Sự hình-thành Cầu Ông Đạo Đàlạt

 Mình định không viết về Đàlạt nữa nhưng có người gửi thêm hình ảnh Đàlạt xưa, khiến nhiều kỷ niệm Đàlạt xưa lại mò về như tấm ảnh mà mình không hiểu ở đường nào khi xưa. Cứ đoán mò là trên khu Hoà Bình, hay đường Phan Bội Châu, không ngờ lại là ngay khu vực cầu ông Đạo ngày nay. Thêm nữa những tấm ảnh này rất rõ, không biết đã được sử dụng phần mềm hay không mà xem rất rõ. Ghi lại đây để khỏi quên như một trò chơi ký ức.

Khi mình kể về Đàlạt xưa, giúp nhiều người tìm lại được chút gì thân thương, một thời tuổi trẻ của họ đánh rơi bên hồ Xuân Hương nên mình tiếp tục kể về Đàlạt để tạo niềm vui cho vài người quen và không quen. Dạo này mình nhận được từ ông Nguyễn Kính 1 số hình ảnh xưa của Đàlạt. Nay mình có trên 2,000 tấm ảnh xưa của Đà Lạt.

Vấn đề là không biết sẽ kể ra sao. Lấy tấm ảnh rồi kể theo tấm ảnh hay tìm hết các tấm ảnh của khu vực để kể lại. Lại có mấy người Mỹ từng tham gia chiến tranh Việt Nam, gắn bó với Đàlạt xưa, muốn mình viết thêm anh-ngữ cho họ hiểu thêm về Đàlạt xưa nơi họ đã từng đánh rơi tuổi trẻ họ bên hồ. Mình đành tiếp tục tìm lại dấu chân xưa ở Đàlạt. Hôm nào mình viết lại Thuỷ Tạ vì mới tìm ra vài tấm ảnh của Thuỷ Tạ thời tây.

Đang viết thì chị vợ bên Massachussetts gọi, nói có ông bạn hay đọc bài của mình rồi bàn tán với bạn bè thời Đàlạt. Ông ta thắc mắc về tên Sơn đen vì không biết mình dù Đàlạt khi xưa nhỏ bé. Cuối cùng ông ta gọi bà chị vợ, đoán là em rể của chị ta. Chị này kêu đúng rồi vì bà chị có một cuốn Mực Tím Sơn Đen. Năm ngoái, mình sang Boston ăn cưới cô cháu. Cặp vợ chồng đại diện nhà gái, gặp mình hỏi biết ai đây không khiến mình ngọng. Car đời chưa bao giờ gặp lại hỏi câu cực chất dân Đà Lạt xưa. Hóa ra vợ chồng con gái của tiệm vàng Hoàng Ngọc Bửu, Đà Lạt xưa.

















Tấm ảnh này của Khoa Nguyen gửi cho mình giúp ai đã sống tại Đàlạt sẽ hiểu sự thành lập của hồ Xuân Hương. Mình có kể về vụ này nhưng khó ai mường tượng được nếu không quen nhìn bản vẽ. Xin bổ túc thêm. Tấm không ảnh này được chụp trước năm 1932. Tấm không ảnh cho thấy hồ Lớn (grand Lac) lúc đầu tiên, chưa thấy Thuỷ Tạ được xây dựng. Phần đất bồi đầu tiên, đói diện sân vận động Đà Lạt khi xưa, nay là quảng trường Big C.

Hồ nhân tạo này được người tây thực hiện để giữ nước của suối Cam Ly. Ông Cunhac có công đầu để thành hình. Lúc đầu có 2 hồ như hình trên, có cái đập vừa là con đường chạy từ bùng binh cây xăng Kim Cúc (thuỷ tạ chưa xây), chạy băng qua đến bùng binh Đinh Tiên Hoàng và Võ Tánh sau này. Lúc này, họ chưa cho xây ốc đảo Thuỷ Tạ.

Xa hơn là khu phố cạnh hồ nhỏ, bị che khuất sau đám cây thông, vào năm 1932 bị lụt phá huỷ sau này là ấp Ánh sáng được xây cất vào năm 1955. Có lẻ mình sẽ viết lại hồ Xuân Hương với tài liệu mới được nhận từ các người quan tâm về Đàlạt xưa. Có ít tài liệu, mình kể nhưng rồi thiên hạ gửi thêm tài liệu nên phải bổ túc.

Xem hình này thì mới hiểu lý do khi năm 1932 vào tháng 5, có vụ bão lụt mà Đà Lạt hay bị mỗi năm. Hình này cho thấy cái đập, phía trái cái đập có khoảng đất rộng, bên phải của đập là chỗ thoát nước. Xem như bên lở bên bồi như các dòng sông. Đến khi người Pháp tư duy đột phá xây con ốc đảo và đặt tên là “la grenouillère” để nhớ về tiệm ăn nhảy đầm danh tiếng ở ngoại ô Paris, bên dòng sông, khiến nước chảy vào góc bên trái và xoáy, tạo áp suất và làm vỡ cái đập. Để tránh vụ này xẩy ra, họ phải phá cái đập và dời về nơi cầu Ông Đạo ngày nay.

















Đây là hồ Đàlạt khi còn nguyên thuỷ, lúc người Pháp mới khám phá và quyết định xây dựng một thành phố nghỉ mát cho thực dân. Mình đoán hình chụp từ khúc sân vận động xưa, nhìn về phía am Sohier và Grand Lycée . 

Mai Vuông Tròn gửi mình 5 tấm ảnh liên quan đến khu vực cầu Ông Đạo xưa. Mình xin phép tải lên đây cho mọi người xem.















Hình đầu tiên, đoán là chụp từ trên đồi chỗ ty bưu điện, đối diện nhà thờ Con Gà. Thấy chiếc cầu Ông Đạo nhỏ, bằng gỗ, có đường nhỏ chạy lên đồi, khu nhà lao sau này. Dinh tỉnh trưởng chưa thấy nhưng lác đác vài căn nhà chỗ đường Thành Thái hay Trương Vĩnh Ký.




















Hình thứ 2, cho thấy Đàlạt từ năm 1920-1929, xem như 100 năm về trước thì cận cảnh hơn thấy có cái hồ nhỏ, chưa được nhập với hồ lớn phiá bên kia cầu. Con đường mòn chắc sau này là con đường lên dốc nhà thờ Con Gà. Chúng ta thấy cận cảnh là một cái hồ nước, mà Tây gọi là Petit Lac (hồ nhỏ). Bên kia hồ thì lác đác có mấy căn nhà gỗ. Xa xa hơn trên đồi là những căn nhà trên đường Trương VĨnh Ký sau này. Có một bản đồ thời Tây thì cho biết Petit Lac, là hồ Đội có, cạnh nhà máy nước Đà Lạt.
















Tấm thứ 3 thì thấy rõ cái hồ nhỏ, con đường và chiếc xe camionette Tây ngày xưa. Đặc biệt thấy cái cầu nhỏ làm bằng gỗ và mấy cái quán và nhà ở. Mình đọc bài thầy Hứa Hoành, dạy mình Địa lý năm 11 B ở Văn Học :” Tôi được một người cháu gọi Tôn Thất Hối bằng ông chú, là chị Tôn Nữ M. L. cho biết: “Năm 1935 hồ Xuân Hương bị ngăn lại và làm một cây cầu bắc ngang qua để vào chợ Hòa Bình. Cây cầu nầy hồi năm 1919 chỉ là một cái cống nhỏ. Dòng nước ở dưới cầu chảy qua ấp Ánh Sáng, để đổ vào thác Cam Ly. Vì cây cầu nầy được xây dựng dưới thời Tôn Thất Hối làm quản đạo, nên dân chúng quen gọi “Cầu Ông Đạo”. Tôi còn nghe một nguồn tin khác cho biết vì cây cầu nầy nằm gần dinh quản Đạo, (chỗ khám đường trước năm 1975), nên dân chúng Đà Lạt quen gọi là “Cầu ông Đạo”. Tôi không dám quả quyết thuyết nào đúng hơn.”


Theo mình, nguồn gốc tên Cầu Ông Đạo mà người Đàlạt xưa kêu vì được ông quản đạo xây đúng hơn. Tương tự cầu bá hộ Chúc xây phía bên kia ấp Ánh Sáng, người ta gọi cầu bá hộ Chúc vì ông ta làm cái cầu này để người dân tiện đi qua suối. Còn gọi tên gần nhà ông quản đạo thì không đúng lắm. Bác nào biết rõ hơn thì cho em biết. Theo một người sinh tại Đà Lạt cùng năm với bà cụ mình, nghĩa là năm nay 91 tuổi, ông bá hộ Chúc, giàu có từ miền nam lên Đà Lạt làm nghề thầu khoán, xây cầu từ ấp Ánh Sáng, đường Cường Để băng qua đường Bà Triệu nên dân cư tại đây gọi cầu Bá Hộ CHúc. Khi nhỏ, mình đi học trường Ấu Việt mỗi ngày, vì nhà ở ấp Ánh Sáng, lúc đó là cây cầu bằng cây, nhỏ. Sau này họ mới xây cầu bằng xi măng cốt sắt. Tương tự cầu Cẩm Đô dưới thời thị trưởng Trần Văn Phước. Ông này làm thị trưởng mấy năm mà xây cất chợ mới Đà Lạt, bến xe đò Đà Lạt-Sàigòn, khu Hoà BÌnh,…


 Nhìn thấy chiếc cầu gỗ khiến mình nhớ đến mấy cây cầu tương tự bắt ngang mấy con suối ở đường Phan Đình Phùng và Hai Bà Trưng mà mình hay đi ngang khi xưa. Chỗ cư xá Địa Dư băng qua con suối được đoàn hướng đạo Lâm Viên, do anh Ngữ con ông Ấm Thảo đứng trả huy động xây cất. Anh Ngữ, sau này đi Thuỷ Quân Lục Chiến, bị mất một con mắt khi đánh tái chiếm Quảng Trị. Thủy Quân Lục Chiến chỉ có tiến không có lùi, được nghe từ một bộ đội cụ hồ, rất sợ lính thuỷ đánh bộ của Việt Nam Cộng Hoà.

















Tấm ảnh này đã giải mã thắc mắc của mình lâu nay. Mình cứ nghĩ là khu nhà nằm ở đường Phan Bội Châu khi chợ Cây bị cháy nên thiên hạ rũ nhà ra đây họp chợ trong khi đợi người ta xây lại Chợ. Nay mới biết là mấy căn nhà của người Tàu lên Đàlạt làm ăn. Mình thấy bên cạnh cái quán có mái hiên, có chứa mấy tấm gỗ để gắn cửa nẹp lại để đóng cửa vào ban đêm. Tính ra thì có 3 cái nhỏ và mấy cái lớn. Nhớ lại một thời chưa có cửa sắt, ai nấy dưới chợ, hay trên phố đều mở và đóng cửa hàng bằng loại này. Sau tháng 5 năm 1932, bị lụt cuốn trôi.

















Cận cảnh căn phố thấy 3 người Tàu ngồi trong tiệm, ông cha và 2 người con. Biết đâu là cha con ông Lưu Hội Ký vì mình thấy họ bán đồ nhôm như cái thau để giặt đồ hay tắm, mấy cái nắp nồi rồi tàu vị yểu hay rượu,... tiếc là 3 chữ tàu vẽ trên cửa tiệm nhìn không rõ. Có thể Đức Xương Long. Có ai là hậu duệ của tiệm này vào thời gian 1930 thì cho em hay. Cảm ơn trước.


















Hình này chụp phía bên con suối, thấy khu phố cạnh chiếc cầu như đã kể trên. Hình cho thấy rõ, khu họp chợ dưới trũng, sau này được dẹp hết, để nối với hồ lớn bên kia thành cái hồ Xuân Hương mà ta gọi ngày nay. Ấp Ánh Sáng được xây dựng cao hơn mặt hồ Xuân Hương mà khi đến mùa mưa, họ xã lũ thì các vườn rau bên cạnh đều bị ngập.
















Hình này chụp từ khách sạn Palace nhìn về phía dinh tỉnh trưởng cho thấy chợ Đàlạt chưa được xây dựng. Khu nhà chỗ cái đập cầu Ông Đạo sau này là khu phố buôn bán của người Đàlạt di cư, khác với người Đàlạt sinh trưởng tại đây mà chúng ta thường gọi là người Mọi. Khu vực có nhà cửa bị lũ cuốn trôi vào tháng 5 năm 1932.

Ngày nay, người ta nói đến sự chiếm đất của người da trắng khi sang châu Mỹ, tàn sát dân sinh sống tại đây. Trước khi Đàlạt được khai phá đã có người sở tại, bản địa sinh sống. Người Pháp đến, đẩy họ đi, tạo dựng những khu vực riêng cho họ như cuối đường Hoàng Diệu, Lò Gạch. Không biết họ nghĩ gì khi bị chiếm đất đai, đẩy vào các khu này. Ai biết thì cho em hay tại khi xưa, không có quen ai là người Mọi cả.















Hình này chụp cũng từ khách sạn Palace nhưng độ cao hơn và ai đó đã biến thành hình màu. Ta thấy dãy phố chỗ cái cầu và xa xa trên đồi, dưới nhánh cây thông là dinh tỉnh trưởng.


Dãy phố này có năm bị lụt nặng nề nên người Pháp cho dỡ bỏ khu này, đưa lên khu Hoà Bình và nhập hai hồ lại thành hồ Lớn (grand lạc) và Petit Lac. Nhìn bản đồ khi xưa, thì mình nghĩ hồ nhỏ (petit lac) mà người Pháp gọi chính là hồ Đội Có vì có thấy trên một bản đồ địa dư đề Petit Lac khi xưa hồ đó rất rộng chạy lên đường Võ Tánh rất xa. Người Đà Lạt gọi hồ Đội Có là vì được ông thầu khoán tên Có chỉ huy làm. Ông này cũng giàu, có dãy nhà ở khu Hoà Bình mà ai cũng gọi là dãy nhà Đội Có. Đâu lưng với bến xe Minh Trung.
















Khúc này chụp chỗ cái cầu mà sau này được xây dựng lại thành cầu Ông Đạo. Xa xa là con đường Lê đại Hành sau này. Bên trái là khu phố thấy phía bên này. Cái hồ nhỏ là khu vườn của ấp Ánh Sáng sau này. Thấy dinh tỉnh trưởng trên đồi chưa có thông mọc. Có chiếc cầu làm bằng gỗ mà cháu gái của ông quản đạo Tôn Thất Hối, đã kể cho thầy Hứa Hoành.

















Cầu này bị vỡ trong cơn bão tháng 5 năm 1932 nên người Pháp nhập hai hồ lớn nhỏ và lớn thành một, dẹp khu phố chỗ cầu gỗ nhỏ. Thay vào đó, họ xây một cái đập bằng xi-măng cho chắc chắn mà dân thị xã gọi là cầu Ông Đạo. Nghe nói là một kỹ sư người Việt xây dựng, quên tên vì không tính viết về Đàlạt nữa. Mình đọc đâu trên kỹ-yếu của Công Chánh Việt Nam.


Đặc điểm là nhà của dân mới đến Đàlạt đều được xây dựng cạnh suối như tấm ảnh trên về khu nhà cửa gần ấp Ánh Sáng sau này vì gần suối dễ có nước để dùng. Không hiểu lúc Tây cho dọn lên khu Hoà BÌnh thì dân lấy nước dùng ở đâu? Chắc phải đào giếng ở dưới khu vực thấp Chợ Mới sau này, trước khi họ xây dựng nhà máy nước, nơi ông cụ mình làm việc khi xưa, bơm nước về cho thành phố xài. Ai biết thì cho em xin. Mình chỉ biết ông bá-hộ Chúc giàu nhờ nấu nước sôi cho dân cư Đàlạt xưa tắm như sau này có tiệm tắm nước nóng Minh Tâm ở trước rạp Ngọc Hiệp. Mình có tấm ảnh nơi ông bá-hộ Chúc bán nước nóng cho dân thị xã tắm thời đó. Không thua gì những nơi đi tìm vàng trong mấy phim cao-bồi.

















Hình này chụp từ bờ hồ khúc chỗ sau này, trong thời chiến máy bay trực thăng đáp tại đây trước cửa sân vận động. Chúng ta thấy cái đập thoát nước hồ sang hồ nhỏ phía bên kia chỗ cái cầu Ông Đạo sau này, hình trên. Mình đoán là 2 ông tây, kiến trúc sư thiết kế Đàlạt ngày xưa theo lệnh ông toàn quyền Doumer. Một trong hai ông này thiết kế Thuỷ Tạ dựa theo một nhà hàng nổi tiếng ở ngoai-ô Paris, được xem là cái nôi của trường phái Impressionist.



Chỗ chụp 2 ông tây ở trên, sau này là chỗ đậu trực thăng trước Thao Trường

















Hình này chụp cái đập và con đường chạy từ bùng bình Thuỷ Tạ qua bùng binh Đinh Tiên Hoàng và Võ Tánh. Xa trên đồi là dinh tỉnh trưởng. Phía bên phải có thể là dãy nhà sau này được gọi là nhà Lao, nơi mẹ mình bị mật thám bắt nhốt tại đây. Sau này được thả, nhờ ông Võ Quang Tiềm bảo trợ nên ông thị trưởng mới cho ra khám. Đó là kỷ niệm thời kháng chiến của cô gái 17 tuổi tại Đàlạt. Sau đó Tây cho hành quyết đâu 20 hay 21 người trong Cam Ly về tội ám sát mật thám Tây tại Đàlạt, trước cửa tiệm Đức Xương Long. Ông ra tay ám sát này, nay ở San Francisco, Hoa Kỳ, cũng già yếu lắm rồi. Nghe kể bà Lan sống sót trong vụ xử tử này sống trên Số 4, mới chết cách đây mấy năm.














Hình này cho thấy rõ, con đường chạy từ bùng binh chỗ Thuỷ Tạ sau này, băng qua hồ Xuân Hương, đến bùng binh Đinh Tiên Hoàng, và Võ Tánh sau này. Ta thấy bên trái là hồ, bên phải có con suối chảy về Cam Ly và dãy phố mà hình trên cho thấy chụp phía đường Phạm Ngũ LÃo. Khu này sau này bị lụt cuốn đi mất hay bị phá bỏ. Chính quyền đưa chợ lên khu Hoà Bình sau này để tránh lụt lội. Chỗ này sau này là hồ được nối thêm và là nơi cầu Ông Đạo được xây cất. Họ chú thích năm 1948, mình nghĩ là sai vì cái đập bị vỡ vào tháng 5 năm 1932, khu vực này bị lũ lụt cuốn đi hết khiến 15 người chết. Mình có mấy tấm ảnh của khu vực này khi bị lũ lụt
















Cận cảnh là nhà ông quản đạo bị khuất sau mấy cây nhỏ.


Sau vụ lụt thì họ phá con đường chạy từ Thuỷ Tạ qua bên này, vét sâu hồ phía bên này, dẹp bỏ mấy căn phố phía tay phải, (địa điểm Thanh Thuỷ ngày nay) tạo nên một hồ. Ta thấy con đường Trần Quốc Toản với cái biệt thự đẹp dưới rừng thông, cạnh hồ Xuân Hương.


Thấy trạm bưu chính gần nhà thờ chính toà sau này. Xa xa ở giữa là khách sạn Palace mới được xây xong. Quán ăn Đào Nguyên chưa được thành lập.


















Hình này cho thấy hồ Xuân Hương mà Tây gọi là Grand Lac, khi dẹp bỏ cái đập cũng là con đường chạy từ Thuỷ Tạ qua bùng binh Võ Tánh và Đinh Tiên Hoàng. Cứ nhắm câu lạc bộ hướng đạo Lâm Viên ngay hồ và mé Thuỷ Tạ không thấy bên tay trái. (Khi nói về căn nhà gỗ trên bờ hồ Dalat, bạn nói đó là câu lạc bộ Hướng Đạo là không chính xác, phải gọi là Đạo Quán Đạo Lâm Viên Hội Hướng đạo Viêt Nam..) bên kia hồ là biệt thư Trang Hai, đã bị phá để xây bãi đậu xe buýt du lịch.


Cầu và đập Ông Đạo nhìn từ đường Trần Quốc Toản. Thấy nhà ông Quản Đạo và phía trên đường Thành Thái sau này có rạp xi nê Éden, sau này đổi tên Ngọc Lan

















Cầu Ông Đạo khi xưa, thấy rạp xi-nê Eden, sau này được đổi tên là Ngọc Lan. Bên kia cầu là nhà của ông Quản-đạo, sau này được dỡ bỏ làm bùng binh
















Hình này chụp từ trên cầu Ông Đạo, được xây lại vào những năm 50 trước khi mình ra đời. Thấy ấp Ánh Sáng bên tay trái, được thành lập năm 1955, nơi gia đình mình ở 6 năm tại ấp này còn trên đồi thấy rạp Eden, sau này đổi lại là Ngọc Lan.















Hình này thấy rõ hơn, cầu Ông Đạo mới, vừa làm cái đập nước, vừa là cái cầu để xe chạy ngang. Trong thời chiến, có lính đứng gác trên cầu vì sợ Việt Cộng thả mìn theo mấy rong bìm bịp, làm nổ cầu. Phải công nhận Việt Cộng chỉ biết phá hoại, không biết xây dựng. Chán Mớ Đời 

















Hình này thấy khúc đường Trần Quốc Toản và con đường chạy lên nhà thờ Con Gà, mà hình đầu cho thấy con đường mòn chụp cầu Ông Đạo khi xưa. Xong om


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 


Nguyễn Hoàng Sơn 

Trường Lasan Adran Đàlạt

Hôm trước, mình tải bài về ngôi trường học đầu tiên được thành lập tại Đà Lạt, trên đường Trần Hưng đạo, cạnh ty Dụng Cụ, sửa xe hơi mà thời Tây gọi là Garage Martinet. Trường này nay được trưng dụng làm trung tâm dạy chính trị hay quân sự gì đó. Có người nhảy vào kêu là trường Lasan Adran nơi họ từng ở. Chán Mớ Đời nên mình tải lại bài này viết về trường nhà dòng Adran.

Mình có học hai năm ở trường dòng Lasan Adran, không phải công giáo nên i tờ. Khi họ làm lễ mình không phải đi dự. Qua tây, học kiến trúc thì giác ngộ cách mạng sự ngu dốt của mình về thiên chúa giáo vì học lịch sử nghệ thuật, nói về các thánh được nhắc đến trong thánh kinh là mình ngọng. Phải mượn kinh thánh về đọc để có khái niệm về thiên chúa giáo.

 

Rừng Ái-ân và trường Lasan Adran xưa.

Ở lâu bên Tây mới khám phá ra thiên chúa giáo có rất nhiều dòng tên, đặt biệt la dòng Jesuite chuyên về giáo dục. Các trường học hay đại học như đại học Hopkins ở Hoa Kỳ là do dòng tên Jesuites thành lập. Khi xưa mình có quen một ông cha ở Giáo Hoàng Học Viện, tên Louis Leahy, người Gia-nã-đại, cũng thuộc dòng Jesuite. Mới nhớ lại ở Đàlạt khi xưa có dòng Don Bosco, dòng Chúa Cứu Thế, dòng Đa-minh, dòng Franciscain,…mà mình không hiểu lý do.

 

Tu-viện Đa-minh tại Đàlạt khi xưa
Dòng Franciscain Đàlạt xưa, nghe nói nay rất te tua. Việt Cộng không cho tu mà cũng không làm gì cả. Có một kiến trúc khá đặc biệt nhưng nay hoang phế.


Tu viện Franciscain.

Tò mò mình tìm hiểu về dòng Lasan thì khám phá ra dòng tên này được thành lập bởi một ông Tây tên Jean Baptiste de La Salle. Có lẻ vì vậy người Việt đọc trại La Salle thành Lasan? “La Salle” có nghĩa căn phòng rộng như phòng ăn (Salle à Manger) nên dịch ra tiếng Việt không được oai, dòng Căn Phòng lớn nên họ dùng Lasan? người Pháp họ đọc và hiểu như vậy, đâu có gì lạ.


Nếu mình không lầm thì ở Paris, quận 15, có một nhà thờ mang tên sư huynh này. Hình như vẫn còn trường học, nay thì không biết sao.

 

Ông La Salle thuộc nhà giàu, quý tộc vì có tên lót là “de” như ông Charle de Gaulle, sinh ra tại vùng Reims, nơi có rượu Champagne nổi tiếng, nghe theo tiếng gọi của chúa đi tu ở chủng viện Saint Sulpice ở Paris mà nhà văn Dan Brown có miêu tả trong cuốn Da Vinci Code. Mình có vẽ nhà thờ này hai năm đầu khi vào trường Cao Đẳng quốc Gia Mỹ Thuật Paris. Cha mẹ ông ta chết sớm, nên phải ngưng tu, về nhà để chăm sóc tài sản cha mẹ để lại, lo cho mấy người em. Có lẻ vì vậy mà mấy người theo tu dòng này không thụ phong linh mục. Bác nào biết thì cho em hay.

 

Nhân duyên đưa đến, có một bà nhà giàu muốn ủng hộ, thành lập một trường học với điều kiện ông La Salle phải giúp đỡ nên từ đó, ông ta trở thành nhà giáo dục, bỏ hết tiền của để dấn thân vào công việc giáo dục các trẻ em nghèo. 

 

Thời đó, người nghèo chỉ có cái học mới là tấm vé thoát nghèo. Mình nhớ hai năm học Lasan Adran, bị ông thư ký vào lớp, kêu ra, đuổi về mấy lần, bảo khi nào có tiền đóng tiền học thì trở lại. Đầu tháng nhiều khi bà cụ mình chưa đủ tiền trả tiền học vì phải đóng hụi nên mình hay bị đuổi học. Mất đi nguyện ước của ông La Salle thủa ban đầu là giáo dục người nghèo. 

 

Sau này được du nhập sang Việt Nam, đổi thành “tiên học phí, hậu học văn”Cái này thì mình cảm nhận được vì khi xưa bị nhà dòng đuổi ra khỏi lớp vì chưa kịp đóng học phí nên hiểu thế nào khi bị cả lớp xem mình như cùi hủi. Hai năm cuối mình qua Văn Học vì thầy Chử Bá Anh cho học miễn phí, không sợ bị đuổi nữa. Từ đó lên đến đại học mình học không tốn tiền, đều được học bổng.


 Còn ngày nay ở Việt Nam thì tiên học phụ khoa, hậu học tại chức khiến cô học sinh nào bức xúc quá và tự tử khiến thiên hạ chửi tùm lùm, thêm cô hoa hậu nào về trường được đón tiếp cực kỳ long trọng, ngay cả hiệu trưởng cũng không dám ngồi, chắc mua bằng giả. Kinh


Khác với khi xưa, học sách giáo khoa, ông Jean Carnot, sau này làm tổng thống Pháp quốc, về thăm làng cũ, ghé thăm người thầy xưa hay khôi nguyên Nobel về văn chương Albert Camus, viết thư cảm ơn ông thầy đã giúp ông ta có học bổng để tiếp tục học, nhờ vậy mà nước Algérie mới khôi nguyên Nobel văn chương, không được đứng tên vì họ đuổi các người da trắng sinh trưởng tại xứ họ về Pháp quốc. 


Mình có kể về lá thư của ông Albert Camus viết cho thầy, rất cảm động. Đọc được bài này, cô giáo việt-văn khi xưa của mình rất cảm động, xem như lời tri ơn các thầy cô đã từng hướng dẫn mình. Ông này nhà nghèo ở Algeria, ông thầy thấy ông ta có khiếu nên tìm cách xin học bổng dùm ông ta thay vì bắt học phụ khoa.


Các trường dòng La Salle được mở dạy khắp thế giới do các sư huynh, nhận lãnh vai trò giáo dục. Nghe đâu có đến 84 quốc gia. 2 năm học Lasan Adran, mấy sư huynh giúp mình đam mê về lịch sử, võ học và toán học. Hình như sư huynh dạy mình toán tên Tuyến thì phải.

 

Tên Adran lấy từ giám mục người Pháp tên Pierre Pigneau de Béhaine, người có công giúp Nguyễn Ánh chiến thắng nhà Tây Sơn. Ông ta làm giám mục của vùng Adran (nước Syria ngày nay). Người ta gọi Bá Đa Lộc từ tên Pedro, có lẻ khi xưa các nhà truyền giáo đa số là người gốc Tây Ban Nha và Bồ Đào nha nên hay gọi Pedro thay vì Pierre ("Pedro" 祿), sau này ông chết, vua Gia Long phong tước là Bi Nhu Quận công (悲柔郡公, (duc de Pigneau, nơi ông sinh ra đời). Ngày xưa, giờ sử phải học về ông này khi nói đến Gia Long.


Những người chống Tây thì cho ông này là người khởi đầu cuộc xâm lăng, thuộc địa hoá Việt Nam nên sau 1975 thì Việt Cộng đã phế bỏ tất cả tàn tích của ông này ngay cả lăng của ông ta ở Sàigòn. Hình như tên là Lăng Cha Cả. Mình không ở Sàigòn nên nhớ mại mại. Trên thực tế thì mộ của ông được mai táng tại Nha Trang vì dạo ấy còn đánh nhau với Tây Sơn nên Nguyễn Ánh cho xây LĂng Cha Cả ở Gia ĐỊnh nhằm đánh lạc hướng quân Tây Sơn. Ai muốn biết thêm thì “100 năm trong cỏi người ta, những gì không biết thì ta gú gồ”.


Mình học nhu đạo tại trường Adran với cậu Ân, ở đốc Nhà Làng làm cảnh sát. Cậu Ân và cậu Luyện (tiệm Giặt ủi ở đường Duy Tân), bà con bên ngoại, dạy nhu đạo ở Thao Trường, khi xưa đều tập nhu đạo chung với cậu Mạnh, con ông bà Phúng, tiệm Hiệp Thạnh ở số 11 Duy Tân. Mình tập thái cực đạo với ông thầy Sâm, huấn luyện viên cho cảnh sát dã chiến ở đường Trần Bình Trọng, và dưới Trại Mát hay Trại Hầm, có trung tâm huấn luyện Cảnh Sát dã Chiến nên chiều nào cũng đi tập võ hết. Mình hay đi tập nhu đạo với Lô Xuân Luyến, đến khi thấy hắn đứng cửa, ôm con còn thái cực đạo thì với Lê Công Hùng, con bác Oai, vua bắt Việt Cộng nằm vùng tại Đà Lạt, ở xóm cò Đào. 3 ngày nhu đạo và 3 ngày thái cực đạo. Từ 17 năm nay mình tập võ Hồng Gia và Thái Cực Quyền.


Sau này, thì tập buổi sáng không thủ đạo với anh Minh, con rể ông Xu Huệ ở ngã ba Chùa. Cứ 6 giờ sáng hết giới nghiêm, chạy sang ngã ba chùa tập với anh Minh đen, đai đen Hiệp Khí Đạo, Nguyễn Đình Tài, anh Sỹ, anh Sơn đai đen nhu đạo, học trò cậu Ân, anh của Đào Văn Quý, Dũng Lasan Kỹ Thuật. Tên Dũng này, nhỏ tuổi hơn mình 1 năm, tập Thái Cực đạo với mình, to con, rất giỏi võ, rất dễ thương, ở đường Phan Đình Phùng. Gặp mình đâu đều chào hỏi. Một trong những người quen hay hỏi thăm mình ngày xưa khi gặp ngoài đường. Nói chung là đám tập với anh Minh là nhóm mê tập võ nhất Đàlạt dạo ấy và dễ thương. Nay còn sống và đã gặp lại là Võ Hoàng đa, Nguyễn Đình Tài, còn anh Nguyễn Đình Sĩ, đi nhảy dù chết trước 75.

 

Chỗ này là thang cấp đi xuống võ đường nhu-đạo bên tay phải


Cảm ơn anh Sơn, có nhiều hình ảnh làm gợi nhớ về một thời Lasan Adran Dalat, như tấm hình cầu thang đi xuống hầm. qụeo phải thì có cái hầm đủ để tập Judo trong những năm 1973, đối diện hầm tập võ là phòng để 2 cái bàn ping pong.

Ha  Đăng


Trường Lasan Adran nằm cuối đường Bá Đa Lộc từ Kho Bạc đi vào. Có ngã 3, tẻ ra con đường nhỏ chạy xuống ấp Tân Lạc, nơi Việt Cộng nằm vùng rất nhiều. Có lần họ tấn công trung tâm Thẩm vấn, bị bắn chết, nằm la liệt, ruồi bu đen nghẹt. Kinh

 

Hình đi vào trường, cuối đường Bá-đa-Lộc, quẹo bên tay trái trước văn phòng là vô bãi đậu xe gắn máy và xe đạp. Khu đối diện là bãi đậu xe, cho ai có cha mẹ tới trưa hay chiều đậu khi đón đi học về. Thấy dáng dấp một chút préau. Khu nhà 3 tầng, văn phòng ở dưới còn ở trên thì không biết. Chưa bao giờ được lên đó.

Hình này chụp khúc ngã ba đi xuống ấp Tân LẠc, bên phải. Chỗ mấy chiếc xe gắn máy, mình có thấy mấy xác chết nằm bị ruồi bu đen xịt khi họ tấn công ban đêm, trung tâm thẩm vấn, phía bên trái đi lên cái dốc. Còn đường Bá Đa Lộc, bên trái chạy thẳng xuống sẽ đến trường Adran. Còn con dốc thì khi xưa là chạy lên trung tâm thẩm vấn. Mình có lên đây vài lần trước khi có lớp buổi chiều học võ. Một hôm, buồn đời, mình đi theo bác Oai, cha đỡ đầu của Huỳnh Kim Sang, bác mở một cách cửa nhỏ trên cánh cửa lớn, nói chi đó hình như khai mai rồi được về nhà. Mình nhìn vào thấy thằng Vui, con bà Thủ, ở xóm trên mà cách đây mấy năm, vẫn còn chơi tạt lon, bắn bi với mình. Nay nghĩ lại, có lẻ bác Oai, dẫn mình đi xem để phòng ngừa mình và thằng con Bác, xem đó để không bị Việt Cộng nằm vùng dụ dỗ. Mình hỏi Huỳnh Kim Sang thì hắn cũng không có tông tích gì của gia đình Bác Oai sau 75.

Mình nhớ tập thái cực đạo có 2 người con trai của ông Kỳ tập chung, một tên hình như tên Nguyễn Cao Thắng, Tây lai. Mỗi lần song đấu thì mình hay đá hắn mệt thở nhưng không trúng, để xem con thủ tướng ra sao. Cuối tuần, mình hay thấy lính bảo vệ, vào trường đưa đón mấy người con ông Kỳ ra phố đi chơi. Hình như dạo ấy có thấy cô con gái út, bé tí ti.

 

Học chung với mình có mấy ông chủng sinh, ở chủng viện thừa sai gần trường, gần đèo Prenn. Họ hay đi bộ con đường tắc đến trường. Có tên nếu mình không lầm cũng tên Sơn. Hình như mấy ông đi tu này đều lớn tuổi hơn mình, có lẻ sợ bị đi lính nên đi tu. Sau 75, chắc đều xuất hết.

 

Ngồi cạnh mình có 2 ông đi tu, mỗi bàn có 3 người ngồi, ông tên Sơn hay nhờ mình gửi thư cho cô nào và mỗi lần nhận thư hồi âm thì mang lại cho hắn. Có huông làm nghề đưa thư tình vì sang trường Văn Học cũng bị cái nghiệp đưa thư cho Bồ người ta. Sang Tây thì dân Đàlạt, ở Hoa Kỳ, sau 75 chưa có liên lạc được với Việt Nam, lại nhờ mình gửi thư về cho gia đình họ. 3 tuần nữa mình lên Seattle, hy vọng gặp lại gia đình hàng xóm đã từng nhờ mình gửi thư về Việt Nam cho gia đình.

 

Trong lớp có anh tên Sử hay Sứ, rất giỏi pháp văn, viết luận văn được mấy sư huynh khen nức nở. Mình nhớ Nguyễn đức Thuận, nhà ở gần Ngã Ba Chùa, khi xưa bị Việt Cộng đặt chất nổ. Hình như 2/3 học sinh là chủng thừa sai hết, có độc nhất một nữ sinh, dân từ Campuchia, sợ bị cáp duồn nên chạy về Việt Nam, cháu ông đại tá nào trong trường Võ Bị. Có lần cuối năm, cô nàng nhờ ông sư huynh dạy pháp văn, đàn vĩ cầm bài tình ca nào đó, không nhớ vì dạo ấy em còn bé lắm mấy bác ơi. Mình xem trên trang nhà của Adran, thấy có một sư huynh giống ông này. Không biết có phải ông ta hay không. Ông ta dạy mình anh-văn năm Seconde. Lớp có 1 cô nên vào giờ ra chơi, mấy tên bu cô này như kiến.

 

Chắc đường mòn lên tới khuôn viên trường từ ấp Tân-Lạc. Không biết hình khi xưa hay ngày nay.

Sân trường khi xưa, nay không thấy sân chơi bóng rổ nữa mà chỉ thấy kế 10 năm trồng cây. Trồng cây thì hết chơi bóng rổ. Quên kế 100 năm trồng người.
Lớp học khi xưa năm 4 ème bên tay trái khi đi xuống cầu thang. Cuối đường hành lang là võ đường nhu đạo. Nhìn hình này thất kinh vì đã 54 năm một đời người.

Ngoài mấy sư huynh dạy, có mấy thầy cô ngoài vào dạy, nay không nhớ tên. Cô giáo việt-văn sắp sửa tốt-nghiệp đại học Đàlạt, nói giọng bắc, mũm mĩm, bị học sinh chọc cô ca hay cô la. Chỉ nhớ thầy Bạch Thái Hà, cứ khen ông Bạch Thái Bưởi, hình như bố hay ông nội của thầy, là người Việt biết làm ăn lớn, không thua gì tàu Chợ Lớn. Thầy Hà dạy tân toán học hay việt văn thì phải. Mình chỉ mê một sư huynh dạy sử-địa, ông ta kể nhiều chuyện lịch sử mà mình nhớ cả đời. Có lẻ ông này có ảnh hưởng nhiều nhất về cuộc đời mình sau này. Hình như có một ông tây dạy Địa-lý, đi chiếc xe Goebel, có thể là một ông cha, ở đâu chỗ nhà thương ông Sohier khi xưa, sau về nước, ông ta bán lại cho nhà dòng, bắt cả lớp đi xem phim Waterloo, ở rạp Ngọc Lan, rồi bị ông ta hỏi cho điểm. Thời đó xem xi-nê, phụ-đề việt-ngữ, đọc mỏi mắt chớ có hiểu gì đâu mà hỏi. Được cái là khi ông ta giảng về cách mạng Pháp quốc thì mình ớ. Lý do là lúc đầu ông ta khen Danton, Robespierre như những anh hùng cách mạng rồi sau đó chửi bới kêu bọn xét lại, phản cách mạng nên bị chém đầu. Mình chỉ biết lắc đầu, u chau, u chau.

 

Có một sư huynh cứ bắt mình tập bóng bàn với Nguyễn Minh Dũng, và Lê Xuân Thảo, hai tên đánh bóng bàn khá nhất Đàlạt dạo đó. Mình thì thích tập võ hơn nên tập xong mới tập đánh với hai tên này, hình như có một tên khác, học lớp dưới. Cứ 4 thằng nằm trong đội tuyển của Lasan Adran. Đi thi đấu thì chỉ có Dũng và Thảo là được đấu thôi, đường và cặp còn hai thằng mình ngồi chầu rìa, lỡ một trong hai tên kia bị đau, không thi đấu được, chỉ biết tập vỗ tay, hoan hô. Sau mình chán bắt đầu thích ngắm gái hơn nên bỏ bóng bàn, chỉ còn tập võ đến giờ.

 

Nguyễn Minh Dũng nay ở vùng Bôn sa, vẫn tập luyện đánh bóng bàn hạng lão tướng ở câu lạc bộ bóng bàn, ngay góc Euclid và Westminster , mình có nói chuyện với hắn qua điện thoại nhưng chưa có cơ hội gặp lại. Có duyên thì gặp lại dù ở trong vùng nhưng hắn cứ khất bận.


Mình hay chở hắn đi tập đánh bóng bàn khi xưa, bố mẹ hắn quen thân với bà cụ mình. Khi mình cưới vợ, hai bác nghe tin, đến dự. Mỗi lần gặp bác Thừa lại nhớ đến mẹ mình vì bác thích ca hát như mẹ mình. Với giọng Huế, bác hay ca: ai đi mô rồi cũng nhớ về Đàlạt, nhớ hồ Than Thở, nhớ thác Cam Ly,..

 

Nếu mình không lầm thì trường nằm cuối dốc đường Bá Đa Lộc, xung quanh là rừng thông, hình như người ta gọi là rừng Ái Ân. Trước cổng trường là bãi đậu xe hơi. Xe học sinh thì quẹo tay trái, có bãi đậu xe đạp và xe gắn máy. Ngôi nhà đầu tiên là văn phòng, nơi ông thư ký ”tiên học phí, hậu học văn”, hay kêu mình ra khỏi lớp, đuổi về kêu đem tiền tới mới được học.

 

Sau đó có cái préau có mái ngói, nơi thiên hạ đánh bóng bàn hay tập võ khi trời mưa. Mình tập thái cực đạo tại đây. Trong lớp có một tên nhỏ hơn mình 2 tuổi, đi quyền rất đẹp, nhà hắn ở đâu đường phan đình Phùng, cạnh phòng mạch bác sĩ Lương. Ông thầy thích lắm. Mình thích nhất cái quán của ông già, bán pâté chaud và bánh xu có kem. Nằm ngay gốc preau , chỗ dãy lớp terminal, seconde mà mình có học một năm tướrc khi chạy qua Văn Học. Sau này ở Bolsa có thấy nhưng ăn không ngon như ngày xưa. Ông này tinh mắt lắm, phải để ý mấy tên chôm chỉa vì ra chơi cả đám thò tay vào kêu bán cái này mua cái kia. Có tiền là mình mua cái bánh xu với chai xá xị khi ra chơi. Ngon cực! Hạnh phúc một thời thơ ấu.


Chỗ này có mấy bàn banh bàn và bóng bàn để học sinh ra chơi đánh. Trời mưa thì mọi tụ tập đây khi ra chơi.

 

Mình nhớ tên Nguyễn Trung Việt, béo béo, học giỏi, đứng đầu lớp, hắn học hội Việt-Mỹ trên mình mấy lớp, anh văn rất giỏi. Hắn không học môn việt văn mà học anh ngữ. Hắn ngồi ở đây và kể mình câu chuyện. Một tên gián điệp làm cho CIA, đến phi trường Cairo của Ai Cập. Sau khi làm thủ tục nhập cảnh thì hắn thấy họ đóng dấu chữ C.I.A. trong sổ thông hành của hắn nên ngạc nhiên hỏi vì sao biết hắn là Xịa. Hoá ra C.I.A. là viết tắt từ Cairo International Airport. Nhiều chuyện vớ vẫn mà vẫn nhớ đến ngày nay. Phải chi nhớ cách làm ra tiền cho vợ con bớt khổ thì khoẻ. Năm ngoái đi Ai Cập thì đúng như câu chuyện, mình thấy sổ thông hành của mình bị đóng dấu CIA. Chán Mớ Đời mình kể chuyện này cho ông hướng dẫn viên du lịch khiến hắn cười như thấy Cleopatre múa bụng.

 

Từ cổng trường, đi vào thì có sân chơi, có mấy sân bóng rổ và bóng chuyền. Đàlạt dạo đó chỉ có trường nhà dòng mới chơi bóng rổ và trường tàu Tân Sanh nên mỗi lần có giao đấu bóng rổ là hai trường này thay nhau về nhất. Dân tường này dòng không thấy đá banh. Mình thì thích đá Banh.

 

Phía tay trái là các lớp học, đi xuống vài thang cấp là có dãy lớp học, cuối dãy là phòng tập nhu đạo. Sau đó phía trên có nhà lớp để chiếu xi-nê hay chơi văn nghệ. Mình nhớ xem phim “Les femmes savantes, le malade imaginaire do Louis de Funes đóng tại đây. Học Molière nên phải xem mấy phim này để bị khảo bài. 


Mình chỉ nhớ có tên Nghĩa, dân nội trú, lớn hơn mình mấy tuổi, học chung lớp, lên hát bài Let it be, hắn rống như điên. Cứ nghe hắn kêu là nhạc The Beatles gì đó khiến mình ngọng. Mình có thấy hình hắn chụp trên trang nhà của La-san Adran.

 

Người đứng bên phải là Nghĩa, hơn mình mấy tuổi nhưng học chung lớp. Hắn hát rống như điên, còn ông sư huynh này dạy toán hình như tên Xuyên. Mình nhớ có một tên Hứa Chánh Minh, cũng hơn mấy tuổi học chung. Đa số dân nội trú Adran đều lớn tuổi hơn mình mấy tuổi. 


Sau đó thì có sân vận động đá banh nhưng ít ai đá vì đám học sinh nội trú chơi toàn bóng rổ và bóng chuyền. Có vài lần, chúng thiếu người nên kêu mình vào chơi cho đủ người. Cuối cùng chúng đuổi mình ra, kêu chơi như cứt. Chán Mớ Đời 

 

Nói chung thì mình không nhớ nhiều về thời gian này vì còn bé, khi qua Văn Học thì lớn hơn nên nhớ nhiều trò hơn. Cũng nhờ học trường nhà dòng mà sang Tây, mình ít bị bở ngỡ trong một xã hội thiên chúa giáo, dễ tiếp thu, hội nhập cuộc sống tại âu châu. Đi Mễ, hỏi mấy người Mễ có đi nhà thờ không thì ai cũng lắc đầu.


Ra hải ngoại, mình gặp lại dân học Yersin nhiều, dân họ ch cũng nhiều, còn Adran thì có một lần về Đà Lạt, gặp lại Đào Văn Quý, ở đường Tăng Bạt Hổ nhưng mấy lần sau về thì tìm không ra. Còn ở Bôn-sa thì có gặp một anh chàng khi xưa đi tu, học trên mình mấy lớp. Lâu lâu gặp nhau ăn uống đấu láo, nghe Hứa Chấn Mình đã qua đời còn tên Nghĩa thì ở tiểu bang nào đó.

 

Nhìn lại thì thấy trường này chú ý đến thể thao ngoài học vấn chớ các trường khác, không thấy chú tâm đến thể thao, văn nghệ. Học sinh có chơi thể thao là tự nguyện, còn đây các sư huynh khuyến khích, lại có đủ loại để tập luyện như mấy cái parafixe, leo cây, bên phải đi xuống sân đá banh, chạy bộ. Chủ nhật chạy xe qua các nhà thờ thấy lèo tèo vài người. Mình tưởng họ đi thì đi ké, xem thánh lễ bên Mễ có khác gì với bên mỹ. Nếu mình không học tương ngày mấy năm thì chắc ngày nay không tập võ đều đều từ 17 năm qua. Không cho con chơi thể thao. Học Yersin thì mình nhớ cúp cua đi đá banh ở sân Cô Giang phía sau trường.

 

Nếu mình không lầm thì dòng La-san có một trường khác ở Đàlạt, tên Lasan Kỹ Thuật, dạy nghề cho học sinh, ở đường Yersin, cạnh tiểu khu Tuyên Đức. Họ theo phương pháp của âu châu là sau 16 tuổi, ai học chữ không nổi thì có thể học nghề để đi làm. Mình không rành lắm, chỉ quen 3 tên học trường này. Một tên Dũng, tập thái cực đạo với mình, to con, đi quyền rất đẹp. Một tên Nguyên, nhảy lớp qua Văn Học với Trần Văn Tiến ở ngã ba Mả Thánh. Hai tên sau dạy mình bơi trong hồ Thung Lũng Tình Yêu mỗi ngày. Một tên thì chuyên bơi nhái, một tên thì bơi ếch. Anh chàng Tiến này, dạy mình bơi ếch, đi thi tú Tài, cần chứng chỉ lớp nhảy nên phải nhờ một người bạn học giới thiệu với một ông thầy trong trường để ký chứng chỉ. Có ông Lê Huy Cầm nào ở Đà Lạt, cựu học sinh trường này, lâu lâu hay tải mấy tấm ảnh xưa của Đà Lạt.

 


Mình thấy tấm ảnh này của trường dòng gọi là Kỹ Thuật La-san, cạnh tiểu khu Tuyên-đức

Nhìn lại thì mình khá bị ảnh hưởng bởi mấy sư huynh như chơi thể thao, tập võ,… sau này có con cũng hướng dẫn chúng theo tinh thần La Salle. Không bắt học như điên.


Nghe kể là sau 75, Việt Cộng đuổi mấy sư huynh đi hết, chiếm lấy trường. Mình có vài tấm ảnh ngày nay thì phải công nhận họ làm xấu đi. Việt Cộng hình như chỉ biết phá chớ không biết xây dựng. Hình như có một sư huynh dạy Thái Cực Đạo, bị đi tù rồi trốn qua Úc Đại Lợi, đi tu lại. Thấy trên YouTube quay ông ta giảng đạo rất vui. Mình không nhớ ông này, nghe nói ông ta dạy thái cực đạo nhưng khi xưa không biết, chắc sau 75.

 

Có anh nào, cựu học sinh La-san, gửi cho mình bài viết về sự thành lập của trường nên tải về đây. 

 

TRƯỜNG ADRAN (Collège d’Adran), ĐÀ LẠT

1941 – 1975

Năm 1941, tại khu rừng Ái Ân, ngôi trường đầu tiên trên cao nguyên được thành lập mang tên là Trường Trung Học La San Adran do Sư huynh Emilien, sáng lập viên và hiệu trưởng tiên khởi với tên trường là La San Adran.

Niên khóa 1945-1946 được kết thúc với sĩ số học sinh là 102 học sinh với 71 nội trú. Trong thời gian này tình hình chính trị trong nước còn nhiều bất ổn. 

Ngày 18/08/1946: Sáu năm sau khi thành lập, Sư huynh Dosithée-Urbain, thay thế làm quyền hiệu trưởng trong khi chờ đợi vị hiệu trưởng chính thức là Sư huynh Perial-Régis, đang bị cầm chân tại Hà Nội vì chiến cuộc.

Ngày 25/9/1946 Sư huynh Perial-Régis đến Đà Lạt và ngày hôm sau Sư huynh Tổng Phụ quyền Zacharias tuyên đọc trước mặt cộng đoàn các Sư huynh tại trường Adran văn thư bổ nhiệm vị tân hiệu trưởng.

 

Sư huynh Tổng Phụ quyền lưu lại Đà Lạt thêm một tuần để nắm bắt nhu cầu thực tế của Adran cũng như giúp cố vấn về thái độ cần có trước tình hình đổi mới của đất nước Việt Nam.

Ngày 01 tháng 10 năm 1946, khai giảng niên khóa 1946-1947. Trường lúc bấy giờ có 89 học sinh, trong đó có 55 nội trú trình diện đúng vào ngày khai giảng. Ban giáo sư gồm 19 sư huynh. Sư huynh Emilien, sáng lập viên và hiệu trưởng tiên khởi của Adran, sau 06 năm điều hành đã được thay thế bởi Sư huynh Perial-Régis

Tình hình năm 1947 rất tốt dưới khía cạnh tôn giáo đạo đức: thầy trò trong trường tham dự đông đảo và thường xuyên các nghi lẽ tôn giáo, 23 học sinh được rước lễ lần đầu, 02 nghi lễ rửa tội, 01 lễ tuyên thệ bỏ sai lạc để quay trở về Công giáo. Tình trạng sức khoẻ của mọi người đều thoả đáng, tình trạng tài chánh cũng cân đối, tạm đủ dù số học sinh có phận hạn chế. 

Số học sinh không thay đổi mấy: khoảng 100 học sinh vào những ngày đầu tựu trường, 101 học sinh vào cuối tháng 12 ! Nhiều học sinh sang Pháp và được bù lại bằng những ghi danh mới. An ninh lần hồi trở lại và trả lại sự an tâm cho các gia đình có con cái theo học tại trường. Trường này có nhận một học sinh rất đặc biệt: đó là Hoàng Tử Bảo Long, con Vua Bảo Đại.. Nhà trường cũng bắt đầu phấn khởi lên.  

Về khía cạnh thiêng liêng, thầy trò trong trường tham dự đông đảo và thường xuyên các nghi lễ tôn giáo, tình tình trạng tài chánh cũng cân đối, tạm đủ dù số học sinh có phận hạn chế. Trường Adarn cũng vinh dự đón tiếp các vị chức sắc đạo đời đến viếng thăm và nói lời cám ơn với các Sư huynh dành trọng đời mình để chỉ lo thời phượng Chúa và dạy học cho con trẻ với tất cả đức tin và lòng nhiệt thành của mình.

Năm 1975, nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã trưng thu trường Adran và lập thành trường mang tên Lê Quý Đôn

 Hết trích


Hôm nay, nói chuyện được với anh Luyện ở Arizona. Được biết Hứa Chấn Minh đã qua đời, cô học sinh độc nhất thời ấy tên Tâm, bà con với hắn, đã qua đời trong Chí-hoà. Đi vượt biên, bị Việt Cộng bắt nhốt rồi chết trong tù cộng sản. Cô này sinh tại Campuchia rồi năm 1970, sợ bị cáp duồn nên chạy về Việt Nam để rồi chết trong tù. Tội nghiệp. Có nhắc mình vài tên khác nhưng không nhớ rõ lắm. Nói chung lớp học khi xưa, đa số là các chủng sinh thừa sai, dân nội trú còn dân thị xã Đà Lạt thì ít nên mình chỉ nhớ vài người học chung ở ngoại trú còn dân nội trú, đa số lớn tuổi hơn và chơi thân với nhau. Dạo ấy mình chơi thân với Đào Văn Quý, học rất giỏi, có người anh tên Sơn tập võ với mình ở ngã ba chùa vào buổi sáng và Nhu đạo với thầy Ân. Dạo ấy anh ta đai nâu.

"... học nhu đạo tại trường Adran với cậu Ân, ở đốc Nhà Làng làm cảnh sát."   - Sân tập Judo đầu tiên là do Frere Thanh Dung thành lập vào khoãng năm 64-65 và mời Thầy Ân vào dạy. Minh và Trần Bá Thọ là nhũng học trò đầu tiên cũa Thầy....... "Chỉ nhớ thầy Bạch Thái Hà ..." -  Cụ Hà dạy Việt Văn cho tụi nầy vào năm 68-69 lớp Premiere và Terminale...... "... Hình như có một ông tây dạy Địa-lý, đi chiếc xe Goebel, có thể là một ông cha ...."  - Ong Cha nầy là Pere Lange dạy Histoire và Geographie, khi dạy về histoire La Bastille và les "sans culottes:", Pere Lange ưa xắng quần lên tới đầu gối. Minh học ơ Adran từ 63 và rời trường năm 69 sau khi đậu Bac II. Rất thích và vui khi đọc nhũng bài cũa Sơn về Dalat. So much memories . Thanks.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen 

Nhs


Đám ma thời CÔ-vi

 Tuần vừa rồi mình đi đám ma lần thứ 2 trong thời đại dịch COVID-19. Lần trước là bố của anh bạn, qua đời trong viện dưỡng lão, con cháu không được vào thăm 5 tháng trời đến khi họ bảo đến nhận xác. Con cháu khóc như mưa vì ông bố bị trả nhớ về không nên không thể gọi điện thoại nói chuyện trong mùa đại dịch.

 

Tuần rồi đi đám con gái cô giáo ngày xưa. Cô này quen với đồng chí gái, có đến nhà mình chơi vài lần. Cô này là chị em bạn dâu với bạn học cũ Trưng Vương của đồng chí gái, lấy con trai của nhà thơ Nguyên Sa nên hay gặp trong các buổi họp mặt thân hữu.

 

Mình có anh bạn linh mục kể; con chiên chết trong vùng, gọi điện thoại cho các cố đạo nhà thờ công giáo nhưng ít cha nào dám làm lễ xức dầu hay đám tang nên anh ta tình nguyện đi. Bút Nhóm Lửa Việt trong chương trình Masks Save Lives, có may đồ bảo hộ nên có gửi cho mấy cha đi làm lễ xức dầu cho con chiên trước khi về đất chúa.

 

Cha làm lễ trước khi hạ huyệt. Không có thân nhân bên quan tài


Các thánh giá được linh mục chụp để đưa lại cho tang quyến


Linh mục giao lại các thánh giá cho tang quyến


Anh ta gửi cho mấy tấm ảnh tang quyến đứng ngoài hàng rào chào tạm biệt người thân về đấy chúa. Anh ta phải lấy các thánh giá trên quan tài để trao lại cho thân nhân.

 

Đám ma tuần qua thì lạ vì trên cáo phó, anh chồng kêu gọi mọi người lên đồ như đi dự dạ hội, không bận đồ đen. Như thể ăn mừng cho cô vợ được về đất Chúa. Có anh bạn học cũ gọi kêu đi đám chung nên hẹn nhau ở bãi đậu xe nhà thờ rồi đi chung đến cho bớt lẻ loi. Sáng ra, mụ vợ kêu bị nhiễm lạnh vì hôm qua đi mua sắm quá độ, thế là đi một mình.

 

Đi vòng vòng nhà thờ, vì khi xưa mình có vẽ cái gì cho nhà thờ này, hình như làm mấy thang cấp chi đó. Thấy có một đám ma người Việt ở ngoài trời, hình như của nhóm Tin Lành tiễn đưa một người thân về đất chúa. Cuối cùng khám phá ra bên kia đường có một đám khác. Đến nơi thì chả nhận ai ra ai cả vì toàn đeo khẩu trang. Lớ quớ thấy cô bạn, con trưởng của cô giáo nên ghé lại hỏi thăm sức khoẻ cô giáo.

 

Sau đó hai thằng đến viếng quan, chia buồn với anh chồng. Xong xuôi thì mới nhìn chung quanh, thấy mấy bà lên đồ như đi dạ hội thêm đeo mặt nạ nên chả biết ai là ai. Cứ tưởng đi đám ma người hồi giáo. Nhờ 1 anh chàng quen chụp hình mà ông thần này sợ bị lây nên cầm cái điện thoại với hai ngón tay như sợ bị vi trùng. Kinh

 

Lại có màn viếng quan bằng xe hơi như thể đi mua đồ ăn. Xứ mỹ này, đi xem xi-nê ngồi trong xe, đi mua thức ăn cũng ngồi trong xe, vợ chồng choảng nhau cũng trong xe, nay đi đám ma cũng trong xe. Thấy thiên hạ lái xe, chạy từ từ đến, dơ tay chào như tổng thống Ngô Đình Diệm đi kinh lý. Được cái là họ không phải đeo khẩu trang nên thấy mặt họ. Thấy máy hình đang phát trực tuyến cho những ai không đến dự được. Anh em, họ hàng, bạn bè ở xa vì COVID nên không đi được. 

 

Đại dịch xảy ra khiến mình cảm nhận, giác ngộ được sự mong manh của cuộc đời. Mình trân trọng, chánh niệm về sự hiện hữu của người thân. Mình nghĩ từ khi đại dịch xảy ra, hình như đồng chí gái bớt càm-ràm cũng như mình bớt cãi lời vợ vì chúng ta có thể từ giả nhau một cách bất chợt. Chúng ta bớt tạo khẩu nghiệp cho nhau.

 

Đến mùa giáng sinh, đồng chí gái thích xem phim về họp mặt gia đình, bỏ qua cách cuộc giận hờn. Thường mình ít ngồi xem nhưng năm nay, ngồi xem với đồng chí gái, bỏ bớt bản ngã, bỏ cái tôi để hoà nhịp với người thân, tạo dựng những giây phút bên nhau trong  mùa chúa sinh ra đời. Lâu lâu, đồng chí gái kêu romantique không. Mình kêu ừ ừ. Xong om

 

Nhs