# 30 tháng tư 1975 (Những ngày đầu trên đất Pháp)

Sau khi đi làm cu li 1 tuần ở vùng nghỉ dưỡng mùa đông, trượt tuyết La Clusaz gần Grenoble về thì đọc báo tìm được làm việc ngắn hạn cho một nhà in ở Issy Les Moulineaux. Họ cần gấp nên trả tiền mặt, rẻ. Mình ở Pantin nên xem như đi làm phải đi xe điện ngầm xuyên Paris, mất độ gần 1 tiếng khi phải chờ đợi chuyến xe. Lâu lâu tiệm ăn Tây bên cạnh nhà in, cần người vì thợ nghỉ, ông chủ chạy qua kêu bà chủ tiệm in cho mình qua phụ việc, rửa chén đĩa dao cho họ. Thật ra họ có máy rửa chén nên chỉ chùi rồi bỏ vào máy. Sau đó ông ta cho ăn cơm Tây. Ngon vô cực. Dạo ấy 18 tuổi ăn bao nhiêu cũng không no.

Vấn đề là làm việc nhiều nên đi sớm về khuya. Có hôm về ngồi métro mệt quá ngủ luôn khiến xe đến bến cuối trạm, kiểm soát viên lên đuổi xuống, phải đi ngược lại, về đến nhà vào lúc 12 giờ đêm, sáng đã lên xe điện vào 7 giờ sáng để đến sở vào lúc 8 giờ.


Cuộc đời du học sinh, trước khi đi tưởng như tuyệt vời đến khi đặt chân lên xứ thực dân này mới thâm nhập thực tế cuộc đời không như trong mơ, chỉ muốn trở về mái nhà xưa ở Đà Lạt. Tuyết thì lạnh, Paris thì toàn cứt chó, sông Seine đen thùi,… cu li bên tây về Việt Nam nổ banh xác luôn. Từ một tên chả biết lo gì cả, chỉ biết đổ trứng gà, làm Sauce Mayonnaise, cơm chiên nay phải tự đi chợ, xem mỗi ngày phải xài tối đa bao nhiêu tiền, nay phải đi làm sống chết, mệt đừ. Về đến nhà là chỉ muốn ngủ. Sáng hôm sau thức dậy đi làm tiếp, chả đọc sách, đọc báo hay xem truyền hình vì không có. Làm trễ nên chủ mua cho thức ăn, bánh mì gì đó nên về già chỉ leo lên giường ngủ.


Một hôm, chủ kêu đi giao đồ cho khách hàng cần gấp, kêu taxi đi cho nhanh. Lần đầu tiên đi taxi tây khiến mình bỡ ngỡ vì leo lên chiếc Mercedes đời mới mà cả đời chưa bao giờ bò lên hay được rờ, nay lên ngồi như tên cu-li mít từ Đà Lạt sang, không dám tựa lưng vào ghế, cứ sợ trầy sẽ bị bắt đền. Xe hơi sang nhất mà mình leo lên khi ở Việt Nam là xe van của ông Marcel, khi Dương Quang Trí lấy chở cả đám đi Ninh Chữ, vào tết cuối cùng ở Đà Lạt.


 Chỉ có xe taxi ở Pháp là chạy xe Mercedes, đời mới nên giá taxi khá đắt. Đồng chí gái có cô bạn ở Paris, anh chồng lái taxi, lợi tức đâu trên 200,000 Euro một năm. Gặp ông tây lái taxi hỏi ông người gì, nói Việt Nam. Ông ta kêu là sáng nay, Sàigòn thất thủ, thấy một đám người chạy vào toà đại sứ Việt Nam Cộng Hoà đập phá khiến mình thất kinh, muốn xỉu luôn. Tối đó mình mua tờ báo le monde về nhà, đọc đi đọc lại mấy lần. Càng đọc càng lo sợ không biết gia đình ra sao. 


Trong lá thư đầu tiên và cũng là cuối cùng của ông cụ cho biết Ban Mê Thuột thất thủ nên dân Đà Lạt cũng bỏ chạy về BÌnh Tuy, để về Sàigòn vì đường  Sàigòn - Đà Lạt bị chận. Tối đó mình khóc như ông Đức Huy đã khóc một dòng sông. Một dòng sông dài nhớ cha nhớ mẹ, nhớ anh nhớ chị, khóc một dòng sông Seine hôi thối. 3 năm sau mới nhận được thư bà cụ từ Đà Lạt, nói gia đình bình yên, không nói gì nhiều, chắc sợ bị kiểm duyệt. Mình thắc mắc sao ông cụ không viết thư mà lại bà cụ. Sau này có người về Đà Lạt, mới hiểu là ông cụ bị bắt vì tham gia nhóm phục quốc ở Đà Lạt, do Hà Nội tổ chức để lừa tóm dân miền nam chống chế độ mới, lên án 18 năm đi cải tạo.

Cuộc đời mình có nhiều may mắn, gặp được nhiều người ngoại quốc giúp đỡ. Đi làm cu li ở La Clusaz thì làm quen với một anh tây. Anh ta mời đến nhà ăn cơm để hỏi thêm về tình hình Việt Nam. Bà dì cô vợ có căn phòng ô-sin ở Neuilly Sur Seine nên chị ta hỏi để mình mướn với giá rẻ 100 quan một tháng. Bà dì tên Cayla cho mướn độ 3 tháng thì không nhận tiền nhà nữa, mình dùng tiền đó để mua quà gửi về cho gia đình ở Việt Nam. Sinh viên không có tiền mà mỗi lần nhận thư nhà là em út than nên chỉ dành tiền bao nhiêu rồi gửi về cho nhà. Đi xin thuốc tây của bác sĩ hay dược sĩ quen, bên tây hay bên Ý Đại Lợi, đóng thùng gửi về. Mỗi lần đóng thùng mà nghe ông Việt Dũng hát chút quà cho quê hương là chỉ biết khóc.


Nhìn lại không hiểu làm sao mình có thể vượt qua thời gian 3 năm, không biết tin tức gia đình. Nếu không có sự giúp đỡ của những gia đình người Pháp, may mắn gặp trên đường đời thì khó mà tốt nghiệp. Bạn bè mình quen gốc việt từ Đà Lạt, đa số là bỏ học đi làm. Hai năm đầu đại học, họ chỉ cho phép rớt học lại một năm, rớt hai năm là giả từ bút nghiêng, đi làm việc vớ vẩn. Đi học mà vừa đi làm để có tiền tiêu thì khó mà học lắm nếu không phải thông minh xuất chúng.


Con bà Cayla, người cho mình mướn căn phòng Ô-sin, rớt 2 năm ở đại học Jussieu, không được học tiếp, đi học nghề thợ mộc, mất mấy năm, không lương bổng gì cả rồi từ từ mới kiếm được việc. Lý do là học không tốn tiền nên nếu anh rớt hoài thì tốn tiền chính phủ, nhân dân pháp nên cấm học. Đại học Jussieu lớn nhất Paris dạo ấy. Thi không vào được các trường khác thì chui vào đây học. Đi ăn cơm ở đây, gặp sinh viên Việt Nam đông lắm nhưng không dám hỏi han vì không biết họ là chống cộng hay thuộc nhóm Việt kiều yêu nước. Suốt thời gian đi học mình chỉ quen có hai gia đình người Việt tại Paris, không tham gia hội đoàn gì cả. Mình cứ lo học cho ra trường rồi tính sau.


Lý do là ông Pierre Guillaume mà có cuốn phim làm về cuộc đời ông ta mang trên Crabe Tambour. Ông ta khuyên mình là tránh xa người Việt, lý do là mất quê hương thì hay tụ nhau lại khóc lóc rên rỉ sẽ đâm ra tiêu cực, không làm hay học gì cả. Ông ta nói đám tỵ nạn cộng sản từ Đông âu sang pháp hay bị vấn nạn này. Mày cứ lo học cho xong ra trường rồi tính sau. Chú tâm học cái đã.


Lâu lâu bà Cayla để cái Notes cho bà gác dan, kêu tối về ghé nhà bà ta ăn cơm. Các lễ lớn như Giáng Sinh, đều được mời đến nhà ăn mừng Chúa ra đời với gia đình họ để mình khỏi lạc lõng cô đơn nơi xứ người. Sau này, nhớ ơn họ, mình hay mời sinh viên xa nhà hay ai có con cái ở xa không về dự Lễ Tạ ơn, Giáng SInh hay Tết, giúp họ không bị cô đơn, lạc loài khi cả nước vui mừng.


 Rồi có người giới thiệu mình đến hội cựu quân nhân Đông-Dương. Tại đây, họ phát chẩn quần áo cũ nên suốt thời gian sinh viên mình không tốn một xu để mua áo quần. Mình chuyên viên bận đồ cũ từ Đà Lạt đến giờ. Áo quần cũ của ông cụ là mình thầu, sang tây thì quần áo cũ của Tây. Ra trường, mình mua đồ cũ chợ trời Aux Puces. Sang Hoa Kỳ thì cũng mua chợ trời áo sơ-mi giá 1 đô. Sau này lấy vợ cũng mua đồ chỗ mấy tiệm bán đồ cũ hay Garage sale. Nông dân đâu cần quần áo mới hay đồ xịn.

Tại hội cựu quân nhân Đông-Dương họ giới thiệu mình một ông thầu khoán, gốc Phi châu mà dân tây gọi là Pied noir vì sinh trưởng ở Phi Châu. Ông này kiếm được việc làm cho mình hai tháng hè trong một siêu thị ở thành phố của ông ta ở Mantes La Jolie. Ông ta có một văn phòng sắp sửa bị đập phá để xây cái mới hay chung cư gì đó. Ông ta cũng bảo lãnh một gia đình người Lào. Thế là mình ở chung nhưng khác phòng với gia đình này. Bà người Lào kêu đóng tiền, bà ta nấu cơm cho ăn mỗi ngày.


Sáng đi làm, để tiết kiệm tiền xe buýt để ăn học nên phải chạy bộ độ 3 cây số đến siêu thị vì ở ngoài ô, Le Val Fourre, khu thành phố mới (Villa neuve). Trưa thì ông tài xế chở mình về nhà ăn cơm. Sau đó lại chạy bộ thêm 3 cây số ban trưa nóng chết bỏ vào mùa hè. Quen chạy bộ về Paris mình cũng chạy hàng ngày trước khi đi học suốt mấy năm đời sinh viên, mưa nắng tuyết lạnh.


Nhiều hôm xui, đi giao hàng cho khách hàng mà cầu thang máy bị hỏng. Khu nghèo hay bị vậy lắm thế là mình với ông tài xế phải khiêng lên bằng cầu thang. Mất cả tiếng hơn mới bò lên 27 tầng. Hôm ấy, chả có gì giao hàng ngoài cái giường nên phải làm nếu không thì đem về rồi hẹn lần sau đến. Khu vực này dân gốc ả rập ở nhiều nên lối sống của họ khác với người Pháp, họ quăng rác tùm lum, vẽ bậy trên tường, phá hỏng cầu thang máy,..khiến ông tài xế kêu “sale bougnoules”. Cho thấy người Pháp đã kỳ thị từ dạo ấy. Nay thì chắc nhiều hơn vì phong trào Front National, Mặt Trận Quốc Gia, cực hữu lên cao. Có thể lịch sử sẽ quay lại, người Pháp kỳ thị chủng tộc lên cao, tìm cách đuổi cổ người dân ả rập hay đen hay vàng ra khỏi nước pháp. Đánh nhau, bắn giết nhau không chừng.


Cuối tuần thì con trai ông Marco chở đi chơi như lên Paris xem đá banh ở Parc Des Princes hay lòng vòng. Hay thằng Francis, cháu bà Marco với bạn nó rủ đi nhảy đầm. Đến một câu lạc bộ thanh thiếu niên, họ có khiêu vũ cho đám trẻ cuối tuần từ 2 giờ đến 5 giờ chiều, không có rượu bia gì cả. Mình có bao giờ đi nhảy đầm ở Việt Nam đâu nên hơi ngọng khi vào trong chỗ nhảy đầm. Cứ ngồi một cục, mút mút ly nước ngọt, sợ mau hết phải tốn tiền mua ly khác. Bổng nhiên có cô đầm nào bò lại đưa tay mời mình nhảy, mình như bò đội nón, thầm nói không biết nhảy nhưng thằng Francis cứ đẩy mình ra. Thôi thì thân nầy như con thuyền, đi tới đâu thì biết.


