Cuộc giải cứu Bat 21 Bravo với Biệt Hải Việt Nam Cộng Hoà

 Lâu lắm rồi, mình có xem phim giải cứu Bat 21, một trung tá phi công mỹ Hambleton tại chiến trường Việt Nam, có nói đến một ông mỹ thuộc lực lượng đặc biệt và một người biệt hải của Việt Nam Cộng Hoà, chèo xuồng đi cứu thoát ông phi công mỹ bị bắn rơi, lẫn trốn trong vùng địch tạm chiến. Cuộc giải cứu phi công mỹ này được xem là cuộc giải cứu lâu nhất và đắt giá nhất vì họ phải hy sinh 11 người mỹ chết, 5 chiếc máy bay khác bị bắn rơi, chưa kể lính Việt Nam Cộng Hoà bị chết và bị thương vì họ ra lệnh vùng cấm khai hoả (no fire zone) trong vòng 27 cây số, để họ có thể tìm kiếm để giải cứu phi công của họ trong khi quân của Hà Nội , vượt vỹ tuyến 17 với 30,000 bộ đội chính quy.

Nay tình cờ đọc được bài của một biệt hải, có mặt trong cuộc tiếp cứu này nhưng không được nhắc đến trong phim nên kể lại đây. Người Mỹ hay quên kẻ giúp họ. Thêm có đọc vài tài liệu cua rnm nên ghi thêm vào đây.

Trong cuộc tiếp cứu hai phi công mỹ trong phi vụ Bat 21 này, Hoa Kỳ ra lệnh không được khai hoả trong chu vi 27 cây số, để họ đi tìm 2 phi công bị bắn rơi, vẫn còn liên lạc với cấp chỉ huy khiến quân đội Việt Nam Cộng Hoà bị Việt Cộng tấn công gây tổn thất khá nhiều trong 2 tuần lễ vì không được khai hỏa, yểm trợ của không lực, chống sự xâm nhập của 30,000 bộ đội tràn sang vĩ tuyến 17 nhưng không thấy người Mỹ nói đến. Chán Mớ Đời 

Phi công Hambleton, người được cứu sống sau khi nhảy dù ra khỏi máy bay bị phòng không Việt Cộng bắn hạ, trốn trong rừng đến 11 ngày, bị săn đuổi bởi cán binh Việt Cộng. Cuộc giải cứu này được dựng thành phim do tài tử Gene Hackman đóng vai Hambleton.
Bản đồ, địa điểm của hai viên phi công mỹ được giải cứu, ông Clark thì ngay bờ sông còn ông Hambleton thì cách bờ sông Miếu giang độ gần 1 cây số. Hai người lính Biệt Hải, 1 Mỹ và 1 việt, chèo ghe lên và đi tìm ông Hambleton, bỏ lên ghe, chèo xuống lại, cải trang là nông dân Việt Nam. Điều hay là ông Norris người Mỹ rất cao mà qua mặt được Cộng quân. Lâu quá không nhớ rõ chi tiết.

Theo người Mỹ thì cuộc tìm cứu ông phi công Iceal Gene Hambleton, bị bắn rớt khi lái chiếc EB-66 trong vùng tạm chiếm của Việt Cộng dài nhất trong chiến tranh Việt Nam. 5 máy bay khác bị bắn hạ trong cuộc tìm cứu ông Hambleton, khiến gây tử thương thêm 11 người mỹ, 2 người bị bắt tù binh và một phi công khác, đi tìm cứu chiến hữu bị bắn hạ.

Máy bay EB-66, có 6 phi hành đoàn, loại này được sử dụng để phá rối hệ thống phòng không SA của Liên Xô, nhưng mãi lo phá rồi hệ thống phòng không để phòng bị các pháo đài B 52, họ không kịp tránh đạn hoả tiễn của Việt Cộng. 5 người chết khi máy bay nổ tung khi lãnh quả hoả tiễn thứ 2, ông Hambleton kịp nhấn nút ghế bung ra sau khi máy bay trúng đạn thứ 1, được giải cứu sau 11 ngày.

Ngày 2 tháng 4 năm 1972, 2 chiếc phi cơ của không lực Hoa Kỳ EB-66 do hai phi công Robert Singletary, BAT 20 và Hambleton BAT 21, hộ tống 3 chiếc B-52 bay thả bom. Hai chiếc EB-66 này có nhiệm vụ phá rối hệ thống phòng không của bắc Việt. Chiếc BAT 21 bị hỏa tiễn SA-2 bắn rơi trên vùng đóng quân của Bắc việt. Ông Hambleton là người sống sót duy nhất trong số 6 người của phi hành đoàn, nhảy dù xuống vùng địch. Sau đó một ông phi công khác, tên Mark Clark đi kiếm ông Hambleton bị bắn hạ và được giải cứu bởi toán biệt nhái người Việt và ông Norris, cố vấn lực lượng đặc biệt. Dạo ấy, quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu rút lui, chỉ còn độ 10 người cố vấn lực lượng đặc biệt mỹ.

Máy bay B 52 bay trên cao còn EB-66 bay thấp hơn để phá rối hệ thống hoả tiễn SA

Ông Hambleton, 53 tuổi sắp về hưu, chuyên gia về chống hoả tiễn SAM, và biết về hệ thống vũ khí nguyên tử của Hoa Kỳ (USAF ICBM). Nếu ông ta bị bắt, dịp may cho Liên Xô. Theo ông này, nếu bị bắt thì chắc chắn sẽ không được đưa đến Hoả Lò mà đưa thẳng sang Liên Xô. Do đó bằng mọi cách không lực Hoa Kỳ phải giải cứu ông này. Để khỏi bị bắn nhầm, họ ra lệnh không được bắn trong chu vi 27 cây số, (No Fire Zone) trong thời gian tìm kiếm hai phi công còn sống sót, chưa bị Việt Cộng bắt làm tù binh; Ông Hambleton và một phi công khác tên Mark Clark, bị bắn rơi khi thi hành nhiệm vụ tìm kiếm ông Hambleton.

Trên nguyên tắc ông này không nên tham dự phi vụ này vì biết nhiều tin tức về quốc phòng Hoa Kỳ nhưng vì thiếu người, dạo ấy quân đội Hoa Kỳ bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam nên ông ta phải tự lái. Xin nhắc lại là sau hiệp định Paris thì Việt Cộng xua quân qua vỹ tuyến 17 để đánh Việt Nam Cộng Hoà.

Phòng không của Bắc Việt do Nga viện trợ SA-2

Đọc tài liệu mới hiểu hệ thống phòng không của Liên Xô trang bị cho bắc Việt khá chính xác nên họ mới bắn rơi rất nhiều phi cơ của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Bù lại Việt Nam Cộng Hoà bắn hạ khá nhiều chiến xa của Liên Xô nhưng máy bay đắt tiền hơn. Nếu mình không lầm thì Hà Nội cho người sang Iraq để giúp quân đội Sadam Hussein, sử dụng súng phòng không để đối phó với không lực Hoa Kỳ, khi cuộc tấn công của Hoa Kỳ.

Trong cuộc giải cứu thành công hai phi công này, ông Thomas R. Norris của Navy SEAL được nhận huy chương Medal of Honor của Hoa Kỳ và người biệt nhái Nguyễn Văn Kiệt được tặng huy chương Navy Cross, người Việt duy nhất được tặng huy chương này trong chiến tranh Việt Nam. Có nhiều người Mỹ xem phim tài liệu về cuộc giải cứu này, thắc mắc lý do nào ông Nguyễn Văn Kiệt có công ngang như ông Norris, sao không được nhận Medal ờ Honor , có người giải thích là có luật chỉ có quốc tịch mỹ mới được nhận huy chương này. Nếu mình là con cháu của ông Kiệt thì sẽ làm đơn xin, vì ông ta đã đến bờ tự do, vào quốc tịch mỹ năm 1984. Có huy chương này thì con cháu sẽ nhờ đó mà vào các trường lớn và học bổng vì có công lớn cho Hoa Kỳ.

Theo mình được biết thì thiếu tá Phong của đại đội 302 Đàlạt xưa, khi sang định cư tại Hoa Kỳ, có mấy người đồng ngủ mỹ khi xưa ở đại đội 302, làm giấy tờ lại và được cấp lại 5 huy chương của quân lực Hoa Kỳ đã trao tặng trong thời gian chiến tranh Việt Nam.

Thật ra trong cuộc giải cứu hai phi công mỹ, phim diễn lại chỉ có hai người, 1 mỹ và một Việt, không nói đến một toán biệt nhái của Việt Nam, gồm 5 người khác ngoài ông Kiệt, đi cùng toán ông Norris. Chắc để tiết kiệm tiền.

Trong cuộc Việt nam hoá chiến tranh của chính quyền Nixon, các cuộc tham chiến của quân đội Hoa Kỳ giảm rất nhiều tại Việt Nam. Bắc Việt ra lệnh tổng tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hoà vào ngày 30 tháng 3 năm 1972, khởi đầu cho chiến dịch Nguyễn Huệ của Hà Nội, Việt Nam Cộng Hoà gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, tràn qua sông Bến Hải, tiến chiếm Đông Hà với 30,000 lực lượng chính quy. Họ đem theo 2 tiểu đoàn thiết vận xa T 54 và PT-76, 75 chiến xa với hoả tiễn phòng không, 47 đại bác 130mm cộng với hoả tiễn SAM.

Khoảng thời gian này, đài Sàigòn phát thanh cứ mở những bài hùng ca như Cờ Bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu,… những địa danh lạ tai như Đông Hà, Cam lộ được người Sàigòn tiếp thu.

Thiếu phi công để tháp tùng các pháo đài B-52 nên ông Hambleton, sĩ quan cao cấp phải bay để phá rối hệ thống phòng không của Bắc Việt khi B-52 bỏ bom đèo Mụ Già. Vì lo phá rối hệ thống phòng không nên máy bay của ông Hambleton, không kịp thấy hoả tiễn SAM, bị SAM bắn hạ. Ông ta ra lệnh mọi người nhấn nút ghế thoát nhưng chỉ có mình ông ta là thoát còn 5 người kia tử nạn trên không.

Cuộc tìm kiếm ông Hambleton bắt đầu và sau 10 ngày thì không quân Hoa Kỳ bị tổn thất rất nhiều nên có một tướng quên tên, hình như Abrams ra lệnh ngưng cuộc giải cứu và một ông tá khác, đề nghị cho lực lượng đặc biệt, theo đường bộ vào khu địch chiếm đóng để giải cứu. 

Dạo ấy lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ đã rút về gần hết, còn độ 10 người cố vấn nên họ liên lạc với quân đội Việt Nam Cộng Hoà, xin giúp sức. Họ gửi 2 người: 1 thiếu tá Andy Anderson, và thiếu uý Tom Norris, Việt Nam Cộng Hoà có 5 người, ông Phong Trần, ông Tất, ông Châu, ông Nguyễn Văn Kiệt và ông Thọ, toán trưởng.

Theo ông Phong Trần, thuộc lực lượng BIệt Nhái của Việt Nam Cộng Hoà, tham gia cuộc tìm kiếm hai phi công mỹ này kể lại:

Mình đoán là hình của ông Phong Trần, tác giả bài viết kể lại sự tham gia của biệt nhái người Việt trong vụ giải cứu ông Hambleton và Clark. Ai có tin tức thì cho mình biết. Cảm ơn

Trưa ngày chủ nhật 8 tháng 4 năm 1972, ông ta đang ngồi ăn uống tại nhà người bạn tại Đà Nẵng thì một xe Jeep chạy đến và cho biết ông và ông Châu được lệnh trình diện bộ chỉ huy gấp. Khi đến bộ chỉ huy thì được biết là ngày mai, có công tác xâm nhập vào vùng địch để giải thoát hai phi công mỹ, bị bắn rơi tại vùng Quảng Trị, sông Cam Lộ. Máy bay Cessna để thả đồ tiếp tế và liên lạc với hai phi công còn sống.

Trưởng toán Thọ cho biết là tránh xa các thùng C-ration vì có gài chất nổ, chỉ có Cessna mới biết thùng nào với ám số để phòng bị khi bộ đội Hà Nội phát hiện. Trước khi đi họ nhận quần áo bộ đội, súng AK-47 để cải trang và lương khô cho 4 ngày…. Theo người Mỹ thuật lại thì họ thả bom bi, xung quanh khu vực ông Hambleton lẫn trốn. 

Ông ta liên lạc với phi cơ Cessna mỗi tiếng đồng hồ. Ông ta núp trong ruộng của người dân, ăn đậu bắp ngô của người dân để sống. Sau 11 ngày, ông ta mất 45 cân Anh.

4 giờ sáng ngày 9-4-1972, lúc 4:30 sáng có hai trực thăng do phi hành đoàn mỹ lái, bay từ đâu đến, để bốc toán Biệt Nhái người Việt , trong số người Mỹ có trung tá Andy Anderson và đại uý Tom Norris cố vấn cho nhóm Biệt Hải. Sau mấy giờ bay, trực thăng đáp xuống bộ chỉ huy tiền phương, 2 người mỹ và đại uý Thọ đi vào bộ chỉ huy, trong khi 4 biệt nhái người Việt ngồi đợi ở ngoài. Có một chuẩn tướng Việt Nam đi ngang cho biết sẽ có một chiếc M113 đến đón họ đưa đến vùng gần phi công mỹ bị bắn rơi. Trực thăng sẽ không được dùng vì phòng không của địch. Ông tướng này được lệnh giúp đỡ cuộc giải cứu nhưng không tin là hai phi công còn sống hay chưa bị bắt. Ông ta nói đang lo cả sư đoàn 3 bộ binh của ông ta, đang bị Việt Cộng đánh trong khi người Mỹ chỉ lo có 2 người của họ. Hình như ông tướng này tên Vũ Văn Giai, ông Phong chỉ nói tương chỉ huy của sư đoàn 3, nhưng người Mỹ nói tướng Vũ Văn Giai.

Không biết là hình ảnh chụp vào lúc ấy hay trong phim, thấy ông đại uý Norris., có biệt nhái người Việt bên cạnh. Chắc là phim vì dạo ấy không có phóng viên chiến trường tại đây.

 Độ 11:30 sáng; có chiếc xe thiết giáp M113 đến, họ cho lên xe tất cả ba lô, súng đạn rồi xe đưa đến điểm hẹn. Đại uý Norris muốn cho toán xuất phát vào 5 giờ chiều trong khi trưởng toán Thọ đề nghị xuất phát vào ban đêm thì tốt hơn. 7:00 tối thì toán gồm 6 người bắt đầu lên đường, di hành mỗi người cách nhau 3 mét. Ông Phong và Tất đi tiền sát, cách 15 thước thì đại uý Thọ, Norris sau đó thì đến Châu và Kiệt đi sau hậu vệ. Xem như toán chỉ có 6 người. Ông Anderson ở lại để liên lạc với máy bay Cessna và toán.

Việt Cộng biết mật mã của người Mỹ nên muốn liên lạc họ phải dùng một cái gì đó để ông ta hiểu. Có người cho biết là ông Hambleton này là người chơi cù giỏi nhất không quân và từ đó họ hiểu phải dùng cách liên lạc để ông Hambleton biết và hiểu. Họ kêu ông ta khởi đầu chơi 18 lỗ của sân cù ở Tucson National, ông Hambleton hiểu là đi về phía Đông Nam 408 yards, vì sân cù này ông ta rất rành.

Họ lần mò đến Miếu Giang, độ 12:30 sáng thì toán đã đến mục tiêu và đợi. Được cho biết là tối nay sẽ có một trong 2 phi công sẽ thả trôi theo sông, khoảng từ 12 đêm đến 3:00 sáng. Việt Cộng nghe truyền tin của người Mỹ nên họ phải dùng ngôn ngữ để báo tin cho hai phi công bị bắn rơi. Như Shake (con rắn) là con sông, Esther Williams Go to Boston (đi về Boston là đi về hướng Đông) giúp phi công hiểu là bơi theo con sông về hướng Đông. Esther Williams là một nữ vận động viên bơi lội nổi tiếng Hoa Kỳ khi xưa, sau này có đóng phim đình đám. Các người truyền tin của Hà Nội, chắc không hiểu khi nghe họ dùng những nhân vật tại Hoa Kỳ nếu không thì họ đã cho người lục soát ven sông.

Bổng họ thấy giữa dòng sông có một chấm đen trôi nhanh đến chỗ họ núp, nghe cả tiếng thở. Ông cho Tất báo cho trưởng toán Thọ và ít lâu sau, ông Norris đeo chân nhái, bơi theo, độ 20 phút sau thì ông ta trở lại. Có lẽ dòng nước mạnh nên ông ta không bơi theo vật nổi kia nên quay lại. Lúc này ông Norris và ông Anderson nói chuyện qua điện đàm về sự việc này, trưởng toán Thọ ra lệnh rút lui.

Bổng nhiên họ thấy cách đó 8-10 thước có thân cây và mặt nước dao động nên theo dõi độ 10 phút sau đó ông Phong bò lại để xem xét tình hình thì nghe tiếng “no, no’ bằng anh ngữ. Ông thấy phi công mỹ đang ôm gốc cây và trông thấy hai người bận đồ bộ đội nên chới với. Ông ngồi đợi vì không biết anh ngữ, lại sợ ông mỹ rút súng ra bắn thì lại mệt, báo động cho bộ đội trong vùng và cho Tất về báo cho trưởng toán Thọ. Sau đó thì ông Norris và trưởng toán Thọ đến, ông ta chỉ vào bụi cây, ông Norris đi lại phía bụi cây, ông phi công và ông Norris ôm lấy nhau mừng rỡ. Sau 10 ngày bị truy lùng, ông này mừng như điên. 

7:00 sáng thì họ đưa ông phi công mỹ này đến vùng lính Việt Nam Cộng Hoà đóng, cho uống cà phê,… 10 giờ sáng thì M113 đến đón ông ta về hậu cứ. Mọi người kiếm thức ăn rồi ngủ để chuẩn bị cho đêm hôm sau đi tìm tiếp viên phi công mất tích còn lại.

Bổng nhiên Việt Cộng pháo kích thì họ thấy trung tá Anderson và đại uý Thọ từ ngoài chạy vào hầm, bị thương. Sau đó thì M113 đến chở hai người này và Châu về đơn vị. Theo các lính bộ binh cho hay, hồi chiều, thấy 2 người đứng trước hầm, xem ống nhòm, có thể đề-lô của Việt Cộng thấy nên pháo kích. Xem như toán mất đi 3 người, chỉ còn lại 4 người. Ông Phong, ông Tất, ông Kiệt và ông Norris.

Đại uý Norris thay thế đại uý Thọ làm trưởng toán khiến mấy người Việt lo ngại vì không biết tiếng anh, trong đêm khuya, không hiểu nhau, có thể bị lộn xộn khi di chuyển khiến ông Norris hiểu lầm, cho rằng họ không muốn đi giải cứu viên phi công mỹ còn lại. 4 người lên đường và theo lời Kiệt, ông Norris nói là phi công kia kiệt sức sau 11 ngày nên chắc họ phải đi lên phía trên chỗ hôm qua để tìm kiếm. Mình đoán là ông Kiệt hiểu anh ngữ hơn.

Họ đi lại con đường hôm qua nhưng cách xa độ 50 mét vì ngại địch quân theo dõi hôm qua, và gài mìn. Theo lời Kiệt thì ông Norris bảo tối này ông Hambleton sẽ thả trôi theo dòng nước như ông Clark hôm qua. Họ đến điểm đợi và chú ý hơn hôm qua.

Ngồi đợi, đến 4 giờ sáng không thấy gì cả nên đại uý Norris bảo qua lời của Kiệt, ông Phong và ông Tất trở về tiền đồn đợi lệnh, còn ông ta và Kiệt, đi tìm ghe để chèo ngược dòng sông lên tìm kiếm ông Hambleton.

Ông Phong và ông Tất về đến tiền đồn bộ binh vào lúc 7 giờ sáng. Ngày hôm sau, 13/4/72, độ 9 giờ sáng, thấy Kiệt đi vào hầm, kêu xuống đỡ ông Hambleton vào vì bị thương và kiệt sức. Ông Norris và Kiệt, kiếm được ghe, chèo ngược lên dòng Miếu Giang, cuối cùng tìm được ông Hambleton và đem về như kể trong phim. Nếu mình không lầm thì ông Hambleton bị thương, yếu lã người nên không di chuyển được, khiến hai người đi cứu phải dấu thuyền rồi đi tìm ông ta, đưa đến ghe, hình như có cộng quân đuổi theo bắn.

Theo mình hiểu thì ông Hambleton được hướng dẫn thoát khỏi sự truy lùng của cộng quân bằng cách đi theo lộ trình đánh cù trên sân Golf, được hướng dẫn qua vô tuyến. Ông này có chơi đánh cù nên hiểu được cách đi lòng vòng 18 lỗ sân golf tại quê nhà của  ông. Để tránh truyền tin của hắn nghe và biết địa điểm của ông Hambleton, họ hỏi ông này thích môn thể thao nào, ông này nói đánh cù và từ đó họ liên lạc với nhau qua ngôn ngữ chơi cù. Nhờ vậy ông ta mới thoát vòng vây của Việt Cộng.

