngô Đình Nhu đã vận động một người bạn học cũ, làm dân biểu quốc hội pháp để đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam, làm thủ tướng. Người Tàu Chợ Lớn, chi tiền cho ông Bảo Đại đánh bài ở Hongkong, mong sau này được ưu đãi trong việc làm ăn lâu dài để cung ứng tiền cho ngài ăn chơi. Pháp của De Gaulle muốn Đông Dương trung lập, không theo phe nào cả nên chấp thuận ván cờ này.

Dạo ấy, Sàigòn như bỏ ngỏ cho các nhóm BÌnh Xuyên làm trời. Mình đọc “Thép Đen “ của ông Đặng Chí BÌnh mới hiểu sơ sơ về thời ấy. Quân đội BÌnh Xuyên rất mạnh, làm trời làm đất ở Sàigòn. Sau này, chính phủ Pháp chi tiền cho Bảy Viễn sang pháp dưỡng già, để quân đội của ông Diệm, do ông Dương Văn Minh chiếm sào huyệt của mình để phô trương uy thế của chính phủ Ngô Đình Diệm. Sau khi lên làm thủ tướng cho chính phủ Bảo Đại, ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã tìm cách khống chế sự lũng đoạn kinh tế của nhóm tài phiệt Chợ Lớn. Có dịp sẽ kể sau.

Ông Diệm truất phế ông công dân Vĩnh Thuỵ, rồi đắc cử tổng thống, thành lập ra nền đệ nhất cộng hoà, cho đến năm 1963. Thời gian đệ nhất cộng hoà thì mình còn bé nên không nhớ nhiều.

 Mình chỉ nhớ thời bé đi xem xi-nê ở rạp Ngọc Hiệp, có màn khán giả đứng dậy chào quốc kỳ, có hình ông Ngô Đình Diệm, bận áo dài khăn đóng với bài toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô tổng thống và ông cụ mình với các đồng nghiệp, bận áo quần xanh Thanh Niên Cộng Hoà đi duyệt binh ở khu Hoà Bình. Một vụ khác là được bà đầm dẫn cả lớp ra đứng đường Hùng Vương để chào đón tổng thống đi xe Huê Kỳ từ phi trường Cam Ly. Đứng nắng phất cờ mệt thấy Ngô tổng thống luôn.

Nay nhìn lại thì được biết ông Diệm không muốn lập thủ đô tại Đàlạt như ý định của người Pháp và lập thủ đô tại Sàigòn. Từ năm 1956 đến 1963, có 9 năm ngắn ngủi nhưng đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà đã để lại nhiều dấu ấn kiến trúc tại Đàlạt. 

Ông thị trưởng Đàlạt đầu tiên thời đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà là Trần Văn Phước, làm từ thời ông Diệm lên đến khi ông Diệm bị giết, đã nói lên các người được ông Diệm chọn lựa. Rất liêm chính và có khả năng. Sau khi ông Diệm bị giết thì chính quyền mới bổ nhiệm người khác, và tố cáo ông Phước tham những nhưng cho xem sổ sách thì ông ta không hề bỏ túi một đồng.

Ông này sinh trưởng tại Nam Vang, thủ đô Cao Miên, làm thị trưởng Đàlạt từ năm 1956 đến 1963. Trong 8 năm trời, ông ta đã biến thị xã Đàlạt thành một thành phố đẹp, có nhiều công trình xây dựng như Chợ Mới, giáo hoàng học viện, viện đại học Đàlạt, Thao trường, lữ quán thanh niên, sân vận động,….được xem là đẹp nhất đông Nam Á.

 

Điểm hay là ông ta sử dụng toàn là kiến trúc sư người Việt. Hình như dạo ấy tuy có chiến tranh nhưng Việt Nam có một thế hệ kiến trúc sư trẻ rất giỏi như Nguyễn Duy Đức, người thiết kế Chợ Mới Đàlạt, hay Tô Công Văn thiết kế Giáo Hoàng Học Viện, Ngô Viết Thụ thiết kế trung tâm Nguyên Tử Lực, Phạm Khánh Chù thiết kế nhà thờ Franciscaine,… có dịp mình sẽ kể về mấy người này. Ai có tài liệu về họ thì cho mình xin để bổ túc.


Điểm nhấn của Đàlạt dưới thời ông ta làm thị trưởng là chợ Đàlạt mà thế hệ mình thường gọi Chợ Mới, để thay thế Chợ Cũ, địa điểm hội trường Hoà Bình. Kiến trúc của thời đệ nhất cộng hoà cho thấy rất hiện đại của phong trào kiến trúc thời ấy, bị ảnh hưởng của các trường phái của Le Corbusier, Bauhaus, Gropius,..



Đây là khu thương mại cảu Đàlạt được xây dựng dưới thời đệ nhất Cộng Hoà, gồm chợ Mới Đàlạt, chiếc cầu nối liền khu Hoà BÌnh và chợ Đàlạt ở tầng trên và cầu thang chợ chia cắt khách sạn Mộgn Đẹp và nhà hàng La Tulipe Rouge. Bill Robie’s Photo Courtesy (Đàlạt Historic)


Mình đoán là cổng trường Võ Bị Quốc Gia chắc được thiết kế vào thời gian ông Diệm lãnh đạo vì kiến trúc khá hiện đại, một thời với chợ Đàlạt và Giáo Hoàng Học Viện. Ngoài ra theo trí nhớ cua mình thì trường học Trí Đức, Bồ Đề, Lasan Kỹ thuật đều được xây dựng dưới thời ông Diệm vì sau 1963 người Mỹ bắt đầu đổ bộ vào Việt Nam, khiến chiến sự gia tăng. Dân tỵ nạn chiến tranh, từ làng mạc chạy vào thành phố lánh nạn nên nhà cửa mọc như nấm, thương phế binh cắm dùi,... nói chung là xây dựng bất hợp pháp và vô tổ chức. Chỉ nhớ thời ông Nguyễn Hợp Đoàn làm thị trưởng Đàlạt, kiêm tỉnh trưởng Tuyên Đức, có dự định dời bến xe đò trên khu Hoà BÌnh và chỗ Ấp Ánh Sáng ra đường Nguyễn Trị Phương, vị trí của bến xe đò ngày nay, sẽ giúp làm sạch thành phố và bớt nạn xe đò, xe hàng chạy vào thành phố nhiều.


Ngoài ra, viện đại học Đàlạt cũng được phát triển thời ông Diệm, thêm các trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị, trường Tham Mưu. Nếu mình không lầm thì chính quyền muốn tạo dựng một trung tâm văn hoá, có thể các đại học khác sẽ được thành lập thêm. Hình như mình có đọc đâu đó.

 

Hình trên là thiết kế chính của trung tâm thương mại Đàlạt, tạo dựng chợ Đàlạt như một điểm nhấn, trung tâm với đại lộ từ bùng binh cầu Ông Đạo chạy vào với vườn hoa hai bên nhưng vì chiến cuộc Đàlạt không có ngân sách để tiếp tục khai thác thêm ý chính của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.


Giáo Hoàng Học Viện được thiết kế bởi kiến trúc sư Tô Công Văn, cho thấy ảnh hưởng của Bauhaus.

Thao Trường Đàlạt được xây dựng dưới thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà sau 75 bị Việt Cộng đập bỏ, để thế vào một trung tâm văn hoá  hay thể thao gì đó, cực xấu. Ai có tài liệu về Thao trường cho mình xin. Cảm ơn trước.


Ông Trần Văn Phước, thị trưởng Đàlạt của thời đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà, một người có viễn kiến xa và tài ba, liêm chính, đã để lại nhiều điểm nhấn cho Đàlạt. Chỉ tiếc ông ta bị thay thế sau khi ông Diệm bị giết. Nếu không chắc Đàlạt còn đẹp hơn nữa.


Viện nghiên cứu hạt nhân Đàlạt do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế năm 1960. Picture  From Internet


Trường Võ Bị Quốc Gia có cái cổng rất đặc thù, đẹp như con chim đại bàng với hai cái cánh dương ra. Picture  From Internet 

Để mình tìm thêm vì không biết mấy tấm ảnh khác ở đâu. Sẽ bổ túc sau.