Cô đầm xinh, kêu mình ôm cô ta rồi cô ta ôm mình cứ bước theo chân của cô ta chậm chậm nhưng tim mình thì hồi hộp, đánh bình bình nhưng phê phê. Thế là sơn đen có thể kêu đã nhảy đầm lần đầu tiên trong đời. Nhảy một lát, cô đầm hun mình khiến mình thất kinh phải há mồm ra cho cô ta mớm nước mồm. Ra về, thằng Francis và hai tên bạn nó kêu mày cưa gái đỗ như điên. Mình cười gượng nhưng trong lòng cũng vui vui, lân lân như chiếc máy bay lên thẳng. Lần đầu tiên ôm và mi gái trong đời. Lâu lâu thằng Francis chở đi nhảy đầm cũng gặp cô ta lại nhảy đầm xì lô rồi 2 tháng hè qua mau. Mình về lại Paris, cũng chả biết cô ta tên gì. Đối cảnh vô tâm. Chán Mớ Đời 

Sau này vào đại học thì được một tên bạn học dạy nhảy đầm với cô em hắn nên nhảy khá khá. Sau này mình hay xem những tên tây khác nhảy nhiều thế khác thì bắt chước. Học võ ngày xưa nên mình nhìn là hiểu cách xoay ra sao nên dễ chế biến lại khiến mấy con đầm học chung hay quen, hay rủ mình đi nhảy đầm với chúng, chẳng phải chúng yêu thích gì mình nhưng chỉ thích nhảy đầm với mình thôi. Nói như đầm là ivre de rock chớ không phải vì cái mặt hãm tài của mình. Em gái tên bạn một hôm kêu thằng bạn phải học thêm mấy điệu khác vì thằng Sơn nó nhảy hay hơn anh. Học trò hơn thầy là đầm có phúc. Qua Hoa Kỳ bổng nhiên mình hết thích nhảy đầm. Lấy vợ mít nên không biết nhảy mít. Chán Mớ Đời 


Về Paris đi học thì gặp một tên sinh viên gốc Việt Nam, nói chính phủ pháp có chương trình giúp đỡ sinh viên Việt Nam nên đi xin thì được nhận tiền trợ cấp, mấy trăm một tháng hình như 700 quan. Sau này thì mình được cấp học bổng nên lãnh được 1,200 tháng. Tiền học thì không trả, tiền nhà cũng không lại đi làm thêm nên có chút tiền, hàng tháng gửi về cho bà cụ nuôi mấy đứa em. Mình chả tiêu xài gì cả đến ngày nay cũng vậy. Có lẻ quen hà tiện một thời.


Lên năm thứ 3 thì lâu lâu văn phòng của Ông thầy cần nègres vẽ charrette thì kêu mình vẽ trả tiền nên cũng khấm khá có chút tiền, để dành đi du lịch với đám học chung ở Ý Đại Lợi và các nước khác mỗi năm. Thường mấy ông thầy có văn phòng kiến trúc, sinh viên nào giỏi thì họ kêu đến văn phòng vẽ cho họ. 


Cuối tuần thì có một bà chủ tiệm ăn Việt Nam, nhờ phụ bà ta làm bồi vì ông con đi nhảy đầm hay đánh bài. Anh chàng này sang tây trước mình nhưng không chịu học. Bà ta chỉ làm chả giò, cơm chiên và bún thịt nướng nên dễ xoay sở vì tiệm có thể chứa được 10 người. Thế là cuối tuần mình ăn bún thịt nướng hay cơm chiên, có thêm 100 quan cho mỗi đêm. Tuần được 200 quan, tháng được thêm 800 quan pháp, bỏ quỹ tiết kiệm. (Còn tiếp)


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Những ngày đầu trên đất Pháp # Tombe la neige

Hồi nhỏ xem phim Bác sĩ Zhivago thêm đọc cuốn truyện này khiến mình mê và mơ được xem tuyết rơi như trong phim nhất là dạo ấy ông Adamo, một người gốc Ý Đại Lợi di dân sang Bỉ quốc hát bản nhạc “tombe la neige”. Muốn xem tuyết rơi thì phải đi tây. Mà đi tây thì phải đậu cao. Đâu phải như ngày nay, có tiền là đi. Khi máy bay rời Sàigòn thì bay đến Thái Lan, quá cảnh phi trường Vọng Các rồi đến phi trường Tân Đề Li của Ấn Độ, phi trường Teheran của Ba Tư rồi phi trường Charles De Gaulle ở vùng Roissy.

Đà Lạt lạnh về mùa giáng sinh, gió lạnh, nhiều đêm lạnh xuống đến 10 độ C nhưng lúc đó đang nằm trong giường. Đến Paris thì có ông cậu, con ông bà Phúng ra đón, chở về nhà ở thành phố Pantin. Bước ra bãi đậu xe, lần đầu tiên thấm mùi lạnh mùa đông của xứ Pháp. Lạnh thiệt! Đôi giày đóng ở tiệm giày Mỹ Hưng, đường Minh Mạng lạnh buốt vì mang vớ mỏng le.

Trời mùa đông Paris buồn thế lương, trời xám xám, cây cối xơ xác, không có lá chi cả. Buồn thê thảm như hình ảnh Jane Dunaway trong phim 3 days of the Condor. Có điểm lạ là khi mới đến Paris, mình ngồi xe hơi là bị chóng mặt, thậm chí đi xe buýt. Phải mất độ 1 năm sau mới hết bị vụ này. Ở Việt Nam, đi xe đò mình đâu bị, có lẻ xe tây nhỏ xíu, ngồi trong thấy ngột thở.


Khi còn ở Việt Nam, nghe nhạc của ông Phạm Duy nói về Paris, sông Seine đến khi sang Tây đi ra bờ sông Seine thì đâu có thấy như trong bài hát. Sông nước đục ngầu, ô nhiễm không ai dám tắm như trong mấy tấm tranh xưa kia, đi đường thì phải tránh cứt chó đủ trò. Ngày đầu tiên xuất hành đi viếng Paris, vừa đi vừa nhìn lên trời như bộ đội rớt nón vào Sàigòn, bổng nhiên thấy trơn trợt, nhìn xuống thì dẫm phải bãi cứt chó. 


Dân tây mất dạy lắm, nuôi chó, rồi đem ra đường cho chúng ỉa bậy. Đứa nào ít gian ác thì dẫn xuống đường cạnh lề đường để xe quét đường chạy ngang nhưng thường xe đậu đầy nên rút kinh nghiệm, thấy trời lạnh, dân tây đầm đều nhìn xuống đường không phải vì lạnh hay khiêm nhường mà để nhìn và tránh cứt chó. Sau này, họ có cho các xe mô tô đi hốt cứt chó ở Paris nên nghe nói dạo này ở Paris ít bị đạp cứt chó. Đọc báo tây thì được biết thành phố Paris tốn trên 550 triệu Euro và 7,000 nhân viên đi hốt cứt chó hàng năm.


Mình ở thành phố Pantin, ngoại ô nằm về phía đông của Paris, có nhiều nhà máy , hãng xưởng trước đây nên nhà cửa bị ám khói kỹ nghệ, dơ lắm, tường đen vì khói. Vùng phía tây Paris như Versailles, Saint Germain en Laye ,.. là khu giàu có, tránh gió thổi về hướng đông nên sống ở vùng Đông của Paris là lãnh đủ.

Ở lâu thì mới nhận ra cái đẹp của Paris. Mới bị quyến rủ bởi thành phố này như một người tình. Mình thích về tây lắm nhưng mụ vợ chê tây nên chắc năm tới ráng năn nỉ mụ về tây về thăm em cháu và mấy người quen. Bổng nhiên từ đâu bao nhiêu kỷ niệm về Paris tuông về. Để từ từ mình kể lại.


Mình ở nhà ông cậu bà con được một tuần cho quen đời sống tại Paris rồi dọn ra ở một căn hộ do ông bố vợ của ông cậu cho ở miễn phí vài tháng trước khi họ đập phá để xây một khu chung cư cao tầng. Mình bắt đầu đi chợ nấu ăn. Đâu có tiền nhiều nên mua gạo ở Monoprix về nấu cơm, rồi mở cá mòi sumaco ra ăn chớ đâu biết làm món gì đâu. Một hôm đang đi ở thành phố Pantin, bổng nghe mấy bà đầm kêu “il neige” nhìn lên trời thấy tuyết rơi mới nhớ đến bài của Adamo “tombe la neige”. Chỉ khổ là họ không nói sau khi tuyết rơi thì hôm sau đi lạng quạng là té cái bịch. Khi tuyết tan thì dơ lắm.


Mình sang trễ nên không đi học liền được, nên phải ghi danh học Alliance Francaise 1 tháng để có thẻ học sinh, nộp cho chính phủ xin thẻ di trú (permit de séjour). Sau đó thì kiếm việc làm. Cái khổ là không được đi làm vì có chiếu khán sinh viên nên phải làm chui. Ai đó giới thiệu mình một ông tây tên Andre Vadrot, có ghé Đà Lạt, bạn của một tên giáo sư dạy trường Alliance francaise ở Huế. Hình như bố của Nguyễn Lương Đô, nhà ở Phan Đình pHùng, ngã ba chùa, làm ty công chánh với ông cụ.. mình viết thư liên lạc thì được gặp và trình bày muốn kiếm việc làm. 

Ông ta làm việc cho một công ty du lịch. Một hôm, ông ta ghé nhà trọ của mình hỏi muốn đi làm ở La Clusaz, trên núi. Mình chả biết La Clusaz ở đâu nhưng nghe nói có việc làm là ok. Ông ta kêu lấy cái Vali nhỏ bỏ vài bộ đồ, kêu đi làm 1 tuần lễ, rồi lấy métro đưa mình ra ga xe lửa, giới thiệu mình cho một bà hướng dẫn viên rồi kêu mình đi theo bà ta, kêu leo lên couchette. Hoá ra có tên tây nào vào giờ chót xù công việc nên họ cần người thay thế.


Hàng năm vào tháng 2, học sinh và sinh viên tây được nghỉ phép 1 tuần mà ở Hoa Kỳ họ gọi Spring break. Khi nghỉ học thì gia đình nào có tiền thì cho con đi theo mấy colonie de vacances lên mấy cái núi để trợt tuyết. Cả nhóm mấy chục mạng, thì cần đâu 4 huấn luyện viên trượt tuyết, 1 tên đầu bếp, 1 phụ bếp và 1 tên rửa chén là Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn Đen.

Ngủ xe lửa lần đầu tiên trong đời, qua đêm thì sáng hôm sau đến vùng La Clusaz, xuống xe lửa. Lần đầu tiên mình thấy tuyết trong đời nhưng trong xi nê không nói đến cái lạnh thấu xương. Đẹp thì đẹp đó mà mình không có áo quần ấm nên lạnh kinh hoàng. Bà hướng dẫn viên dẫn cả đám đến một tiệm để mướn giày trượt tuyết. Mình đâu có biết nên mò mò thử đi kiếm giày trượt tuyết như đám tây đầm, đến khi nó kêu đặt cọc mấy trăm quan thì mình trả lại, mang đôi giày Mỹ Hưng Đà Lạt lội tuyết lên núi đến cái châlet mà cả đám ở trong 7 ngày. Châlet có 5, 6 phòng gì đó, trong mỗi phòng 4 người với 2 cái giường chồng lên nhau như trên xe lửa.


 Lúc đó mới hiểu là trong ngày đám tây đầm đi trượt tuyết thì mình phải ở trong châlet, chùi cầu tiêu, phụ mấy tên nấu ăn gọt khoai tây, rửa chén bát chớ đâu phải đi chơi trượt tuyết mà mướn giày gậy. Có hôm nước lạnh hết mình phải rửa chén đĩa, lạnh buốt xương. Sáng dậy, đám tây đầm tắm nước nóng hết nước nên phải đợi lâu mới có nước ấm mà mình thì phải rửa chén bát của chúng để trưa về có đĩa muống mà ăn cơm. 

Tây sang Việt Nam bắt người Việt làm cu li, mình sang tây cũng làm cu li. Rõ chán. Chỉ khác là mình tình nguyện làm cu li nhưng không tiền thì phải chịu thôi. Đi chùi cầu tiêu cho tây đầm mới căm thù thực dân. Nước mắt khóc như mưa ngâu. Ở nhà đâu có phải làm việc đâu. Nay qua tây làm cu li. Chán Mớ Đời 


Tối tối ngồi nói chuyện với tây đầm thì có một anh chàng huấn luyện viên trưởng lấy địa chỉ mình rồi khi về Paris, anh ta mời mình lại nhà ăn cơm. Sau đó hỏi bà dì vợ, bà Cayla cho mình mướn một căn phòng ô-sin (chambre de  Bonne) ở Neuilly Sur Seine. Giá 100 quan một tháng. Sau 3 tháng, bà ta không lấy tiền và xem mình như con nuôi của bà. Hai vợ ông bà này rất nhân hậu, không như được dạy ở Việt Nam là người Pháp rất gian ác. Dân tây có rất nhiều người tốt, khác với những gì mình được dạy tại Việt Nam về người Pháp.