Có điều mình không rõ là người Mỹ nêu tên Kiệt, người đi chung với ông Norris trong khi ông Phong kể, chỉ viết đến K. Không biết có phải ông Kiệt còn sống tại Việt Nam lúc ông này viết, để tránh Việt Cộng tìm kiếm ông Kiệt hay vì một lý do nào đó. Theo bài mình đọc trên trang của Nha Kỹ Thuật thì ông Phong Trần viết đăng ngày 23 tháng 6 năm 2009.  Mình lại đọc trên mạng của người Mỹ thì ông Kiệt đã đến Hoa Kỳ, vào dân mỹ năm 1984.

Đâu 1 tháng sau cuộc giải cứu này, ông Phong và toán của ông ta, trên 30 người được gửi sang Phi luật Tân, tại Subic Bay để được huấn luyện thêm mấy tháng.

Theo lời ông Phong kể khi xưa, lúc ông ta được lệnh đi giải cứu hai phi công Hoa Kỳ, chỉ đi vì nhiệm vụ được giao. Chỉ khi sang Hoa Kỳ sau bao nhiêu năm ở tù cộng sản, xem được phim Bat-21, nên kể lại những gì ông ta và người Việt chứng kiến trong vụ đi giải cứu phi công, như một chứng nhân của cuộc giải cứu tốn kiếm nhất của không lực Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà. Thường thì đại uý Thọ dẫn đường, biết anh ngữ, khi ông ta bị thương thì ông mỹ Norris làm trưởng toán nên lo ngại vì anh ngữ chớ không phải vì lo ngại mà không muốn đi tiếp cứu.

Khi Hoa Kỳ cấm không được yểm trở pháo binh cũng như không kích trong vòng 27 cây số, thì xe tăng của địch di chuyển thoải mái, và họ pháo kích các tiền đồn, cũng các đơn vị Việt Nam Cộng Hoà trong vòng 2 tuần lễ mà chúng ta không được trả đũa, khiến lính Việt Nam Cộng Hoà bị thương và chết khá nhiều để cứu hai người Mỹ. Người Mỹ chỉ quan tâm đến sinh mạng của lính họ, không để ý đến sự tổn thất của người lính Việt Nam Cộng Hoà. Làm phim họ nêu cao tinh thần của đại uý Norris, còn 7 người lính biệt nhái Việt Nam Cộng Hoà, không được nhắc đến ngoài trừ Kiệt, xem như tên chèo đò.

Tài tử Gene Hackman đóng vai ông Hambleton 

Ông ta chỉ viết để cho người Việt biết về cuộc giải cứu đó thành công, nhờ sự hy sinh của người lính Việt Nam Cộng Hoà. Mình đọc trên mạng là ông Nguyễn Văn Kiệt này được vào công dân mỹ năm 1984. Làm cho Boeing ở Seattle, và về hưu năm 2015.

Theo trung tá Hambleton kể lại thì khi ông Norris và Kiệt đưa ông ta lên xuồng, chèo về phía Việt Nam Cộng Hoà đóng quân thì ông cho biết Kiệt có đôi mắt nhậy bén nhất. Ông Kiệt ra lệnh ngưng vì thấy súng ông của Việt Cộng núp bên sông chờ đợi. Ông Norris mới cho máy bay mỹ thả bom và đạn khói để  che phủ cả vùng để họ chèo xuồng trốn về về phía Việt Nam Cộng Hoà. Không có ông Kiệt hôm đó thì cũng chết hết.

Cuộc giải cứu ông Hambleton, đã làm thiệt mạng 11 người mỹ khác, vài người Mỹ bị bắt làm tù binh, 1 người Mỹ bị thương ông Anderson và 1 người Việt là đại uý Thọ và Hoa Kỳ mất thêm 5 phi cơ khác trong cuộc giải cứu 1 phi công Hoa Kỳ. Còn lính Việt Nam Cộng Hoà bị hỏa lực Việt Cộng pháo kích chết vô số nhưng không được nhắc đến. Cho thấy người Mỹ bằng mọi cách để giải cứu người của họ, khi ra trận người Mỹ đều tin tưởng là nếu có vấn đề, họ biết là cấp chỉ huy sẽ không bao giờ bỏ rơi họ.

Hiện đang có một chương trình truyền hình Hawai 5-0 đang được yêu chuộng tại Hoa Kỳ, các diên viên gốc á châu tuyên bố ngừng đóng phim vì họ được trả lương thấp hơn các diễn viên da trắng. Có một anh diễn Gốc Việt, lên truyền hình kêu không muốn xem phim chiến tranh về Việt Nam. Lý do là cứ thấy cả đám người việt nằm chết la liệt, rồi chiếu mặt Tom Cruise buồn rầu.

Mình sẽ dịch ra anh ngữ để các cựu chiến binh mỹ tại Việt Nam đọc để hiểu thêm về người lính Việt Nam Cộng Hoà.

Xem link kể về vụ giải cứu này của người Mỹ

https://youtu.be/VehjTmZDUHA

Nguyễn Hoàng Sơn 


Nguyễn văn Bé là ai?

 Mình nhớ dạo trước Mậu Thân, ban ngày nhất là cuối tuần, thường hay thấy máy bay bà già bay trên trời, từ phi trường Cam Ly qua xóm mình để rãi truyền đơn, kêu gọi Việt Cộng nằm vùng ra hồi chánh trong chương trình Chiêu Hồi, Tung cánh chim tìm về tổ ấm. Nếu mình không lầm thì danh ca Bùi Thiện, trong một lần đi biểu diễn tại Lào thì phải, đã đào thoát, được Việt Nam Cộng Hoà đem về Sàigòn. Sau này ông ta hát chung với Sơn Ca, sau 75 thì di tản sang Hoa Kỳ.

Mỗi lần nghe máy bay bà già thả truyền đơn, con nít trong xóm, từ đường Thi Sách, xóm Địa Dư, xóm Công Chánh, xóm Bưu Điện, chạy đi lượm truyền đơn. Thường là rớt trong vườn cạnh nhà ông Ngọc số 49 Hai Bà Trưng. Mình với mấy đứa trong xóm chạy vào vườn, bị ông này cầm cuốc xẻng chạy đuổi vì dẫm lên mấy luống rau của ông ta. Mình và thằng Khánh có ăn cắp buồng chuối của gia đình ông ta, bị bà vợ chửi cả tháng trời, phải đem trả lại vì chuối dú trong lu gạo không chín. Trả lại bị chửi tiếp.

Dạo ấy đài phát thanh Sàigòn, cứ mỗi tiếng lại có ông thần nào tên Nguyễn Văn Bé, kêu ông ta còn sống mà Việt Cộng lại kêu ông ta đã chết, phong làm anh hùng nhân dân chi đó. Lý do mình nhớ vì ông này mỗi ngày cứ lãi nhãi kêu ông ta còn sống. Ngoài những truyền đơn, người ta có in mấy cuốn truyện nhỏ kể về mấy ông lính, anh hùng diệt cộng nào đó, do ai đó ở sở thông tin đi từng nhà phát. Mình tập đọc tiếng Việt nhờ đọc mấy truyền đơn, truyện kể anh hùng biệt Động Quân nào đó. Hình như cũng có máy bay bà già bay trên trời, với máy phóng thanh, cũng cho mở giọng ông Nguyễn Văn Bé này, nói oang oang. Lâu quá mình không nhớ rõ. Ai nhớ thì cho em xin.

Mình chỉ nhớ có lần, một ông lính nào, tự tử bằng lựu đạn, chết ngay cột đèn trước nhà ông Kham, chỗ dốc lên đường Thi Sách và Calmette. Sáng vừa thức dậy thì nghe cái ầm, thiên hạ réo nhau chạy xuống đường, thấy có ông lính, đầu bị bay đi một nữa, nằm giữa đường Hai Bà Trưng. Từ đó mỗi lần đi về nhà, ban đêm là mình sợ té đái, khi đi ngang cột đèn. Con nít hay lấy ná bắn bể bóng đền đường nên khu này lại càng tối. Cũng mất mấy năm mới quên cái đầu bị bay của ông lính, tự tử vì tình phụ. Chán Mớ Đời 

Sau này lớn lên một chút thì mới biết vụ ông Nguyễn Văn Bé, theo Việt Cộng rồi hồi chánh nhưng Việt Cộng lại ca tụng ông ta là anh hùng nhân dân, một mình đặt trái mìn phá chiến xa khiến mấy trăm tên giặc mỹ ngụy chết. Mình thuộc dạng ngu lâu dốt sớm nên không hiểu, tại sao một người cho nổ trái mìn chết mấy trăm mạng mà cứ lãi nhãi “tôi là Nguyễn văn Bé, hiện còn sống đây,…” Chán Mớ Đời 

Các anh hùng liệt sĩ được Việt Cộng tung hô như Lê Văn tám,…khiến mình thất kinh vì thấy tinh thần hy sinh của mấy người này quá cao. Về Việt Nam thấy trường học, đường mang tên Lê Văn Tám nên tò mò hỏi lý lịch mấy người này nhưng chả ai giải thích được cả. Sau này lại đọc bài ngay của ông thần tạo ra huyền thoại Lê Văn tám, kêu cần phải nói rõ cho nhân dân là chúng ta đã bựa ra trong thời chống pháp để động viên tinh thần kháng chiến diệt người Pháp.

Cái nguy hiểm của người Việt mình là cái bệnh nổ, tạm gọi là hội chứng Phù Đổng. Trong thời kỳ chiến tranh, chúng ta cứ bựa chuyện để huy động tinh thần chiến đấu của bộ đội nên đến thời bình, chúng ta cũng bựa đủ thứ chuyện nhưng chả làm được gì cả. Vì quen được huấn luyện tinh thần Phù Đổng trong thời chiến tranh từ bé, nên chúng ta cứ nổ mệt thở cả đời sau này. Rồi thêm cái bệnh tự hào quá Việt Nam ơi.

Trong chiến tranh Việt Nam, người ta tận dụng chiến tranh tình báo, ngoài ra người ta cũng sử dụng chiến tranh tâm lý để tuyên truyền, làm lũng đoạn tinh thần chiến đấu của binh sĩ đối phương.

Mình đọc bài của mấy người bộ đội hay văn nghệ sĩ vào nam trong thời chiến tranh. Họ kể là khi nghe đài Sàigòn, truyền thanh nhạc Trịnh Công Sơn hay các nhạc sĩ khác của miền nam thì họ đều tự hỏi, làm sao dân miền nam bị kềm kẹp bởi bọn đế quốc Mỹ, có thể làm được những ca khúc này. Họ được định hướng sáng tác các bản nhạc, để nuôi căm thù. Có lẻ như vậy họ mới là kẻ thắng cuộc trên chiến trường nhưng về tư duy thì họ thất bại. Ngày nay, ngay cả nhạc sĩ Trần Tiến cũng kêu gọi quên đi các bản nhạc đỏ. Ai nấy đều nghe nhạc vàng của miền nam. Có ông gì nghe nhạc vàng bị đi tù 10 năm, bạn bè ông ta có người chết, kể sau khi mãn tù, về Hà Nội thì nghe nhạc vàng hát khắp nơi. 

Tương tự khi xưa quân NGuyên chiếm đóng xứ Trung Hoa nhưng dần dần kẻ thắng cuộc lại bị nền văn hoá của kẻ thua cuộc thu phục họ. Họ thắng người Tàu về sức mạnh, quân sự nhưng về văn hoá thì họ đầu hàng vô điều kiện.

Hình vẽ tuyên truyền về sự hy sinh của anh hùng Nguyễn Văn Bé, một mình đặt mìn phá nát xe tăng giết trên một trăm tên lính mỹ.

Ông thần Nguyễn Văn Bé được đài Sàigòn thu âm rồi cứ phát thanh trên đài phát thanh mỗi ngày như quảng cáo ngày nay. Chán Mớ Đời 

Mình còn nhớ giọng Nam của ông này: “Kính thưa đồng bào cả nước, tôi là Nguyễn Văn Bé,….”. Tuổi thơ mình chỉ nhớ giọng ông Nguyễn Văn Bé này và quảng cáo kem Hynos, anh yêu kem , yêu luôn em, yêu luôn anh bảy chà da đen…. Ông này sinh tại Kiến Tường, mình chả biết là ở nơi nào, nhưng cùng quê với điệp viên X 92 của Việt Nam Cộng Hoà, cứ xem là quê hương đầy Việt Cộng.

Đi xi-nê có phần chiếu phim thời sự, cũng có màn chiếu chương trình chiêu hồi, các cán binh Việt Cộng trở về với chính nghĩa quốc gia, vối bản nhạc “tung cánh chim về miền tổ ấm,…”. Nghe nói có mấy ông lớn tham nhũng, thổi phồng số người hồi chánh để bỏ túi tiền, ngoài ra Việt Cộng lại cho người họ về đầu thú, để làm điệp báo trong thành nên cũng mệt.

Lâu lắm rồi mình có vào trang nhà của cựu lính mỹ tại Việt Nam, đọc về chiến tranh tâm lý thì khám phá ra chính người Mỹ đã thực hiện chương trình này. Mình có thấy họ tải trên mạng họ những truyền đơn,… mình có trả lời là có nhớ đến ông Nguyễn VĂn Bé này. Mấy tên mỹ có hỏi lại vài thứ nhưng lâu quá không nhớ trang nhà của họ.

Hình chụp gia đình ông Nguyễn Văn Bé đoàn tụ, không biết sau 75, cuộc đời ông ta về đâu. Ai biết cho em xin.

Họ có nói đến chiến tranh tâm lý, sử dụng một hòn đảo nào ngoài Đà Nẵng, để thành lập một chiến khu gọi là MẶT TRẬN GƯƠM THIÊNG ÁI QUỐC. Hồi nhỏ mình hay ghé sang nhà hàng xóm, có chị Gái, hơn mình đâu 5, 6 tuổi, ngồi học nghe đài Mẹ Việt Nam, và Gươm Thiêng Ái Quốc. Dạo ấy mình lại nghe lầm Hương Thiêng Ái Quốc. Cứ nghe cô phát ngôn viên kêu “ sinh Bắc tử nam với bản nhạc truy điệu, rùng mình. Mình nghe nói có đến trên 200,000 cán binh Việt Cộng hồi chánh, chứng tỏ chương trình này hữu hiệu. Chỉ tội là sau khi mỹ rút quân thì hết tiền, chương trình này được bỏ. Để mình sẽ kể rõ hơn trong một bài về mặt trận này.

Việt Cộng phát hành tem liệt sĩ Nguyễn Văn Bé khi ông ta còn sống nhăn răng, đoàn tụ với gia đình.

Cho thấy chúng ta khác với loại thú là biết tưởng tượng, tạo ra những câu chuyện, chỉ khác một điều là chúng ta phải nghe ai. Bên nào cũng tạo ra những hình ảnh để giúp mình chiến thắng. Đâu là sự thật?

Cù Lao hòn, nơi mặt trận Gươm Thiêng Ái Quốc, sử dụng làm căn cứ

Về già bổng nhiên lại nhớ đến mấy chuyện khi xưa. Có bác nào nhớ gì khác ở Đàlạt hay không. Để em viết về Mặt Trận Gươm Thiên Ái Quốc vì nhớ chị hàng xóm, nay ở cali, ngồi học bài mà nghe nhạc và đài này.

Có bài thơ tìm trong túi áo của một bộ đội miền Bắc, sinh Bắc tử nam, khá cảm động, xin ghi lại đây:” Bài thơ sau đây được nhặt từ túi áo một chiến binh miền Bắc tử trận tại chiến trường miền Nam những năm 1969. Trong hồi ký của tử sĩ nầy, người ta còn biết anh là con của bà Trần Thị Phấn ở Hải Dương. Bài thơ được đăng trên báo chí VNCH thời đó. Bài thơ không ghi tên tác giả, được một thường dân miền Nam mến thương cảnh ngộ và ghi lại.”

Từ buổi con lên đường xa mẹ
Theo anh em sang Lào, rồi dấn bước vào Trung
Non xanh núi biếc chập chùng
Sớm nắng biển, chiều mưa rừng gian khổ
Tuổi thanh xuân cuộc đời như hoa nở
Vì hòa bình đâu ngại bước gian nguy
Mấy tháng trời, ngày nghỉ đêm đi
Giày vẹt gót áo sờn vai thấm lạnh
Có những chiều Trường Sơn núi rừng cô quạnh
Mẹ hiền ơi con nhợt nhớ quê mình
Khói lam chiều, giàn mướp lá lên xanh
Con bướm nhỏ mái đình xưa, ôi nhớ quá!
Vào nơi đây tuy đất người xa lạ
Nhưng miền Nam vẫn cùng một quê hương
Vẫn hàng dừa xanh, vẫn những con đường
Vẫn hương lúa ngọt ngào
Tiếng tiêu gợi nhớ
Con trâu về chuồng
Ðã qua buổi ban đầu bỡ ngỡ
Con nhìn ra nào giải phóng gì đâu?
Buổi chợ đông vui, đồng lúa xanh màu
Mái chùa cong buông hồi chuông tín mộ
Lớp học tưng bừng những đàn trẻ nhỏ
Ðang nhịp nhàng vui hát bản đồng ca
Và sau vườn luống cải đã vàng hoa
Ðàn bướm nhỏ rủ nhau về hút mật
Xóm dưới làng trên niềm vui ngây ngất
Sao người ta bắt con phải đốt xóm phá làng
Phải gài mìn gieo tang tóc thương đau
Ðã nhiều lần tay con run rẩy
Khi gài mìn để phút sau bỗng thấy
Xác người tung và máu đổ chan hoà
Máu của ai
Máu của bà con ta
Máu của người như con như mẹ
Ðêm hôm ấy mắt con tràn lệ
Ác mộng về, con trằn trọc thâu canh.”

Trên mạng 

Nguyễn Hoàng Sơn 

FEMEN = nữ quyền?

 Có dạo trên đài truyền hình nói đến một nhóm phụ nữ người Ukraine, đấu tranh cho nữ quyền, kêu nước Ukraine không phải là nhà thổ. Khi tranh đấu xuống đường, họ thể hiện rất độc đáo vô tiền khoán hậu: để ngực trần như mấy người Mọi khi xưa tại Đàlạt. Sau này bị đàn áp, ở tù nên họ chạy qua Pháp để tiếp tục tranh đấu, khiến cuộc tranh đấu cho phụ nữ Ukraine trở thành tranh đấu cho nữ quyền tại Pháp, còn tại Ukraine vẫn như xưa, không thay đổi. Chế độ “Phụ hệ” vẫn tiếp tục như bao nhiêu thế kỷ qua.

Trên Amazon có cuốn phim tài liệu, phỏng vấn các nhà nữ quyền này, mình khám phá ra phong trào này được một người đàn ông thành lập và tổ chức để các cô này phơi ngực biểu tình, được thiên hạ giúp đỡ tài chánh. Người ta hỏi ông thần này thì anh ta tự nhận là một người theo chế độ phụ hệ nhưng lại tổ chức các cuộc tranh đấu cho nữ quyền. Vì tiền bạc. Chán Mớ Đời 

Gần đây cô Oksana Shachko, chết tại Paris với thư tuyệt mệnh hay người ta giúp cô ta chết, 10 năm sau khi cô ta cùng 3 người khác thành lập tổ chức Femen. Cô này bỏ chạy qua Paris để tỵ nạn, năm 2013 rời bỏ tổ chức và sinh sống bằng làm nghệ thuật.


Làm tổ chức này phải có cam đảm vì họ hay bị bắt cóc, tẩm xăng doạ đốt thiêu họ hay bị giết. Phong trào tranh đấu của nữ quyền tại Hoa Kỳ thành công nhờ vào nền dân chủ dựa trên hiến pháp nên giới đàn ông chủ trương chế độ phụ hệ không làm gì được, phải chấp nhận đa số.

Họ cho hay sau khi khối Liên Sô bị xụp đỗ, xứ Ukraine nghèo nên các cô gái ra ngoại quốc để làm tiền gửi về nuôi gia đình. Họ hay bị bắt làm nô lệ tình dục, thêm các du khách nam đến Ukraine để tìm gái. Mình nhớ dạo ở Thuỵ Sĩ, đọc báo cuối tuần, kể có nhiều chuyến bay chở nam du khách người Ba-Tư bay sang các nước đông âu để tìm gái vì mấy ông cố đạo hồi ayatollah cấm nhà thổ tại Ba Tư. Các chuyến bay đến Ba-lan và Ukraine nhiều nhất.

Một tổ chức tranh đấu nữ quyền, độc tài và chế độ phụ hệ lại do một tên đàn ông Victor Sviatsky đưa ý kiến này ra và quản lý. Tiền bạc bắt đầu được thiên hạ ủng hộ nên các đoàn viên bắt đầu lộn xộn. Họ tự hỏi tại sao Victor Stviatsky lại nắm đầu họ, bắt họ nói những gì và tránh những gì để khỏi bị đi tù. Thế là bỏ chạy sang pháp tránh nạn, huấn luyện mấy bà nữ quyền đầm hở ngực. Chỉ tiếc họ viết tùm lum trên ngực, khiến bộ ngực mất đẹp.

Họ nói chỉ nhận đoàn viên, toàn là người đẹp vì xấu sẽ không thu hút đám đông, ký giả,.. tự họ mâu thuẫn vì phụ nữ xấu cũng bị hiếp dâm, có thể bị đàn áp nhiều hơn phụ nữ đẹp. Xem họ trả lời câu hỏi thì mình cảm nhận họ không hiểu rõ lý do và mục đích đấu tranh của họ. Có lẻ họ có chút tư duy rồi tên chủ xị tổ chức, để mấy cô cởi áo, vẽ trên ngực những khẩu hiệu chống phụ quyền…

Nhóm này bị tan rã, mỗi người làm một việc, được cái là họ đã đem được lửa nữ quyền qua được Tây Âu, các nước thích cách mạng như Pháp và Đức, giàu có nên ngọn lửa đấu tranh cho nữ quyền vẫn toả sáng.

Cuộc thi hoa hậu tại Đàlạt. Nói theo ngôn ngữ thời nay, là Femen

Sinh ra trong một nước nghèo thì chúng ta khó có nhiều lựa chọn vì đói. Các cô này cảm thấy bị sĩ nhục khi du khách đến Ukraina, gặp phụ nữ xứ này, cứ tưởng là điếm hết nên đối xử thô lỗ. Có anh bạn học kể, sau 75, anh ta có việc phải về Hà Nội, ông thầy nhờ đưa lá thư cho người bạn học cũ khi xưa. Sau khi nói chuyện với anh bạn một lúc, người bạn của ông thầy bảo: : anh không phải thanh niên miền nam, trong đó toàn là điếm, ma cô” vì Hà Nội tuyên truyền như thế nên dù người có học, nghe hoài rốt cuộc vẫn tin như vậy.

Có anh bạn kể, một nhà văn từ Hà Nội sang Hoa Kỳ để giao lưu. Anh ta được nhờ đưa đón ông nhà văn từ Hà Nội mấy ngày để gặp mặt các nhà văn mỹ cũng như việt tại đây. Có dịp anh ta về Việt Nam, nhà văn kia mời đến nhà ngủ lại để tâm sự. Nhà văn nói; sau khi đi mỹ về anh ta không viết được. Anh ta khám phá ra những gì thầy dạy đều sai. Anh ta quan sát anh bạn để tìm sơ hở khi thấy anh ta lo lắng, giúp đỡ tận tình, chở ra phi trường, gửi gấm cho những người bạn nơi nhà văn sắp đến. Các bạn của anh bạn cũng giúp đỡ, đón tiếp đàng hoàng như anh bạn của mình.

Chế độ Mẫu Hệ tại Đàlạt khi xưa, đâu có vẽ tùm um.

Sau 6 tháng nhà văn không viết được, rồi như một dòng mạch khác lại đến với nhà văn, ông ta viết về những gì nhà văn suy nghĩ, đảo lộn tất cả nhưng gì nhà văn được dạy dỗ từ thầy, từ tuyên giáo,..

Vấn đề là họ khởi động đúng, tranh đấu cho nạn sách nhiễu tình dục, xem thường phụ nữ của giới đàn ông nhưng rồi tiền bạc đến, chia sẻ không đều, lập trường không vững chắc, kiên định nên phong trào bị dập tắt trong nước. Tên chủ xị khám phá ra một cách làm tiền, sử dụng các cô này phơi ngực, không khác gì một tên ma cô. Họ lại sống trong một môi trường độc tài, bị đàn áp nên khó mà thành công.

Cũng có thể họ lợi dụng vụ tranh đấu này để rời nước, đến Pháp để có một cuộc sống dễ hơn như những nhà tranh đấu dân chủ khác trên thế giới, sử dụng cuộc tranh đấu của họ như một chiếc vé đi ra khỏi nước họ khi các nước tây phương can thiệp. Ra khỏi nước thì xem như cuộc tranh đấu của họ chấm dứt vì phải lo kiếm sống.

Biết đâu trong tương lai, các giới trẻ khác sẽ nêu theo gương họ, để tranh đấu cho quyền phụ nữ tại xứ họ.

 
Mình thấy ảnh cô gái Đàlạt này rất đẹp nhất là nụ cười. Có người kêu mình đây là người Mọi cà răng căng tai nhưng sống tại Hoa Kỳ, mình quen không nhìn thiên hạ qua gốc gác của họ.  Cô này cũng như các cô gái khác đâu cần phải tranh đấu nữ quyền vẫn  được để ngực Trần.. thật ra họ sống dưới chế độ mẫu hệ . Vive  les femmes.

Nguyễn Hoàng Sơn 

Những khách sạn đầu tiên Đàlạt xưa

Người Pháp xây dựng Đàlạt để làm khu nghỉ dưỡng cho người của họ, sang thuộc địa làm việc, khỏi mất thời gian trở về cố quốc để nghỉ hè và dưỡng thương. Người tây phương hay bị bệnh sốt rét khi đến đông Dương nên phải về nước hàng năm để nghỉ dưỡng hoặc qua Nhật Bản hay Hương Cảng cho gần.

Do đó người Pháp xây dựng đầu tiên tại Đàlạt những nhà khách (auberge) rồi để làm điểm nhấn, cho thiên hạ biết thế nào là “grandeur de France”, họ cho xây khách sạn 5 sao lớn nhất Đông Nam Á thời ấy, khách sạn LangBian Palace, để toàn quyền Doumer và gia đình đến nghỉ. Sau đó quá tải nên họ xây thêm Hotel du Parc, rẻ hơn phía sau khách sạn Palace cho đoàn tuỳ tùng nghỉ dưỡng.

Khách sạn LangBian hoạt động song song với hội quán thể thao (Cercle sportif) với sân quân vợt, hội quán trò chơi nước, ngay Thuỷ Tạ (La Grenouillere), có lẻ ít người tham gia nên bị lỗ.

Đây là khu vực người Pháp xây dựng đầu tiên tại Đàlạt, những căn nhà và khách sạn nhỏ và khách sạn LangBian và cái nhà thờ nho nhỏ đầu tiên tại Đàlạt, phía sau chỗ đường Nhà Chung
Lúc đang xây khách sạn LangBian. Nếu nhìn bên tay trái phía trên thì có khách sạn Desanti, trên đường Yersin, sau này ông chủ này được mướn làm quản lý cho khách sạn LangBian. Khách sạn lỗ nên bị hai vợ chồng đầu bếp ở vùng Pau bên tây, được mời sang làm giàu tại Việt Nam kiện tụng vì không được trả lương..
Thấy đường Yersin, có khách sạn Desanti, và các bungalow bên cạnh.
Nhà nghỉ tại Djirinh, chắc chỗ mấy ông tây bà đầm nghỉ lại để đi săn

Thật ra thì người Pháp cũng không phải ai cũng giàu có, chịu chơi như công tử Bạc Liêu, khách sạn này bị lỗ rất nặng, đến nỗi quản lý khách sạn phải thưa kiện vì không được trả tiền. Mình có ngụ tại khách sạn này một lần khi về thăm Đàlạt với gia đình. Khi xưa chạy ngang thấy là lạ nên về lần đầu, ghé lại đây ở để thấy phía trong. Rất cũ, sàn nhà bằng gỗ cũ nên đi nghe kọt kẹt nhưng rất đẹp vào buổi sáng, đứng ở balcon , nhìn ra hồ Xuân Hương, mặt trời đang lên trong sương mù. Quá đẹp. Lần sau về, cô em không cho ở khách sạn, bắt về nhà ở.

Các căn nhà nghỉ được xây dựng khi Đàlạt mới được xây dựng là trung tâm nghỉ dưỡng cho Đông Dương. Cạnh đường Nguyễn trường Tộ, cạnh nhà hàng Đào Nguyên (cercle sportive).
Vài năm sau, thấy cây trồng cao lên một tí.
Hình nhìn từ góc bên đồi , thấy hồ Lớn (Grand lac) có con đường và đập chạy băng qua đến đường Đinh Tiên Hoàng

Khách sạn LangBian phía sau (bắc) đối diện đường Yersin
Khách sạn Langbian phía Nam, nhìn về hồ Xuân Hương. Lần mình về ngụ tại đây với gia đình, ở lầu 3, bên trái, có balcon 
Khu ăn sáng của khách sạn Palace 
Chụp trên đường nguyễn Trường Tộ, phần khách sạn xây lúc đầu đã được dẹp bỏ sau khi Khánh thành khách sạn Langbia
Khách sạn Công Viên (hôtel du Parc) được xây sau khách sạn LangBian, trên đường Yersin, cạnh khách sạn LangBian, rẻ hơn. Mình có ngụ tại đây, một lần khi về Đàlạt. Cũ nên sàn nhà đi nghe lệ bẹp cũng Chán Mớ Đời lắm
Hôtel du Parc chụp trên đường Yersin, phía sau khách sạn LangBian.
Hình này cho thấy khách sạn LangBian và Hôtel du Parc.


Hotel du lac được xem là khách sạn đầu tiên tại Đàlạt 

Trung tâm người Việt sinh sống cũng có những nhà nghỉ cho người Việt cũng như người Pháp ngụ lại khi lên Đàlạt.
Khu Hoà Bình, thấy có nhà hàng Chic Shanghai, có đề chữ Hôtel
Chỗ này chụp trước tiệm Nam Sơn , thấy đề cho thuê phòng, xem như Homestay thời xưa. Mang tên LangBian Bar , mình đoán là chỗ nhà hàng Nam Sơn sau này. Điều làm mình nhớ nhất là những tấm cửa làm bằng gỗ để đóng cửa vào ban đêm. Cửa hàng của mẹ mình khi xưa cũng được thiết kế theo kiểu này đến khi người ta chế ra các cửa sắt, kéo vô kéo ra. Xong om
Khách sạn và nhà hàng Chic Shanghai tại khu Hoà Bình, bên cạnh là tiệm vàng Huỳnh Ngọc hình như cua bà Tư Bổ, tiệm Vĩnh Hưng của ông bà Võ Quang Tiềm.
Đường Mình Mạng, có lữ quán Sàigòn . Nhớ khi xưa bạn bà Hai, hàng xóm của mình, lên Đàlạt chơi thì ngụ tại lữ quán này. Con gái của lữ quán này cho biết là bố mẹ cô ta cũng là chủ nhân của tiệm hủ tiếu Nam Vang, đối diện. Có ông nằm vùng kể cho mẹ cô ta biết là được lệnh đem gà men vào tiệm để đặt chất nổ vì sinh viên Võ Bị cuối tuần hay ghé đây ăn. Buồn đời, thấy mấy đứa nhỏ đứng chơi ở ngoài tiệm nên ông ta không để lại chất nổ. Bên cạnh là tiệm bi-da Hồng Ngọc, lấy của mình không biết bao nhiêu tiền. Chán Mớ Đời 

Đi xuống thì bên phải có 3 khách sạn Tịnh Tâm và Hoà Bình và Nam Việt


3 khách sạn trên đường Mình mạng, chụp từ đường Phan đình Phùng, sau 75. Không biết dạo ấy còn được hoạt động nhà nghỉ hay không.
Khách sạn Thuỷ Tiên ở số 7 đường Duy Tân, được xem là cao nhất Đàlạt vì có 5 tầng, ngay góc Trương Vĩnh Ký.
Đây là khách sạn Duy tân, trên đường Lê Quý Đôn, góc Hùng Vương. Bố mẹ mình tổ chức 40 năm đám cưới tại đây
Cổng vào khách sạn, không biết lúc mưa to, không biết có bị lụt hay không vì nằm thấp hơn mặt đường. Khách sạn này thiết kế theo kiểu motel bên mỸ. Nghe nói tại đây có vũ trường. Hình như các tiệm ăn nổi tiếng Đàlạt xưa đều có vũ trường để câu khách.
Hình cửa vào khách sạn Mộng Đẹp, ở cạnh cầu tháng xuống chợ mới Đàlạt 

Thời mỹ, họ cho quân đội mỹ mướn tháng luôn, đặt tên là Modern, không cùng nghĩa với Mộng Đẹp nhưng nghe tựa tựa
Khách sạn này của ông thầu khoán Nguyễn Linh Chiễu, người xây thầu chợ mới Đàlạt. Ông ta ăn gian xây thêm một tầng, không xin phép.
Khách sạn Mộng Đẹp, thời mỹ mình nhớ chỗ này có bao cát, dây kẽm gai, ra vào có lính mỹ canh gác. Cũng vì chỗ này mà một trực chăng mỹ, đưa lính trinh sát 302 đi hàng quân, bay lại đây để chào mấy cô gái lấy mỹ, bị rớt ngay đầu đường Lê Đại hành, trước cửa tiệm cà phê Hạnh Tâm. Mình có kể vụ này rồi.
Ở vùng Chi Lăng có khách sạn Catinat Đàlạt, thời mỹ đổi tên là Ann’s House, cho mỹ mướn

Theo tờ chương trình này thì có khách sạn Hoà Bình, ở đường Nhà Thương (rue de l’hôpital). Rạp xi-nê Eden là tiền thân của rạp Ngọc Lan, sau này họ có xây thêm khách sạn Ngọc Lan, cho Mỹ mướn, bị đặt chất nổ. Mình nghe bạn học cũ kể thủ phạm là Nguyệt Thu, học chung tường khi xưa. Kinh

Đây khách sạn Catinat Đàlạt thời tây
Ngoài ra ở đường Phan Đình Phùng có khách sạn Cẩm Đô và khách sạn Mimosa. Mình có 2 tấm ảnh của khách sạn nhưng tìm chưa ra vì nhiều hình quá. Chán Mớ Đời 

Khách sạn Mimosa ở đường Phan Đình Phùng, ngay cái dốc lên đồi Hàm Nghi, góc nhà thờ Tin Lành. Mình nhớ chỗ này vì hồi nhỏ có học hè ông giáo Kim, ngay đây, đối diện cái giếng nước. Còn khách sạn Cẩm Đô, cùn với tiệm ăn tàu, do anh của ông tiệm thuốc Bắc An Thiên Đường, Con Cua ở đường Duy Tân. Khi ông này sang tây vơi người em gái, có đi kiếm mình vì quen bà cụ mình. Rất dễ thương, có mời mình đến nhà chơi, nấu cho mì Cẩm Đô. Hình như đã qua đời. Mình có học với Huỳnh Quốc hÙng, cháu của ông.
Hình chụp từ cầu Cẩm Đô. Mình đoán sau 75. Bên tay phải là nhà hàng và khách sạn Cẩm Đô của anh tiệm thuốc bắc Con Cua. Sau ông ta định cư tại Pháp, mình có ghé thăm vài lần trước khi qua Hoa Kỳ định cư. Chỗ bên phải có tiệm mì Cẩm Đô nổi tiếng Đàlạt xưa.

Lúc mình đi Tây thì nhớ ông bà Võ Quang Tiềm đang xây 50 phòng khách sạn ở dưới chợ thì phải.
Mình chỉ nhớ có mấy khách sạn này, ai còn nhớ những chỗ khác thì cho biết , em sẽ bổ túc vào bài.

Nguyễn Hoàng Sơn