Tombe la neige (Adamo)

 Có lẻ bài hát tây mà mình thích nhất thời học sinh là bản “Tombe la neige” do Salvatore Adamo sáng tác. Cứ mơ mơ không biết tuyết rơi ra sao, nên muốn đi du học bên tây để ngắm cảnh tuyết rơi, tombe la neige. Cảm giác lần đầu tiên thấy tuyết rơi phê dễ sợ. Đang đi ngoài đường lạnh cóng, bổng có bà đầm đưa tay lên trời kêu “il neige”, thấy lác đác tuyết như các bông gòn nhỏ, từ trên cao rơi nhẹ nhẹ xuống trước mặt mình. Nay thì sợ lắm rồi.

Ông Adamo, người gốc ý, vùng Sicily. Năm lên 3, ông theo cha khi ông cha sang Bỉ quốc tìm công ăn việc làm trong các hầm mỏ. Năm lên 17, ông ta dự thi ca nhạc của đài phát thanh Lục-Xâm-Bảo (Luxembourg), được vào chung kết ở Paris. Thật ra ông ta rớt đài ở vòng loại nhưng có một giám khảo vớt ông ta, giúp ông ta thắng chung kết.

3 năm sau ông ta bắt đầu thành công với bản nhạc “sans toi ma mie “ rồi đến “tombe la neige”, sau đó “là nuit”,... mình nhớ có nghe ở Đàlạt, một băng nhạc của ông ta có bản “inch’Allah” rất hay. Cứ thích nghe ông ta rống “Jerusalem....” phê không thể tả.

Mỗi nhạc sĩ, ca sĩ đều có một bài khiến thính giả nhớ nhất, riêng ông Adamo, bản nhạc thịnh hành được thế giới yêu chuộng nhất là bản “Tombe la neige”. Bản nhạc được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới nhất là người Nhật Bản rất ưa chuộng bản này, thậm chí họ dịch ra Nhật ngữ và tường như người Nhật Bản nghĩ là bản nhạc này do người dân của họ sáng tác.

Người ta giải thích hiện tượng người Nhật Bản thích bản này vì ông ta sử dụng những ca từ với 5 âm tiết:

Tombe la neige
Tu ne viendras pas ce soir
Tombe la neige
Et mon cœur s'habille de noir
Ce soyeux cortège
Tout en larmes blanches
L'oiseau sur la branche
Pleure le sortilège
Tu ne viendras pas ce soir
Me crie mon désespoir
Mais tombe la neige
Impassible manège
Tombe la neige
Tu ne viendras pas ce soir
Tombe la neige
Tout est blanc de désespoir
Triste certitude
Le froid et l'absence
Cet odieux silence
Blanche solitude
Tu ne viendras pas ce soir
Me crie mon désespoir
Mais tombe la neige
Impassible manège
Mais tombe la neige
Impassible manège


Người nhật lại chuộng thơ dạng Haiku cũng 5 chữ. Ông ta bán trên 100 triệu đĩa nhạc khắp thế giới. Mình có xem trên YouTube người nhật hát bản nhạc này, rất hay. Những ca từ của bài này rất nhẹ nhàng, diễn tả nổi nhớ người yêu khi tuyết rơi. Còn người Việt mình ở Việt Nam, nắng cháy da nên khó cảm thông được lời bản nhạc như âm hưởng rất hay, nhẹ nhàng.

Nhớ có tên bạn học trường việt, cứ kêu mình chỉ hắn phát âm các ca từ bằng pháp ngữ để hắn tập hát để đi tán gái. Vui không thể tả, thấy anh chàng rống tiếng pháp bằng giọng Quảng Nam, phê không tả. Không biết anh ta có lấy được cô gái mà anh ta để ý. Chịu khó học tiếng tây để hát cho chuẩn, thay vì hát lời việt. Không sang.

Viết đến đây, lại nhớ anh bạn học trên mình một lớp ở Yersin, mới nhắn tin cho mình kêu lâu quá không gặp. Anh chàng này có bản ruột “si l’amour existe encore », đi cua gái, kiếm vợ được hết. Chỉ cần một bản nhạc, ai kêu hát bản thứ 2 thì ngọng. Hôm hội ngộ cô Liên, anh chàng có đến, tính hát bản ruột nhưng đã cô Quý dành hát trước nên về sớm.

Tương tự với bài “la nuit” , ca từ rất nhẹ nhàng, khắc khoải nhưng vẫn không thiếu sự cuồng nhiệt trong tình yêu. Người ta cho rằng ca từ của ông ta bị ảnh hưởng nhà thơ Jacques Prévert.

La nuit
Si je t'oublie pendant le jour
Je passe mes nuits à te maudire
Et quand la lune se retire
J'ai l'âme vide et le cœur lourd
La nuit tu m'apparais immense
Je tends les bras pour te saisir
Mais tu prends un malin plaisir
A te jouer de mes avances
La nuit, je deviens fou, je deviens fou
Et puis ton rire fend le noir
Et je ne sais plus où chercher
Quand tout se tait revient l'espoir
Et je me reprends à t'aimer
Tantôt tu me reviens fugace
Et tu m'appelles pour me narguer
Et chaque fois mon sang se glace
Ton rire vient tout effacer
La nuit, je deviens fou, je deviens fou
Le jour dissipe ton image
Et tu repars je ne sais où
Vers celui qui te tient en cage
Celui qui va me rendre fou
La nuit je deviens fou, je deviens fou

Bản nhạc nổi tiếng thứ 2 của ông trên thế giới là bản “Inch’Allah”, được làm khi cuộc chiến 6 ngày xảy ra giữa quân đội Do-thái và các xứ ả-rập. Bài này tuy nói về hoà bình nhưng lại bị cấm tại các nước ả-rập, cho rằng thiên Do-Thái.

Theo mình thì bản nhạc này rất hay khi nói đến hoà bình, tạm gọi là phản chiến đi, nói đến 6 triệu linh hồn bị Đức quốc xã, giết hại trong các trại tập trung.

J'ai vu l'Orient dans son écrin
Avec la lune pour bannière
Et je comptais en un quatrain
Chanter au monde sa lumière

Mais quand j'ai vu Jérusalem
Coquelicot sur un rocher
J'ai entendu un requiem
Quand sur lui je me suis penché

Ne vois-tu pas, humble chapelle
Toi qui murmures "Paix sur la Terre"
Que les oiseaux cachent de leurs ailes
Ces lettres de feu: "Danger: frontière"?

Le chemin mène à la fontaine
Tu voudrais bien remplir ton seau
Arrête-toi, Marie-Madeleine
Pour eux, ton corps ne vaut pas l'eau
Inch'Allah
Inch'Allah
Inch'Allah
Inch'Allah

Et l'olivier pleure son ombre
Sa tendre épouse, son amie
Qui reposent sous les décombres
Prisonnières en terre ennemie

Sur une épine de barbelés
Le papillon guette la rose
Les gens sont si écervelés
Qu'ils me répudieront, si j'ose

Dieu de l'enfer ou Dieu du ciel
Toi qui te trouves ou bon te semble
Sur cette terre d'Israël
Il y a des enfants qui tremblent
Inch'Allah
Inch'Allah
Inch'Allah
Inch'Allah


Les femmes tombent sous l'orage
Demain, le sang sera lavé
La route est faite de courage
Une femme pour un pavé

Mais oui, j'ai vu Jérusalem
Coquelicot sur un rocher
J'entends toujours ce requiem
Lorsque, sur lui, je suis penché

Requiem pour six millions d'âmes
Qui n'ont pas leur mausolée de marbre
Et qui, malgré le sable infâme
Ont fait pousser six millions d'arbres
Inch'Allah
Inch'Allah
Inch'Allah
Inch'Allah

Khi mình sang Pháp, lại khám phá ra nhiều danh ca khác, có thể lớn tuổi hơn thời học sinh, thời choai-choai mà tây gọi Ye-ye nên không còn nghe ông Adamo nữa. Mình thích nghe George Brassens, Léo Ferré,...


Có dạo ông ta làm đại sứ cho UNICEF, có làm thêm nhiều đĩa nhạc nhưng có lẻ thời nhạc ye-ye đã qua, các loại nhạc như Disco, New Wave,...từ từ lấn át các loại nhạc của thế hệ của ông, nên đi trình diễn rất nhiều ở ngoại quốc.

Ông Adamo bị đột quỵ sau phải thay van tim nên bỏ hát một thời gian. Sau này ông ta có đi hát lại nhưng ít được ăn khách như xưa vì đã ngưng hát một thời gian lâu.

Tuy ở Bỉ quốc nhưng ông ta vẫn giữ quốc tịch Ý đến sau này mới vào quốc tịch Bỉ vì Liên Hiệp Âu Châu. Ông ta được phong tước hiệu “Chevalier” bởi vua xứ Bỉ quốc. Hiện vẫn còn sinh sống tại Bỉ. Ông là người di dân mà đem về lợi tức cho nước Bỉ biết bao nhiêu tiền nên được phong tước hiệu người có công cho xứ sở này.

Nguyễn Hoàng Sơn 

Bà Frances Perkins

Hôm qua, có mấy người bạn đến vườn hái lộc đầu Xuân, một anh bạn kêu sao đời con mình sướng quá. Thời mình bằng tuổi chúng, cực như con chó. Câu nói của anh bạn tương tự như bao nhiêu người việt khác sinh sống tại hải ngoại hay thậm chí ở Việt Nam khiến mình thấy buồn cười. Ai cũng nghĩ mình te tua, ít ai nghĩ đến thế hệ bố mẹ mình, cực khổ nuôi mình. Sau này thế hệ con cháu mình cũng sẽ nói lại câu đó.

Ngày nay, chúng ta sinh sống trong một môi trường tương đối tốt hơn thế hệ bố mẹ chúng ta, nhờ vào những hy sinh của thế hệ đi trước, đã vượt qua gian nan, tạo dựng cuộc sống tốt hơn và hệ quả là chúng ta hái được những quả tốt của người đi trước.

Mình hay sưu tầm các người đã làm nên lịch sử nhất là phụ nữ vì họ sống trong một môi trường trọng nam khinh nữ khi xưa, và đã cố gắng chống chọi lại các áp bức, bất công của xã hội dành cho họ. Có thể nên để phụ nữ làm tổng thống Hoa Kỳ xem sao. Ở Tân Tây Lan, có  nữ thủ tướng và nội các đa số là phụ nữ, xem ra ít bị dịch covid hoàn hành.

 Khi bà Frances Perkins còn bé, hay hỏi bố vì sao người tốt lại nghèo. Bố bà ta nói đừng có suy nghĩ viễn vông, người nghèo vì họ lười biếng và say rượu. Đó là một câu giải thích chưa đúng hẳn vì có nhiều người không lười biếng, không uống rượu nhưng vẫn nghèo. Họ được giáo dục trong môi trường, hoàn cảnh, văn hoá, tín ngưỡng, khiến họ phải nghèo nếu không có tư duy thoát khoải hoàn cảnh đó.

Bà ta tốt nghiệp đại học môn vật-lý của đại học Mount Hoyoke. Niên khoá cuối, bà ta theo học lớp về lịch sử kinh tế Hoa Kỳ nên có đi viếng các nhà máy sản xuất ở Connecticut thì khám phá ra những điều kiện, môi trường không thể chấp nhận ngày nay mà người lao động đang trải qua. Các cuộc thăm viếng khảo sát các nhà máy khiến bà ta học thêm thạc sĩ về xã hội tại đại học Columbia, New York.

Năm 1910, bà ta đảm nhiệm chức vụ “executive secretary of the New York City consumers league”, khó dịch ra tiếng Việt vì thời mình ở Việt Nam không có chức vụ này. Bà ta kêu gọi cải thiện các nhu cầu y tế, vệ sinh trong các tiệm bánh, phòng cháy trong các nhà máy, và hạn chế các giờ lao động cho phụ nữ và trẻ em, không quá 54 giờ/ tuần.

Một hôm, đang ngồi nói chuyện với bạn bè trong một tiệm trà, bà ta nghe tiếng xe cứu hoả nên chạy ra xem. Những hình ảnh bà ta thấy lúc ấy đã khiến bà ta trở thành một người tiên phong trong việc giúp tạo ra các luật lao động nhằm bảo vệ đời sống các công nhân.


Nhà máy sản xuất Triangle Shirtwaist bị hoả hoạn khiến 146 người chết, đa số là phụ nữ và trẻ em. Sau vụ hoả hoạn, bà ta thành lập một uỷ ban nghiên cứu về sự an toàn trong cơ xưởng, y tế, an toàn lao động,..giúp cải thiện đời sống lao động trong các nhà máy.

Năm 1933, tổng thống Franklin D Roosevelt, mời bà ta làm bộ trưởng lao động cho nội các của ông ta. Bà ta ra điều kiện phải thi hành 40 giờ lao động mỗi tuần, lương tối thiểu, tiền thất nghiệp và bị tai nạn lao động, an sinh xã hội,..và ông ta đã đồng ý.

Những gì bà ta đã thực hiện tại tiểu bang New York, đã thực hiện khắp Hoa Kỳ mà ngày nay người ta gọi là New Deal, đã thay đổi Hoa Kỳ và đời sống công nhân mỹ mà khắp thế giới ngưỡng mộ Hoa Kỳ vào thế kỷ trước. Mình gặp các người Mỹ lớn tuổi, đều yêu mến ông tổng thống này đã cải thiện đời sống của họ nhưng ít ai biết đến người đàn bà đã thực hiện các cải tổ về lao động cho người Mỹ.

Bà này, lấy chồng sinh con nhưng 2 năm sau ngày cưới, ông chồng bị trầm cảm và được cho vào bệnh viện tâm thần. Nhiều khi lấy vợ giỏi quá, biến mình thành điên. :) Con gái bà ta sau này cũng lâm tình trạng này. Bà này, ra toà để giữ họ của bà ta thay vì phải đổi họ của chồng như luật pháp bắt buộc. Nhờ đó mà phụ nữ Hoa Kỳ ngày nay, có thể giữ họ của mình, không bị bắt buộc thay tên đổi họ khi lập gia đình.

Bà này ở với một người đồng tính khác và là người phụ nữ đầu tiên lãnh lương cao nhất tiểu bang New York. Sau này bà ta có làm việc cho nội các tổng thống Truman. Bà ta lên tiếng chỉ trích, nạn tuyển thư ký và người đánh máy phải đẹp trong chính phủ,... ngày nay người ta gọi là sexist, kỳ thị nam nữ.

Nghe nói có một cuốn phim kể về đời của bà ta. Tháng sau, xong vụ làm ống nước ở vườn, sẽ tìm xem. Chúng ta thừa hưởng những thành quả của người đi trước nhưng xem đó là tự nhiên, ít khi chịu khó tìm hiểu về người đi trước đã kinh qua những hệ luỵ nào để chúng ta có ngày nay.

Ngày nay, mình tìm hiểu về đời sống, những gì kinh qua của thế hệ bố mẹ ông bà mình khiến mình càng cảm phục và thương họ hơn. Ông bà ngoại mình không biết đọc biết viết, mẹ mình chưa bao giờ cắp sách đến trường, vẫn tìm cách bình dân học vụ để biết đọc và viết. Bà nội mình cũng tương tự, ông nội thì biết chút chút chữ Hán và làm nông dân. Bố mình thì giải ngủ, đi học đêm để đậu bằng tiểu học.

Chúng ta chỉ trích con cháu, không kinh qua những hệ luỵ, những bước chân leo núi của chúng ta. Trên thực tế con cháu chúng ta cũng sẽ phải tranh đấu để có cuộc sống tốt hơn ngày nay. Như vậy xã hội mới tiến bộ, con người sẽ sống thoải mái hơn trong tương lai. Chúng ta trải qua những hệ luỵ của trần gian nhưng nên nhớ thê hệ ông bà, bố mẹ của chúng ta còn te tua hơn.


Nguyễn Hoàng Sơn 

Tại sao kể chuyện Đàlạt xưa

 Thiên hạ gửi tài liệu về Đàlạt khiến mình phải đọc và kể lại về sự thành hình của Đàlạt. Khi không mình lại phải đọc các tin tức, tài liệu xưa về Đàlạt, nơi mình sinh trưởng 18 năm, rồi kể lại cho những người đã từng sống tại Đàlạt trước 75.

Có người kêu mình đi xa Đàlạt mà nhớ nhiều khiến mình như bò đội nón. Lý do là khi xa Đàlạt hay Việt Nam thì những hình ảnh về Đàlạt hay Việt Nam bị dừng lại tại thời điểm cuối năm 1974, khi mình lên đường du học ở Pháp. Khúc phim về Đàlạt của mình rất ngắn chỉ có 18 năm cho nên vẫn còn tồn tại. Ai ở lâu hơn thì khúc phim, hình ảnh của đời họ tại Đàlạt dài hơn thì sẽ không nhớ nhiều chi tiết thời bé của họ. Thật ra chúng ta chỉ nhớ những khoảnh khắc nào đó trong cuộc đời, trong quá khứ chớ không nhớ hết được ngày tháng năm xưa.

Những gì mình nhớ và kể lại, là những khoảnh khắc nào đó, mình đã trải nghiệm hay nghe người lớn kể lại. Khi viết xuống thì tự nhiên những chi tiết khi xưa, bổng từ đâu hiện về, như khúc phim quay chậm, những hình ảnh của Đàlạt khi xưa lại hiện ra rất rõ. Các bác muốn nhớ thì cứ viết xuống, chia sẻ với bà con Đàlạt khi xưa thì sẽ khám phá ra mình nhớ nhiều. Người Mỹ hay nói chúng ta là những gì chúng ta nhớ.

Có người đọc thích, kêu mình tiếp tục, có người chửi, kêu mình viết sai chính tả, văn phạm, không thích người Pháp vì không viết hoa,...bú xua la mua. Có lẻ người này ở Hoa Kỳ nên quen phải viết hoa như người Mỹ. Còn bên Pháp quốc thì họ chỉ viết hoa những từ mà họ gọi là “nom propre” như Pháp quốc “La France” còn người Pháp thì họ chỉ viết “les français “ trong khi người Mỹ thì viết “the Americans”. 

Theo sự yêu cầu của nhiều người đọc Mực Tím Sơn Đen qua điện thoại di động, lý do là chữ nhỏ quá nên mình phải viết thẳng lên Blog luôn vì ông làm bờ lốc cho mình, kêu viết từ Microsoft, rồi cắt dán qua Google sẽ tạo ra những hình dị khiến người đọc chới với, khuyên mình viết thẳng trên Blogger nên chữ rất nhỏ nên nhiều khi không thấy lỗi chính tả nhiều.

Mình rất mang ơn Pháp quốc, đã giáo dục mình, cho học bổng suốt thời gian đi học, cho mình trí tuệ nên không thể kêu mình là ghét Pháp quốc. Mình vẫn còn sổ thông hành của Pháp quốc và cộng đồng Âu Châu.



Mình kể về sự thành lập của Đàlạt của người Pháp rất tốn kém và đã giết hại trên mấy chục ngàn người Việt, khi họ làm con đường xe hoả từ Phan Rang lên Đàlạt. Đó là khách quan để kể về lịch sử của Đàlạt. Có những bài viết của chính người Pháp, chửi bới chính quyền thuộc địa te tua, nói lên sự tự do ngôn luận của người Pháp mà mình có cơ may học từ bé lên đến đại học. 

Tương tự mình kể những chuyện sau 75, khi Hà Nội muốn tạo dựng thiên đường mù như nhà văn Dương Thu Hương kể. Khi chúng ta kể về chuyện xưa, thông thường chúng ta đeo cái lăng kính, cái nhìn của người sống ở thế kỷ 21 nên chỉ trích, phê phán vì tư duy của người sống ở thế kỷ 21 khác với người sống ở thế kỷ 20, 19,...

Hồi mình mới sang mỹ, trẻ em đi học được nghỉ ngày Kha Luân Bố phát hiện ra Mỹ châu, nhưng hôm nay thì không. Người ta lên án ngày đó, vì đã giúp người da trắng, đi tạo dựng các thuộc địa trên thế giới, bắt người phi châu sang mỹ châu để làm nô lệ,... nếu mình sinh ra vào thời đó thì sẽ cho là đúng. Chính Socrates khi xưa, cũng đồng ý là có một giai cấp nô lệ phục vụ trong xã hội.

Nhờ người Pháp mà Đàlạt trở thành Vườn Rau cho cả nước, một địa điểm du lịch được ưa chuộng của người Việt, thoát khỏi cái nóng nhiệt đới oai bức. Cũng chính người Pháp đã khám phá ra Bà-nà, Sapa, Ba-Vì,...những địa danh du lịch nổi tiếng ngày nay.

Hồi nhỏ, học lịch sử Việt Nam thì kêu thực dân này nọ. Sau này, sang Pháp mới khám phá ra người Pháp rất khác với những gì mình học ở trường. Họ rất tốt, cứu giúp người Việt tỵ nạn,..như con tàu “đảo Ánh Sáng” (île de lumière ).  Ngoài học bổng của chính phủ pháp, mình còn nhận được học bổng của một hội dân sự pháp.

Người Pháp bỏ nước ra đi đến các thuộc địa lập nghiệp, thường là những người trẻ thích phiêu lưu, mạo hiểm, hay đói rách ở Pháp quốc. Khi đến Việt Nam thì họ lợi dụng thân thế là người Pháp nên tìm cách làm ăn, vơ vét một số tiền để về lại Pháp hưởng nhàn. Họ ít học nên đối xử người địa phương rất tệ.  Tương tự ngày nay, người Việt đói khổ phải chạy tiền, nằm trong xe hàng để vượt biên giới sang âu châu để lao động chui, hay làm gái đứng đường ở Tân Gia Ba, hay làm dâu xứ Hàn, kiếm tiền nuôi gia đình, để dành số vốn xây nhà cửa cho bố mẹ ở Việt Nam như mấy người em họ mình, đi lao động quốc tế, bao nhiêu năm chưa được về thăm quê.

Người Nhật khi xưa, cũng đói rách nên bỏ xứ ra đi kiếm sống tại Nam Mỹ, Bắc Mỹ hay Á châu. Điển hình là các cô gái giang hồ người Nhật, khi xưa sang Đông Dương phục vụ người Pháp hay người Việt giàu có, nên mới có câu “ăn cơm tàu, ở nhà Tây, lấy vợ nhật” vì các cô gái nhật, bỏ xứ ra đi, kiếm cơm, rất chìu chuộng đàn ông.

Đàlạt thời Tây ngay trước khu Hoà Bình ngày nay

Mình nhớ khi đi trình diện ở trại lính để khám sức khoẻ trước khi đi quân dịch ở Pháp thì khám phá ra người Pháp bình thường, nói chung rất khác với người Pháp mình quen biết ở đại học. Họ chỉ biết đi làm lao động thợ thuyền, tối về nhậu nhẹt cho quên nhọc nhằn, giúp mình hiểu thêm về người Pháp, do đó mình không bao giờ tự xem là kém cỏi hơn người ngoại quốc. Gặp ông tây bà đầm là sợ hải.

Đàlạt nếu không có người Pháp khai phá thì chắc chắn không có những di tích lịch sử như ngày nay. Câu hỏi mình thường đặt là nếu người Pháp thắng trận Điện Biên Phủ thì Đàlạt sẽ ra sao. Hoặc nếu Việt Nam Cộng Hoà thắng cuộc chiến thì Đàlạt sẽ ra sao? Thời đệ nhất Cộng Hoà tuy ngắn ngủi nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm, đã xây dựng rất nhiều tại Đàlạt, điển hình là chợ Mới Đàlạt và khu Hoà Bình. Còn Việt Cộng chỉ có phá hoại, đặt mìn.

Khi mình đi du học, Đàlạt chỉ có độ hơn 100,000 thị dân, ngày nay nghe nói Đàlạt và các vùng lân cận lên đến 700,000 do đó Đàlạt bắt buộc phải phát triển, xây cất thêm nhà cửa cho người sở tại, giúp tàn phá các hình ảnh đẹp khi xưa.

Khi xưa chạy vào Đa Thiện, Thung Lũng Tình Yêu, phong cảnh quá đẹp, nay về đi hai bên đường thấy mấy tấm nylon trắng che phủ các đồi núi rừng Đàlạt. Khi che như vậy sẽ làm nhiệt độ của Đàlạt sẽ ấm hơn. 

Theo mình, sự phát triển Đàlạt có vẻ vô tổ chức, không có viễn kiến, như ở hải ngoại. Mỗi thành phố đều có bản thiết kế, cho khu vực nào làm kinh tế, thương mại, dân cư,... nhà cửa khu vực này được xây cất theo tiêu chuẩn ra sao, 2, tầng, 4 tàng,... tương tự như bản thiết kế của kiến trúc sư Ernest Hébrard, đường khu vực này rộng bao nhiêu, trồng cây hai bên đường, đền đường,...

Khi xưa, đứng ở nhà mình nhìn sang chùa Linh Sơn, thấy vườn chè, cây cối che khuất ngôi chùa, chỉ nghe tiếng chuông vào 4 giờ sáng. Nay về thì nhà xung quanh đều xây 3, 4 tầng, chỉ có nhà mình là nhỏ bé còn lại trong xóm xưa. Hôm qua nói chuyện chúc tết bà cụ, cô em đem điện thoại di động ra balcon, cho mình xem sân mới làm lại. Mình thất kinh khi thấy lá cờ đỏ mà ông Trần Dần khi xưa đã diễn tả qua mưa sa chỉ thấy ngọn cờ đỏ.

Dù muốn hay không Đàlạt sẽ biến đổi theo thời gian và nếu có quy hoạch, viễn kiến sẽ tạo dựng một Đàlạt đẹp, không bị du lịch hoá quá đà. Mình nghĩ cách phát triển tốt nhất của Đàlạt, làm thủ phủ, cơ quan hành chánh của Đàlạt tại Bảo Lộc. Cấm Đàlạt phát triển thêm, rồi từ từ sửa chửa lại Đàlạt cho có thứ tự. Những gì xây quá lố, nên tháo bỏ, trồng cây, tạo lập lại thiên nhiên. 



Nguyễn Hoàng Sơn 

Đàlạt xưa qua hình ảnh #2

Năm nay, cứ vào cuối tuần, mình sẽ tải lên đây hình ảnh Đàlạt xưa do mình lượm trên Internet hay do thiên hạ gửi để chia sẻ với mọi người. Có chú thích sai thì các bác cho em biết để bổ túc. Cảm ơn trước. Có người cho biết ho đang làm một tài liệu về Đà Lạt xưa trên YouTube, họ dựa theo mấy bài của mình kể về Đà Lạt xưa. Bác nào biết rành hơn em thì xin bổ túc để mọi người cùng nhìn về Đà Lạt xưa một cách rõ ràng hơn.

Tuần này mình tải mấy tấm ảnh của đường Phan Đình Phùng trước 75 và sau 75.


Tấm không ảnh chụp khu rạp xi-nê Ngọc Hiệp và rạp LangBiang của ông bà Cai Sớm, ông bà nội của một anh bạn học xưa, sau này được phá bỏ để làm cây xăng Ngọc Hiệp. Thấy dốc Mình Mạng, nối với đường Cầu Quẹo (sau đổi thành Phan Đình Phùng). Phía bên phải thấy một khúc đường Hai Bà Trưng, từ khúc trường Thăng Long (Hiếu Học cũ) đến dốc trường Nữ Công Gia Chánh.

Chỗ chụp từ đường Hàm Nghi nhìn xuống ngã 3 Minh Mạng và Phan đình Phùng. Thấy bên phải rạp xi-nê Ngọc HIệp, sau đó là một dãy tiệm tàu, rồi đến mấy căn nhà gỗ 2 tầng, có tiệm hớt tóc Như-Ý của gia đình Đinh Anh Quốc, bên cạnh tiệm giày Hồ Út.

Bên trái là đường Mình Mạng có mấy nhà nghỉ, khách sạn, tiệm thuốc tây Nguyễn Duy Quang, bên cạnh phòng mạch bác sĩ Sohier, sau này hồi hương. Chỗ đường Mình Mạng có mấy thang cấp đi xuống đường Phan Đình Phùng, bên cạnh có trạm biến điện.


Không ảnh này cận cảnh của hình trên, thấy rạp xi-nê Ngọc Hiệp to lớn, bên cạnh là rạp LangBiang.




Nếu so sánh với hình trên, có thấy đường Tăng Bạt Hổ. Thấy mấy căn nhà gỗ của tiệm hớt tóc Như Ý

Tiền thân của rạp Ngọc Hiệp, mờ quá nên không rõ tên của rạp xi-nê. Mình đoán trước 1945 vì tên rạp khác Ngọc Hiệp sau này. Ai biết tên thì cho xin. Mình có hỏi con của ông bà chủ rạp này và Ngọc Lan về tin tức của hai rạp này nhưng ông thần bê nguyên bài mình viết về các rạp xi nê một thời ở Đàlạt trước 75, email cho mình. Hoá ra anh chàng không biết mình là tác giả. Chán Mớ Đời 


Hình này chụp năm 1993, 1 năm sau khi mình trở lại Đàlạt sau 18 năm. Đúng lần đầu về thì cảnh tượng Đàlạt như thế này, te tua sau 18 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, xoá tư bản giảm giàu. Đường vắng, không có xe cộ gì cả, chẳng bù lại ngày nay. Hình chụp lên dốc Minh  Mạng.


Rạp hát LangBiang, nghe kể có hát bội, cải lương ở đây, sau này bị phá bỏ để xây cây xăng Ngọc Hiệp. Rạp này của ông bà Cai Sớm, thầu khoán, bố của bác Bê, an ninh quân đội khi xưa. Con cháu bác mới làm lễ thượng thọ 100 tuổi cho bác năm nay.


Rạp Ngọc Hiệp sau 75, thấy hai tiệm ăn tàu Kim Linh và Như-Ý đã bị dẹp bỏ. Đoán là cùng tác giả của tấm trên vì màu sắc tương tự, năm 1993.


Chụp sau 75. Dốc Minh Mạng từ góc Ngọc Hiệp (Phan Đình Phùng) nhìn lên.


Nhỉnh từ rạp Ngọc Hiệp qua góc cuối đường Mình Mạng, có hẻm đi lên dốc hẻm khúc tiệm phở Tùng ? (Bị cháy)


Lạ. Tiệm uốn tóc Balê lúc này lại nằm ngay phòng mạch của bác sĩ Sohier, sau lại chạy xuống chỗ hiệu Thiên Thai.


Không ảnh chắc cùng tác giả của tấm trên. Thấy dốc Mình Mạng và đường Phan Đình Phùng. Thấy tiệm bi-da Hồng Ngọc, nhà và phòng mạch của bác sĩ Đào huy Hách.


Đường Phan Đình Phùng, nhìn từ rạp xi-nê Ngọc Hiệp sang. Lác đác phía sau là dãy phố của đường Hàm Nghi, nhìn phía sau.
Đường Phan Đình Phùng, nhìn từ tiệm ăn Kim Linh sang. Hình chụp sau 1975 


Hình Phan Đình Phùng, chụp từ rạp Ngọc Hiệp sang

Chỗ này là nhà anh chàng Châu, tiệm làm nệm cho ghế, phía bên kia đường có tiệm sách Minh Thu, cho mướn truyện, tiệm Luồng Điện của gia đình Trần Trọng Ân. Rồi đến tiệm Công Thành, em của bà Cháu, tiệm xe ở đường Phan Bội Châu, hay cãi lộn với tiệm Tân Tiến đối diện, bên cạnh tiệm giò chả An Lộc. Hình chụp sau 75 nên te tua


Đường Phan Đình Phùng, nhìn từ đường Hàm Nghi, chỗ cái dốc đi xuống khách sạn Mimosa. Thấy trường tiểu học Minh-Trí, phòng mạch bác sĩ Phán thì phải, nhà bảo sanh Hiền Chi, tiệm thuốc Lâm Viên, có ông Thịnh, người thấp thấp, bên cạnh là nhà của chị Mẫn, hàng xóm một thời và nhà may của ông Ba Hoà, chuyên may liễn đám ma nên khá giàu. Nghe nói nay con ông ta tiếp tục nghề này.
Phía bên kia đường Hai Bà Trưng, dãy nhà của viện Pasteur, và dãy đầu tiên của cư xá Địa Dư.

Hình chụp từ đường Hàm Nghi, khúc cái dốc khách sạn Mimosa, thấy trường tiểu học MInh Trí như hình trên, có cái giếng trước mặt, thiên hạ đến đây gánh nước, bên phải đi về hướng ngã ba Chùa.


Mình đoán chụp từ khách sạn Mimosa hay khúc tiệm Sơn Hà, bán gạo.

Nhà bên tay phải, căn đầu tiên là nhà của bố mẹ chồng chồng của dì mình. Bên cạnh là nhà của gia đình Nguyễn Đức Thuận. Có cái hẻm đi vào xóm khu nhà ông Xu Huệ.


Đường Phan Đình Phùng ngay ngã ba Duy Tân. Mình không biết khúc này thuộc Phan Đình Phùng hay Duy Tân. Lý do là thời tây, người Việt hay kêu đường Cầu Quẹo vì quẹo sang đường Hải Thượng để vào lò gạch trong đường Hoàng Diệu.


Đầu đường Phan Đình Phùng, chỗ văn phòng bác sĩ Lương và nhà hộ sinh Trương thị Lập.

Đường Phan Đình Phùng, bên tay phải có dốc đi lên Dốc Nhà Làng, bên phải là 3 căn nhà đang xây của gia đình hai anh em Chương Trình, con ông Đoàn và tiệm chụp hình Mỹ Dung trước 75. Đối diện là tiệm Cẩm Đô. 

Tiệm mì Cẩm Đô bên hông của nhà hàng và khách sạn Cẩm Đô. Bên phải chỗ hai chiếc xe Lam là tiệm rượu Ngô Như Khương

Đường Phan Đình Phùng, chụp từ góc ngã 3 Cẩm Đô, thấy dãy nhà cuối có tiệm hớt tóc Như Ý của gia đình Đinh Anh Quốc. Xe mì này, sau này dời sang bên hông khách sạn Cẩm Đô, ngon nức nở. Mỗi lần đau, là xuống đây ăn tô mì hai vắt là hết bệnh. Có tiệm thuốc bắc quên tên bên cạnh xe mì. Hình như NGô Như Khương bán rượu. Thêm tiệm giặt ủi cũng quên tên, quen với bà cụ mình.

Tiệm giầy Hồ Út, bên cạnh vạc đất trống có cái am, sau đó là nhà của gia đình Đinh Anh Quốc (tiệm hớt tóc Như Ý)

Chụp trước tiệm giầy Hồ Út, nhìn về phía rạp Ngọc Hiệp , thấy cái trạm biến điện bên tay phải chỗ mấy thang cấp từ đường MInh Mạng đi xuống. Chụp sau 75 mới thấy xe ngựa trở lại.

Chụp sau 75, ngay tiệm giầy Hồ Út xưa, bên trái có cái cột đèn

Phan đình Phùng sau 75, do ông nhật nào chụp 

(Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn 

Aline (Christophe)

 Hồi học trung học, đám bạn học đều mê ca sĩ Christophe, đi đâu ở phố Đàlạt, tiệm chè hay cà phê đều nghe bản nhạc “Aline”, đã giúp ông ca sĩ tây này nổi tiếng, thần tượng của giới trẻ. Theo ông ta kể vào năm 1964, khi đang ăn cơm trưa với bà ngoại, ông ta nổi hứng viết bản nhạc này trong vòng 15 phút. Rồi đặt tên “Aline”, tên một cô gái tóc vàng, đang nghỉ hè ở miền nam nước Pháp, nơi ông Christophe, mới bắt đầu đi hát ở các phòng trà ở đây. 

Năm sau, ông ta được mời tham dự một chương trình “Palmarès des chansons “ của đài truyền hình pháp do Guy Lux và Anne-Marie Peysson điều dẫn với ban nhạc của Raymond Lefèvre. Khi xưa, ở Việt Nam hay nghe nhạc hoà tấu của ban nhạc Paul Mauriat với bản nhạc “Mammy Blue”. Nhớ CBMT hát bản này trong một buổi văn nghệ ở rạp Hoà Bình.

Bản nhạc Aline đã phóng ông ta, mới 20 tuổi lên hàng ngôi sao ye-ye, ngang ngửa với các ca sĩ hàng đầu như Jacques Brel, Gilbert Bécaud,...bán được 260,000 đĩa nhạc trong vòng 6 tuần lễ, tạo dựng một huyền thoại về người con gái mang tên Aline. Dạo ấy bên tây, người ta đặt tên Aline cho con gái mới sinh khá nhiều.

J'avais dessiné sur le sable
Son doux visage qui me souriait
Puis il a plu sur cette plage
Dans cet orage, elle a disparu
Et j'ai crié, crié "Aline!" pour qu'elle revienne
Et j'ai pleuré, pleuré
Oh j'avais trop de peine
Je me suis assis auprès de son âme
Mais la belle dame s'était enfuie
Et je l'ai cherchée sans plus y croire
Et sans un espoir pour me guider
Et j'ai crié, crié "Aline!" pour qu'elle revienne
Et j'ai pleuré, pleuré
Oh j'avais trop peine
Je n'ai gardé que ce doux visage
Comme une épave sur le sable mouillé
Et, et j'ai crié, crié "Aline!" pour qu'elle revienne
Et j'ai pleuré, oh, pleuré
Oh, oh j'avais trop de peine
Et j'ai crié, crié "Aline!" pour qu'elle revienne
Et j'ai pleuré, pleuré, pleuré
Oh j'avais trop de peine
Et j'ai crié "Aline! Aline! Aline!
Aline! Aline! Aline!"

Bản nhạc Aline trở thành bản nhạc ưa chuộng nhất vào mùa hè năm đó. Dạo mình ở âu châu, thường mỗi mùa hè là có một bản nhạc được ưa chuộng, ở các bãi biển, du khách đều nghe một bản nhạc thịnh hành như bài Macarena vào những thập niên trước.

Dạo ấy, ai cũng có hình bóng một thiếu nữ trong tâm khảm nên bản nhạc lột tả được tâm trạng của giới trẻ thời đó còn các thiếu nữ thì mơ mình là hình bóng trong đầu mấy tên con trai trong trường hay đâu đó.

Sau này Paris-Match có tìm ra cô Aline này, chụp hình với ca sĩ Christophe để đăng trên báo, bán chạy như tôm tươi . Xem hình

Người con gái tóc vàng tên Aline, trở thành huyền thoại, đã đưa ca sĩ Christophe lên đài danh vọng (photo Paris Match)

Ông Christophe, tên thật là Daniel Bevilacqua, gốc Ý Đại Lợi, sinh ngày 13/10/1945 tại ngoại ô Paris. Người Ý Đại Lợi nghèo nên di cư sang Pháp kiếm sống như gia đình ca sĩ Salvatore Adamo sang Bỉ quốc. Ông ta chơi ban nhạc từ trung học nên hay tụ họp tại câu lạc bộ tên Golf-Drouot, quận 9 của Paris, nơi các danh ca khởi đầu hành trình âm-nhạc của họ như Free, David Bowie, The Who, Johnny Hallyday, Eddy Mitchel,.. ông ta mơ về đời sống, văn hoá mỹ “American way  of life “ với kẹo cao-su, rock’n’roll. Điểm vui là nhờ nhạc tình mà ông lại nổi tiếng thay vì Rock’n’Roll như Eddie Mitchel.

Chủ hộp đêm và Johnny Hallyday, Eddie Mitchel, vua rock’n’roll của Pháp. Hình trên Internet 

Hè năm 1965, bản nhạc Aline được bán trên nữa triệu đĩa nhạc 45 tours với sự dàn dựng của ông Jacques Deanjean thêm giọng nữ tạo thêm sức hút cho thính giả, có lẻ ảnh hưởng nhạc Blue của Hoa Kỳ. Đồng thời, năm ấy cũng có một bản nhạc nổi tiếng khác đương thời tên “Capri, c’est fini “ do ca sĩ Hervé Vilard trình bày, cũng do ông hoà âm trưởng thực hiện. Hai ca sĩ thưa kiện về đạo nhạc nhau, cuối cùng ông Christophe thắng kiện và cho ra đời lại bản nhạc Aline, kiếm thêm một mớ tiền. Bản Aline hay nói chung nhạc tây được du nhập vào Việt Nam vào những năm 1972 theo làn sóng nhạc trẻ, được chuyển ngữ qua tiếng Việt. Xem như phải mất 5-7 năm mới đến bờ Thái Bình Dương.

Cuộc đời của ông ca sĩ Hervé Vilard cũng lạ lắm. Có dịp mình sẽ kể vì có nhiều kỷ-niệm với đảo Capri, khi ở Ý Đại Lợi. Lý do là nghệ-danh của ông ta thuộc bản quyền của người khác, tương từ trường hợp ca sĩ Ringo, chồng của ca sĩ Sheila nên sau này ông ta có thời gian không được hoạt động với nghệ danh của mình tại âu châu nên phải bò sang Nam Mỹ để sinh hoạt và tìm ra Barbie, tên đồ tể Nazi. Lúc ông ta được sử dụng lại nghệ-danh của mình thì có làm nhiều bản nhạc khá ăn khách, âm hưởng của thời sinh sống tại Nam-mỹ.

Ngoài ra bản nhạc nổi tiếng thứ 2 là “ les marionnettes “ mà mình nghe lần đầu tiên ở nhà hai anh em Chương và Trình. Mấy ông thần tập chơi nhạc với Thảo (Xu Tiéng) ở căn nhà mới xây ở đường Phan Đình Phùng, trước khách sạn Cẩm Đô, nơi dốc Nhà Làng. Hình như Trình chơi trống thì phải, rên rĩ bản nhạc này. Từ đó mình không gặp lại hai anh em này. Nghe nói Chương lấy con gái chú Phấn, tiệm thuốc Mình Tâm ở đường Duy Tân.

Ca sĩ Christophe lần đầu tiên trên đài truyền hình đã chinh phục các khán giả pháp. Hình trên Internet 

Sau này, qua tây mình nghe ông Christophe kể là leo lên gác, tìm lại trong những đồ cũ, thấy lại những con rối mà ông ta làm khi còn bé nên viết bản này.

Moi je construis les marionnettes
Avec de la ficelle et du papier
Elles sont jolies les mignonnettes
Je vais, je vais vous les présenter
L'une d'entre elles est la plus belle
Elle sait bien dire papa maman
Quant à son frère il peut prédire
Pour demain la pluie ou bien le beau temps
Moi je construis des marionnettes
Avec de la ficelle et du papier
Elles sont jolies les mignonnettes
Je vais, je vais vous les présenter
Chez nous à chaque instant c'est jour de fête
Grâce au petit clown qui nous fait rire
Même Alexa cette pauvrette
Oublie, oublie, qu'elle a toujours pleuré
Moi je construis des marionnettes
Avec de la ficelle et du papier
Elles sont jolies les mignonnettes
Elles vous diront, elles vous diront
Que je suis leur ami, que je suis leur ami
Que je suis leur ami, leur ami
Que je suis leur ami, leur ami
Que je suis leur ami, leur ami

Ngoài ra ông ta có bản “Mal” do ca sĩ Thanh Lan trình bày, khá được ưa chuộng trong giới choai choai thời ấy. Mình nhớ nghe bản này lần đầu khi học hè ở trường Việt Anh. Cuối khoá, có một anh chàng ở đầu trong đường hoàng Diệu, hát bản nhạc này bằng tiếng việt, sau này mới khám phá ra là ca sĩ Anh Dũng, rể của hai bác Nguyễn Đình Thừa. Còn một cô học Couvent des Oiseaux hát bằng tiếng pháp. Qua tây thì dân tây không chuộng bài hát này lắm.

Mal
Au fond du cœur
Oui j'ai mal
Mal
Toute la vie me fait mal
De temps en temps
Quand je regarde le soleil
Qui vole
Qui vole
Au fond du ciel
Je me souviens
D'un prénom qui me fait mal
D'une robe
D'un soulier de premier bal
Je me souviens
Des paroles d'une chanson
Où venaient souvent
Des mots dans les frissons
Mal
Dans une mer de corail
Mal
La couleur bleu me fait mal
De temps en temps
Quand je regarde le soleil
Qui vole
Qui vole
Au fond du ciel
Je me souviens
D'un prénom qui me fait mal
D'une robe
D'un soulier de premier bal
Je me souviens
Des paroles d'une chanson
Où venaient souvent
Des mots dans les frissons
Mal
Au fond du cœur
Oui j'ai mal
Mal
Toute la vie me fait mal
De temps en temps
Quand je regarde le soleil
Qui vole
Qui vole
Au fond du ciel
Je me souviens
D'un prénom qui me fait mal
D'une robe
D'un soulier de premier bal
Je me souviens
Des paroles d'une chanson
Où venaient souvent
Des mots dans les frissons
Mal
Mal
Oui j'ai mal
Bien trop mal
Mal
Mal
Oui j'ai mal

Cuối năm, nhớ chuyện xưa thời mới bắt đầu để ý đến mấy cô thiếu nữ tại Đàlạt, cảm thấy như bản nhạc nói lên tâm trạng của mình một thời nên ghi lại.

Xin chúc các anh chị một năm mới vui vẻ và an khang.


Ảnh của họa sĩ Ba Bụi

Nguyễn Hoàng Sơn