Nhìn lại thì có thể nói là trong thời gian cầm quyền từ 1956-1963, xem như 8 năm trời mà chính quyền đệ nhất cộng hoà đã xây dựng rất nhiều cơ quan lớn, để lại dấu ấn của Đàlạt đến nay vẫn chưa có gì sánh bằng. Mình chỉ nhớ họ đập phá hai căn nhà kính ở gần trường Petit Lycee để xây cung thiếu nhi theo kiểu Liên Xô cực xấu nay phá bỏ để xây trung tâm hành chánh bằng kính, xấu không thể tả. (Còn tiếp)


Nguyễn Hoàng Sơn 

Gian-nan tìm nhà anh Vinh

 Hôm trước, đọc trên blog của nhạc sĩ Tuấn Khanh về tay trống của ban nhạc Phượng Hoàng của Việt Nam Cộng Hoà khi xưa. Dạo mình còn học trung học, những lời ca tiếng nhạc của ban nhạc Phượng Hoàng đã giúp mình hiểu biết thêm về thân phận người Việt, giúp mình học hành để đi du học. 

https://nhacsituankhanh.wordpress.com/2021/02/04/tim-gap-con-phuong-hoang-cuoi-cung/ 

Mới thấy trên Facebook của nhạc sĩ Tuấn Khanh video này:

https://youtu.be/ryRFET9Adto


Lần đầu tiên biết đến nhạc Phượng Hoàng, khi đợi thầy vào lớp, bổng có anh bạn học cất tiếng ca bài: “Tôi muốn”

Tôi muốn mình tìm đến thiên nhiên
Tôi muốn sống như loài hoa hiền
Tôi muốn làm một thứ cỏ cây
Vui trong gió và không ưu phiền
 from: http://www.lyricenter.com ]
Tôi muốn mọi người biết thương nhau
Không oán ghét không gây hận sầu
Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau
Tôi muốn thấy tình yêu ban đầụ..

Em có thấy hoa kia mới nở
Trong giây phút nhưng đẹp tuyệt vời
Như hạnh phúc thoáng qua mất rồi
Giờ đâu còn tìm được nét vuị..

Tôi muốn thành loài thú đi hoang
Tôi muốn sống như loài chim ngàn
Tôi muốn cười vào những khoe khoang
Tôi muốn khóc thương đời điêu tàn...

Thấy Lợi lạ tai, trưa đó thì bổng nhiên nghe đài phát thanh Đàlạt phát thanh bài hát này qua giọng hát Elvis Phương. Từ đó mình tìm mua cuốn ban nhạc Phượng Hoàng, cứ nghe đi nghe lại mỗi ngày khi học bài.

Không ngờ mấy chục năm sau, mình lại có 20 acres vườn trồng toàn là bơ, đưa mình về với thiên nhiên như bài ca độ nào. Xem những đoá hoa bé tí của cây bơ nở chào đón ánh sáng bình minh trong sương se lạnh của tháng 2 Cali. Còn thú hoang thì chắc không vì thấy toàn là coyote và sóc, rắn chuông kinh lắm.

Nhưng có lẻ bản nhạc để lại cho mình nhiều ấn tượng nhất là :

Hãy nhìn xuống chân biết bao nhiêu người khốn cùng 
Sống đời tối tăm như loài giun 
Hãy nhìn xuống chân biết bao nhiêu người ngã gục
Chết để chúng ta thêm lợi danh 
[ Lyrics from: http://www.lyricenter.com ]
Hãy nhìn xuống chân dế giun đang cười con người
Miếng mồi đỉnh chung ai giành nhau
Hãy nhìn xuống chân để thấy thua loài côn trùng
Suốt đời chẳng bon chen nhọc thân

Hãy nhìn xuống chân những gông xiềng từ muôn kiếp
Hãy nhìn xuống chân thấy ước mơ đang chết dần
Sao còn giết nhau mãi giết nhau không hối tiếc
Sao còn mãi mê mãi mê chia chác bạc tiền 

Hãy nhìn xuống đây để thấy thương người thua mình
Vẫn gượng sống vui với niềm tin 
Hãy nhìn xuống chân để lắng nghe nỗi bất bình
Muốn gào thét nhưng phải lặng thinh

Trong những năm tháng dài cô đơn ở hải ngoại khi mất tin tức gia đình sau vụ 30/4/75, nhờ bản nhạc:

Hãy vui lên bạn ơi ! 
Thời gian chẳng cho ta một giờ để cười 
Yêu đương chẳng dư được một giây phút vui 
Dù sao hãy cười bạn ơi ! 
[ Lyrics from: http://www.lyricenter.com ]
Hãy vui lên bạn ơi ! 
Ngày mai lắm khi không còn gì để cười 
Tương lai biết đâu chỉ là thương nhớ thôi 
Dù sao hãy cười bạn ơi ! 

Cuộc đời chẳng có bao lâu 
Sao ta cứ mãi u sầu 
Hãy mỉm cười với tất cả mọi người 
Tự nhiên ta sẽ thấy đời thêm tươi :-) 

Hãy vui lên bạn ơi ! 
Ðời tuy đắng cay như cuộc tình nửa vời 
Tim tuy chán chê lòng người nhưng cố vui 
Dù sao hãy cười bạn ơi ! 

Đã giúp mình kinh qua những nổi buồn để học ra trường. Cảm ơn Phượng Hoàng đã cho mình tìm lẻ sống của một thời trong chiến tranh và thời sau chiến tranh với những lời ca rất đẹp. Có thể gọi Phượng Hoàng là “The Beatles of Việt Nam”. Chỉ tiếc là Phượng Hoàng chỉ tồn tại có mấy năm nếu không? Vâng nếu không.

Mình không thích mấy loại nhạc ngoại quốc chuyển ngữ lời việt vì ít có bài lột tả được tâm tình của tác giả ngoại quốc. Có thể họ cho dịch, sản xuất hàng loạt để cung ứng cho nhu cầu thị trường, không đếm xỉa gì đến bản quyền hay ý nghĩa của bài hát. Tương tự sau 75, ở hải ngoại có vài người dịch nhạc ngoại quốc ra việt ngữ để cung ứng cho nhu cầu người việt hải ngoại.

Nhắn tin của anh bạn học của đồng chí gái khi tìm tra nơi ở của anh Vinh

Mình nhờ bạn học cũ của đồng chí gái tìm đến thăm gia đình anh Nguyễn Trung Vinh, không họ hàng gì với nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang để gửi tặng món quà mừng xuân. 24 tiếng đồng hồ sau, mình nhận được mấy tấm ảnh sau đây. Anh bạn kêu rất gian nan tìm đến nhà của tay trống Nguyễn Trung Vinh. Mình thấy hình ảnh có những tấm mộ trong một nghĩa trang.

Xin cảm ơn anh Tân đã chịu khó, tìm ra những người tài danh của Việt Nam Cộng Hoà khi xưa, không có đất sống sau 75.

Mình có đọc mấy còm của nhiều người trên bờ lốc của nhạc sĩ Tuấn Khanh, họ muốn giúp đỡ anh Vinh nên đăng lại mấy tấm ảnh này để ai muốn thăm viếng anh Nguyễn Trung Vinh, tay trống của ban nhạc Phượng Hoàng một thời. Có thể mò ra địa chỉ của anh Nguyễn Trung Vinh.

Nguyễn Hoàng Sơn 



















Nhấn Like hay đọc sách

 Đọc sách và nhấn Like

 

Mình bắt đầu viết những gì lùng bùng trong đầu bằng tiếng Việt từ mấy năm nay, i-meo cho mấy người bạn học cũ ở Đàlạt. Lý do là đều cùng thế hệ cuối cùng được Việt Nam Cộng Hoà đào tạo. Ai đọc thì đọc, ai không thích thì nhấn delete hay block email. Lâu lâu có một vài người i-meo lại, hỏi vài câu, thậm chí có người mình không biết là ai, bạn bè chuyển i-meo cho họ. Yêu cầu gửi lại bài chi đó mà mình viết xong thì quên, đã giải tỏa một số lùng bùng trong đầu. 

 

Mình vào facebook chỉ đọc tin tức về Việt Nam hay em út trên thế giới. Mấy tháng nay, mình tãi vài bài viết cũ trên facebook cho một nhóm mới quen thì khám phá vài sự kiện.

 

Nếu mình tãi lên những chuyện kể về chuyện tình nắng mưa ngày xưa thì rất nhiều người nhấn “Like” và “share” còn những bài mình kể về kinh tế, nhất là lịch sử thì ít ai đọc, ngoại trừ một vài người chịu khó còm, khiến mình nhớ có đọc ở đâu đó, một học giả ở Việt Nam kêu; người Việt nói chung không ham đọc sách.

 

Ông ta viện lý do là đọc sách, không phải chỉ ngồi vào bàn mà nói lên cả văn hoá đọc với cơ cấu phức tạp của hành động.

 

(“Sách” không chỉ vài tác phẩm văn chương mùi mẫn, du dương êm ái đến đọc dễ bỏ mà bao gồm cả các công trình nghiên cứu, chuyên khảo,…) hết trích.

 

Người Việt ở hải ngoại mà mình gặp cũng thấy ít ai thích đọc sách. Có vài nguo học Văn Học xưa là hay chia sẻ các bài văn hay sách báo ở mỹ. Gặp bạn bè, nghe họ nói về cá độ banh bầu dục, bầu cử hay uống rượu, tếu tếu hay hát hò. Có lẻ người Việt mình thiên về tình cảm hơn về lý trí. Họ thích sống trong đám đông hơn là đơn độc với chính mình vì chúng ta có thể nhậu tập thể nhưng không thể đọc sách chung được.

 

Có lẻ văn hoá Việt không coi trọng kiến thức, người trí thức không được đánh giá đúng mức mà chính những người bạn của mình, tốt nghiệp, có bằng đại học đi làm, chỉ đọc tài liệu về ngành chuyên môn để giúp cho công việc, ngoài ra các sách báo về lịch sử, kinh tế, thi ca… thì không thiết tha. Cho thấy người có bằng cấp cũng lười đọc sách, thì người Việt nói chung, xa lạ với sách cũng bình thường.

 

Cũng có thể mình học ở Pháp nên quen tính người Pháp thích đọc sách và hay tranh luận. Mỗi lần sinh nhật hay giáng sinh, tụi bạn tây đầm hay tặng sách cho nhau trong khi ở Hoa Kỳ thì đa số tặng áo quần hay 3 cái chi đó. Mấy chục năm sau, nhìn lại mấy cuốn sách là nhớ của ai tặng, nhớ lại hôm ấy ra sao, thời ấy, người ta bàn cãi vấn đề gì,… Nhớ dạo ấy có một chương trình đọc sách hàng tuần trên đài truyền hình, rất được người Pháp hâm mộ dù được truyền hình rất trễ. Ngay trên đài France Culture mình hay nghe khi lái xe, khá hay. Mình ít khi bỏ chương trình này.

 

Có thể, ngày nay cuộc sống không cho chúng ta nhiều thời gian, nên tin tức hay tư duy mình đều gởi gấm vào các ông bà cố đạo hiện đại. Các phóng viên đài truyền hình, đưa tin hay nhận định về những vấn đề trong vài phút rồi chúng ta chỉ lập lại những gì họ đã thông tin tương tự các cố đạo hay ông sư khi xưa, không có thì giờ để suy ngẫm về thông tin.

 

Hàng ngày, chúng ta nghe các cố đạo của đài truyền hình CNN, Fox, MSNBC,…chuyển vận những tư duy có định hướng của họ về một vấn đề gì đó, chúng ta lập lại như khi xưa nghe các cố đạo nhà thờ hay sư sãi ở chùa thuyết pháp. Chúng ta đón nhận thông tin một cách thụ động thêm ngày nay trên mạng, chúng ta có thể nối kết với những người có cũng tư duy hay có cùng một cố đạo thông tin, không cần nghe những gì khác, trái tai để phân định lại suy nghĩ của mình. Đa số nhất trí với mình tất nhiên mình là đúng, chắc chắn không sai.

 


Qua cuộc bầu cử tổng thống vừa qua, người chống hay theo ông Trump, chỉ đọc tin tức họ muốn nghe, đưa đến sự cuồng tín. Ông Galileo bị giết vì nói khác những gì các ông cố đạo thiên chúa giáo nói. Sự cuồng tín sẽ đưa đến nạn độc tài. Ông Albert Camus, có viết đâu đó: "Khi một thiếu số, nhân danh công lý nổi dậy đấu tranh thì vô hình trung tạo nên một sự bất công khác."

 

Tuần trước, mình tình cờ đọc một bài viết của một bà người Pháp, dân tỉnh lẻ, kể đậu tú tài pháp hạng Bình, được vào trường École Normale của Pháp. Khi vào trường này ở Pái, bà ta chới với vì khi nói chuyện với các sinh viên khác nhất là dân Paris thì cảm thấy thua kém họ về kiến thức nên ra sức đọc thêm sách. Đọc bài báo này, mình thấy lại hình ảnh của mình khi xưa, thời sinh viên, chân ướt chân ráo vào cửa đại học.

 

Không hiểu sao bọn tây đầm cùng tuổi hay trẻ hơn lại thông thái, biết nhiều hơn mình, một tên lớn lên tại Đàlạt, một tỉnh lẻ ở Việt Nam. Phải mượn sách về đọc. Cứ nghe bọn tây đầm nói về vấn đề gì là phải vào thư viện lục sách để đọc. Coi như đụng cái gì đọc cái đó, không phân biệt hay lựa chọn. Đọc như điên để chạy đua với đám tây đầm. 

 

Dạo ấy, vào quốc tịch Tây thì phải đi quân dịch một năm hay đi cooperant ở các xứ phi châu 2 năm. Một hôm mình đi trình diện ở trại lính để họ làm thủ tục, khám sức khỏe để hè, sau khi tốt nghiệp, bắt đầu nhập ngủ. Mình tá hoả tam tinh khi đụng chạm thực chất với đám tây cùng tuổi, thượng vàng hạ cám của nước Pháp. Hoá ra tụi tây đa số cũng dốt, ngu lâu bền vững. Có một tên sinh viên Tây cũng hoang mang như mình nên hai đứa cứ tụ lại đi ăn cơm, nói chuyện, ngủ chung cùng phòng. Mình học đại học ở Paris, trường cao đẳng quốc gia mỹ thuật, nổi tiếng thế giới nên đám sinh viên tây đầm được xem là giới có trình độ của nước Pháp, chớ tụi tây gốc thợ thuyền thì tư duy cũng chả khá gì lắm.

 

Lúc được phỏng vấn, mình kêu sinh ra và lớn lên tại Việt Nam suốt 18 năm, toàn thấy chiến tranh, chém giết nhau nên chán thấy lính tráng. Tên tây phỏng vấn mình, phê miễn dịch. Sướng rêm mé đìu hiu. Ra về thằng tây sinh viên nhìn mình thèm nhỏ dãi vì nó phải đi quân dịch 1 năm, trà trộn với đám tây lao động. Kinh. Mình có mấy tên bạn tây, chúng theo học khoá sĩ quan trừ bị nên phải đi thụ huấn vào cuối tuần, đủ trò nên tương đối, gặp toàn dân có học đại học nên đỡ.

 

Dạo lớn lên tại Đàlạt, sách mà mình đọc đều là mượn của hàng xóm hay bạn. Đàlạt có thư viện nhưng mình không mượn đem về được, mình có ghé vào kiếm sách đọc nhưng đa số là xem báo nhiều hơn là sách vì không được huấn luyện để biết cách mượn sách. Hai năm cuối qua trường Việt thì mới bắt đầu hiểu tiếng Việt nhiều hơn nhờ mấy ông thầy cho mượn sách khá đặc thù hơn.

 

Hè, mình ghé tiệm sách Minh Thu ở đường Phan Đình Phùng, mướn sách để đọc. Đa số là truyện chưởng hay tiểu thuyết. Mình thấy con mình học ở trung học tại Hoa Kỳ, đã được thầy cô bắt đọc sách với trình độ cao hơn mình khi xưa. Mấy sách dịch như Doctor Zhivago, Chiến Tranh và Hoà Bình hay Quần đảo Ngục Tù hay mấy cuốn của Eric Remarque,.. thì được chị hàng xóm cho mượn hay mấy cuốn sách học làm người của Hoàng Xuân Việt hay Nguyễn Hiến Lê do một ông hàng xóm đi Xây Dựng Nông Thôn cho mượn.

 

Sau này có con, hè mình chở chúng ra thư viện mỗi tuần để mượn sách để đọc. Trong thành phố, họ có chương trình khuyến khích học sinh đọc sách vào mùa hè nên được các tiệm ăn, nhà sách bảo trợ. Ai đọc được 10 cuốn thì được ăn hamburger miến phí và được tặng một cuốn sách của Barnes & Noble. Sau này lớn một chút, chúng tình nguyện giúp thư viện vào mùa hè để hiểu lý do phải đọc sách.

 

Mình đọc tài liệu của Pháp khi họ đô hộ Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 thì chỉ có 5% người Việt là biết chữ. Biết chữ có nghĩa là đọc được chữ Hán nhưng cũng tuỳ người, tuỳ trình độ, có người học được vài năm chữ Hán thì chắc vài trăm hay vài ngàn chữ do đó đọc sách chữ Hán thì chắc loanh quanh Tứ Thư Ngũ Kinh. Ngày xưa, mình học chương trình pháp nhưng ít được đọc sách báo pháp vì quá đắt nên ngữ vựng pháp rất hạn chế đến khi sang pháp, đọc sách báo mỗi ngày thì mới bớt ngu lâu dốt sớm.

 

Mấy người đi sứ sang Tàu, đem về vài cuốn sách hay do ai đó tặng. Ông Nguyễn Du đi xứ Tàu, có đem về được cuốn Đoạn Trường Tân Thanh, rồi dựa theo cốt truyện, viết Kim Vân Kiều để đời. Không biết ông ta mua hay được ai tặng đem về. Nếu không đem sách tàu về thì ngày nay chúng ta không có Truyện Kiều. Nghe nói ngày xưa, có một đường sách, giữa Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản tương tự đường tơ lụa đi về phía Tây. Giới biết chữ của xứ Tiều Tiên hay Nhật Bản, gửi mua sách của người Tàu, rất được ưa chuộng nhất là vào thời nhà Tống. Không biết trí thức việt có gửi mua sách cảu người Tàu hay không. Ai biết cho em hay.

 

Từ xưa, trong xã hội, chữ Hán được sử dụng trong hành chánh, học đường trong khi người Việt lại sử dụng tiếng Việt trong đời sống hàng ngày. Tương tự khi xưa mình học chương trình pháp nhưng ra chơi lại chửi thề đờ mờ với đám bạn cùng lớp. Mình lơ ngơ vì tiếng Việt không thạo, tiếng tây cũng bá vơ. Sau này ra trường, mình mua sách việt ngữ đọc giúp trau dồi thêm ngữ vựng tiếng Việt. Khi về Cali, báo biết đầy nên đi chợ lượm cả chục tờ báo về đọc để học tiếng Việt.

 


 Người Việt dùng chữ Hán để viết, lại nói tiếng Việt, từ đó họ làm ra chữ Nôm, mà các nhà nho mít khi xưa chê bai “Nôm na là cha mách qué” đến khi người Pháp sang cai trị. Chữ Hán được dẹp thay vào đó là pháp ngữ.

 

Tình trạng này khiến chữ viết, một chỉ số văn hoá níu kéo văn hoá đọc sách với hai nghĩa. Ở dạng trực tiếp, chữ Hán hay chữ Pháp rất khó viết vì người viết cần thông thạo Hán ngữ hay Pháp Ngữ, viết xong thì khó xuất bản, khó đến tay đọc giả. Có bao nhiêu người Việt viết sách hán ngữ, pháp ngữ và được xuất bản trong thời đô hộ của người Tàu, người Pháp. Ở dạng gián tiếp, có rất nhiều ảnh hưởng đến tư duy, tri thức của người Việt.

 

Mình thấy rõ người Việt sống tại Hoa Kỳ. Thế hệ trẻ hơn, sang Hoa Kỳ thời bé, ngay cả thế hệ của mình. Tiếng Việt chỉ trụ lại từ ngày bỏ nước ra đi, lâu ngày tiếng Việt của chúng ta mai mọt, quên từ vựng nhiều nên đọc báo Việt Nam ít hiểu. Khi nói chuyện với nhau, hay chêm vô từ vựng anh ngữ. 

 

Mình hay bị đồng chí gái chửi vì hay sửa các lỗi khi mụ vợ nói chuyện, dùng từ vựng việt ngữ sai. Mình cố gắng nói tiếng Việt hoàn toàn từ vựng tiếng Việt. Cứ tưởng tượng một tên ngoại quốc đang nói chuyện bằng ganh ngữ rồi chêm thêm tiếng ấn đô chi đó là mình ngọng. Không hiểu được.

 

Khi người ta biết chữ, có thể ghi chép khi đọc một tờ báo hay một cuốn sách những điều là lạ, hay ho vào cuốn tập. Nhờ đó lâu ngày sẽ hoàn thiện dần dần những tư duy của mình, giúp phong phú hoá tri thức của chúng ta. Có người còm trên Facebook, kêu không biết mình tìm ý tưởng ở đâu ra để kể lại. Mình chỉ đọc sách báo như mọi người nhưng quen ghi chép lại, tóm tắc lại những gì đã đọc thay vì nhấn Like. Mình chỉ là người ghi chép, kể lại chớ không có tư duy gì cả. Chỉ là thói quen từ bé.

 

Người tây phương có thói quen viết nhật ký hay ghi lại những gì quan trọng tròng đời họ. Trong cuộc cách mạng 1789 ở Pháp, khi cuộc chiến ngưng vài tiếng, các người dân Pháp đứng lên đòi tự do, công bình, bác ái, tranh thủ thời gian để ghi lại các cuộc tấn công của nhà cầm quyền do đó hậu thế, các nhà viết sử mới có tài liệu để ghi lại một cách trung thực thời gian này.

 

Khi người ta học lịch sử một cách trung thực thì sẽ đào tạo những công dân lương thiện như Tư Mã Thiên, chấp nhận bị thiến để viết sử cho đúng thay vì bị nhà cầm quyền sai viết theo ý họ.

 

Có nhiều người chửi mình khi mình nêu ra những chuyện mà lịch sử mình đã được học là bựa. Như trước Ngô Sĩ Liên, các cuốn sách viết về lịch sử Việt Nam, không có ghi chép họ Hồng Bàng. Hậu thế thấy lịch sử tổ tiên ít ỏi nên pha chế thêm cho lộng lẫy. Nhà Sở bên Tàu, có mấy đời vua lấy tên Hùng nên chúng ta chép đại rồi phang là tổ tiên chúng ta là các vua Hùng. Tính ra 18 vị vua Hùng, mỗi người sống trị vị đến 126 năm. Tương tự ngày nay, chúng ta có những Phù Đổng Thiên Vương của thế kỷ 20 như Phan Đình Giót, Lê Văn 8, Võ thị 6,…

 

Có người ngạc nhiên khi nghe mình kể về ông bà cụ mình. Thông thường người ta nhất là người Việt hay tô điểm về cá nhân, thân thế cho oai nhưng mình thì nghe người lớn kể thì kể lại. Mình thấy nhà khi xưa, có thuê người làm từ quê bà cụ mình đem vào vì tin tưởng hơn là mướn người không có gốc gác trong thời chiến tranh. Có lần mướn một chị gốc Quảng Nam, một hôm chị ấy biến mất. Hỏi ra mới biết là nằm vùng. 

 

Hoàn cảnh mấy chị giúp việc tương tự bà cụ mình, năm lên 15 tuổi được bà con ở Đàlạt, về quê, đem vào làm ô sin thì kể lại để cho con cháu sau này có đọc thì hiểu thêm về thân thế của tổ tiên. Mình vẫn thương, hãnh diện về bà cụ, dù là ô sin đi nữa để mình hiểu nguồn cội của mình từ đâu ra, không cần phải tô vẽ.

 

Mình vẫn biết là không thông minh, con cháu nhà nông, ngu lâu dốt sớm nên chấp nhận trước, không cần đánh bóng cá thể cho hoành tráng. Đa số bạn học cũ mình đều cho mình thuộc dạng ngu lâu dốt sớm. Chỉ có đọc nhất một người kêu mình học giỏi vì không học chung lớp. CBMT 

 

Người ta nói người Việt thiếu phương tiện (chữ viết và sách báo) để ghi lại những vận động trong đầu óc, khiến sự suy nghĩ của chúng ta dễ ngừng lại ở tình trạng manh nha khởi đầu phôi thai. Có lẻ vì vậy người Việt thích làm thơ hơn. Mình đọc trên trang nhà của trường Văn Học Đàlạt khi xưa thì có rất nhiều bạn học cũ làm thơ, ít người viết lắm. Thơ là khởi đầu, manh nha của suy nghĩ.

 

Người Hy Lạp nhờ các nhà thơ như Homer, viết nhiều thiên hùng ca để đời đến khi ông Plato, chống đối thi ca, dù ông ta, một người viết kịch, rất ngưỡng mộ thi hào Homer. Các nhà hiền triết của Hy Lạp đặt ra những câu hỏi, dần dần tạo nên một loại suy tư, biện chứng dẫn đến tư tưởng của Hy Lạp.

 

Ngày nay, trên 6 bó, mình bắt đầu đi ngược lại dòng sông xưa, đi tìm lại những vết chân xưa để xét lại những sai lầm mà mình đã làm, để hiểu về chính bản thân và tiếp tục bước đi trên con đường của hoàng hôn đời mình.

 

Cứ đọc tin tức trên mạng, chưa tra cứu rõ ràng, thiên hạ cứ “share” bú xua la mua vì muốn mình là người đầu tiên được tin giật gân. Thiếu thói quen nghiên cứu sự vật, suy nghĩ nửa vời khiến đầu óc ta không chăm chú theo đuổi tới cùng. Tình trạng này là hậu quả của văn hoá đọc lơ bơ, sơ sài, một đời sống tinh thần thiếu sách. Trong đời sống tập thể, hành động được đề cao hơn là suy nghĩ. Anh nâng chén uống rượu hay bia với tôi là anh có tình, có nghĩa như truyện tàu thương nói “nam nhi đại trượng phu”. Dzô 100%. Nếu chúng ta đọc sách thêm thì sẽ được biết là uống rượu bia nhiều sẽ phá hoại nội tạng của chúng ta về mặt y tế, về mặt kinh tế thì sẽ làm tiêu tan gia tài sự nghiệp của gia đình.

 

Người xưa hay nói: “nhịn thuốc mua trâu, nhịn trầu mua ruộng”, khuyên con cháu hà tiện để đầu tư, mua ruộng nương nhưng chúng ta cứ tiêu xài, uống rượu, hút thuốc để rồi khi về già, đau ốm, con cháu phải đi cày để lo thuốc thang cho chúng ta khiến con cháu không bao giờ ngóc đầu lên được vì nợ chồng chất, đời này sang đời khác. Nếu chúng ta chịu khó suy nghĩ một chút thì biết được hậu quả, sẽ ngưng uống rượu, hút thuốc, dùng tiền để dành để mua ruộng nương cho tá điền thuê.

 

Lối suy nghĩ vô hình trung cản trở chúng ta đọc sách vì khi đọc sách, người ta có thói quen đơn độc trong suy nghĩ và làm việc. Họ không thể nào hùa theo đám đông, suy tư theo đám đông, tập thể. Họ có thể ngồi một mình đọc sách, uống trà hay uống rượu thì có thể giúp họ nếm được hương vị của trà hay rượu thay vì dzô dzô với tập thể.

 

Hồi nhỏ học ca dao tục ngữ có bài: ‘ai ơi chớ lấy học trò, dài lưng tốn vãi ăn no lại nằm” cho thấy người Việt trong dân gian không thích những kẻ đọc sách, cho họ lười biếng. Về mặt kinh tế thì những tên học trò, tối ngày chỉ ăn rồi ngũ và đọc sách để đi thi. Khi xưa đi thi thì tốn tiền vì phải ra tới thủ đô, bán nhà bán lợn, bán bò,… ông Tú Xương được vợ nuôi đến 24 năm, mới đỗ tú tài rốt cuộc cũng chả làm được cái gì giúp vợ sau 24 năm tảo tần nuôi ông ta ăn học ngoài mấy bài thơ. Chán Mớ Đời

 

Trên thực tế thì những học trò ham học để đi thi, làm quan vì một người làm quan cả họ được nhờ. Có lẻ vì vậy người ta nói người Việt ham học. Học để đi thi thì người học trò đã tự giới hạn việc học của mình trong kiến thức của người chấm thi hay người thầy của mình. Nghe kể, khi xưa phải học các chữ kỵ huý tên của vua chúa vì sẽ bị đánh rớt. Do đó người đậu chưa chắc là đã tài giỏi, chỉ học như con vẹt.

 

Đặc trưng chủ yếu của đọc giả là tư duy độc lập cộng thêm sự khao khát vô tận với sự hiểu biết. Con tằm ăn lá dâu mới tạo ra được tơ lụa. Có đọc sách mới kể lại chuyện được.

 

Ở Việt Nam, hình như người ta cho rằng sự học là cách độc nhất để thoát cảnh nghèo, đậu cao để làm quan. Học là cách để lập thân nên người ta đọc sách. Ai lười thì gian lận, thuê ai đi thi dùm rồi sau khi tốt nghiệp thì họ không rờ đến sách nữa. Tốn công đọc sách mà thu nhập không gia tăng nên ít ai đoái hoài đến sách báo ngoài ba chuyện tin cán chó, thể thao,…Sách không còn là nhân tố tất yếu trên đường mưu sinh, và việc đọc sách thường ngả sang một thứ trò chơi, tiêu khiển của cá nhân.

 

Về Việt Nam, gặp mấy người bạn học cũ thì đa số nay đã về hưu, nếu làm cán bộ nhà nước. Thấy họ cứ lêu bêu rũ nhau để nhậu hay uống cà phê và hút thuốc cho qua ngày, quên thời gian. Những cán bộ về hưu thông thường là những người có kiến thức, kinh nghiệm càng được trọng dụng để họ truyền lại những kinh nghiệm cho thế hệ mai sau. Họ có thể viết lại những kinh nghiệm để giúp thế hệ sau theo đó mà tiến bước thay vì cứ hút thuốc, uống cà phê, nhậu cho qua ngày.

 

Có ông mỹ kia, 98 tuổi, đoạt giải về sách của đại học Nam Cali, kể là sau khi nghỉ hưu, ông ta cứ lập chương trình ngũ niên, học cái này làm cái kia vì khi xưa, lo đi làm nuôi con, không có thì giờ học hay tham khảo.

 

Ở Hoa Kỳ, có những hội bất vụ lợi, mời những tay từng mở công ty nhỏ, họ giảng dạy kinh nghiệm của họ cho những người nào muốn mở công ty. Mình khi xưa hay đi học mấy lớp này, sau này thì mỗi tháng phải ghi danh đi học và đóng tiền.

 

Mỗi ngày mình có cái đồng hồ của nhà bếp để báo thời gian nấu ăn. Cứ sáng thức dậy, đi bơi 1 tiếng ở câu lạc bộ thể thao, ăn sáng xong thì bắt đầu bấm đồng hồ. Khi nào ngưng đi tiểu, hay ra vườn thì nhấn nút ngưng. Làm việc rồi khi nào trở về nhà thì đọc tiếp, cứ ngưng nghỉ thì nhấn nút đồng hồ. Khi nào đọc trên 2 tiếng đồng hồ thì đồng hồ báo thì ngưng. Sang hơn thì đọc tiếp cho xong. Xem như mỗi ngay đọc 2 tiếng đồng hồ. Lúc đọc mình hay lấy ghi chú, lâu lâu viết lại bằng anh ngữ hay pháp ngữ. Nay lại có trò viết lại bằng Việt ngữ, thường thì sau khi đọc 2 tiếng mình mới bắt đầu viết.

 

Chán Mớ Đời

Nguyễn Hoàng Sơn 

Người Pháp và giáo dục tại Việt Nam #1

 Năm 1873, người Pháp hoàn toàn làm chủ Việt Nam, triều đình Huế ký hiệp ước 1874 công nhận Pháp quốc có chủ quyền tại Đông Dương. Tàu Mãn Thành không chấp nhận hiệp ước này vì người Việt sẽ hết triều cống hàng năm nên cho quân đến Bắc kỳ. Cuối cùng Anh Quốc can thiệp vào giúp người Tàu ký hiệp ước Tien-Tsin, người Pháp công nhận biên giới của Trung Hoa, và được giao thương với Việt Nam.

Thực dân pháp có hai chọn lựa: lãnh đạo với một chính phủ bù nhìn của dân địa phương hay trực tiếp lãnh đạo dưới chính quyền thực dân. Cách thứ nhất tốt nhất nhưng không hiểu sao người Pháp lại muốn lãnh đạo trực tiếp. Sẽ kể sau về chủ nghĩa Ferry được áp dụng tại Pháp quốc trong cuộc tranh dành, chống ảnh hưởng của nhà thờ vào ngành giáo dục bắt buộc cho mọi công dân. Khi mình sang Pháp thì mới hiểu các trường họ gọi Laïque.(thế tục).

Lý do là ngành giáo dục tại Pháp trước đây đều do nhà thờ công giáo nên từ khi đạo luật Falloux, trường học công giáo từ từ được đổi sang trường học thế tục với các luật về giáo dục từ năm 1881 đến 1886. Từ cuối thế kỷ 19 thì nền giáo dục tại Pháp, được đặt căn bản thế tục, không bị ảnh hưởng chính trị và tôn giáo.

Năm 1882, luật Jules Ferry được ra đời, bắt buộc giáo dục miễn phí và thế tục ở bậc tiểu học cho mọi trẻ em tại Pháp. Năm 1886, đạo luật Gobblet ra đời để thế tục hoá nền giáo dục của Pháp, các nhân viên của ngành giáo dục đều thế tục. Đến năm 1905, có đạo luật 9-12-1905 ra đời để ngăn tách nhà thờ và nhà nước và tuyên bố về sự tự do tín ngưỡng trong khi đó các thuộc địa, thậm chí các vùng Alsace Loraine vẫn được cai trị dưới luật Concordat du 26 messidor an IX năm 1801. Mình đoán các linh mục đi giảng đạo tại các thuộc địa, có một vai trò quan trọng với giáo dân nên họ vẫn không bỏ các nhà dòng dạy học. Việt Nam có rất nhiều trường do các dòng như Lasan, Couvent,…

Đến năm 1946, sau đệ nhị thế chiến thì giáo dục Pháp bắt buộc và miễn phí các chương trình, nhờ vậy mình đi học đại học mới không tốn tiền.

Người Pháp với hào quang, tự hào về văn hoá của họ, được mệnh danh là thế kỷ ánh sáng, với bao nhiêu trí thức gia nổi tiếng của họ, muốn cai trị trực tiếp vì họ nghĩ lối lãnh đạo của người Việt quá dã man, lạc hậu, nghĩ sẽ giúp đông dương phát triển nhanh hơn và bị đồng hoá nhanh.

Cách lãnh đạo thực dân muốn người bản xứ phải ham chuộng văn hoá của người tây phương và từ bỏ các tập tục, phong tục, lịch sử của dân họ, nói cách khác là tây hoá người Việt. Người pháp đã thành công kế hoạch này ở các thuộc địa Bắc Phi như Algerie, Ma-rốc,.. người âu châu đổ xô về vùng Bắc phi, gần âu châu nên tạo dựng được một giai cấp người âu châu cai trị khá đông. Nói chung, lịch sử của âu châu và Bắc Phi khá gần gũi. Tôn giáo của họ cũng xuất xứ từ kinh thánh chung,...

Ngược lại, tại Việt Nam thì văn hoá và tôn giáo quá khác biệt, đưa đến những xung đột từ căn bản. Theo nho-giáo, người Việt rất kính trọng người già “kính lão đắc thọ” nhưng theo văn hoá tây phương thì tự do cá nhân được đề cao, tuyệt đối tôn trọng. Người Việt bị đồng hoá, bị bắt buộc quay lưng lại với nền văn hoá tổ tiên và chính quyền thực dân không màng đến nền văn hoá sở tại.

Mình nghe kể thế hệ bố mẹ mình, rất thích xổ tiếng tây. Như bà Nhu nói tiếng tây, ông Thiệu hay Phạm Văn Đồng,..cứ xổ tiếng tây dù không học cao lắm. Mình nghĩ đó là thành quả của sự giáo dục do người Pháp áp dụng tại Đông Dương. Khi xưa học Yersin, mình thấy đám học sinh trường tây khác với dân trường việt, mình cảm thấy chơi với dân học trường việt dể hoà đồng hơn vì nhóm học trường tây có vẻ thuộc một giai cấp, đẳng cấp khác. 

Trước khi người Pháp đến Việt Nam, hạ tầng cơ sở Việt Nam xem như không có. Con đường Cái Quan chỉ là một con đường đất nhỏ để di chuyển bằng ngựa hay đi bộ. Người Pháp muốn thành lập đường xá để di chuyển nhanh chóng cho công việc rút tài nguyên của thuộc địa và trong trường hợp có bạo loạn, sẽ di chuyển quân của họ nhanh chóng.

Năm 1879, người Pháp cho áp dụng bộ luật Napoleon tại Đông Dương, và cho ra đời Conseil Colonial, hội đồng thuộc địa nhằm thay thế hết các quan triều đình Nguyễn tại Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Trung Kỳ thì vẫn còn dưới sự lãnh đạo của triều đình Nguyễn.

Năm 1897, Paul Doumer, làm khâm sứ Bắc kỳ, người được xem là thấu hiểu vấn đề Đông Dương nên cho cải tổ khá nhiều nền hành chánh thực dân tại Đông Dương. Ông giảm bớt quyền hành các lãnh đạo thực dân tại Cam bu chia, cho vua xứ này có thêm quyền hành, ngược lại Campuchia cho phép người Pháp buôn bán, sử dụng đất đai tại xứ này. Ông ta trao quyền lại cho triều đình Huế để tránh các phong trào Cần Vương,...nhưng họ là người chỉ định ai lên ngôi, vua lấy ai như trường hợp ông Bảo Đại và bà Nam Phương hoàng hậu.

Điểm đáng chú ý là ông Bảo Đại sống ở tây từ bé, như làm con tin ở mẫu quốc nên khi về nước, ông ta thích ở Đàlạt hơn vì khí hậu không có nóng như ở Huế. Đàlạt có khí hậu lạnh lạnh như âu châu vào mùa Xuân.

1912, chính quyền Đông Dương muốn mượn 90 triệu quan pháp để xây dựng hạ tầng cơ sở tại Đông dương. Họ muốn xây dựng hệ thống đường xá, kinh nước dẫn thuỷ nhập điền, trường học, bưu điện dây thép.

Trong các vụ đầu tư vào hạ tầng cơ sở của người Pháp thì dẫn thuỷ nhập điền là có hệ quả tốt nhất. Miền nam phì nhiêu nhưng các sông ngòi, không được quản lý tốt. Mùa mưa đến ào ào rồi đi, để lại 9 tháng nắng khô, giới hạn sự trồng trọt của nông dân Việt Nam.

Hệ thống dẫn thuỷ nhập điện được cải tổ ở miền nam, giúp nông dân từ làm 1 vụ mùa mỗi năm lên đến 2 vụ mùa. Mùa đầu tiên được 2 vụ mùa thì đông dương trở thành nước sản xuất gạo thứ nhì thế giới và lợi tức lên đến 20 triệu quan pháp năm đầu tiên. Bỏ ra 90 triệu, lời được 20 triệu năm đầu tiên, đầu tư tốt, 5 năm lấy lại vốn.

Ngoài ra người Pháp còn xây dựng một hệ thống đường xá tại Đông Dương, giúp di chuyển hàng hoá từ Lào, Cam bốt. Xứ LÀo không có đường ra biển nên phải đi nhờ qua Thái Lan, nay có thể chạy thẳng ra Vinh, Đà Nẵng,... họ cho xây 600 dậm đường xe hoả, có rất nhiều đường lên biên giới tàu như ở Lạng Sơn, để chuyên chở hàng hoá,... nói chung thì đường xe hoả mang lại ít lợi ích cho người dân. Giá vé quá đắt cho một người Việt bình thường để di chuyển. Điển hình đường xe hoả lên Đàlạt, đa số dành cho người tây phương. Năm 1948, Mẹ mình vào Đàlạt, đi xe vào từ Huế vào Đà Nẵng, rồi lấy tàu thuỷ đến Phan Thiết, rồi từ đấy lấy xe đò lên Đàlạt. Người tây thì họ lấy xe lửa ở Phan Rang lên thẳng Đàlạt, khoẻ hơn nhưng đắt tiền hơn.

Muốn cai trị Đông Dương, người Pháp phải sử dụng đến giáo dục, giáo hoá, đào tạo người Việt, để cộng tác với chính quyền thực dân. Mình nghe người lớn kể thầy thông thầy ký, những người được pháp đào tạo để làm thông ngôn hay thơ ký cho nền hành chánh của họ. Họ không muốn đào tạo nhiều người Việt lên cấp trung học, do đó mới có thi tuyển rất khó khăn.

Thư của ông Nguyễn Tất Thành xin vào trường thuộc địa (école coloniale

Mình rất ngạc nhiên khi đọc lá thư của ông Nguyễn Tất Thành, viết cho chính quyền thuộc địa, xin cho ông ta học trường thuộc địa (école coloniale), để ra làm việc với chính quyền thực dân như ông Trần Trọng Kim nhưng bị từ chối. Buồn tình, ông ta lên tàu, sang tây, rồi gặp các ổ cộng sản quốc tế, nuôi dưỡng biến ông ta thành người cộng sản. Mình nhớ ngày đầu tiên đến phi trường Roissy, thấy mấy người Việt, của nhóm Việt kiều Yêu Nước thân Hà Nội, ra đứng ở phi trường, hỏi có cần chỗ ở không, miễn phí. Họ biết sinh viên du học từ Sàigòn qua nên ra đón, ai không có nhà cửa, lơ mơ thì họ đón về ổ của họ, giúp lo giấy tờ,... cái này là cái dỡ của toà đại sứ Việt Nam Cộng Hoà trên mặt chính trị ở hải ngoại. Có lẻ được làm vua thua làm đại sứ đến mấy ông đại sứ Việt Nam Cộng Hoà ở hải ngoài không giỏi về chính trị hay chưa đọc Nguyễn Trãi.

Theo lời kể của luật sư Vũ Quốc Thúc, đồng môn với ông Võ Nguyên Giáp, cho hay ông Giáp học rất giỏi nhưng bị thầy tây đánh rớt, không được sang tây học luật như ông nên sau này chán đời theo Việt mInh, chiến thắng tây ở Điện Biên Phủ. Đọc tài liệu pháp, được biết họ không muốn người Việt giỏi nhiều lắm vì ngại những người này sẽ chống lại họ. Kiểu Việt Cộng dùng lý lịch để thanh lọc, không cho con của ngụy quân ngụy quyền lên đại học.

Nếu người Pháp có ý đồ khai sáng dân trí người Việt thật sự thì có lẻ người Việt theo tây học sẽ đồng hành với họ rất xa. Người Pháp muốn khai sáng người Việt nhưng lại cản trở người Việt theo họ, học từ họ. Lý do sẽ kể sau nếu còn chỗ vì mình kể lung tung xà bèn.

Mình có kể là người Pháp do dự nên dạy người Việt bằng chữ Nôm hay chữ quốc ngữ do người tây phương lập ra. Cuối cùng thì họ sử dụng chữ la-tinh, khiến người Việt chới với vì bị cắt đứt với nguồn gốc của họ, bị khủng hoảng bản thể. Giáo dục trường tây, đào tạo học sinh người Việt tin tưởng văn hoá tây là số một khiến họ bảo hoàng hơn vua. Vụ này còn ảnh hưởng đến ngày nay, người Việt cứ thích đồ ngoại, chê đồ lô-can. Cái gì của Tây là tốt, của Mỹ là tốt, coi thường người Việt.

Có lần mình nhận được điện thoại của một người Việt, hỏi có phải anh là người vẽ và xây căn nhà ở đường  ..., Fountain valley. Mình kêu đích thị thì anh ta nói một câu khiến mình như bò đội nón. Anh ta kêu không ngờ là người Việt lại vẽ nhà đẹp như thế. Anh ta kể là muốn mua căn nhà này nhưng bị người khác đặt cọc tiền trước nên muốn mình vẽ một căn y-chang như vậy cho anh ta. Mình nhất trí ngay vì dễ, chỉ cần cóp-pi là xong.

Hôm trước, có người còm, kêu phải kêu kiến trúc sư Tây qua Việt Nam để thiết kế lại Đàlạt khiến mình càng thất kinh. Họ cứ Đinh ninh không có kiến trúc sư người Việt giỏi. Theo mình đó là tinh thần của kẻ bị trị, vẫn còn lưu lại đến thời nay. Xem bao nhiêu người thành đạt ở á châu, phi châu, nơi từng bị người tây phương cai trị, họ đều thích bận áo quần tây phương, đeo ví LV hay áo quần thời trang của các nhà thời trang âu châu. Đọc 3 cuốn sách về người giàu có á châu, chỉ thấy họ đi âu châu, mua sắm, áo quần thời trang,... á châu có giàu hơn nhưng về văn hoá vẫn chịu sự ảnh hưởng của tây phương, vẫn xem văn hoá của Tây Phương là số một.

Khi người tây phương cai trị, người bị trị muốn đạt được lối sống của người cai trị nên khi họ khá khá là muốn sống như người cai trị, chủ của mình. Hội nhạc tây, nhảy đầm múa kép,... Mình thấy ông Ngô Đình Diệm, bận áo dài khăn đóng, do anh của mệ ngoại mình, may để đón các nguyên thủ quốc tế. Con cái họ đều cho học chơi vĩ cầm, dương cầm, hình ảnh mà họ thấy con của người chủ cũ thay vì cho học đàn tranh, đàn bầu,... rất khó cho người á châu trở thành một chuyên gia về văn hoá tây phương. Có vài người thôi. Đứa bé lớn lên ở xã hội á châu nhưng lại được giáo huấn theo tây phương sẽ bị khủng hoảng bản thể.

https://youtu.be/iit7aKRh5js

Mình học với tây đầm 6 năm trời tại Paris, đâu có thấy tây đàm nào cực giỏi đâu. Có vài người có óc sáng tạo vì được đào tạo trong một nền giáo dục, được khuyến khích có tư duy thay vì học thuộc lòng như người Việt mình. Ở Việt Nam mình có gặp ở Đàlạt , chị Nga con của Trường Chinh, hay ông kiến trúc cứ nào chiếm căn nhà ở Đinh Tiên Hoàng, sửa lại thành nhà 100 mái. Sau này người ta bắt dỡ, chắc là cán bộ lớn muốn cưỡng chế căn nhà này. Ngày nay, cũng có vài kiến trúc sư giỏi mà mình theo dõi qua báo chí nghệ thuật tại Việt Nam.

Khi xưa, học trường tây, hổi tiểu học không để ý nhưng lên trung học là thấy dân học chung với mình, cứ như tây con, xổ tiếng tây bú xua la mua. Do đó mình cảm thấy thỏi mái chơi với đám học trường ta hơn. Thêm nữa, thầy người Việt rất nhiều. Vào lớp ở Yersin nghe người Việt giảng bài bằng pháp ngữ nên mình hay bị lộn xộn trong đầu.

Mình có cô bạn đầm ở Paris, năm kia có ghé thăm gia đình mình. Có về Việt Nam, thăm viếng Nam Định, nơi mẹ cô ta sinh ra đời, khi bà ngoại cô ta đi dạy thời thực dân, còn ông ngoại làm cho sở thuế. Vào đầu thế kỷ 20, người Pháp xung phong qua Việt Nam làm việc trong ngành giáo dục rất đông như bố mẹ nhà văn Marguerite Duras, sinh năm 1914 tại Gia Định, kể về cuộc đời thơ ấu của bà ta qua tác phẩm “L’amant” mà trong phim có cô tài tử người anh rất sexy. Thôi để kể trong bài khác, đầy chi tiết hơn.

Nhìn cuộc đời của gia đình nhà văn Duras, chúng ta thấy rõ sự hình thành giáo dục của người Pháp tại Đông Dương. Pháp ngữ rất khó học, so với nền giáo dục cổ xưa. Người bản xứ, xem học chương trình pháp là cái vé đưa họ đến sự giàu có, sẽ giúp cải thiện đời sống của họ về kinh tế dù chỉ làm thông ngôn, hay theo ký cho chính quyền thực dân. Từ đó họ yêu tây hơn cả đầm. Ai không được tham dự vào giai cấp này sẽ làm cách mạng chống đối.

Các học sinh trường tây học tổ tiên của họ là người Gaulois (nos ancêtres sont des Gaulois). Hồi nhỏ mình bị lấn cấn vụ này. Học bà đầm ông tây thì họ nói tổ quốc chúng ta có thánh Jeanne d’Arc, trong khi giờ việt ngữ thì ông thầy Tường kêu con rồng cháu tiên, có bà nào sinh ra 100 cái trứng khiến mình chả biết mình là người gì. 

Dạo mình ở tây, nhiễm tính kiêu căng tự phụ của người Pháp nên cũng tưởng mình là tây con, chê bai đủ thứ. Đến khi đi làm tại các quốc gia khác, khám phá những văn hoá khác trên thế giới, mình mới nghiệm lại cái xấu của chính mình. Chẳng hơn thằng tây nào cả mà cũng không thua con đầm nào hết.

Năm 1942, chỉ có 0.2% người Pháp tại Đông Dương hay 42,000 ông tây bà đầm cai trị 21 triệu người. Các nhà cầm quyền tây thuộc địa, có hai cách hợp tác hay đồng hoá người sở tại. Đồng hoá thì người sở tại phải từ bỏ văn hoá và tiếng mẹ đẻ để trở thành người Pháp, như ông Étienne Aymonier, giám đốc đầu tiên trường thuộc địa (l’École coloniale) , đào tạo các nhà hành chánh tương lai cho thuộc địa tuyên bố: « Ils seront des Français, nos égaux, à qui nous ne pourrons, à qui nous ne devrons pas refuser la juste part d’autonomie qui sera nécessaire à leur développement ». Nguyễn Tất Thành cũng muốn gia nhập giai cấp này. Nếu người Pháp cho ông ta học bổng thì có lẻ cuộc chiến Việt Nam đã không xẩy ra. 

Nếu theo lối hợp tác thì người Việt giữ nền văn hoá, ngôn ngữ sở tại và hợp tác với người Pháp, chấp nhận  chính quyền thực dân. Do đó chúng ta thấy các chính sách cai trị của người Pháp tại Đông Dương, được thay đổi nhiều vì chính quyền mẫu quốc thay đổi. Có lẻ thời gian mà người Việt hưởng được sự tôn trọng của người Pháp, khi Mặt Trận Bình dân (Front populaire) nắm chính quyền tại Pháp quốc. Những thay đổi của mặt trận này, để lại dấu ấn rất nhiều cho xã hội ngày nay.

Vấn đề là các giáo viên hay giáo sư người Pháp không rành tiếng địa phương thì làm sao có thể giảng dạy  theo phương pháp hợp tác. Năm 1886, toàn quyền Paul Bert , quyết định sử dụng chữ quốc ngữ để giảng dạy thay vì tiếng tàu như cách giáo dục từ ngàn xưa tại Việt Nam. Chương trình vẫn lệ thuộc vào các chính sách giáo dục tại mẫu quốc.

Năm 1905, có 4 loại giáo dục: giáo dục Tây-ta, giáo dục dạy nghề, giáo dục cổ cải cách và giáo dục pháp ngữ. Những hệ thống giáo dục song song này, tạo ra các phân biệt sau này. Mình nhớ khi xưa, học trường Tây thì họ các annales về đề thi như của France d’ Outre-mer , xem như thuộc địa, hay của Métropolitaine của mấy quốc. Thiên hạ hay gọi bằng Local xem như thấp hơn ở mẫu quốc. Có lẻ vì vậy người giàu có ở Việt Nam, cho con họ du học bên tây vì tiền Đông Dương đổi thành 10 quan pháp dạo ấy. Người ta mua nhà cho con họ ở để ăn học bên tây.


Hình chụp đám học sinh tây đầm tại Đàlạt. Cờ Tam-tài to đùng còn cờ triều đình Huế, bé tí ti bên cạnh. Mình nhớ khi xưa, đứng chào quốc kỳ của tây hồi nhỏ đều đều.

Điểm sáng cho nền giáo dục Tây tại Việt Nam là phụ nữ được đi học, trái với nền văn hoá sở tại, con gái không được đi học, chỉ lo chuẩn bị làm dâu nhà người ta và trở thành máy đẻ, tạo nòi giống bên chồng. Trường hợp bà Nam Phương Hoàng Hậu, con nhà giàu, được đi học rồi gửi sang tây du học. Sau này về lại Việt Nam, bà ta mới cho đất để xây dựng trường Couvent Des Oiseaux do các bà sơ đảm trách.

Lúc đầu thì phụ nữ được đi học, ngoài ra còn học thêm nữ công gia chánh đến tiểu học. Sau này ông toàn quyền Albert Sarraut, cải tổ, cho phép họ học lên đại học. Ngoài ra, giáo dục của người Pháp cho phép trai gái học chung, dù phụ nữ chỉ chiếm có 25% nhưng cũng tạo được sự gặp gỡ giữa trai gái người Việt vào thời ấy, còn bị Nho giáo áp đặt khá nhiều.

Ông Phạm duy Khiêm, anh của ông nhạc sĩ Phạm Duy, giáo sư trường Albert Sarraut, nói trong buổi trao giải thưởng năm 1937: « vous avez ici l’avantage unique de rencontrer, sur les memes bancs, dans les memes chaires, des representants des deux sexes, et d’au moins deux races [...]. à chacun de vous il est permis, directement ou indirectement, de faire connaissance avec des pays autres que le sien, avec des ames tres differentes de la sienne. [...] à cote des differences de race ou d’education, vous saurez distinguer aussi les differences individuelles, souvent les plus importantes »

Ông Phạm duy Khiêm là kết quả của hai nền giáo dục đông tây, theo chính sách hợp tác với giáo dục sở tại trước khi toàn quyền Albert Sarraut thay đổi, hoàn toàn theo Tây, có ảnh hưởng đến thời mình học trường tây. Tây không tây mà mít cũng không mít, do đó có lẻ ông ta bị khủng hoảng bản thể nên sau này tự tử. 

Người Việt ở hải ngoại lâu ngày cũng có vấn đề tâm lý vì phải đối chọi với hai nền văn hoá, đứng ở gạch nối của Việt-Mỹ, hay Việt-Tây., Việt-đức,... văn hoá thịt ba-chỉ, nữa nạc nữa mỡ. Chán Mớ Đời 

 Hệ thống giáo dục của người Pháp đặt để tại Việt Nam, tuy nghiên cứu cẩn thận nhưng thống kê cho thấy người Việt vào năm 1920, 90% học sinh không qua cửa tiểu học. Dạo còn bé, hóng chuyện người lớn, họ kêu ông A, ông B giỏi lắm, đậu bằng ri-me khiến mình đã ngu lại còn ngu lâu dốt bền, hoá ra là bằng tiểu học (Primaire) mà người Việt mình đọc thành ri-me.

Người Pháp chỉ muốn đào tạo một thiểu số người Việt để làm việc cho nền hành chánh của họ nên sau khi học, không có công ăn việc làm nên người Việt cũng nản lòng theo học mấy ông tây bà đầm.

Hệ thống giáo dục tại Việt Nam còn chưa được chấp thuận bởi mẫu quốc, thêm đi học là một gánh nặng kinh tế cho gia đình. Ngoài ra, các gia đình giàu có, muốn con mình học lên cao nhưng bị hạn chế vì người Pháp lo ngại cho người Việt học cao, sẽ giúp họ hiểu được quyền lợi của mình mà đòi hỏi, chống đối lại sự kiểm soát của chính quyền thực dân. Do đó, học sinh phải xoay qua học trường tư, hay đi du học tại pháp lúc còn bé.

Vấn đề là các văn bằng nữa, bằng local nên các gia đình Việt Nam tìm cách cho con vào học trường Albert Sarraut hay Chasseloup-Laubat. Các trường này chỉ cho phép độ 45% là học sinh người Việt, nhất là học phí rất đắt để ngăn cản người Việt theo học các trường này, chỉ có 157 học sinh người Việt theo học so với 953 học sinh người Pháp. Dân thuộc địa thường gọi là trường của người da trắng (l’école des blancs).


Trường Petit Lycee thời xưa, toàn là con tây và đầm. Trong hình có một học sinh gốc việt, đứng lớ ngớ một mình. Chỗ này mình ra chơi mỗi ngày suốt 3 năm trời.

Nói chung, hệ thống giáo dục hợp tác ở Việt Nam, không đào tạo những nhà thơ, nhà văn pháp ngữ nổi tiếng ở thuộc địa như ông Senghor (Senegal) hay Albert Camus (Algérie) Ngược lại, nhờ chữ quốc ngữ được giảng dạy, giúp người Việt tạo thành một nền văn chương, âm nhạc cải cách khá đặc biệt. 

Mình rất ngạc nhiên là ông Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn,.. từng du học tại pháp nhưng họ lại làm thơ, diễn đạt tâm tình của họ qua chữ quốc ngữ. Nếu người Pháp sử dụng cách giáo dục như tại Algerie, hay phi châu thì có lẻ ngày nay chữ quốc ngữ không được phát triển tốt và chúng ta sẽ không có một nền văn chương huy hoàng được gọi là Thời Tiền Chiến. Chúng ta sẽ không có Hàn MẠc Tử, Văn Cao,...

Thôi ngưng đây, sẽ kể tiếp kỳ tới.

Nguyễn Hoàng Sơn