Không biết ai giới thiệu mình đến hội cựu chiến binh pháp tại Đông Dương. Tại đây họ cho mình áo quần cũ để bận, ngon hơn cả quần áo SIDA mua tại chợ Đà Lạt. Trong suốt thời gian đi học, mình không phải mua áo quần gì cả, cứ lâu lâu nhận được thư của họ, nói có đồ cũ về thế là mình bò đến, ăn cơm rồi lấy áo quần nào bận vừa đem về. Mỗi tháng họ cho mình học bổng 300 quan. Rồi họ giới thiệu một ông tên Jean Marco, thầu khoán tại Mantes La Jolie, độ 100 cây số về phía bắc Paris. Ông ta xin được việc cho mình làm giao hàng cho siêu thị Parunis ở Mantes La Jolie rồi cho mình một căn phòng trong văn phòng cũ của ông ta, sắp đập bỏ. Thế là hai căn hộ nơi mình ở lúc mới sang tây đều bị đập bỏ trong vài tháng.

Công việc thì dễ, mình phụ ông tây lái xe, chở bàn ghé nệm giường đi giao hàng cho khách hàng nên cũng nhàn. Chỉ khổ là khi đến những chung cư cao tầng nghèo thì thang máy hư là phải đi lên cầu thang mệt thở. 27 tầng mình nhớ khách hàng ở lầu chót. Lên đến nơi thì mình và ông tài xế, ngồi thở cả tiếng mới đi xuống lại rồi về lại siêu thị. Mình làm việc được 2 tháng hè thì trở về Paris để chuẩn bị nhập học.


Ông Marco này có một ảnh hưởng lớn trong đời mình. Ông ta bị chính phủ cách mạng Algerie đuổi cổ ông ta về pháp dù không phải quê hương của tổ tiên của ông ta. Một mình tự đi thầu xây cất đến xây các siêu thị to lớn nên có thớ ở vùng ông ta ở nên mới kiếm cho mình vào đi làm. Mình thấy ông ta với bàn tay trắng làm nên sự nghiệp nên sau này sang Cali mình nhớ đến ông ta đi làm thầu khoán rồi từ từ đi lên. (Còn tiếp)


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen ‘

Nguyễn Hoàng Sơn 


# Montparnasse (Những ngày đầu tại Paris)

 Những ngày đầu tiên sang Pháp, trời mùa đông rất lạnh nhưng mình đi làm giấy tờ hay đi xin việc hay đi bộ vòng vòng khắp Paris. Điểm đến đầu tiên là khu La-tinh (quartier Latin), đại học Sorbonne, viếng thăm vườn Lục Xâm Bảo mà ông Phạm Duy làm nhạc. Người ta gọi khu Latinh là vì khi xưa khu này có các đại học như Sorbonne, sinh viên tứ xứ, từ âu châu đến học cũng như từ các vùng khác của xứ tây. 

Dân tây dạo đó nói phương ngữ nên một ông tây ở vùng Bretagne không hiểu một bà đầm ở vùng Dordogne thêm các lớp được giảng dạy bằng tiếng la tinh. Ra đường sinh viên nói chuyện với nhau bằng ngôn ngữ la tinh nên người Pháp gọi là khu La-tinh. Người ta cho biết văn hào Balzac là người đầu tiên gọi khu vực này là “pays latin”, rồi dần dần người ta gọi là “quartier latin”. Có dịp mình kể rõ hơn khu vực này mình đi lại bao nhiêu lần trong thời sinh viên.

Ngày nay thì dân tây được đồng hoá, đều nói tiếng tây, một ngôn ngữ chung học tại trường học thay vì phương ngữ của họ. Cũng có thể giới trẻ không còn biết tiếng của vùng họ nữa như thế hệ ông bà của họ. Thời mình ở xứ Tây, về vùng Bretagne vẫn nghe mấy người lớn tuổi nói phương ngữ tương tự vùng Alsace và Lorraine. Nhớ bố mẹ của cô bạn Vivianne, nói tiếng Tây không rành lắm, mà tiếng đức thì rất rành. Họ nói chuyện bằng phương ngữ Alsace, ông bố cô bạn kể là trong thế chiến thứ 2, ông ta bị bắt đi lính cho đức, bị bắt ở tù. May là được mỹ giam chớ Nga Sô thì chắc bị đưa về tây BÁ Lợi Á. Mấy chỗ khác mình ít viếng nên không rõ lắm. Chỉ đi Normandie, Bretagne, Loire, Champagne, Alsace và vùng Provence.

Mình lấy xe điện ngầm đến Place Saint Michel, rồi đi bộ theo đại lộ này, thấy tiệm sách Hachette bên tay phải trên đường Danton thì phải mà khi xưa sách học ở trường thường được xuất bản bởi nhà sách này. Sau đó thì đến đại học danh tiếng Sorbonne bên tay trái. Hồi đó không có điện thoại di động nên không xeo-phì được nhưng cũng bò vào xem. Đại học này được xem là cổ nhất nước pháp, đâu được xây dựng 800 năm về trước.

Người Việt mình cứ gặp mình là hỏi khi xưa học Sorbonne vì chỉ nghe đến đại học này, lâu đời nhất xứ Pháp nhưng người tốt nghiệp rất đông. Bên tây phải nói đến các trường lớn gọi Grandes Écoles, các trường này được thành lập dưới thời Napoleon nhằm đào tạo các nhân tài cho đế quốc Pháp, họ tuyển lựa rất khó nên ai xuất thân từ các trường này, có thể gọi là thành phần ưu tú của nước pháp. Ai mà tốt nghiệp từ các trường này là xem như không bị thất nghiệp cả đời, được tuyển chọn vào các nơi quan trọng. Họ đem hệ thống này qua Việt Nam nên khi xưa đi thi dù đủ điểm chưa chắc được đậu vì họ chỉ lựa 1 số nào đó thôi. Mình đọc đâu đó là chỉ có lấy 25%. Cứ xem tất cả tổng thống, bộ trưởng của Pháp đều xuất thân từ các trường lớn này. Như tổng thống Valery Giscard D’estaing, Georges Pompidou, Jacques Chirac,…đều xuất thân từ Trường Quốc Gia Hành Chánh (École Nationale  d Administration), tây đầm hay gọi ENA.

Việt Nam Cộng Hoà có Trường Quốc Gia Hành Chánh dựa theo hệ thống giáo dục tây, huấn luyện các nhà lãnh đạo tương lai cho Việt Nam Cộng Hoà. Mình có gặp vài người tốt nghiệp trường này ra thì công nhận trình độ của họ rất cao. Hình như ra trường là họ được bổ đi làm phó quận trưởng. Còn quận trưởng là một vị sĩ quan quân đội vì chiến tranh.

Cách đây mấy năm có cô bạn đầm từ Paris ghé chơi. Cô này tốt nghiệp trường cao đẳng thương mại (Hautes Études de Commerce, Tây gọi tắc là HEC), có công ăn việc làm sau khi ra trường. Mình hỏi mấy người bạn chung khi xưa cũng tốt nghiệp trường này ra. Ai nấy đều làm lớn trong các ngành của chính phủ pháp. Đám dân trường lớn cũng kỳ thị lắm. Họ chỉ chơi với dân trường lớn thôi, còn dân đại học thường thì không chơi.

Sau đó thì lên chút nữa thì đến vườn danh tiếng Lục Xâm Bảo (Luxemburg) mà ông Cung Trầm Tưởng có nhắc đến trong mấy bài thơ của ông ta. Cây cối đều trơ trọi nhưng rất đẹp. Có mấy cái ghế sơn màu vàng bằng sắt để thiên hạ ngồi. Mình đi xem hồ phun nước nhưng lạnh quá nên không dám ngồi lại. Thấy một lâu đài to lớn khi xưa, nay là nơi họp của thượng viện của Pháp quốc. Sau này mùa Xuân mình có trở lại để vẽ trong nắng xuân. Có lần đi lại khu vườn này vào mùa thu lá vàng rơi thì nhớ đến bài hát khi xưa thường nghe ở Đà Lạt “elle était si jolie”. Aujourd’hui c’est l’automne et je pleure souvent,… Sàigòn mất nên khóc hoài, mất liên lạc với gia đình suốt 3 năm trời. Mỗi lần nghe bản nhạc này là mình nhớ đến vườn Lục Xâm Bảo của một thời sinh viên.

Bổng nhiên mình thấy xa xa có một toà nhà chọc trời nên tò mò, vì đa số các đai lộ ở Paris được xây dựng lại với 7 tầng lầu. Băng qua đường, bò lại gần. Mình có xem phim Tour Infernale do Paul Newman đóng vai kiến trúc sư, Steve MAcQueen đóng vai ông lính cứu hoả nên mình cứ tưởng là họ quay ở đây. Hết kể chuyện Đà Lạt, chắc mình sẽ kể chuyện về Paris ngày xưa.

Không ngờ cái tính tò mò đã thay đổi hướng đi đời mình khi viếng thăm khu Montparnasse với toà nhà cao tầng mà tây gọi Tour Montparnasse, gây nhiều ấn tượng nhưng không có tiền viếng thăm trên đỉnh. Tòa nhà cao tầng này được xem thời ấy cao nhất Paris với kiến trúc tân đại, khiến mình nảy ý định học kiến trúc, để sau này về Việt Nam thiết kế những toà nhà chọc trời như vậy thay vì học kỹ sư dệt như khi xin chính phủ Việt Nam đi du học.

Passerelle des arts, là chiếc cầu mình đi qua mỗi ngày khi đến trường.

Trong đại gia đình mình, dạo ấy có 3 người là kiến trúc sư tốt nghiệp ở Pháp. Một ông cậu bà con, con ông bà Phúng, tiệm Hiệp Thạnh số 11 Duy Tân, một là con ông bà Võ Quang Tiềm và người nổi tiếng nhất mà mình gọi bằng Dượng, là kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, khôi nguyên giãi La Mã năm 1955, học trò của ông kiến trúc sư Le Maresquier. Mình nhớ trước khi đi tây, gặp dượng ở nhà ông bà Phúng, dượng kêu qua nớ kiếm con đầm nuôi cho ăn học. Dượng có một người con trai cũng học về kiến trúc, hình như mình có gặp khi về Việt Nam lần đầu tiên, dượng đang tính cho cậu con trai đi du học bên mỹ. Nay mình có hai đứa cháu theo ngành kiến trúc ở Việt Nam. Xem như gia đình bị ảnh hưởng từ kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Con mình thì không khuyến khích theo ngành này vì bên Hoa Kỳ không có tiền. Nếu thật sự đam mê thì học còn không thì kiếm nghề khác.

Cổng ra vào xe điện ngầm Métro tại Paris 

Dạo ấy, muốn di chuyển nhanh chóng ở Paris phải lấy Métro đi thì đến trạm của khu vực này, được gọi trạm Montparnasse-Bienvenue thì đoán là họ chào mừng du khách đến khu vực này vì Bienvenue như tiếng anh gọi là Welcome. Đến khi vào học kiến trúc thì mới thất kinh, Bienvenue là họ của ông kỹ sư tây được gọi là cha đẻ của hệ thống chuyển vận Métro của Paris, tên là Fulgence Bienvenue. Một kỹ sư gốc vùng Bretagne nên có cái tên rất lạ, Fulgence.


Ngày nay hệ thống Métro có đến 205 cây số, 303 trạm và có đến hơn 1.5 tỷ người dùng hệ thống này mỗi năm. 

Bản đồ hệ thống Métro năm 1910 sau khi hoàn tất 6 tuyến đường 

Thời mình mới sang, hệ thống Métro không rộng lớn như ngày nay nối kết với một hệ thống xe điện chạy ra ngoại ô R.E.R., giúp hành khách có thể lấy xe điện đến các phi trường nằm ở ngoại ô và 6 nhà ga ở trong Paris. Xe chở hành khách theo mình tương đối là khá hơn các hệ thống ở New yOrk, Luân Đôn, La MÃ,… sau này ga d’ Orsey không còn sử dụng nữa và được biến thành một bảo tàng viện, cạnh trường cao đẳng quốc gia mỹ thuật mình theo học.

Ông Fulgence Bienvenue bị cụt một tay, được xem là cha đẻ của hệ thống xe điện ngầm Paris, đứng trước trạm Monceau, gần công viên Parc de Monceau.

Trong thời kỳ cách mạng kỹ nghệ xẩy ra tại tây phương, năm 1863, Luân Đôn khánh thành hệ thống xe điện ngầm lần đầu tiên trên thế giới, thường được gọi là “Tube”, New York Subway cũng bắt đầu cho người dân sở tại sử dụng hệ thống Subway vào năm 1868, Chicago thì đến năm 1892, và Budapest vào năm 1896. Xin nhắc lại là vào thời điểm đó, thủ đô của Hung Gia Lợi mà mình có viếng thăm mấy năm trước đây, việc đầu tiên là dẫn vợ đi xe điện ngầm lịch sử của xứ này. 


Budapest dạo ấy thuộc đế quốc Áo-Hung, rất hùng mạnh đến khi Anh quốc muốn hất chân nên mới tìm cách gây hấn và đã đánh bại đế chế Áo-Hung trong đệ nhất thế chiến. Cuối cùng thì sau đệ nhị thế chiến thì Anh quốc banh ta lông luôn vì đất nước bị tàn phá trong chiến tranh nên kinh tế kiệt quệ, để anh mỹ lên thế. Nhờ trong thời kỳ chiến tranh, ngành sản xuất không bị tàn phá, các nhà máy sản xuất được xây cất rất nhiều trong chiến tranh nay được sử dụng để sản xuất máy móc bán cho cả thế giới.

Thời mình mới sang Paris thì xe có hạng nhất và hạng nhì. Hạng nhì thì luôn luôn đông còn hạng nhất thì có chỗ ngồi thoải mái. Nghe nói họ bỏ hạng nhất sau khi mình rời Pháp. Khi mình đi học thì lúc đầu có thẻ hàng tuần, vài năm sau có thẻ cam (carte orange) mua cho cả tháng rẻ hơn là mua từng vé. Hình như có vé hàng tuần lúc mình mới sang, giá cho sinh viên rẻ hơn. Từ từ họ cho ra đời thẻ cam, có hình và tên mình rồi có khe đút cái vé vào. Khi bị xét vé thì phải đưa cả thẻ cam ra với vé đề tháng nào. Nghe nói nay du khách có thể mua Navigo để viếng thăm Paris vì thẻ cam chỉ dành cho dân địa phương.
Đại khái là phải đem theo cái thẻ này, có tên mình và chữ ký, hình ảnh để tránh chuyền nhau sử dụng. 

Chính phủ Pháp và hội đồng quản trị của Paris bàn bạc để xây dựng một hệ thống xe điện ngầm tại Paris cho kịp khai trương cuộc đấu xảo năm 1900 (exposition universelle) , sau đó xây thêm 5 tuyến đường xe điện đến năm 1911.


Đồ án xây cất được giao cho một kỹ sư gốc Bretagne, tên Fulgence Bienvenue. Ông này bị cụt một cánh tay trong một tai nạn lao động nhưng không cản bước ông ta lên đến chức vụ cao nhất của ngành xe điện ngầm của Paris. Ông này tốt nghiệp trường Bách kHoa (école Polytechique) và trường cầu cống (école des Ponts et chausees). Trường này ông cụ muốn mình theo học nhưng khó lắm, phải học 2 năm dự bị toán lý hoá rồi mới thi vào, Sàigòn mất, không có tiền nên đành hẹn kiếp sau. Nói cho ngay mình không phải dân học giỏi nên không mơ vào mấy trường danh tiếng này.


Đồ án này giúp đưa Paris vào cuộc chạy đua cách mạng kỹ nghệ, chạy theo Luân Đôn và New York. Nói cho đúng thì dân tây hay cãi cọ đến khi tổ chức cuộc đấu xảo thế giới mới đồng ý cho xây dựng hệ thống xe điện ngầm. Tương tự thế vận hội năm tới sẽ được tổ chức tại Paris khiến thủ đô nước pháp đang làm nhiều trò ở Paris. Mình quên, chắc đợi 2025 thì về Paris thăm bạn bè và gia đình cô em. Nhưng nếu về tháng 9 cũng hết thế vận hội rồi.

Thời mình sang Pháp thì xe điện ngầm như vậy, ghế bằng gỗ, xe chạy lắc qua lắc lại, có vài cái ghế, toàn là đứng không. Đèn bóng thi mấy cái bóng đèn màu vàng lờ mờ mà ông Cung Trầm Tưởng kể Ga Lyon đèn vàng khiến mình mơ mộng khi còn bé đến khi sang Tây thì Chán Mớ Đời. Đi bộ trên đường dẫm cứt chó như điên.

Ngày 14 tháng 4 năm 1900, khi hội chợ quốc tế được khai mạc thì hệ thống xe điện ngầm chưa được hoàn tất. Đường xe điện ngầm số 1 từ Porte Maillot chạy đến Porte de Vincennes, được khai trương vào ngày 19 tháng 7, 3 tháng sau đó. Trong vòng 5 tháng hệ thống Métro có đến trên 4 triệu người sử dụng nên họ tiếp tục các đường xe điện khác như dự tính và hoành thành 10 năm sau đó. Ông Bienvenue chỉ huy thi công 2 đường xe điện ngầm rồi qua đời. 


Dạo mình ở Paris, trạm Métro mà mình lên xuống mỗi ngày là trạm Louvres, lối ra là đường Rivoli để ai đi viện bảo tàng. Mình lấy métro từ trạm Les Sablons từ Neuilly sur Seine rồi xuống trạm Louvres, ra đường Rivoli, băng qua viện bảo tàng Louvres, leo lên mấy thang cấp của Passerelle des Arts, thấy viện Hàm Lâm Pháp quốc trước mặt, rồi đến trường gần đó. Đi như vậy cho tiện thay vì phải đổi hai ba lần mà trường thì gần sông Seine hơn trạm Métro Odeon, gần trường. Tối học xong độ 8 giờ thì họ đóng cửa trường thì cũng đi lại qua sông Seine nhưng lại thấy phố xá lên đèn. Đẹp nhất là vào tháng 9 tháng 10 khi mùa thu lá vàng rơi, sương mù che khuất những ánh sáng ban mai của bình minh đang lên phía Nhà Thờ Đức Bà.

Họ đặt tên trạm dừng tại Montparnasse là Montparnasse-Bienvenue để nhớ đến cha đẻ của Métro của Paris. Khu Montparnasse khi xưa nổi tiếng với các nghệ nhân như Picasso, Braque, Modigliani, Cézanne,… ở trong khu vực này. Ai đến Paris nên ghé lại tiệm cà phê La Rotonde mà các nghệ nhân khi xưa hay lui tới ăn để bàn bạc, cãi cọ về trường phái này nọ đã đưa nền nghệ thuật của Paris lên đến tột đỉnh. Mình có ghé ăn vài lần tiệm ăn La COupole nơi mấy ông thần này thường ăn tại đây. Có dịp mình kể về vụ này khá vui, có nhiều huyền thoại mà khi mình vào học trường cao đẳng quốc gia mỹ thuật Paris được nghe từ các đàn anh thuật lại. 

Tiệm ăn nổi tiếng một thời với các nghệ nhân tại Paris ở thế kỷ 20. Nay đa số thực khách là du khách.

Ngày nay du khách đến Paris là mò lên đồi Montmartre xem các nghệ nhân bán tranh rẻ tiền cho du khách như mình khi xưa để kiếm cơm. Khu MOntparnasse này khi xưa lụp xụp nên các nghệ nhân mướn làm xưởng vẽ cho rẻ, đến khi mình sang đó thì đang được trùng tu lại vì cái toà nhà chọc trời mới được xây cất nên thế thái nhân tình thay đổi, trở nên rất đắt. Các nghệ nhân bò lên Montmartre mướn nhà cửa để ở.


Mình có kỷ niệm vui ở khu vực này. Sang tây, được 3 tuần thì thèm cơm Việt Nam, đi lang thang chỗ khu vực này thì thấy một tiệm ăn Việt Nam nên sau nhiều lần đắn đo bước vào. Nhìn thực đơn là mình muốn rụng tim. Giá quá đắt. Một chén bún bò giá 7 quan, có thể mua 20 tô bún bò tại Đà Lạt. Còn mấy món khác thì trên 20 quan nên mình kêu một chén bún bò khiến ông mít bồi nhìn mình như bò đội nón, hỏi “c’est tout?” Mình ngạc nhiên, tại sao hỏi mình tiếng tây nên đáp lại “oui”. Hoá ra chỉ có một chén bún bò nên sợ hết dám ăn tiệm Việt Nam. 


Ở lâu ngày mới biết dân tây ăn món khai vị thường là súp mà mình thì tưởng như ở Việt Nam, kêu một tô bún bò ăn là đủ no. Đây ăn khai vị nên có chén súp bún bò nhỏ như chén ăn cơm. Chỉ cần húp một cái là hết. Đi ra tiệm bụng còn đói nhưng khổ nhất bún bò chả có gia vị của Đà Lạt xưa. Mới sang tây thì thấy cái gì cũng đắt đỏ so với Đà Lạt nên chả dám mua hay ăn. Cuối tuần tiệm ăn đại học đóng cửa thì mua ổ baguette và hộp cá mòi Sumaco của Maroc, về phòng ăn thêm một bình sữa bò. Hôm nào thèm cơm thì nấu cơm, ăn với cá mòi. Trong phòng mình có mua một cái lò ga cắm trại nhỏ để nấu cơm. Chả có chén gì cả. Nấu cơm xong thì ăn luôn trong nồi, rồi đi rửa ở ngoài hành lang. Xong om


Có một tên người Việt, gặp ở nhà ông tây dạy học ở Huế, nói là muốn ăn cơm ở đại học thì đến đại học Jussieu, nhờ sinh viên Việt Nam mua hộ cho phiếu ăn, hình như 10 cái một lần, rồi xếp hàng vào ăn. Dạo đó đâu 2.5 quan một bữa cơm đại học, rẻ hơn tô bún bò, tây gọi là Resto U (restaurant universitaire). Được vài tuần thì tây khôn ra, hỏi thẻ sinh viên nên ngọng, hết đi ăn được nữa.

Khởi đầu các cổng ra vào của Metro là như hình trên, sau này người Pháp họ đập phá bỏ khá nhiều chỉ còn trơ trọi như hình dưới. Mình đoán là tiền bảo quản, tu sửa khá nhiều nên họ phá để đổ nền xi măng, đỡ chiếm chỗ.
Nếu không lầm đây là cổng ra vào của trạm Saint Michel
Không nhớ là ở khu vực nào nhưng thường là khu nghèo, không phải trong phố chính. Cửa sổ bằng gương Art nouveau bị hoen ố.

Nhưng điều mình thích nhất và hay vẽ khi xưa là cổng vào các trạm Métro. Những cổng vào Métro của Paris đầu tiên do ông Hector Guimard thiết kế. Ông này có học trường quốc gia cao đẳng mỹ thuật nhưng không tốt nghiệp. Từ 1900 đến 1912, Paris xây dựng 6 đường xe điện ngầm với 141 cổng ra vào. Ông Hector Guimard là người lãnh trách nhiệm thiết kế và hình thành các cổng ra vào đầu tiên của Métro mà người ta thấy từ “Métropolitain” kèm theo tên của trạm cũng do ông ta thiết kế. Cổng ra vào gồm có 3 phần mà người Pháp gọi: pavilions, édicules và hàng rào để ngăn chận thiên hạ đi vào đi ra. Ngày nay, người ta gọi kiến trúc do ông này thiết kế thuộc trường phái Art Nouveau. Mà ở Áo quốc rất nổi tiếng, ở Hoa Kỳ khi đến Miami Florida thì vẫn còn hiện diện lối kiến trúc này rất nhiều.


Như mình kể trên là Pháp còn chậm trong cuộc chạy đua ngành kỹ nghệ nhưng may sao ông Guimard hợp tác với công ty Saint-Didier Foundries giúp chế tạo dây chuyền theo các phần của cửa ra vào khiến giá thành rẻ và nhanh chóng khi xây cất.


Mình học kiến trúc vì hy vọng một ngày nào đó, trở về Việt Nam. Mình làm việc các tổ hợp kiến trúc nổi tiếng trên thế giới như Suter und Suter ở Thuỵ SĨ, Norman Foster and Associates ở Luân Đôn, I.M. Pei and Partners ở New York, Raffael Vignoly. Đến năm 1995, mình được mời về Hà Nội tham dự một cuộc hội thảo về phát triển Việt Nam sau Đổi Mới. Gặp và nói chuyện với các đại diện của Hà Nội thì mình Chán Mớ Đời. Về lại Hoa Kỳ, bỏ nghề kiến trúc sư để làm nông dân đến nay.

Khi nào các bác có ghé thăm Paris thì nhớ để ý mấy chỗ này, rất đẹp và có trên 110 năm lịch sử. Chụp hình gửi cho em để giúp em nhớ lại chuyện đời xưa. Hôm nào rảnh mình kể chuyện về Paris, có nhiều kỷ niệm hơn Đà Lạt xưa.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn