4 chị em họ Chử Đà Lạt

 4 chị em họ Chử một thời

Hôm trước mình có kể về các dòng tộc khoa bảng tại Huế như Thân Trọng, Hà Thúc hay hai anh em Dương Khuê, Dương Lâm ở ngoài Bắc, có hậu duệ là nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, bà Dương Vân Mai và Dương Nguyệt Ánh,.. luôn trớn mình kể về 4 chị em họ Chử, Đà Lạt đậu tú tài năm 1974 cùng năm và được bộ giáo dục cho du học ở Hoa Kỳ. Ngày xưa, phải xin phép Nha Du HỌc, được duyệt xét đủ trò mới được đi du học, không như ngày nay, có tiền là đi.



 Gia đình thầy Chử Bá Anh trước tư gia, số 30 Nguyễn Du. Nhớ có lần lái xe chở cả đám đi Tùng Nghĩa lạc quyên. Xe bị hư nên về trễ. Bố mẹ mấy cô và thầy Chử Bá Anh lo sợ đến khi xe mình chạy vào đây, giao cái thùng lạc quyên thì mọi người mừng như bắt được vàng. 


Mình được nhiều người hỏi về mấy chị em họ Chử ở trường Văn Học Đà Lạt khi xưa nên đã xin phép mấy chị em này để viết về những gì mình biết và những kỷ niệm với gia đình thầy Chử Bá Anh. Lý do là khi xưa ông bà cụ mình rất thân với thầy cô Chử Bá ANh. Mẹ mình kể khi xưa, thầy Chử Bá Anh hay dừng xe khi thấy mẹ mình đi bộ ra chợ, mở cửa mời mẹ mình lên xe chở ra chợ. Bố mình đi làm về, đi học thêm ban đêm ở trường Hiếu Học, số 10 đường Hai Bà Trưng do thầy làm hiệu trưởng để thi lấy cái bằng tiểu học, nói như người lớn khi xưa bằng primaire. Mình nhớ có học khóa hè ở trường Việt Anh, năm 11B trước khi qua Văn Học, có một cô học chung lớp hè ở ngay số 10 Hai Bà Trưng, tên Hoàng Lan thì phải, nữ sinh Bùi Thị Xuân.


Hello Sơn,
Hầu hết chúng ta nay đã vào tuổi xế chiều. Những thành công, thất bại cũng như niềm vui, nỗi buồn cũng đã 
đến và đi qua trong đời chúng ta, không còn gì là quan trọng nữa.
Nếu Sơn còn nhớ một vài kỷ niệm ngày xưa với bốn chị em Nhất Nhị Tam Tứ Anh ở Văn Học Đalat, nhất là với Nhị Anh và Tam Anh thì Sơn cứ ghi lại cho vui.
Xin cám ơn các bạn đã nhớ đến và hỏi thăm.

Kính chúc những điều tốt đẹp nhất.

Nhất Anh

 

On Fri, Jul 25, 2025 at 10:41 AM sony nguyen <sonyconstruction@yahoo.com> wrote:
Dạo này dân Đà Lạt xưa nhắn tin hỏi mình rất nhiều về 4 chị em họ Chử. Mình trả lời một hai người được nhưng nay đông quá nên muốn hỏi 4 chị em có cho phép mình kể về 4 chị em học cực giỏi Đà Lạt xưa mà mình có duyên được học chung.

Khi thầy Chử Bá Anh mở trường Văn Học tại số 4 đường Hoàng Diệu thì giao lại trường này cho thầy Trần Đại Bảng, em vợ rồi đổi tên Thăng Long. Hồi nhỏ tối tối mình hay đi đón ông cụ tan học ra. Sau này mình đi học thêm về tài chính ban đêm, tối về thấy hai đứa con nằm dưới đất trước phòng ngủ, kiểu như đợi đón bố về mệt quá rồi lăn ra ngủ luôn.


Thầy Chử Bá Anh là con trai của ông Chử Ngọc Liễn, khi xưa làm lớn trong thời Việt Nam Cộng Hoà. Không nhớ chức tước. Theo Nhất Anh cho biết là Đổng Lý Văn Phòng ở bộ nội vụ. Lý do mình nhắc vì có nhiều người hỏi liên hệ giữa hai người này. Ngoài thầy Chử Bá Anh mình có dịp gặp hai cô em gái của thầy tên Mai Anh ở Virginia và Hoàng Anh ở Quận Cam.


Thầy Chử Bá Anh người Bắc, còn cô Vi KHuê, người Huế, họ Trần, cùng tên với mẹ mình. Hai người phát hiện ra nhau tại Huế. Dạo ấy cô Vi Khuê làm cho đài phát thanh Huế. Cô có tài nói giọng Bắc, nhưng nói giọng Huế khi gặp mình. nhớ cô chỉ mình kho cá với nước trà để khỏi hôi nhà và thịt cá ngon hơn. Thầy Cô vào Đà Lạt chắc sau bà cụ mình nhưng khi ấy Đà Lạt nhỏ, nên ai cũng biết nhau, mẹ mình bán hàng xén sau này có bán thêm gạo nên cô Vi Khuê hay ra mua gạo vì mẹ mình chọn gạo ngon để bán cho cô. 


Điểm vui là ông cụ mình người Bắc, còn bà cụ lại Huế chay. Vào Đà Lạt định cư nên mình và mấy chị em họ Chử cũng hơi tương tự gốc gác cha Bắc mẹ Trung. Chỉ khác là bên học ngu bên học cực giỏi. Mình phục cô Vi Khuê là có 4 người con mà vẫn tiếp tục học đại học, đổ cử nhân văn khoa. Dạo ấy ở Việt Nam Cộng Hoà rất hiếm phụ nữ như cô. Khi sang Hoa Kỳ cô có tặng tập thơ Cát Vàng mà có nhiều nhạc sĩ phổ nhạc. Sang Hoa Kỳ mình quen một bác gái, muốn thay thế bố mẹ mình đi hỏi vợ cho mình. Bác là dược sĩ ở Việt Nam, qua Mỹ đi học lại kỹ sư, làm việc mấy năm rồi bị sa thải. Bác buồn đời đi học thi lại dược sĩ, cái bằng hành nghề bác mất đâu 6 năm, vì bị rớt Hoài. Cứ gần kỳ thi là mấy bà họp mặt nhau, đóng cửa học, không gặp chồng con gì cả. Rớt 6 lần mới chịu đậu nên phục lăn luôn.

Gia đình thầy ở trường Văn Khoa. Đoán là Tết hay sắp đi du học 

Có bài thơ cô Vi Khuê làm năm 1969 về 4 người con, xin tải lên đây:

Thiên Đường Nhỏ

Đây thiên đường nhỏ của tôi đây
có gối chăn và giấc ngủ đầy
có tiếng chim ca xanh lá cỏ
có bàn tay để ấm bàn tay

Vườn buổi sớm cây đầy trái chín
bàn chân non, đá sỏi ngọt ngào
tôi lỡ uống một ly trời mát lịm
cổ nghẹn, và không biết nói sao

Ở đây có tình người yêu người
có tuổi mười lăm đòi giận hờn
ôi cao sang quá tôi làm mẹ
ngự giữa thiên đường con, đó con

Ở đây ríu rít bầy chim nhỏ
hợp xướng bản tình ca xưa cũ
tình mẹ muôn đời như trăng soi
tình con bây giờ như nước lũ


Tôi sẽ bình yên mà đợi chờ
ngày con khôn lớn đến bây giờ
mười năm cô bé lên mười tám
tôi nhớ, quên người trong gió mưa

Hạnh phúc đôi khi cũng đủ đầy
như vầng trăng giữa độ tròn no
tôi xin ôm lấy thiên đường nhỏ
và trả cho người ảo mộng xưa


Vi Khuê


Sau này Tam Anh có chuyển ngữ qua anh ngữ như sau:

 To my four children


Here's that little paradise of mine
With pillows and plentiful nap time
With birds' singsongs over green leaves
With hands that warm those of mine

Morning garden filled with ripe fruit trees
Tender feet sweetening the pebble path
I drank from a fresh heavenly glass
Choked, and speechless I became suddenly

In here is a love between us
There is a sullen fifteen year old
Oh the majesty of being a mother
Presiding over your paradise, my little daughter

In here, the chirping of little birds
Singing the chorus from an old love song
A mother's love, forever the shining moonlight
A daughter's love, now a flooding tide

I will be waiting in harmony
For the days when you grow up to be
In a decade you'll turn eighteen
Still I remember one in windy rain?

Happiness can be abundant at times
Like the moon in its fullest size
I want to embrace my little paradise
And return to you the old elusive dream

Chử Tam Anh


Sau này Nhị Anh dịch qua anh ngữ rất nhiều bài thơ của cô Vi Khuê, có ra sách nhưng mình không có. Ai tò mò lên trang nhà của trường Văn Học và Văn Khoa Đà Lạt xưa.


https://van-hocdalat.smugmug.com/


Mình được thầy Chử Bá Anh cho học bổng nên chạy sang trường Văn Học 2 năm cuối trung học; 11B và 12B. Năm 11 B thì mình không học chung với 4 chị em nhà này vì họ học ở trường Văn Khoa, dưới Chi LĂng, do cô Vi Khuê làm hiệu trưởng, đường Phan Chu Trinh. Nay Việt Cộng lấy làm trường học gì đó, có chạy xe ngang. Lần đầu tiên về Đà Lạt, mình có ghé nhà của Thẩy Cô ở số 30 Nguyễn Du, chụp vài tấm ảnh để gửi cho thầy cô xem. Thấy họ nuôi heo này nọ trong căn biệt thự đẹp khi xưa mà mình có dịp ghé lại vài lần khi còn đi học trường Văn Học. Việt Cộng rất lạ, biệt thự to đùng mà lại làm hợp tác xã để nuôi heo. Mình thấy có mấy biệt thự như vậy trên đường này, cũng nuôi heo. Tư duy hơi lạ. Cứ tưởng nhà để người ở thay vì nuôi heo. Chán Mớ Đời 


Nhà thầy ngày nay. Chán Mớ Đời


Đến năm lên 12 B thì mình mới có dịp biết đến 4 chị em họ Chử. Lý do là mình học 12 B với Chử Nhị Anh và Chử Tam Anh, 2 người con trai còn hai cô con gái tên Chử Nhất Anh và Chử Tứ Anh thì học 12 A. Trường Văn Khoa mới thành lập nên chưa đủ học sinh cho lớp 12, để mướn thầy cô dạy 3 ban một lúc. Mình biết mặt hai cô con gái nhưng chưa bao giờ nói chuyện vì khác lớp. Có lần mình xuống nhà thầy cô với đám học sinh trong lớp tập văn nghệ. Mình thì hát hò không biết nhưng thấy căn nhà quá đẹp, ước gì mai sau có căn nhà tương tự. Mình mê nhất là căn nhà của công ty Esso mà dân Đà Lạt hay gọi nhà kiếng, đường Yersin, đối diện tiểu khu Tuyên Đức, góc Pasteur. Khi xưa đi học Petit Lycee ra, cứ thấy căn nhà này nên mê. Lạ là nhìn lại thấy khi xưa mình mê nhà hơn là mê gái. Mình có mấy tấm ảnh của căn nhà, hôm nào rảnh mình kể về căn nhà này. Ai biết thêm tin tức về căn nhà này thì cho mình xin.


Nhất Anh hát rất hay, ra chơi trường hay mở các băng nhạc do học sinh của trường hát và thâu âm. Có rất nhiều tên mê cô nàng dạo ấy. Có dạo Chị Cả chỉ mụ vợ mình cách thâu âm mấy bài hát karaoke khiến mình phải nghe đi nghe lại ở nhà giọng mụ vợ. Có lần vợ mình đi chơi hay công tác sang Virginia, có ngụ lại nhà Nhất Anh hay Nhị Anh. Hát hò suốt đêm. Hồi chiều đi bộ với vợ mới khám phá ra mình may mắn trong đời. Tối đi ngủ có vợ đàn hát ru mình ngủ, ngồi đọc sách cũng có vợ đàn hát bên cạnh thậm chí đi bộ cũng nghe vợ Đi trước hát. Chán Mớ Đời 

4 chị em với bé Dù, con trai đầu của Nhất Anh. Từ phải sang trái; Nhất Anh, Nhị Anh, Tam Anh và Tứ Anh. Mình đoán tấm ảnh này chụp độ năm 1983-1984 tại nhà thầy cô vì năm 1986 mình sang Hoa Kỳ thì bé Dù đã lớn hơn và có thêm em bé. Thời gian qua mau thật.

Lớp 12 B thì học chung với hai anh em Nhị Anh và Tam Anh. Ban B nên ít người học nhất là con gái. Chỉ có một chị rớt năm vừa rồi, học lại và độ 20 tên khác. Tuy không thân nhưng nói chuyện hàng ngày. Dạo ấy mình hay làm cô mụ đặt tên cho thiên hạ trong trường, hay trong lớp nên mấy chục năm sau, vẫn còn người thù dai. Nhắn tin qua bạn học chung kêu vẫn còn căm thù thằng Sơn Đen đặt tên cúng cơm họ. Lý do là ngày nay, hỏi tên ai ai thì không ai nhớ nhưng nói tên do cô mụ Sơn đen đặt thì ai cũng nhớ lại. Chán Mớ Đời 


Có lần về Đà Lạt gặp bạn học xưa ở Văn Học. Có cô đến bắt tay mình tự xưng là Kim Anh khiến mình chới với vì trong lớp 11 B khi xưa chỉ có vài cô nên mình nhớ tên hết thêm dáng người. Mình làm trưởng lớp năm ấy nên nhớ tên mấy cô, mấy tên nào phá phách trong lớp,..Như hiểu tâm trạng của mình, ca sĩ ngân hàng giải thích là Phạm Thị Gái đó. À thì ra Gái Đen mà trong lớp bạn học hay gọi. Có lẻ vì vậy cô nàng làm bữa cơm xin đổi tên cúng cơm. 47 năm sau gặp lại chưa chắc đã nhận ra nhau, nay cô Bạn đổi tên thì bố của bác LÊNIN cũng chịu thua. 

Gặp lại Hùng Con Cua sau 45 năm và mấy cô học chung khi xưa. Trong ảnh có đối tượng một thời của Hùng Con Cua. Hắn mướn xe chở cả dòng họ và chồng đối tượng một thời từ Georgia sang Cali.


Mình đặt tên Nhất Anh là Chị Cả vì con đầu, Nhị Anh là Anh Hai, Anh Ba là Tam Anh còn Chị Tư là Tứ Anh. Nhìn lại thì Tam Anh là người đã khiến mình sang Hoa Kỳ làm việc. Lý do là khi mình du lịch sang Hoa Kỳ lần đầu thì có gặp lại Tam Anh. Anh chàng đang làm luận án tiến sĩ ở M.I.T., nên quen sinh viên gốc Việt rất nhiều nhất là con gái. Lý do là anh chàng nghiên cứu tử vi rồi sẵn máy điện toán của đại học nên viết phần mềm tử vi, giải sao giải hạn cho mấy cô. Cô nào anh ta thích thì giải ý trung nhân tương tự như anh ta. Kêu gái Bắc kỳ mê tử vi lắm nên sau này lấy vợ gốc Bắc.


Anh chàng giới thiệu mình với 2 cô sinh viên, một học Harvard, và một học B.U. Mình bị tiếng sét ái tình nên năm sau lấy hè sang Hoa Kỳ kiếm việc và được nhận nên dù đang làm cho kiến trúc sư Norman Foster danh tiếng ở London, thương em anh cũng bỏ Luân Đôn, bỏ Norman Foster, bỏ vẽ phi trường Stansted để theo em. Công ty mướn luật sư làm giấy tờ bảo kê cho mình sang Hoa Kỳ làm việc. Làm cho công ty của kiến trúc sư I.M. Pei, thiết kế cổng Kim Tự Tháp của viện bảo tàng Louvres.


Ở M.I.T. Tam Anh có giới thiệu mình một anh chàng, sau này làm mai mình cho đồng chí gái. Anh chàng này cũng tiến sĩ M.I.T., có ông anh cũng tốt nghiệp M.I.T. , với 7 bằng của M.I.T. 1 Ph. D, 2 cái master và 4 cái Bachelor. Mình học mệt thở suốt 6 năm liền mới được cái bằng master còn ông thần này chơi một lúc 7 cái bằng M.I.T. 3 anh em họ Nguyễn này cũng học giỏi khét tiếng, đều ra tiến sĩ hết. Lâu lâu có gặp mặt ông Mai MIT. Boston là địa danh nơi mình bị tiếng sét ái tình, và phát hiện ra đồng chí gái. Từ ngày lấy vợ thì không gặp ông thần 7 bằng lại nữa. Sau đi làm cho IBM nay chắc về hưu. Ông Mai thì ở gần Los Angeles, nên lâu lâu có gặp nhau ăn uống hát hò vì cô vợ là giáo sư âm nhạc. Có người cho biết là Ông thần 7 bằng lấy vợ tàu nên sau này lấy thêm một bằng về văn hóa tàu chi đó. Mình nhớ dạo ông thần mới ra trường có đi chơi với cô tàu, nói đúng học thêm tiếng tàu để đả thông tư tưởng. 


Có người hỏi lý do 4 chị em học chung. Mình nói chắc thầy Chử Bá Anh là hiệu trưởng nên cho học chung đỡ mất thời gian. Mình có cô em út, sau 75 lớn lên, mẹ mình đi bán, bố mình ở trại cải tạo nên khi mấy cô chị đi học, không ai trông coi ở nhà nên dẫn theo lén vào lớp học trường Trinh Vương gần Ngã BA Chùa. Ngồi núp bên cạnh chị cho vui ai ngờ cô em tưởng ngồi chơi ai ngờ học ké, sau này học chung lớp với chị. Kiểu nhảy lớp khi xưa.


Nếu dạy con nít học từ bé tuỳ theo khả năng hấp thụ của chúng thì dễ lắm. Hệ thống giáo dục hiện nay được thành lập từ thời Bismack nên cổ quá, đào tạo chuyên viên cho nhà máy, không hợp với thời nay. Con mình hồi nhỏ cho học trường Montessori. Cô giáo kêu mình mua sách toán cho nó. Nội 2 ngày trời ở nhà nó làm sạch mấy bài toán trong cuốn sách phải mua cuốn khác. Đến khi vào học trường công thì phải đợi các học sinh khác vì khả năng hấp thụ khác nhau nên nó hết hứng học toán. Đến khi cô giáo chuyển qua trường GATE thì bài tập ít đi nhưng được đi viếng viện bảo tàng, này nọ nhiều hơn thay vì học ngày chưa đủ tranh thủ học đêm. 


Mướn gia sư dạy một lúc 4 người con cùng lớp cho khoẻ. Đỡ tốn tiền. Khi xưa hè mình có đi học thêm nhưng học sinh Yersin trên mình mấy lớp dạy kèm, thêm gốc nông dân cốt cách ngu vẫn ngu còn đây 4 chị em được chính mấy giáo sư trong trường dạy nên học 1 biết 10. Ở Hoa Kỳ lâu lâu thấy họ đăng các học sinh trẻ tuổi vào đại học. Có lẻ nhờ bố mẹ dạy học ở nhà (home schooling) nên học nhanh hơn thay vì trong lớp phải đợi các học sinh khác, học chậm hơn hơn khả tiếp thu.


Mình không có học với hai cô con gái nên không biết họ học ra sao, còn hai ông con trai họ Chử này thì giỏi thật. Nhớ đầu năm, có ông thầy người Huế vào dạy Vật lý, kêu đang học thêm cao học này nọ. Mấy học sinh dưới lớp hỏi này nọ khiến ông thầy hoảng, mình phải lên bảng làm cho xong bài toán. Chắc hai anh em về nói lại sao với thầy Chử Bá Anh nên thấy đổi giáo sư khác vào tiết học sau. Năm 11 B mình chuyên đứng đầu, lớp sinh ngữ Pháp văn nhưng lên 12 B thì thua hai ông thần này. Rất giỏi anh ngữ. Ngày nay xem mấy bài thơ dịch của hai ông thần rất cực đỉnh. Bác Huỳnh Sinh Thông dịch Truyện Kiều, thấy không bằng hai ông thần này.


Bù lại mình được phong chức trưởng lớp nên được thầy Chử Bá Anh kêu kiếm người tập dược hát hò để tham dự đại hội nhạc trẻ học sinh Đà Lạt, năm đó được tổ chức tại trường Trí Đức, sau lưng nhà thờ Con Gà. Chỗ trường Trí Đức này khi xưa, toạ lạc nhà thờ Công Giáo đầu tiên của Đà Lạt trước khi nhà thờ chánh toà (Còn Gà) được xây dựng. Những học sinh Trí Đức đều nhớ vụ này. Ai tò mò thì đọc bài nhà thờ đầu tiên ở Đà Lạt. Tổ chức văn nghệ nấu chè kiếm tiền, đi picnic ở thác Datanla nên ngày nay mới có chuyện đời xưa để kể. Còn hai anh em này chỉ học và học nên ngày nay khi mình kể chuyện hai anh em khi xưa đánh đàn trong buổi văn nghệ bỏ túi ở trường thì họ không nhớ. Chán Mớ Đời 


Mấy tên trong lớp quen gọi hai anh em họ Chử là ANh Hai với Anh Ba rồi mấy cô học chung nào là chị Hai , chị Sui,…. Khiến mấy tên như Thanh Dũng, với anh chàng người Huế, cũng học sinh Văn Khoa qua Văn Học học năm 12 B, cứ đi theo mình năn nỉ giải thích ai là chị Sui, ai là chị Hai, chị Cả, chị Tư,… nhưng rồi vài ngày sau lại tiếp tục hỏi. Nói chung thì mấy tên học khá đều lộn xộn vụ tên cúng cơm được đặt trong lớp hay trong trường. Có lần gặp mặt tại Cali, ngồi nói chuyện mới khám phá ra một chị trong lớp khi xưa được gọi là “T. Dâm” khiến mình thất kinh. Cô này thì do ai khác đặt. Rồi chị bạn khi xưa, đè đầu xuống hỏi mình đặt tên họ là gì khi xưa như người đẹp fao câu,.. ngồi kể chuyện đời xưa trong lớp khi xưa quá vui. Nhắc đến Thanh Dũng, mình có gặp lại anh chàng ở Sàigòn. Nghe anh ta kể đang học y khoa đại học Huế, thì công an vào lớp kéo đầu ra không cho đi học nữa nên chỉ biết đi làm lặt vặt sống qua ngày. 


Hai anh em chuyên gia học, ra chơi thì Tam Anh hay ngồi trong lớp với tụi này chỗ cửa ra vào. Lý do là nhìn thẳng đến cầu thang của trường nên có thể ngắm mấy cô đi  lên đi xuống, rồi bàn tán thế sự, đặt tên cô này, cô kia. Có lần Võ Hoàng Đa trong lớp, hỏi Tam Anh, “anh Ba ghế ở dưới trường Văn Khoa có đẹp không?”, anh chàng tình thật trả lời “ghế bàn mới đóng nên còn đẹp” khiến cả nhóm cười nức nở. Trường Văn Khoa mới được thành lập có 1, 2 năm. Cuối năm thì hai anh chàng nói tiếng lóng mệt thở. Cho thấy gần mực thì đen, gần sơn đen thì càng đen hơn. Chán Mớ Đời 


Ông Tam Anh thì ngồi trong lớp với tụi này nhìn mấy cô còn tên Nhị Anh thì đánh bóng bàn với mấy cô và Thanh Dũng. Hình như có một cô học dưới một lớp tên Thanh Thuỷ, nhà đâu ở dưới Tùng Nghĩa. Nay ở San Jose, có gặp lại một lần tại nhà con gái của tiệm Quốc Hương hay Mỹ Hương, có tiệm giò chả dưới chợ. Cũng giỏi hát hò, sáng tác nhạc về Đà Lạt rất hay.


Sau vụ hát hò, đại hội nhạc trẻ học sinh Đà Lạt xong, bán chè có tiền tổ chức đi Picnic ở thác Datanla xong thì bắt đầu học thi tú tài nên chả thấy mặt mũi đâu cả. Có lần mình đang ở nhà thì thầy Chử Bá ANh gõ cửa nhà hỏi ông cụ mình. Nói ông cụ không có nhà, thấy chiếc công xa của ông cụ, thầy hỏi mình biết lái xe, nói biết. Thầy nhờ lấy xe chạy lên đường Thi Sách, chỗ nhà bà Hành gần giếng ông Ba Tây kéo xe của thầy. Lý do là ông thần Nhị Anh lái chiếc xe Mercedes màu trắng của thầy chạy ngang đây, dính phải bãi sình nên kẹt. Mình lấy dây dừa cột vào đầu xe rồi kéo ra bãi sình. Sau này gặp nhau lại ở Hoa Kỳ, kể chuyện này ông thần Nhị Anh như bò đội nón, kêu sao chả nhớ gì cả. Ông ta còn phán mình là tên học chung lớp khi xưa, cùng thầy cùng thị xã Đà Lạt mà sao hắn biết nhiều chuyện khi xưa về Đà Lạt hay nhớ chuyện trong lớp còn ông thần thì ngoài chị Sui chả nhớ gì cả.


Trong mùa học thi, một hôm ông thần Nhị Anh ghé nhà hỏi thăm học thi ra sao. Nói chung thì khi xưa học chung lớp nên có vài kỷ niệm chung nhưng không thân lắm. Chỉ sau này ra Hải ngoại gặp nhau lại thì mới thân, hiểu nhau nhiều hơn.


Rồi cả lớp đậu tú tài IBM, ngoại trừ 3 người. 4 chị em họ Chử đậu cao được nghị định du học cùng với Hùng Con Của, Phạm Thành Nguyên và mình. Xem như năm đó trường Văn Học có 7 người được đi du học. Khi xưa, đậu cao mới được đi du học. Bị sưu tra này nọ. Dạo đó mình và ông cụ hơi lo vì khi xưa mẹ mình bị bắt 2 lần khi theo Việt Minh. Đâu có biết chỉ đợi thêm vài tháng là có thể di tản hay sau này vượt biển. Biết vậy khỏi cần học cũng được đi ngoại quốc. Chán Mớ Đời 


Mình đi Tây, vài tháng sau Đà Lạt bỏ ngõ rồi 30/4 đến. Mất liên lạc với gia đình. Dạo đó có tờ báo in khổ A4, mình lượm ở đâu hình như ở chợ Thanh Bình. Như tờ liên lạc của người Đà Lạt di tản. Mình đọc có tên thủ môn đội túc cầu cảnh sát quốc gia Đà Lạt tên Rớt, lạc đâu qua Ấn Độ đang cầu cứu dân Đà Lạt giúp đỡ. Chả có ai quen khác nên gửi thư đăng tin tìm người thân thì sau đó nhận thư của thầy Chử Bá Anh. Rồi thư chung của mấy chị em họ Chử. Mỗi năm mình đều gửi thiệp chúc Tết mừng Xuân đến gia đình thầy cô. 


12 năm sau , đang làm việc tại Luân Đôn, mình có cơ hội sang Hoa Kỳ chơi để viếng các toà nhà kiến trúc danh tiếng trên thế giới. Trạm đầu tiên là New York, sau đó liên lạc được với gia đình thầy Chử BÁ Anh mới lấy máy bay xuống Virginia. Thầy ra đón, đưa về nhà. Lúc đó mới gặp cô Vi Khuê lần đầu. Sau đó mới gặp lại Nhất Anh, nay đã có hai con. Cô nàng chở mình chở con đi viếng mấy toà nhà đẹp trong vùng. Anh chồng là dân du học ở Tây Đức, có gia đình di tản ở Mỹ nên hè sang thăm và phát hiện ra mối tình hữu nghị Tây Đức - Hoa Kỳ. Anh chàng này mê đá banh lắm, làm huấn luyện viên cho đội đá banh người Việt trong vùng. Rất hiền.


Dạo ấy Tứ Anh đang học y khoa, hình như có đọc báo chí nói là cô nàng, sinh viên y khoa được nhận vào trường trẻ nhất thời đó. Được tổng thống Reagan khen thưởng. Dân ngu như mình khi ra Hải ngoại còn học không thua thằng Tây nào thì mấy chị em họ Chử học giỏi nổi tiếng ở Việt Nam thì bắt buộc phải giỏi. Sau này ra trường có ông tiến sĩ người Huế, du học trước 75, làm cho Ngân Hàng Thế Giới vớt. Có hai con theo chỉ tiêu trai hay gái chỉ hai mà thôi. Lần trước ghé Virginia không gặp lại, bận nhà thương chi đó. 


Sau đó thì bay sang San Diego chơi, gặp lại ông thần Nhị Anh đang chuẩn bị lên xe bông. Hình như làm việc cho Hải quân Hoa Kỳ. Anh chàng chuyên làm cho quốc phòng Hoa Kỳ nên không được đi Việt Nam và nhiều nước thù địch, mời mình sang dự cưới nhưng mình đã hết hè dù muốn lắm vì đối tượng một thời rủ rê qua thăm cô nàng ở Nam Cali. Anh chàng này tốt nghiệp MAster ở MIT rồi đi làm. Sau này con cái lớn, bỏ thêm thời gian đi học thêm tốt nghiệp Tiến Sĩ. Kinh. Mình phục vì nói tới học là mình mở óc không ra. Lấy vợ rồi đầu óc nó ngu ra, óc bị nấu nhừ hết. Ông thần lại buồn đời học chữ Hán đâu được 5,000 chữ nên khoe. Khiến mình bắt chước nhưng học rất chậm. Học như rùa. Có hai con gái học cực giỏi, tốt nghiệp đại y khoa Stanford, rồi nội trú ở Harvard. Chồng cũng y sĩ. Còn cô con gái út thì làm về design ở New York.


Kỷ niệm vui nhất là khi Nhị Anh và vợ sắp cưới rủ lên Los ANgeles để lo chuyện đám cưới chi đó. Trên đường về, ngồi xe mệt. Khi xe ngừng thì mình mở mắt ra vì ngủ trên đường, thấy một bảng hiệu to đùng tên “Pollo Loco” theo tiếng Việt là Gà Điên. Khiến mình thất kinh. Đang ở Anh quốc, có nạn dịch Bò Điên rồi sang Hoa Kỳ lại gặp nạn Gà Điên. May quá đó chỉ là tên tiệm ăn Mễ, chuyên bán gà nướng. Sau này phát hiện ra đồng chí gái, cô nàng thích ăn gà nướng nên cứ dẫn vô đây cho cô nàng ăn mệt thở. Cứ sáng phở gà Nguyễn Huệ, chiều Gà điên, rồi mối tình cũng chín nhừ lên xe bông, đăng ký quản lý đời nhau. Nhị anh mời mình ăn thịt bò 7 món của tiệm Ánh Hồng nằm sát tiệm Gà Điên. Quá ngon. Khi mình muốn hiến máu, họ hỏi thời gian trước 1986 ở đâu. Nói ở Anh quốc thì họ đóng hồ sơ ngay, kêu cảm ơn vì có bò điên xuất hiện tại Anh quốc dạo đó. Có lẻ vì vậy lâu lâu, mình hơi điên vì ăn thịt bò điên Anh quốc khi xưa. 


Sau này mình qua Hoa Kỳ thì mới làm quen lại. Email gặp nhau lại khi anh chàng về quê vợ. Nay chắc sức khoẻ yếu nên ít thấy xuất hiện ở Cali. Lần trước mình ghé Virginia thì hẹn nhau gặp rồi đùng một cái trên đường đi nghe tin cô Vi Khuê qua đời nên hẹn lại lần khác. Theo mình biết thì mấy chị em họ Chử tiếp tục chương trình dạy việt ngữ vào mùa hè cho học sinh gốc Việt miễn phí. Hè học sinh nghỉ nên thầy Chử Bá Anh và các phụ huynh trong vùng tổ chức dạy Việt ngữ và văn hoá việt rồi khi thầy qua đời thì mấy chị em vẫn tiếp tục thiên chức làm thầy làm cô trong mấy tháng hè đến nay. Mình phục mấy chị em này vì mình cái gì không làm ra tiền thì không thích dính dáng đến. 


Đồng chí gái thì thích mấy vụ này. Như đi hát trong các viện dưỡng lão, nấu ăn cho người vô gia cư như để giải bớt cái nghiệp của thằng chồng gây nên.


Có ông thần, bạn của Nhị Anh cũng tốt nghiệp MIT, nhắn tin muốn kết bạn với mình kêu bạn học với Tam Anh và Nhị Anh, kêu mụ vợ mình có ngủ lại nhà ông thần với chị vợ của ông thần. Mời mình ghé lại nhà khi có dịp sang Virginia. Mình có nghe mụ vợ kể sơ sơ về bậc chân tu này. Cũng có chân trong chương trình dạy việt ngữ vào mùa hè ở Virginia. Thấy người ta thánh thiện quá nên mình hơi bị nhục. Thôi để kiếp sau làm người thánh thiện cũng chưa muộn. Mình tình nguyện xuống địa ngục để mụ vợ lên thiên đàng. không làm từ thiện. Thứ 7 vừa rồi hai cha con đi tăng tiền nhà. Chán Mớ Đời 


Từ San Diego, mình bay lên San Francisco, ông thần Nhị Anh giới thiệu một ông thần khác cũng tốt nghiệp MIT, nay đi học y khoa ở UCSF. Ông thần này học kỹ sư ra chế đầu đạn giết người nên thấy mất chân tu nên bỏ nghề đi học y khoa. Sau tốt nghiệp làm bác sĩ thẩm Mỹ giúp mấy bà đẹp thêm, làm đẹp cho đời. Nay về hưu sớm, leo núi Machu Picchu với mình. Bố mẹ ông thần, đại diện ông bà cụ mình đi hỏi vợ cho mình. Nay đã qua đời, bác Gái mới qua đời sau khi vợ chồng mình ghé thăm lần cuối tại Sàigòn hồi Tết. Sống hơn 100 tuổi.


Sau đó đi tứ tung trước khi bay sang Massachusetts, thăm ông thần Tam Anh. Ông thần này làm luận án tiến sĩ ra trường gặp phải vấn đề văn hoá. Anh ta kể là mình người Việt với văn hoá á đông nên quen đợi thầy hay giáo sư chỉ cách, mở đường cho nghiên cứu nên cứ dừng tại chỗ vì cứ đợi ông thầy nói tiếp bước kế tiếp. Đến khi ông thầy nhận ra sự việc mới giải thích là trong nghiên cứu, không có ai hơn ai cả. Tôi là người đi trước, từng quen nghiên cứu nhưng đề tài của anh đang nghiên cứu, tôi không biết gì cả. Tôi hướng dẫn anh cách nghiên cứu còn đề tài của mình thì anh tự phải lo liệu. Anh ta lại kể người Việt mình hay có tính trực giác, nghĩ cái này là đúng này nọ nhưng ông thầy kêu không được. Anh phải giải thích từ đầu. Anh hứng lên làm được vài câu Haiku. Trong khoa học anh phải giải thích từ đầu, các vần A, B, C rồi ghép lại ra sao thành chữ rồi mới giới thiệu các câu thơ của mình. Chớ không phải xuất khẩu thành thơ. Không ai hiểu. Muốn đọc thơ thì phải biết đọc trước để ghép mấy mẫu tự,..


Anh chàng này đọc sách rất nhiều và viết nhiều nên xúi mình viết véo từ đó. Anh ta kêu mình khác với đa số người Việt. Sang đây ai cũng đi học kỹ sư hay bác sĩ, còn mình thì học kiến trúc nên hơi lạ.  Mình bắt chước sau này đọc sách rồi tóm tắc ghi lại như anh chàng. Trong hai anh em có lẻ mình gần với Tam Anh nhiều hơn về suy nghĩ. Khi mình sang làm việc tại Hoa Kỳ thì có giúp sinh viên tổ chức các buổi họp mặt giới thiệu văn hoá Việt Nam. Nếu không thì thế hệ con cháu sau này sẽ thiên về Hà Nội. Có vợ 2 con ; một trai một gái , sinh cùng năm với hai đứa con của mình.

 

Lý do là đi học ở trường khi nói đến chiến tranh Việt Nam, người Mỹ bị đầu độc cho rằng Việt Nam Cộng Hoà là tay sai của Mỹ này nọ. Bố mẹ lại không giải thích theo kiểu giới trẻ được huấn luyện tại Hoa Kỳ. Phải giải thích từ A đến Z thay vì cứ kêu Việt Cộng chúng nó tàn ác lắm. Đừng bao giờ tin chúng.


Cứ tưởng tượng giới trẻ việt ở Hải ngoại, cứ lừng khừng như vậy rồi Hà Nội gửi các văn công sang tuyên truyền. Họ đem múa rối nước , hát quan họ, biểu diễn múa, hát cổ truyền Việt Nam. Sẽ khiến giới trẻ hãnh diện về quê cha đất tổ, và sẽ theo Việt Cộng. Như các Việt kiều yêu nước khi xưa trước 75. Tụi này giới thiệu để sinh viên mời các giáo sư gốc Việt trong đại học Hoa Kỳ như giáo sư Nguyễn Quỳnh, đại học Columbia, bác Huỳnh Sanh Thông, người gốc việt đầu tiên đoạt giải MacArthur Foundation, nay có Ocean Vương. Giáo sư Hoà của Harvard hay giáo sư Nguyễn Thuyết Phong, giáo sư về nhạc dân tộc cổ truyền. Khi sinh viên thấy các giáo sư gốc việt trong đại học sẽ thấy người Việt mình cũng giỏi, giúp họ thêm tinh thần phấn đấu học tập và nghe các giáo sư trình bày về lịch sử chiến tranh Việt Nam trung thực hơn là Hà Nội.


Sau này có con mình cho chúng học đàn tranh và đàn bầu. Khi xin vào đại học, thằng con phải viết tiểu luận nó viết về cái đàn bầu. Cho biết khi nghe tiếng đàn bầu, nó cảm thấy quen quen từ đâu đó. Cố gắng tập đến một ngày mới đánh đúng tiếng âm thanh mà nó đã nghe từ lâu. 


https://youtu.be/iit7aKRh5js?si=K3uKw5RoPj4wxVm0


Rồi giúp các nhóm thanh niên ở miền đông Bắc tổ chức trại hè, giúp giới trẻ tìm về nguồn. Có lẻ điểm son là khi các sinh viên tự đứng ra xin phép tổ chức cuộc tuần hành tại đại lộ số 5, Fifth Avenue của New York. Kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ nhận các người tỵ nạn trên đảo vì không có ai bảo lãnh. Và viết thỉnh nguyện thư, thu thập đâu trên 25,000 chữ ký của sinh viên đại học Hoa Kỳ để gửi cho thượng nghị sĩ Mark O Hatfield, tiểu bang Oregon, chống cưỡng bách hồi hương.


Mấy tháng trước có thằng cháu họ bên vợ, học đại học UCLA, ghé nhà mình ngủ qua đêm. Sáng nó thức giấc thấy trong tủ sách của mình có sách tiếng anh về chiến tranh Việt Nam.  Tò mò nó lấy đọc sau đó khi mình thức giấc, nó mới hỏi chuyện. Nó cho biết là tò mò về Việt Nam nhưng chưa bao giờ đọc sách anh ngữ về Việt Nam giải thích rõ ràng như vậy. Ngồi nói chuyện thì thằng cháu ngạc nhiên là mình biết Ocean Vương, hay giáo sư Nguyễn Việt Thanh,… mình giải thích này nọ, còn bố nó thì nói em i tờ về Việt Nam. Sinh sau đẻ muộn nên không rành về chiến tranh Việt Nam. Cũng như không tò mò muốn tìm hiểu.


Mình không ngờ gặp lại Tam Anh lại khiến mình có duyên gặp người tình và vợ tại M.I.T. Tam Anh giới thiệu một cô sinh viên nha khoa khiến mình bị tiếng sét ái tình, rồi tình duyên không thành thì đàn em của Tam Anh ở MIT lại giới thiệu đồng chí gái cho mình. Boston đi dễ khó về, sơn đi có vợ em về có con.


Có lần gia đình mình đi chơi, lái xe từ Florida lên miền Bắc, ghé lại nhà Tam Anh ở mấy đêm. Mấy đứa con cùng tuổi nên thích nhau, có liên lạc với nhau sau lớn lên thì hết vì không gặp lại nhau nữa. Anh chàng kể ra trường thì về Austin, Texas làm việc. Mình có ghé thăm dạo ấy. Hai tên đi thăm thầy Hứa Hoành, dạy sử địa khi xưa ở San Antonio. Không ngờ gặp thầy lần đó xong thì nghe nói thầy qua đời. Chỉ nhớ là anh chàng kêu phở đây dỡ lắm, đi ăn ở Houston. Anh chàng lái xe cứ thấy toàn là đồng trống đến khi đậu lại bãi đậu xe.  Hai tên bước ra run run chân vì đói. Bò vào tiệm Kim Sơn thì phải, ăn được tổ phở xe lửa rồi kêu hai tô đem về nhà. Lái xe về đến nhà chân tay cũng run run, vào hâm phở lên ăn mới hết run.


Sau này, lấy vợ qua Silicon Valley làm việc rồi Nhị Anh rủ về Virginia mở công ty. Công việc lên như diều vì làm contractor cho quốc phòng Hoa Kỳ. Ông thầy cũ biết hai anh em giỏi nên giao việc. Đùng một cái thì dotcom chấm dứt nên phải đi làm cho thiên hạ lại. Có mấy bằng sáng chế mà vợ con nay vẫn nhận được tiền hoài.


Không ngờ lần gặp lại nhau đó là lần cuối. Sau đó gia đình tụi này chạy lên New York, để viếng thác Niagara, ở giữa Gia-nã-đại và Hoa Kỳ. Thăm một người bạn học khác ở Văn Học. Anh chàng ở Ottawa nên hẹn mình ở Niagara. Ai ngờ chuyến đi gặp hai người bạn thân Đà Lạt cũng là lần cuối gặp nhau. Độ 6 tháng sau, mình thấy nhắn tin của một chị bạn, hỏi có thiệt không. Mình hỏi chuyện gì. Nghe nói Tam Anh qua đời. Mình gọi điện thoại cho Nhất Anh thì cô nàng oà lên khóc và kêu mình đừng bay qua. Rồi hai tháng sau anh bạn ở Gia-nã-đại cũng gọi điện thoại kêu báo tin này không phải chuyện đùa. Hỏi chuyện gì. Kêu tao bị ung thư giai đoạn 3. Mình hỏi cần tao bay sang không. Kêu không cần. Nghe đi chơi với đại gia đình xong thì đâu mấy tuần lễ sau, điện thoại reo, bên đầu giây chị vợ òa lên khóc. Hình như người hiền lành đều ra đi sớm, còn gian ác thì ở lại hơi lâu.


Có lần Nhất Anh nhắn tin, kêu mới tìm ra một người bạn cũ. Chị này đọc tin tức biết Tam Anh qua đời nhưng ngại liên lạc trong khi tang gia bối rồi. Sau đó một năm mới liên lạc. Nghe tin mình mới kể chuyện đời xưa khi học chung ra sao. Đọc i-meo mình thì mấy nàng hỏi còn chuyện gì kể tiếp và mình tiếp tục kể chuyện thời nhát gái ra sao, những bông Hồng Văn Học. Không ngờ đó là khởi đầu cho bờ lốc Mực Tím Sơn Đen. Nay có 1,192,078 lược đọc. Kinh


Một hôm Nhị Anh nhắn tin, kêu cho xin vài tấm ảnh ông bà cụ mình. Rồi mấy tuần sau đó anh chàng gửi cho cuốn sách mang tên Mực Tím Sơn Đen. Anh chàng lựa ra 100 bài tiêu biểu mình kể về thời đi học ở Đà Lạt, thời du học, thời giang hồ,… rồi biên tập, sửa lỗi chính tả này nọ. Anh này có khiếu về biên tập văn chương vì có dịch thơ của cô Vi Khuê ra tiếng Anh, thiết kế sách báo. Hoá ra anh ta cũng có nhiều Hoài bảo, nhiều trăn trở về quê hương như mình. Đường dẫn mực tím Sơn đen do Tiến sĩ Chử Nhị Anh biên soạn. 


https://van-hocdalat.smugmug.com/MTSD


Mình đoán rất đông những người thế hệ của mình đều lâm vào trường hợp này. Nên khi đọc những bài mình kể, họ cảm nhận có chút gì của họ trong đó. Có người đưa thêm thông tin cho rõ hơn vì mình chỉ nhớ mại mại nên ghi lại như một ký ức cộng đồng. Nhiều mảnh nhớ của mọi người từng sống tại Đà Lạt sẽ tạo lên một miếng mosaic lớn và rõ hơn của Đà Lạt khi xưa. Mình rất cảm động khi nhận được cuốn sách vì mình chưa bao giờ nghĩ đến viết nhất là in sách báo này nọ.

Đà Lạt xưa và nay cho thấy dân tình Đà Lạt khi xưa rất hiền hoà còn nay với xây dựng kiểu này thì rối như canh hẹ


Mình viết về suy nghĩ của mình như Tam Anh khi xưa thường làm và có khuyến khích mình để anh ta in báo này nọ. Có lần Tam Anh kể là khi xưa học và học nên không có tuổi thơ, không như Sơn học ít nên nhớ nhiều thứ ở Đà Lạt thời còn bé. Sau này có con, mình không bắt chúng học nhiều. Cho đi chơi hướng đạo, thể thao hay nghỉ hè với gia đình để tạo những kỷ niệm thời bé vì đó là những điểm người ta nhớ nhất khi về già. 


Rồi mấy người đọc bài trên mạng, khơi khơi kêu mình nói để họ làm bờ lốc cho. Rồi thiên hạ tự động làm bờ lốc cho mình. Chớ chưa bao giờ nghĩ đến bờ lóc với bờ rọc. Cho nên nhiều khi có độc giả hơi khắc khe kêu mình viết bú xua la mua, sai chính tả này nọ. Họ không biết mình từ bé học chương trình Pháp, chỉ có hai năm cuối trung học là chương trình việt được thầy Chử Bá Anh cho học bổng nên chạy qua Văn Học, học ban toán nên ít cần tiếng Việt. Thêm thi tú tài IBM nên đậu vì không cần tiếng Việt, chỉ đọc và ABC khoanh chớ kêu viết tiếng Việt là ngọng.


Thật ra mình không để ý lắm. Ai chửi thì họ nghe, ai kêu sai thì mình ghi nhận, có người làm cô giáo khi xưa, lâu lâu đọc bài của mình rồi nhắn tin kêu sai lỗi chỗ nào, sai tên này nọ. Mình thu nhận và sửa lại cho đúng. Họ mến mình mới bỏ thời gian để nhắc nhở mình hoàn thiện. Nói cho đúng mình bắt đầu viết là nhờ Tam Anh khuyến khích còn bắt đầu kể chuyện Đà Lạt là nhờ Nhất Anh yêu cầu. Mình viết theo dạng đặt hàng. Chả muốn ai biết đến mình cũng như chả muốn làm nhà văn gì cả. Lý do mình dốt tiếng Việt. Nói như Phong tiệm may VĂn Gừng, là khi xưa tụi mình học trường Tây, sinh ngữ chính là việt ngữ, sinh ngữ 2 là anh văn.


Thật ra trước đó mình đã bắt đầu viết bằng tiếng anh về quê quán Đà Lạt, quê nội quê ngoại khi làm di chúc và làm gia phả cho gia đình để con cháu sau này biết và nếu thích thì mò về tìm. Sau này Nhất Anh kêu viết về Đà Lạt thì mình bắt đầu viết tiếng Việt đến giờ.


Nhìn lại thì trên đường đời mình may mắn đồng hành với nhiều người bạn rất tốt, trong đó có 4 chị em họ Chử. Xem như kiếp này mình có duyên với nhau, hy vọng kiếp sau vẫn có duyên tiếp tục làm bạn với nhau, đồng hành tiếp. Hai năm học Văn Học tuy ngắn ngủi nhưng để lại dấu ấn đẹp nhất trong đời mình. May mắn vẫn còn mấy người bạn như mấy chị em họ Chử. Xin cảm ơn Chị Cả, Anh HAi, Anh BA và Chị Tư, vẫn giữ được cái tình bạn học trò đến ngày nay.

https://www.washingtonpost.com/archive/politics/1979/05/13/4-in-refugee-family-win-honors-at-cu-graduation/3495b0fd-9ecf-4eb7-8e31-9e5fd9a5b7a3/

Có bài báo nói về 3 chị em họ Chử cách đây 46 năm. Ai Mở không được 

Thì đọc tóm tắt sai đây:

 “4 in Refugee Family Win Honors at CU Graduation”, published in The Washington Post on May 12, 1979:

📰 Summary of the Article


  • Headline: 4 in Refugee Family Win Honors at CU Graduation (also referred to as 4 in Viet Refugee Family Excel at CU Best and Brightest)  
  • Publication Date: May 12, 1979 (approximately 46 years ago)  


Key Details:



  • The article tells the inspiring story of the Chu family, four Vietnamese refugee siblings who graduated together from Catholic University (CU) in Washington, D.C.
  • They arrived in the U.S. in 1975 during the final two months before the fall of Saigon.  
  • Graduates:
    • Tam‑Anh Chu (age 21) – earned the top engineering GPA of 3.95/4.0 (straight A’s except one B).
    • Nhi‑Anh Chu (22) – summa cum laude in electrical engineering with a GPA of 3.87.
    • Tu‑Anh Chu (20) – magna cum laude in biochemistry.
    • Nhat‑Anh Chu (23) – graduated in nursing with straight B’s.

  • The family lived in South Arlington, Virginia. Their parents were both former high school principals in Vietnam, and their father later worked in drafting for Washington Gas Light Company.  




Notable Context:



  • Catholic University reportedly awarded full four-year scholarships to all four siblings after they applied because the school was offering tuition support to Vietnamese refugees.  
  • University officials believed the Chu family might have been the first family of four children to graduate in the same year from CU — and all with honors. Provost C. Joseph Nuesse described their achievement as “extraordinary.”  
  • Prior to arriving in the U.S., all four siblings had excelled in Vietnam’s national baccalaureate exams: Tu‑Anh (15 at the time) was among the top 1%, and Tam‑Anh topped the Dalat regional section.  





In Summary: The 1979 Washington Post article highlights the remarkable academic success of the Chu siblings—Vietnamese refugees who, despite arriving in the U.S. with limited resources in 1975, graduated with honors from Catholic University in 1979, showcasing resilience and excellence.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Những tấm ảnh Đà Lạt xưa và nay

Có ông thần gốc Cây Số 4, lâu lâu về Đà Lạt thăm gia đình than Đà Lạt dạo này mưa quá nhưng tranh thủ gửi cho mình vài tấm ảnh Đà Lạt ngày nay để so sánh với Đà Lạt trước 75. Em xin tải lại đây để mấy bác nhận ra đâu là đâu.


 Đây là góc Trương Vĩnh Ký và Duy Tân xưa, nơi có khách sạn Thuỷ Tiên, số 7 đường Duy Tân, được xây cao nhất Đà Lạt khi xưa. 5 tầng dù khu vực này chỉ cho phép xây 2 tầng như xung quanh Hoà Bình. phía bên trái đi vào đường Trương Vĩnh Ký, có mấy quán ăn. Chỗ này là nơi ông Phẩm 302 bắn doạ võ sư Nguyễn Bình, đạn trúng đường dội lên phía nhà bên phải Duy Tân. May không ai chết. Có người kể là ông Phẩm ở trong ấp Xuân An

Đây là số 9 và 11 đường Duy Tân, của gia đình ông Đàng và ông Phúng mà mẹ mình gọi là Cậu bà con. Hai người này là em ruột của bà Võ Quang Tiềm. Khi xưa, ông Tiềm vào Đà Lạt trước, làm nghề thợ may, sau về Huế được giới thiệu bà Tiềm, cưới đưa vào Đà Lạt. Sau đó bà Tiềm đưa mấy người em vào Đà Lạt. Khởi đầu làm thợ may như ông Tiềm, bán áo quần cho công nhân làm đường xe lửa Phan Rang Đà Lạt. Dần dần có vốn mở mở tiệm buôn bán Long Hưng và Hiệp Thạnh số 9 và 11 Duy Tân. Thời Tây được gọi là đường Maréchal Foch. Sau đó bà Phúng mới về Huế đưa mẹ mình vào Đà Lạt năm 1948. 8 năm sau, mình ra đời tại Đà Lạt. Tết vừa rồi, mình có đi Úc đại Lợi để ghé thăm dì Thanh con bà Phúng và cậu Cẩn, con ông Đàng. Về Đà Lạt có gặp lại cậu Nghị, con đầu của ông Đàng, du học ở Pháp, bác sĩ, nay về hưu ở Đà Lạt.
Tấm ảnh trước rạp Hoà Bình, do thầu khoán Võ Đình dung xây cất và bán cho thị dân, rồi sang Tây ở đến già. Hình trên thấy các tiệm khi xưa như nhà hàng Chic Shanghai, tiệm thuốc Tây Nguyễn Văn An, rể của ông Phạm Quỳnh. Bên trái có một tiệm tên Chánh Ích ngày nay vẫn chưa bị đập phá. Có lẻ con cháu làm nhà thờ từ đường. Những gì sống sót lại thời trước 75. Cho thấy xây cất với kiến trúc rất đồng nhất, mái nhà bằng nhau, không bú xua la mua như hiện tại.
Hình này chụp gần hơn. Bên phải là nhà hàng Chic Shanghai, chủ rạp Hoà Bình. Nghe nói là có nhiều người gốc hoa thầu xây lại hội trường hòa Bình. Tin này có thể khả tín vì người Tàu đều có bang người Hoa. Làm ăn họ tính toán với nhau. Bên cạnh là tiệm vàng Huỳnh Ngọc Bửu, sau này dọn về Sàigòn. Kế đó là tiệm Vĩnh Hưng của ông bà Võ Quang Tiềm. Hồi nhỏ mình hay vô đây. Khi mệ ngoại mình ngoài Huế vào thăm hay mẹ mình dẫn vào chào ôn mệ. Thấy chiếc xe Traction đen, không biết có phải công xa của ông cụ ngày xưa vì ông cụ có dạo chạy chiếc xe này của ty công quản nước. Bên trái là xe Simca trắng bị che khuất, kế đến là chiếc xe chở mấy lu rượu của ông bà Tiềm. Cậu gì quên tên làm tài xế hay chở rượu đi giao cho các tiệm bán rượu ở Đà Lạt. Ông Tiềm có môn bài bán rượu đầu tiên ở Đà Lạt. Nên giàu. Ngoài ra ông còn mua thuốc lá ở Quảng Nam, tẩm thuốc bán cho dân Đà Lạt. Người Huế hay gọi thuốc Cẩm Lệ vì có một tiệm bán thuốc nổi tiếng ở Huế mang tên này. 

Sau này Việt Cộng vào lấy mất cái tiệm và mấy chục căn nhà cũng như khách sạn dưới chợ chỗ bùng binh đối diện chợ bên tay phải, chỉ cho ông bà ở phía sau. Khi mình về Đà Lạt lần đầu thì ông bà đã qua đời. Mình có lên mả thánh thắp hương. Nay không biết họ dời mồ đi đâu.

Khi xưa kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, thiết kế, chỉ cho phép xây hai tầng để từ xa người ta thấy cái chuông còi hù của khu Hoà Bình. Nay họ cho xây bú xua la mua từ xa không còn thấy cái tháp chuông còi hụ nữa. Sau 63, ông Nguyễn Linh Chiểu, chơi cha thiên hạ xây khách sạn Mộng Đẹp cao thêm một tầng nên chận hết. Từ khu Hoa Bình không nhìn thấy hồ Xuân Hương và từ hồ Xuân Hương cũng không thấy khu Hoà BÌnh. Phía trên thấy nóc nhà khu Hoà Bình chỗ bánh mì Vĩnh Chấn và Đức Xương long, cùng một loại gạch, màu và độ cao như nhau. Chỗ ngân hàng Sacombank là tiệm bánh mì Vĩnh Chấn cũ. Tiệm Pizza là tiệm thuốc Tây Nguyễn Văn An.
Khu Hoà bình khi xưa, kiến trúc như nhau hài hoà, nay thì 100 nhà 100 tiếng 100 màu sắc

Có lẻ họ biết đã phá nát Đà Lạt nên họ muốn xây lại hoàn toàn khu vực này. Có lẻ nên lắm. Hình ảnh ngày nay là hệ quả của sự quản lý 50 năm sau 75.


Hình này dưới chợ Đà Lạt, ngay bến xe Chi Lăng mà khi xưa mình lấy xe này đi học. Lội bộ từ Hai Bà Trưng ra đây lấy xe đò đến trạm ở đường Nguyễn Trãi, HÙng Vương, xuống, lết bộ đến Grand Lycee và trưa lại tiếp tục như vậy. Trước mặt là nhà hàng và vực trường La Tulipe rouge, khi xưa có tên Maxim’s. Kế đến bãi đất trống đậu xe hàng rồi đến tiệm Lộc Sơn của bà Sáu Có. Có hai người con trai tên Lộc và Sơn. Võ Ngọc Sơn học chung với mình ở Yersin. Bà Sáu Có này thích mình lắm, hay cho bánh kẹo khi vào tiệm. Sau này mới hiểu là khi xưa bà và ông cậu họ mình có tình ý với nhau nhưng chú ruột của mẹ mình không cho lấy nhau nên ông cậu buồn đời đi kháng chiến bị Tây bắn chết ở Phan Thiết. Nghe em gái của Võ Ngọc Sơn kể là bà Sáu Có còn giữ bức thư ông cậu mình gửi.
Góc hình này vẫn chưa thay đổi nhiều. Khu photo Hồng Châu bị cháy năm Mậu Thân đến giờ vẫn y nguyên. Phía sau chơi một màu đỏ sáng rực trời đông. Bên trái dãy nhà ông Đội có chưa thấy đập phá xây lại. Chợ đò bây giờ nghe nói ế lắm. Thiên hạ mua trên mạng rồi kêu shipper đem lại. Họ muốn lấy tiền thiên hạ để xây thêm chợ nên đa số nghỉ bán về nhà bán online.
Vũ trường La Tulipe rouge ngay cầu thang chợ

Vật đổi sao dời nhưng sao thấy buồn quá vì Đà Lạt xuống cấp nên mới nhớ đến bài hát do ông Lam Phương làm khi xưa “thành phố buồn nhớ không em…” Chán Mớ Đời 


Cảm ơn ông thần cây số 4.

Có ai ở Xuân An còm 

Trong bài có nhắc đến anh Phẩm, Anh Phẩm và anh Thế là hai anh em ruột. anh ruột của anh Sáu Loa Du Đảng Đalat sau này bị ông Thiếu Uý Đá với lệnh của Toà Án được quyền bắn chết khi bị chống cự , và anh sáu Loa bị bắn chết và trái lựu đạn nổ tung tại quán Cafe chị Yến đầu đường Xuân An hay còn gọi Nhà Chung , Tui hồi đó dân Nhà bò tuổi còn choai choai so với anh Phẩm , Anh Thế , Anh Loa nhưng tui nhận biết các anh chơi đẹp, qua các câu chuyện trước tui biết nhà Thuốc Tây Nguyễn Thị Thi ở Đầu Duy Tân , chị Thi đậu Dược Sỉ lấy anh Ân làm Quân Y viện Khu Tạo Tác cũng bà con với tui, ...thôi nhớ tới đâu nói tới đó khi nào nhớ lại viết tiếp.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 
Nguyễn Hoàng Sơn 

.

Đưa tiền vào Nam đánh Việt Nam Cộng Hoà

  Đưa tiền vào Nam


Có lần nói chuyện với anh Phong, đại đội trưởng đại đội trinh sát 302, và tiểu đoàn trưởng 204 Đà Lạt khi xưa. Anh ta kể có lần đi hành quân, lính anh ta bắt được một cái sacoche của Việt Cộng trong đó có mấy ngàn đô la, chia nhau cho cả đại đội xài. Có người kể là chỉ huy bộ đội đi vào miền nam chỉ đem theo vàng và tiền đô la để đưa cho nằm vùng mua thực phẩm cho bộ đội. Một lần khác ở Quảng đức, lính 302 bắt gặp xe Jeep của 1 thiếu tá, được ông tướng Nguyễn Văn Toàn quân khu 2, vua tham nhũng mà mình có kể về bài viết của tuỳ viên ông ta nói về vị chỉ huy của mình, đưa người đi thương lượng với Việt Cộng, trả tiền để cho người ông ta chặt cây bán cho ngoại quốc không bị phá. Trinh sát 302 bị phát hiện nên bắn chết cả Việt Cộng và ông thiếu tá khiến ông Toàn nổi điên, muốn bỏ tù thiếu tá Phong. Mất đâu 2 ngàn đô la. Ai buồn đời thì tìm đọc bài của vị sĩ quan tuỳ viên, mình có chép trong bài mình kể lại trên bờ lốc.


Nay mình mới hiểu vị trí của Việt Cộng trong thời chiến tranh vì khi xưa, cứ nghĩ họ núp bên Lào hay bên Cao Miên


Đà Lạt khi xưa có nhiều tiểu thương làm kinh tài cho bộ đội như cô Ba Chỉ tiệm Bình Lợi dưới chợ Đà Lạt, giữa 2 tiệm Lộc Sơn và Nguyễn Văn Ngạch, đối diện đồn cảnh sát. Sau 75, cô ta làm lớn ở Đà Lạt rồi bị về vườn. Nghe cô ta kể là trước 75, đi du lịch qua Thái Lan, gặp bà Nguyễn THị Bình để nhận được chỉ thị kinh tài ra sao. Ngoài ra có nhiều tiểu thương khác nhiều khi bị bắt buộc nếu không bị giết hay cho nổ mìn như vụ cây xăng Ngã Ba CHùa. Mấy người nằm vùng mua gạo muối đường và lương khô rồi chở vào bưng cho Việt Cộng. Lâu lâu mình nghe ngoài chợ kêu đường tăng bo hay ai đó bị Việt Cộng tịch thu hết hàng hoá. Sau này mới hiểu họ chở vào bưng rồi kêu bị Việt Cộng tịch thu đóng thuế để qua mắt chính quyền miền nam.


Mình kể có lần cô Ba Chỉ kêu mẹ mình vào tiệm nói có 100 bao gạo mới về, ai hỏi thì bán lấy lời nuôi con. Độ 1 tiếng sau, có người đến hàng mẹ mình hỏi có gạo không muốn mua 100 bao. Thế là mẹ mình nói có và bán giá cao hơn cô Ba CHỉ đưa, kiếm tiền nuôi con và trả nợ cho chồng đánh bài thua. Sau 75, bà hay đến mua gạo là nằm vùng, làm lớn lắm. Ông cụ mình đi tù nhưng nhờ cô Ba CHỉ và mấy bà khi xưa nằm vùng đỡ đầu nên tai qua nạn khỏi với đám CM 30 ở chợ cũng như ở xóm.


Mẹ mình có mua gạo của Địa Phương Quân nữa. Có ông đại đội trưởng nào ở Đà Lạt, hay kêu mẹ mình để bán gạo. Gạo của lính ông ta, chắc có nhiều lính kiểng nên ông ta dư gạo nên kêu bà cụ bán rẻ. Có lần ông ta nhận tiền mà không cho lính chở gạo ra chợ nên bà cụ đi đòi, không được thì lên vị chỉ huy của ông ta, thì được biết ông ta đánh bài thua nên kiện củ khoai. Ngoài ra có mua gạo của mấy bà sơ và ông cha nhà dòng. Mỹ viện trợ ăn không hết nên đem bán cho bà cụ. Mẹ mình không có môn bài đại lý bán gạo nên bán chui, phải đi mua hàng kiểu này để bán lại.



Có lần một ông tài xế quen ngoài chợ, hay chở hàng cho mẹ mình từ Sàigòn về, bị bắt bỏ tù cả năm khiến bà vợ phải thuê tài xế, lái xe hàng đi Sàigòn. Sau này bà ta sinh con, người ta đồn là con của ông tài xế vì không giống mấy đứa con khác. Chán Mớ Đời 


Lâu rồi mình có đọc bài báo của báo Hà Nội kể các người nằm vùng đổi tiền ngoại quốc đi nhiều ngõ từ Paris, qua Hương Cảng, Cao Miên,… trước khi đưa về Sàigòn.

Xin trích một đoạn của báo Hà Nội do tác giả cuốn sách về những con đường Trường Sơn đặc biệt.


Đến thời điểm hẹn trước, một bộ phận đặc biệt chuyên trách vấn đề vận chuyển là đơn vị C.100 thuộc Đoàn 559 cùng B.29 tiến hành các thủ tục giấy tờ giao nhận, đóng thùng đặc chủng và chở đi. Trong giai đoạn đầu, tiền đi vào Nam theo một con đường khá "sang trọng": 


Con đường thường xuyên và gian khổ nhất của đại bộ phận đôla vẫn là tuyến đường Trường Sơn, bằng xe tải quân sự và đường biển trên những chuyến tàu không số, cất giấu dưới hầm tàu hai đáy trên con đường Hồ Chí Minh trên biển. 

Hành trình của các loại tiền kể trên từ Hà Nội vào Nam được phân bổ theo từng phân đoạn, theo quy định của trung ương: tiền tới địa chỉ nào thì nơi đó có đơn vị đặc nhiệm tiếp nhận và cất giữ. Trung ương phân bổ theo từng khu vực lớn là: Trị Thiên - Huế, Khu V, Tây nguyên, Nam bộ (B2)... Tại từng khu vực nói trên, việc cấp phát, phân bổ, sử dụng, chi tiêu là công việc nội bộ từng nơi, dưới sự lãnh đạo toàn diện của từng đảng bộ, với sự tham mưu chỉ đạo chuyên ngành là các ban tài chính hoặc ban kinh - tài trực thuộc. 

Khi có nhu cầu chi tiêu bằng biệt tệ mà số do trung ương đã đổi và chuyển vào không đủ, phải tiến hành "chế biến" tại chỗ. Việc "chế biến" này được thực hiện theo phương pháp phân tán nhỏ lẻ để khỏi bị lộ (trung ương không chủ trương tích giữ dài ngày đồng tiền Sài Gòn, bởi từ sau năm 1970 sự mất giá của tiền Sài Gòn xảy ra liên tục, tỉ lệ mất giá ngày càng cao). Việc quản lý thu, chi, theo dõi hạch toán kế toán, kho quỹ được thực hiện rất chặt chẽ. Tại ban kinh - tài hoặc cơ quan ngân tín được đảng bộ từng khu vực giao trách nhiệm chỉ đạo, điều hành công tác này, các bộ phận chuyên trách về kế toán và kho quỹ đều được thành lập. Kế toán từng khu vực đều tiến hành đối chiếu số liệu định kỳ với kế toán B.29.

Từ năm 1964-1965 chi phí cho miền Nam tăng lên rất nhiều, phương thức AM càng thêm khó khăn, tốn kém, kể cả sự hi sinh xương máu. Trong tình hình mới nó bộc lộ nhiều nhược điểm. Thứ nhất, Mỹ ra sức đánh phá các con đường trên bộ và trên biển, gây rất nhiều khó khăn cho việc vận chuyển. Thực tế đã xảy ra một số lần đối phương ném bom trúng xe chở hàng, trong đó có các thùng đựng tiền, vỏ thùng đựng tiền tuy không bị cháy nhưng sức nóng của lửa đã làm phân hủy số đôla bên trong. Từ giữa thập kỷ 1960 tình hình chính trị của Campuchia bất ổn, đặc biệt từ khi có đảo chính của Lonnol thì con đường này cũng chỉ có thể được sử dụng một cách rất hạn chế. Thứ hai, việc "chế biến" lần thứ hai từ đôla ra tiền Sài Gòn cũng gặp khó khăn, không thể nào "chế biến" một cách nhanh chóng một số tiền quá lớn trên thị trường miền Nam.

Phương pháp mới 


Từ 1965, Trung ương Cục có chủ trương phát triển các cơ sở tại nội thành. Những cán bộ chủ chốt của Ban Tài chính đặc biệt đã được đưa vào nội thành để bám trụ. Hai cán bộ là Mười Phi và Nguyễn Thanh Quang (còn gọi là Năm Quang, tức Dân Sanh) đã nảy ra ý định "chơi theo luật chơi", nghĩa là sử dụng chính hệ thống ngân hàng của thế giới và của chế độ Sài Gòn để chuyển tiền cho cách mạng. 

Phát hiện bất ngờ này được đề xuất với trung ương. Sau đó được trung ương chấp thuận cho thực thi, gọi là phương pháp mới, ký hiệu là FM. FM là phương thức chi viện tiền cho miền Nam bằng chuyển khoản. Chuyển khoản có hai chiều: nhận và trả.

Khâu nhận: Tiền Z (tiền Sài Gòn) được lấy ngay tại Sài Gòn qua một đường dây hoạt động nội thành của Ban Tài chính đặc biệt thuộc Trung ương Cục miền Nam (tức N.2683), sau đó hoàn trả cho nhà cung cấp tại nước ngoài bằng đôla. Nhà cung cấp tiền Z Sài Gòn là những chủ kinh doanh lớn sẵn sàng hợp tác với một đầu mối của N.2683 trong nội thành Sài Gòn, có mật danh là C.130 do Dân Sanh đảm nhiệm. Họ có tài khoản tại các ngân hàng thương mại nước ngoài và ở Sài Gòn. Theo sự thỏa thuận với N.2683, họ rút tiền Z từ ngân hàng để cung cấp cho cách mạng nhưng lấy lý do để sản xuất kinh doanh. Trong nhiều trường hợp có những khoản lớn là tiền Z, không cần rút từ ngân hàng mà thu trực tiếp do bán hàng nhập khẩu. 

Tiền Z được giao tại những nơi quy ước là vùng giáp ranh ven đô Sài Gòn - Gia Định, có khi còn đi xa hơn, phân tán trong các kho nhỏ rồi tổ chức các chuyến ôtô đem đi. Phương pháp này được mang ký hiệu là FM vì FM vừa là tên gọi một kênh phát sóng ngắn hơn AM, vừa là chữ viết tắt của phương pháp mới (F: phương pháp; M: mới). Phương pháp này có nhiều thuận lợi hơn phương pháp AM: có thể giải quyết một vụ chuyển tiền lớn chỉ trong một ngày thay vì nhiều tháng hành trình đầy rủi ro của phương pháp AM, an toàn hơn, kín đáo hơn, không bị thiệt thòi do vấn đề tỉ giá, mà có trường hợp còn sinh lợi nhờ hưởng lãi suất phát sinh tại các ngân hàng (khoản lãi suất này trong mười năm tính ra tới gần 25 triệu đôla).

Để thực hiện FM cần phải có một hệ thống tổ chức rất tinh vi và dày công bố trí. Tại Hà Nội, bộ phận B.29 thuộc Vietcombank dùng các mật mã, điện đài để liên lạc với miền Nam và liên lạc với các ngân hàng trên thế giới để nhận và gửi các lệnh chi tiền, chuyển tiền. Bộ phận đó vẫn do ông Mai Hữu Ích điều hành và trưởng phòng thanh toán Nguyễn Nhật Hồng (còn gọi là Ba Hồng) trực tiếp phụ trách. 

Ở trong Nam, một bộ phận có bí danh là N.2683 do ông Mười Phi làm trưởng ban tài chính đặc biệt của Trung ương Cục phụ trách. Một bộ phận đặt tại Sài Gòn. Cơ sở này trực thuộc Trung ương Cục, gọi là Ban Công tác đặc biệt. Nó là một "đối tác" đặc biệt của B.29. Đầu mối và cũng là cơ sở của N.2683 là một đại thương gia có khả năng chi tiền mặt cho N.2683. Rồi theo thông báo của N.2683, B.29 lại chi trả cho họ bằng cách chuyển ngân vào tài khoản của họ ở các ngân hàng nước ngoài. 



Mình có quen một gia đình khi xưa giàu có ở CHợ Lớn, sau 75 thì ở Hải ngoại, có nhà ở Tây Ban Nha, ở Hồng Kông này nọ. Nên không biết khi xưa họ có chuyển tiền ra Hải ngoại bằng cách nào. Đưa cho nằm vùng Việt Cộng ở miền nam rồi họ ở ngoại quốc chuyển tiền vào ngân hàng Thuỵ Sĩ? Nay qua đời nên không biết hỏi ai.


Ông Mười Phi nhận định: "Đây cũng là một loại đường mòn Hồ Chí Minh nhưng không dùng ôtô, tàu thủy, máy bay hay đường ống nên không có vết chân nguời. Chỉ có những lệnh chuyển tiền thôi. Anh Phạm Hùng cho tôi danh sách năm người để tôi chọn. Tôi chọn anh Ba Châu và nhắc anh Phạm Hùng nên cho anh Ba Châu đi học thêm tiếng Khơme, học tình báo rồi hãy vào Phnom Penh giúp chúng tôi". 

Ông Lữ Minh Châu (Ba Châu) - phó Ban N.2683 - kể lại: "Chiến trường mở rộng, nhu cầu tiền càng nhiều, càng nhanh càng tốt và phải cung cấp cho nhiều nơi. Với biện pháp FM, nói cách khác, với hoạt động ngân hàng đặc biệt trong thời kỳ chống Mỹ tại miền Nam, chúng tôi "Ban Công tác đặc biệt" trực thuộc Trung ương Cục miền Nam với các loại bí số D.270 và N.2683, mà tôi là phó trưởng ban, anh Mười Thăng Long là trưởng ban, đã cung cấp các loại tiền nhanh chóng, đủ và đúng theo yêu cầu của Cục Hậu cần miền Nam".

ĐẶNG PHONG, tác giả cuốn sách nói trên. Ai buồn đời thì đọc để hiểu thêm về cuộc chiến Việt Nam ngày xưa.


Đọc tài liệu của Hà Nội nên biết thêm chút gì về cuộc xâm chiếm miền Nam:


Báo Thời báo Ngân hàng mô tả rõ vai trò của “Ngân hàng Ngoại hối” bí mật mang bí danh B.29, thành lập tại Hà Nội, tiếp nhận viện trợ quốc tế (USD, rúp, tệ…) rồi quy đổi và chuyển vào miền Nam thông qua hai đơn vị Ban Kinh tài Trung ương Cục miền Nam: N.2683 (Ban Tài chính đặc biệt) và C.32 (Ban Ngân tín R). Các cán bộ như Mai Hữu Ích, Nguyễn Nhật Hồng, Nguyễn Văn Phi… đã xử lý hàng tỷ USD quy đổi và gửi vào chiến trường qua Đoàn 559  .


Bộ Tài chính Việt Nam thông tin rằng nhiệm vụ chi viện miền Nam được đánh giá là cốt tử trong chiến lược giải phóng, đặc biệt trong giai đoạn 1964–1965, tập trung cán bộ ưu tú để vận hành dòng tiền chiến lược này  .


Trung tâm Lưu trữ Việt Nam tại Texas Tech (VNCA) lưu giữ hàng triệu trang tư liệu liên quan đến chiến tranh Việt Nam, bao gồm các báo cáo tài chính, ghi chép nội bộ ngành ngân hàng, chứng minh tính xác thực và quy mô tài chính vận chuyển trong kháng chiến  .


https://www.vietnam.ttu.edu/


Sơ đồ tổ chức vận chuyển tài chính


1. Ở Hà Nội – miền Bắc

B.29 (Ngân hàng Ngoại hối bí mật): tiếp nhận ngoại tệ viện trợ từ quốc tế tại các đầu mối như Hong Kong, Paris, London, Bắc Kinh. Mình có đọc một bài báo của Hà Nội phỏng vấn mấy người khi xưa, chuyển tiền từ Paris, qua Hương Cảng rồi về Sàigòn. Nay tìm lại không thấy nữa. Quá lâu nên nằm ở dưới các tài liệu mới.

Quy đổi và gom tiền vào kho Bắc, chờ lệnh vận chuyển.


2. Đường vận chuyển qua Đoàn 559

Tài chính được vận chuyển cùng lương thực, vũ khí… qua Lào – Campuchia. Đường mòn Hồ Chí Minh vận hành liên tục từ năm 1959 – đặc biệt quy mô lớn từ 1967–1971  .

Tiền được giấu trong thùng kín đặc biệt, chia nhỏ để giảm rủi ro. Có cả đường dẫn dầu phục vụ xe, hệ thống trạm nghỉ…


3. Tại miền Nam – Trung ương Cục

N.2683 (Ban Tài chính đặc biệt) và C.32 (Ban Ngân tín R): tiếp nhận tài chính từ Bắc chuyển đến, kiểm đếm, bảo quản rồi phân phối đến các chiến khu, vùng giải phóng  .

Giao liên địa phương, cán bộ cơ sở trong mật danh F.M (phương pháp mới) phối hợp kinh doanh bình phong để lấy tiền công khai từ hệ thống tài chính Sài Gòn, rồi chuyển về xuôi phục vụ cách mạng  .


Cho thấy Hà Nội có rất nhiều đường tiếp tế vào nam trong khi Việt Nam Cộng Hoà thì nhận viện trợ từ Hoa Kỳ rồi nhiều tiền quá nên tướng tá tham nhũng. (Còn tiếp)


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn