Những huyền thoại về chiến tranh Việt Nam không đúng sự thật

Buồn đời mình đọc mấy bài viết do báo chí mỹ cho biết người Mỹ vẫn chưa hiểu hay hiểu sai về chiến tranh Việt Nam. Có lẻ cuộc chiến Việt Nam vẫn để lại cho Người Mỹ rất nhiều ngộ nhận về cuộc chiến đẫm máu mà Hoa Kỳ đã mất trên 50,000 binh sĩ tại chiến trường Việt Nam. Khác với các cuộc chiến mà Hoa Kỳ đã từng tham dự. Nói chung từ đệ nhị thế chiến, Hoa Kỳ không có chiến công nào hiển hách cả. Sang Á Phủ Hãn, Iraq,..ôm đầu máu chạy, tốn không biết bao nhiêu tiền. Được cái là học được kinh nghiệm chiến tranh Việt Nam nên ít thấy hình ảnh trên đài truyền hình. Nên dư luận Hoa Kỳ không bài chống dù cuộc chiến ở Á Phú Hãn kéo dài hơn 20 năm. Khi rút lui, họ đều mừng rỡ như trút được cái nợ đời.

Mình đọc đâu đó, không biết báo tàu hay báo mỹ nói về 300,000 lính tàu tham chiến tại Việt Nam. không biết thời đánh Tây hay đánh mỹ lâu quá , không ghi chép lại, chỉ thấy lạ nên giữ thôi  hình như chỉ là hậu cần công binh làm đựng này nọ nội nuôi đám lính tài cũng khổ. Mệ ngoại mình kể thời tàu phù sang Việt Nam giải giới lính Nhật Bản họ đói và mang tận sang Việt Nam như kiến.  


lính tàu bận đồ bộ đội ra trận



Cuộc chiến Việt Nam sau 50 năm, vẫn chưa được giải mả, giải độc dư luận Hoa Kỳ. Bao nhiêu tranh cãi vẫn còn ghi dấu trong tâm thức người Mỹ. giới cánh tả vãn xem là chiến công hiển hách của họ, đã tranh đấu phản chiến. it ai lên tiếng xin lỗi các chiến binh hoa kỳ, hình như chỉ bà ca sĩ Joan Baez đã lên tiếng xin lỗi. bên pháp thì có nhà báo De Lacouture hay Olivier Todd.

Khác với những điều chúng ta biết, đúng hơn là được dạy hay tuyên truyền, gần 2/3 người Mỹ tham chiến tại Việt Nam đều tình nguyện nhập ngủ. Chỉ có 1/3 là bị nhập ngủ. Dạo đó người Mỹ phải đi quân dịch sau khi đủ 18 tuổi. Chỉ có sau này mới bãi bỏ vụ đi quân dịch, chỉ có tình nguyện tham gia quân đội. Khi xưa, mình ở Âu châu cũng có vụ đi quân dịch, nay nghe nói họ bỏ vụ này sau khi Liên Xô tan rã. 

Nhiều thanh niên nhập ngũ vì lòng yêu nước, truyền thống quân sự gia đình, hoặc để lựa chọn ngành nghề thay vì chờ đợi lệnh gọi nhập ngũ. Cơ hội kinh tế, đào tạo chuyên môn và thăng tiến trong sự nghiệp cũng là động lực thúc đẩy các tình nguyện viên.

Thực tế này làm phức tạp thêm câu chuyện đơn giản về sự phản đối nghĩa vụ quân sự của toàn dân. Mặc dù chế độ nghĩa vụ quân sự vẫn còn gây tranh cãi và bất bình đẳng, việc công nhận tỷ lệ tình nguyện viên cao mang lại cái nhìn sâu sắc hơn về việc ai đã chiến đấu và tại sao. Bush con đi lính bảo vệ quốc gia, Clinton thì trốn đi xứ khác, hình như ông Trump cũng không đi lính...

Hình ảnh những người lính trở về bị khạc nhổ và ngược đãi trên toàn dân đã bị phóng đại quá mức. Họ kêu “babies killers” vì những vụ tàn sát như Mỹ Lai đã khiến người Mỹ lên án, và từ đó phong trào chống chiến tranh. Mặc dù một số cựu chiến binh đã phải đối mặt với sự thù địch, đặc biệt là ở một số khu vực đô thị hoặc khuôn viên trường đại học, nhiều cộng đồng đã chào đón những người lính của họ trở về nhà bằng các cuộc diễu hành và sự ủng hộ.

Nghiên cứu của nhà sử học Jerry Lembcke cho thấy những câu chuyện lan rộng về các cựu chiến binh bị khạc nhổ xuất hiện nhiều năm sau khi chiến tranh kết thúc, chứ không phải trong chính cuộc xung đột. Hầu hết những người biểu tình phản chiến đều hướng sự tức giận của họ vào các chính sách của chính phủ và lãnh đạo quân đội, chứ không phải vào từng quân nhân.

Chúng ta thấy dạo này cơ quan ICE, truy lùng các người di dân lậu, khiến người Mỹ chống lại chiến dịch, ra tay chống lại, cản trở các nhân viên công lực làm việc. Biểu tình, chận nhân viên công lực. 

Sự khác biệt về khu vực đóng một vai trò quan trọng trong cách các cựu chiến binh được đón nhận, với nhiều cộng đồng nông thôn và bảo thủ thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ đối với những người đã phục vụ.

Hollywood thường chiếu phim về Việt Nam như cuộc chiến quy ước trong rừng nhưng trên thực tế thì phức tạp hơn. Quân đội Hoa Kỳ phải sử dụng các chiến lược về chiến tranh tâm lý, tuyên truyền, bình định các làng mạc thêm ngoài đụng trận với Việt Cộng. Các đơn vị hoạt động đặc biệt như Mũ xanh đã làm việc rộng rãi với người dân bản địa, huấn luyện lực lượng phòng thủ địa phương và thu thập thông tin tình báo. Chương trình Phượng hoàng đặc biệt nhắm vào cơ sở hạ tầng của Việt Cộng thông qua thu thập thông tin tình báo và các hoạt động có mục tiêu.

Lực lượng ven sông hải quân tuần tra các tuyến đường thủy phức tạp, trong khi các đơn vị kỵ binh không quân tiên phong trong các chiến thuật tấn công bằng trực thăng. Cách tiếp cận đa diện này phản ánh sự thích nghi của quân đội với một cuộc xung đột phi truyền thống, thách thức học thuyết chiến tranh truyền thống của phương Tây.

Quân đội Mỹ thực sự đã giành chiến thắng gần như tất cả các cuộc giao tranh quy ước lớn với quân đội Bắc Việt và du kích Việt Cộng. Hỏa lực, hỗ trợ trên không và huấn luyện vượt trội của quân đội Hoa Kỳ đã mang lại cho họ những lợi thế chiến thuật quyết định trong các cuộc đối đầu trực tiếp.

Kết quả của cuộc chiến không được quyết định bởi những thất bại trên chiến trường mà bởi những thất bại chiến lược và ý chí chính trị suy yếu. Nam Việt Nam cuối cùng đã thất thủ hai năm sau khi quân đội chiến đấu Mỹ rút lui, không phải vì lính Mỹ không thể giành chiến thắng trong các cuộc đấu súng.

Tình cờ mình đọc cuốn sách của ông nào ở ngoài Bắc về con đường mòn Hochiminh. Thật ra có đến 4-5 con đường mòn hochiminh, tiếp liệu cho cuộc đánh chiếm miền nam. Hóa liên Xô tiếp tế súng đạn cho họ, chở thẳng đến Hải cảng Sihanoukville rồi từ đó chuyển vận về căn cứ sát biên giới. Nghe họ kể là các tướng lãnh cao miên tham nhũng đòi tiền hoặc chia cho họ súng đến 1/3. Để hôm nào mình kể vụ này. Để hiểu lý do Việt Nam Cộng Hoà thất bại.

Sự khác biệt này quan trọng vì nó nhấn mạnh rằng chiến tranh hiện đại không chỉ đơn thuần được chiến thắng bằng sức mạnh quân sự. Các mục tiêu chính trị, sự ủng hộ của dân chúng và sự kiên nhẫn chiến lược thường quyết định kết quả cuối cùng hơn là người chiến thắng trên chiến trường. Như trường hợp Mậu Thân, Việt Nam Cộng Hoà và quân đội Mỹ chiến thắng lớn, cộng quân thất bại nặng nề, người dân miền nam không ai đứng lên tiếp tay họ để dành lấy chính quyền, ngược lại bỏ chạy mệt thở, trốn họ đến nổi họ điên tiết lên pháo kích đoàn dân chạy tỵ nạn. Nhưng về mặt chính trị, họ đã chiến thắng, tạo dựng lên phong trào chống chiến tranh Việt Nam, khắp Hoa Kỳ và Âu châu.

Có 

Cuộc chiến đã lan rộng ra xa khỏi biên giới Việt Nam, bao trùm phần lớn Đông Nam Á. Các chiến dịch ném bom ồ ạt ở Campuchia và Lào - một số được giữ bí mật với công chúng Mỹ trong nhiều năm - đã thả xuống lượng chất nổ nhiều hơn cả lượng chất nổ được sử dụng trong toàn bộ Thế chiến II.

Đường mòn Hồ Chí Minh, tuyến đường tiếp tế của Bắc Việt Nam, chạy qua hai nước láng giềng Lào và Campuchia. Lực lượng Mỹ và đồng minh đã tiến hành nhiều chiến dịch xuyên biên giới nhằm phá vỡ các tuyến tiếp tế và nơi ẩn náu của địch.

Thái Lan là nơi đặt các căn cứ không quân lớn của Mỹ, nơi các cuộc ném bom được thực hiện hàng ngày. Khi máy bay cất cánh từ phi tường Utapao, là gián điệp của Bắc việt đã biết và đánh điện cho Hà Nội. Trong khi đó, các hoạt động hải quân mở rộng khắp Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông, biến đây thành một cuộc xung đột khu vực thực sự, gây bất ổn cho nhiều quốc gia trong nhiều thập kỷ sau đó.

Không chỉ là những người nông dân bình thường với súng trường, nhiều chiến binh Việt Cộng rất kỷ luật và tinh thông chiến thuật. Ban lãnh đạo của họ thường bao gồm những cựu chiến binh giàu kinh nghiệm, những người đã chiến đấu chống lại quân đội Nhật Bản và Pháp trong nhiều thập kỷ. Tướng tá đều được điều từ Bắc việt xuống chiến trường miền nam.

Việt Cộng duy trì các hệ thống đường hầm, bệnh viện dã chiến và mạng lưới tiếp tế phức tạp khiến các nhà hoạch định quân sự Mỹ phải bối rối. Việc thu thập thông tin tình báo của họ cực kỳ hiệu quả, với những người ủng hộ trên khắp xã hội Nam Việt Nam cung cấp thông tin quan trọng. Mình đọc phần họ tiếp tế từ miền Bắc, thêm nằm vùng miền nam hay từ Cao Miên qua rất kinh khủng. Việt Nam Cộng Hoà đứng vững đến 1975 là quá giỏi.

Khả năng trà trộn vào dân thường, tấn công bất ngờ rồi biến mất của họ đại diện cho chiến tranh du kích kinh điển được thực hiện với kỹ năng đặc biệt. Lính Mỹ thường xuyên nhận xét về quyết tâm, sự tháo vát và hiệu quả chiến đấu của đối thủ bất chấp những bất lợi về vật chất.

Quân đội Hoa Kỳ đã rải hơn 20 triệu gallon chất diệt cỏ tương tự như chất độc da cam trên khắp miền Nam Việt Nam - đồng minh của Mỹ - chứ không chỉ riêng lãnh thổ của kẻ thù. Những hóa chất này đã phá hủy thảm thực vật để ngăn chặn sự ẩn náu của lực lượng đối phương và dọn sạch vành đai xung quanh các cơ sở quân sự.

Quân nhân Mỹ thường xuyên hoạt động tại các khu vực mới bị rải chất độc, vô tình phơi nhiễm với chất dioxin nguy hiểm. Người dân Việt Nam tại các khu vực bị rải chất độc đã bị ảnh hưởng sức khỏe ngay lập tức và các dị tật bẩm sinh kéo dài đến tận ngày nay. Mình thấy trên các mạng xã hội, các cựu binh sĩ Mỹ đều nhắc đến vụ này và hậu quả vẫn theo họ đến ngày nay.

Tác động môi trường nghiêm trọng đến mức nhiều khu vực rộng lớn của Việt Nam vẫn bị phá rừng trong nhiều thập kỷ. Chiến dịch hóa chất lan rộng này là một trong những chiến dịch chiến tranh môi trường lớn nhất trong lịch sử, với những hậu quả vượt ra ngoài mục tiêu chiến đấu và ảnh hưởng đến cả bạn và thù.

Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 đã gây ra tổn thất quân sự nặng nề cho cả Việt Cộng và quân đội Bắc Việt. Gần 45.000 chiến sĩ cộng sản đã thiệt mạng, mình lại nghe nói đến 300,000 nên không biết đâu là sự thật, so với khoảng 4.000 quân Mỹ và Nam Việt Nam, trên thực tế đã tiêu diệt Việt Cộng như một lực lượng chiến đấu hiệu quả.


Tuy nhiên, tác động tâm lý lên dư luận Mỹ đã biến thất bại quân sự này thành một chiến thắng chiến lược. Những thước phim truyền hình về cuộc giao tranh ở Sài Gòn và các thành phố khác trái ngược với tuyên bố chính thức rằng cuộc chiến đang diễn ra tốt đẹp.

Bài xã luận nổi tiếng của Walter Cronkite đặt câu hỏi về khả năng chiến thắng của cuộc chiến sau Tết Mậu Thân đã phản ánh bước ngoặt này. Cuộc tấn công cho thấy rằng bất chấp sự tham gia của Mỹ trong nhiều năm, lực lượng địch vẫn có thể tiến hành các cuộc tấn công phối hợp trên toàn quốc, làm suy yếu niềm tin vào chiến thắng cuối cùng. 

Ảnh hưởng của truyền thông lên dư luận về Việt Nam là đáng kể nhưng không mang tính quyết định. Các cuộc thăm dò cho thấy sự ủng hộ của người Mỹ đối với cuộc chiến đã bắt đầu suy giảm trước khi các bài viết chủ yếu mang tính tiêu cực.

Các bài viết ban đầu thực sự có xu hướng ủng hộ các bài viết chính thức của chính phủ. Chỉ sau khi khoảng cách về độ tin cậy giữa các tuyên bố của Lầu Năm Góc và thực tế xuất hiện, việc đưa tin mới trở nên quan trọng hơn.

Những mối liên hệ cá nhân với cuộc chiến - việc các thành viên gia đình đang phục vụ, các báo cáo thương vong ngày càng tăng và các chi phí kinh tế - đã định hình dư luận mạnh mẽ hơn so với việc chỉ đưa tin trên truyền thông. Mối quan hệ giữa truyền thông và dư luận rất phức tạp, với việc các nhà báo thường phản ánh những nghi ngờ hiện hữu thay vì tạo ra chúng, hoạt động như những sứ giả của một cuộc xung đột ngày càng không được lòng dân hơn là những người kiến tạo nên nó.


Phong trào phản chiến bao gồm nhiều nhóm khác nhau với những thái độ khác nhau đối với các quân nhân. Nhiều tổ chức biểu tình nổi tiếng đã tách biệt rõ ràng việc phản đối chính sách của chính phủ với thái độ đối với từng người lính.

Cựu chiến binh Việt Nam phản chiến đã trở thành một trong những tiếng nói phản chiến mạnh mẽ nhất, với hàng nghìn quân nhân trở về tham gia các cuộc biểu tình. Sự hiện diện của họ đã làm phức tạp thêm câu chuyện về người biểu tình so với binh lính.

Nhiều nhà hoạt động đã làm việc trực tiếp với các cựu chiến binh về các vấn đề như điều trị PTSD, phơi nhiễm chất độc da cam và các quyền lợi. Ghi chép lịch sử cho thấy nhiều nhóm phản chiến đã phát hành các tài liệu bày tỏ sự ủng hộ dành cho quân đội trong khi phản đối các chính sách đưa họ vào chiến tranh, thể hiện một lập trường tinh tế hơn là sự thù địch hoàn toàn đối với những người đã phục vụ.

Hoa Kỳ đã ném nhiều bom trong Chiến tranh Việt Nam hơn cả trong Thế chiến II - hơn 7 triệu tấn. Bắc Việt Nam đã phải chịu đựng các chiến dịch ném bom dữ dội hơn bất kỳ quốc gia nào từng trải qua trước đây, nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu.

Chiến dịch Thunderbold Sấm Rền và Chiến dịch Linebacker đã không thể lay chuyển quyết tâm của Bắc Việt Nam hoặc ngăn chặn sự xâm nhập vào miền Nam. Các lực lượng du kích nông thôn đã chứng tỏ khả năng chống chịu đáng kể trước sức mạnh không quân thông thường, phân tán vào rừng rậm và các đường hầm ngầm.

Nền kinh tế nông nghiệp phi tập trung của Bắc Việt Nam và sự hỗ trợ của Liên Xô/Trung Quốc đã giúp họ chống chọi được các chiến dịch ném bom. Các nhà sử học quân sự hiện nay thừa nhận rộng rãi rằng ném bom chiến lược đã mang lại hiệu quả giảm dần trong cuộc xung đột này, khiến lập luận "ném bom nhiều hơn sẽ thắng" trở nên khó hiểu khi xét đến quy mô chưa từng có của các hoạt động không quân được tiến hành.

Xung đột ở Việt Nam có nguồn gốc sâu xa hơn nhiều so với hệ tư tưởng Chiến tranh Lạnh. Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa chống thực dân Việt Nam đã được Hà Nội sử dụng qua tuyên truyền, thúc đẩy nhiều chiến sĩ đấu tranh chống lại sự thống trị của nước ngoài qua nhiều thế hệ, đầu tiên là chống lại sự cai trị của Trung Quốc, sau đó là chủ nghĩa thực dân Pháp, sự chiếm đóng của Nhật Bản, và cuối cùng là sự can thiệp của Mỹ. Mình có xem phim tài liệu giải mả về tổng thống JFK. Ông này chống lại việc Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam. Lý do là khi ông ta làm thượng nghị sĩ được thượng viện Hoa Kỳ gửi đi Việt Nam để xem xét tình hình, có nên giúp Pháp quốc ở chiến trường Đông-Dương. 24 tiếng đồng hồ sau khi ký sắc lệnh rút các cố vấn Mỹ tại Việt Nam về thì ông ta bị ám sát. Cũng như trước đây tổng thống Ngô Đình Diệm, không muốn Hoa Kỳ đưa quân qua Việt Nam nhiều.


Chính quyền miền Nam Việt Nam dưới thời những nhân vật như Ngô Đình Diệm mang tính độc tài hơn là đại diện dân chủ. Nhiều người miền Nam không hoàn toàn ủng hộ phe nào, bị kẹt giữa các quan chức chính phủ tham nhũng và những người cách mạng cộng sản. Họ thành lập thành phần thứ 3 và bị loại khỏi vòng chính trị ngay sau 30/4/75.

Các yếu tố tôn giáo càng làm vấn đề trở nên phức tạp hơn, với căng thẳng Phật giáo-Công giáo và chính trị dân tộc thiểu số ảnh hưởng đến lòng trung thành. Khuôn khổ dân chủ-cộng sản được đơn giản hóa đã không nắm bắt được những động lực địa phương phức tạp này, những yếu tố cuối cùng đã tỏ ra quyết định trong việc quyết định kết quả của cuộc xung đột.

Thuyết domino dự đoán rằng nếu miền Nam Việt Nam rơi vào tay chủ nghĩa cộng sản, các nước láng giềng chắc chắn sẽ đi theo như những quân cờ domino đổ. Sau khi Sài Gòn sụp đổ vào năm 1975, Lào và Campuchia đã trở thành cộng sản, dường như đã xác nhận lý thuyết này.

Tuy nhiên, các quốc gia Đông Nam Á khác như Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia và Philippines đã thành công trong việc chống lại sự tiếp quản của cộng sản. Các quốc gia này đã thực hiện các chiến lược chống cộng sản của riêng mình trong khi phát triển kinh tế, chứng minh rằng điều kiện địa phương quan trọng hơn vị trí gần các quốc gia cộng sản.

Bản thân Việt Nam sau đó đã cải cách nền kinh tế theo định hướng thị trường và hiện vẫn duy trì mối quan hệ tích cực với Hoa Kỳ. Kết quả trái chiều này cho thấy học thuyết domino đã đơn giản hóa quá mức các động lực khu vực phức tạp và đánh giá thấp hoàn cảnh và khả năng tác động riêng biệt của mỗi quốc gia.

Những tội ác như Thảm sát Mỹ Lai, nơi quân đội Mỹ giết hại hàng trăm thường dân Việt Nam, đã xảy ra và đại diện cho những tội ác chiến tranh thực sự. Tuy nhiên, những sự việc như vậy chỉ là ngoại lệ chứ không phải là thông lệ tiêu chuẩn đối với 2,7 triệu người Mỹ từng phục vụ tại Việt Nam.

Hầu hết các đơn vị Mỹ hoạt động theo các quy tắc giao chiến được thiết kế để giảm thiểu thương vong dân sự, mặc dù những quy tắc này đôi khi khó tuân thủ trong điều kiện chiến tranh du kích. Nhiều cựu chiến binh nhớ lại việc đã tích cực làm việc để bảo vệ thường dân Việt Nam và xây dựng mối quan hệ với cộng đồng địa phương.

Tom Hayden Phản chiến

Sự phức tạp về mặt đạo đức của chiến tranh chống nổi dậy, nơi kẻ thù không mặc quân phục và đôi khi sử dụng thường dân làm lá chắn, đã tạo ra những tình huống khó xử về đạo đức thực sự cho quân đội. Việc nhận ra sắc thái này không phải là lời bào chữa cho những hành động tàn bạo đã được xác minh, mà là bối cảnh để hiểu được các khía cạnh đạo đức của cuộc xung đột.

Chiến tranh Việt Nam không phải là một cuộc xung đột vô nghĩa, mà đã thay đổi căn bản xã hội và thể chế Mỹ. Quân đội chuyển sang lực lượng tình nguyện, chấm dứt chế độ nghĩa vụ quân sự đã tồn tại từ Thế chiến II.

Về mặt chính trị, Đạo luật Quyền hạn Chiến tranh đã hạn chế quyền điều động quân đội của tổng thống mà không có sự chấp thuận của Quốc hội. Truyền thông ngày càng hoài nghi về các tuyên bố của chính phủ, tạo nên mối quan hệ đối đầu với các nguồn tin chính thức, kéo dài đến ngày nay.

Trải nghiệm của các cựu chiến binh Việt Nam đã dẫn đến việc công nhận PTSD là một tình trạng bệnh lý và cải thiện các dịch vụ dành cho cựu chiến binh. Về mặt văn hóa, cuộc chiến đã khơi mào những cuộc tranh luận dai dẳng về lòng yêu nước, bất tuân dân sự và vai trò toàn cầu của Mỹ, những vấn đề vẫn còn ảnh hưởng đến nền chính trị của chúng ta. Những hậu quả lâu dài này khiến Việt Nam trở thành một trong những cuộc xung đột có hậu quả nặng nề nhất của Mỹ, bất chấp kết quả gây tranh cãi của nó. (Còn tiếp)


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Phát triển để tự sát

Người ta hay nói đến các đế quốc như Anh quốc, Pháp quốc,.. nhưng hay quên Tây Ban Nha từng là một đế quốc, đem quân đi chiếm đóng khắp nơi, á châu có Phi Luật Tân, Mỹ Châu, và phi châu,.. ngày nay các nước nói tiếng Tây Ban Nha đông nhất thế giới. Mình hay thắc mắc tại sao một đế quốc giàu sang, thậm chí thời đế quốc la mã, xứ này đã giàu có nhất đế chế la mã, có nhiều vị hoàng đế như Trajan, Hadrian,…


Như người ta hay nói ai giàu ba họ ai khó ba đời, có thịnh thì lại có suy.

Ngày nay Tây Ban Nha có độ trên 47 triệu người, GDP quốc gia là trên $1.2 ức và có hệ thống đường xe lửa cao tốc đứng thứ nhì trên thế giới sau Trung Cộng. Mình có đi Uzbekistan và Tây Ban Nha đã xây cho họ đường xe lửa cao tốc, rất tốt. Nếu xây cao tốc thì nên nhờ người Tây Ban Nha xây, tuy đắt hơn anh ba tàu như chất lượng bền. Mình xem video bên tàu xe lửa cao tốc của tàu có thể chạy 300 cây số nhưng vì bị tai nạn nên họ chỉ cho chạy 200 km. Tây Ban Nha có lượng du khách viếng trên 100 triệu người mỗi năm, gấp đôi dân số của xứ này, khiến dân tình chống đối vì làm giá thuê nhà gia tăng cho dân địa phương. Thấy video dân tình chửi bới du khách ở Barcelona….


Vấn nạn ngày nay là Tây Ban Nha chỉ có 10% dân số sinh sống trên 70% diện tích của quốc gia. Nếu nhìn ban đêm thì chỉ thấy các vùng cạnh Barcelona, Madrid,… mấy thành phố lớn là có ánh đèn sáng còn ngoài ra thì mù mịt như hình ảnh Nam Hàn và Bắc Hàn.



Người Tây Ban Nha gọi hiện tượng dân số ngày nay là Espanovacia, tạm dịch là Tây Ban Nha trống không. Ở vùng quê, tỷ lệ dân số với đất đai ít hơn cả các nước Bắc Âu hay tiểu bang Kansas. Có lần thiên hạ gọi mình kêu bán cái tiệm 1 Dollar ở Kansas. Mình xem thành phố chỉ có gần 2,000 người dân nên khỏi cần đi xem cũng từ chối.


Vấn nạn này không gây ra bởi thiên tai mà bởi các kế hoạch phát triển của chính phủ xứ này từ 60 năm qua. Nhà ở quê giá bán rẻ như bèo. Tương tự ở Ý Đại Lợi, nghe nói có nhiều làng bán nhà với giá 1 Euro với điều kiện phải sửa chửa chi đó đến mấy trăm ngàn. Ai ở Việt Nam muốn qua Âu châu, chỉ cần mua nhà 1 Euro rồi bỏ tiền sửa, có giấy tờ hạ cánh an toàn.


Lấy thí dụ vùng Selta Burga, có diện tích bằng tiểu bang Virginia có 1.8 triệu dân cư thì vùng này chỉ có gần 500,000 dân cư. Hay 8 dân cư cho mỗi cây số vuông.


Phải nói về địa lý của Tây Ban Nha, có rất nhiều đồi núi như Thuỵ Sĩ và Áo quốc. Nhưng đồi núi của Tây Ban Nha ngoài phía Bắc ngay biên giới Pháp quốc, thì đồi núi ở xứ này cắt ngang xứ này nên gây trở ngại cho việc lưu thông.

Thủ đô Madrid nằm ở giữa, thấy địa hình phía Bắc là dãy núi Pyrénées rồi vòng vòng có thêm nhiều dãy núi


Tò mò mình kiếm thêm tài liệu thì được biết mấy vùng bị gần như bị bỏ hoang ngày nay, bao nhiêu thế kỷ qua là vùng nông nghiệp. Các vùng này chỉ có độ 50 người dân cư thì trước đây nuôi sống cả mấy trăm gia đình. Sự thay đổi không phải tự nhiên mà do chính sách hoạch định của chính phủ.

Valle de los caidos gần Madrid, ddai tưởng niệm liệt sĩ bên thắng cuộc còn bên thua cuộc chả được gì cả. Sau gần một thế kỷ con cháu cũng chả được nhắc đến

Khi mình đi viếng Tây Ban Nha nĂm 1978 khắp xứ này trong vòng 3 tháng hè thì nhận thấy hệ quả của cuộc nội chiến, chấm dứt từ năm 1939 vẫn tồn tại và gây nhiều ảnh hưởng. Sau cuộc chiến thì ông Francisco Franco thành lập một chính quyền phát xít gần 40 năm. Phát triển theo kiểu bế môn toả cảng. Không tham gia Liên Hiệp Quốc. Kiểu tự cấm vận vì sợ ảnh hưởng của cộng sản đang hoành hành ở Âu châu. Thanh lọc các tàn dư của phe thua cuộc. Khi mình sang pháp năm 1974, 25% cử tri pháp bầu cho Đảng cộng sẩn và 35% cử tri Ý Đại Lợi bầu cho Đảng cộng sản. Trước khi mình rời Âu châu thì người dân Tây Ban Nha bầu cho Đảng xã hội khiến quân đội chiếm đóng quốc hội đến khi ông vua Juan Carlos lên đài truyền hình ra lệnh binh lính trở về doanh trại mới cứu vãn được nền dân chủ mới được thành lập sau khi El Gaudillo qua đời. Sau này người ta khui ông vua Carlos này đủ trò, tham những này nọ. 


Cũng phải giải thích là xứ này có nhiều vùng thời mình ở Âu châu, đòi tự trị. Lâu lâu thấy bom nổ đủ trò như ở vùng Basque, Catalunya,… nói chuyện với người dân thì bên thua cuộc chã được gì cả. Đất nước xem như thuộc bên thắng cuộc. Bên thua cuộc không được tham gia hay làm chức lớn gì cả. Mình có ghé Valle de Los Caidos, nơi họ làm đài tưởng niệm những người chết vì cộng sản còn phe theo cộng sản thì ở tù sau được thả rồi sống lây lấy qua ngày. Mình có xem một phim tả cảnh anh chàng theo cộng sản trốn trong nhà vợ nuôi mấy chục năm. Vì sợ ra đường là dân phát xít xơi tái. 


Mình về trường, thiết kế một đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam ở Mũi Cà Mau qua đồ ăn tự do. 


Đến năm 1959, ông Franco mà họ gọi El Gaudillo mới đột phá tư duy, phải kỹ nghệ hoá đất nước, phải đổi mới, không ăn mừng trên chiến thắng phe thua cuộc Hoài . Họ tập trung vào những nơi để phát triển. Ngoại quốc bắt đầu nhảy vào đầu tư. Năm 1949, Tây Ban Nha chỉ có 49,000 chiếc xe hơi, đến giữa thập niên 1960, số này lên đến hơn 1 triệu. Những năm này, Tây Ban Nha được xem là một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất thế giới cùng với Nhật Bản.


Các hạ tầng cơ sở được xây dựng, tập trung vào các thành phố lớn. Chính sách kinh tế tập trung khiến dân cư ở vùng quê chạy ra thành phố kiếm công ăn việc làm và có đời sống tốt hơn ở làng quê. 


Thống kê cho thấy sau 20 năm thì dân cư ở thôn quê giảm từ 43% xuống 27%. Nhiều làng quê mất giới trẻ có sức lao động , chỉ để lại người già và con nít. Vụ này mình thấy tương tự như ở Trung Cộng, khi Đặng Tiểu Bình kêu gọi phát triển. Có anh bạn gốc Chợ Lớn kể về quê cha để tiếp tục cơ sở trồng trà của gia đình từ mấy đời. Kiếm không ra người làm vì trai tráng đều ra thành phố lớn kiếm việc làm vì vui, chớ ở quê thì Chán Mớ Đời . 


Hay về quê mình thấy dân trong làng đi vào nam lập nghiệp khá đông hay lao động nước ngoài. Ở quê còn mấy chú họ hưu trí. Nay quê mình được sát nhập vào Hà Nội nên giới trẻ đi làm ở trung tâm Hà Nội tối về làng ở. Nếu không chắc bỏ nhau Đi hết. 


Nhớ khi xưa, mình viếng vùng Munster, Alsace, có quen 2 cô đầm. Sau này trở lại thăm, trước khi đi Anh quốc thì thấy hai cô đều cặp Bồ với hai ông Tây đen vì trai trong làng ra Paris, Strasbourg kiếm việc làm. Còn mấy ông Tây đen làm trong hãng xưởng ở Mulhouse, cuối tuần chạy lại thành phố có fromage nổi tiếng tán gái nhờ tình trạng trai thiếu gái thừa. Mấy chục năm nay không liên lạc nay chắc lấy chồng phi châu hết. 


Sự việc gây ra hậu quả trầm trọng đến ngày nay. Họ để lại người già, không có nhân công để làm kinh tế vùng quê trong làng hoạt động, học sinh không có trường lớp. Y sĩ, nha sĩ không ai về quê mở phòng mạch. .. đưa đến tình trạng giảm dân số đến ngày nay.


Ngoài ra còn môi trường không được canh tác hay rừng không được người nông dân chăm sóc, dọn dẹp nên gây nhiều hỏa hoạn cháy rừng mà cách đây mấy năm nghe đến. 


Khi một làng mất số lượng thanh niên, không những mất dân số của làng mà còn mất luôn cả tương lai. Các người lớn tuổi ở lại, không thể tiếp tục các hoạt động kinh tế, bắt đầu đóng cửa rồi đến các trường học. Học sinh phải đi xa để tiếp tục học khiến cuộc sống ở làng không thể đáp ứng được với cuộc sống hiện đại của người dân. Rồi đến ông làm bánh mì về hưu, không có ai truyền nghề lại. Kết quả ngày nay 5,000 trên 8,131 đô thị, chưa có đến 1,000 dân cư. Độ trên 1,400 được xem là có nguy cơ biến mất vì dân số dưới 100 tuổi và không có sinh sản gì cả. Các nơi này sẽ biến mất sự sống dù đã được thành lập từ thời trung cổ. Xem các thống kê thì các ngôi làng này mất dân cư rất nhiều vào thập niên 60 và 70 của thế kỷ trước. Khi chính quyền bắt đầu hoạch định chương trình phát triển kỹ nghệ hóa Tây Ban Nha. 


Nếu du lịch xứ này chúng ta sẽ thấy hệ thống hạ tầng cơ sở rất tối Tân, hệ thống xe lửa cao tốc 300 cây số chỉ thua Trung Cộng. Thủ đô Madrid được xem là trung tâm kỹ nghệ chính của Âu châu với hệ thống fiber optic và 5G có thể sánh với  thế giới. Nhưng nếu lái xe đi ra ngoài mấy thành phố lớn thì người dân chả có gì cả. Có những vùng xe lửa cũ kỷ vẫn được sử dụng, xe chạy độ 30 cây số một giờ. Dân xứ này nổi điên khi thấy trên mạng xã hội quay cảnh xe máy cày chạy nhanh hơn xe lửa miền quê. Hệ quả của sự phát triển tập trung trung ương. 


Nghe nói Việt Nam Dạo này sát nhập các tỉnh thành lại với nhau. Xem như tập trung lại thì nguy cơ có thể có nhiều hệ quả khó lường trước. Chính quyền ở ngay Đà Lạt mà đã phá banh ta lông xứ mộng mơ một thời. Nay chính quyền dời về Khánh Hoà thì lại càng xa, ông đầu tỉnh năm lên viếng vài lần là ngọng thêm. 


Họ đưa ra thí dụ một làng của ông Jose. Vào những năm 1950, khi ông ta còn trẻ ngôi làng này có 800 dân cư, 5 quán bar, hai tiệm bán bánh mì, 3 tiệm bán thực phẩm thậm chỉ có rạp chiếu bóng cho dân xem vào ngày chủ Nhật . Này Ông ta 67 tuổi hưu trí cũng như các người khác trong làng. Ông ta cho biết đứa bé cuối cùng được sinh ra trong làng cách đây 12 năm. Và gia đình này đã dọn đến thành phố lớn. Trong làng không có bác sĩ, tiệm tạp hóa chợ, không trường học. Mỗi tuần hai lần có một ông bán dạo , lái xe qua làng bán những đồ cần thiết cho dân sống sót. Mình có xem một phim kể một ông người Ý Đại Lợi tậu chiếc xe để chở sách làm thư viện di động chạy làng này qua làng khác trong tuần để cho mượn. Sách cả người già không có Internet ở quê. Không biết nhà thờ có gửi các ông cha đến mấy làng này hay không   


Họ tính ra trong các làng 140 người nam chỉ có 100 người nữ. Lý do phụ nữ chạy ra thành phố để làm việc đeo đuổi nghề nghiệp của họ. Biến các cùng làng quê toàn là đàn ông. Mình có viếng Madrid năm 1978, nay nghe nói thủ đô này nhiều đồng tính lắm. Chắc vì lý do này. Kiếm không được phụ nữ thì đành theo đàn ông. 


Kỹ nghệ hóa canh nông đã khiến các máy cày thay thế các nông dân khi xưa thường di chuyển từ làng này qua làng kia để làm việc theo mùa. Nên canh nông phát triển và rẻ so với mấy nước Âu châu phía Bắc. Nhớ khi xưa ở Âu châu hay thấy rau quả từ Tây Ban Nha rẻ. 


Năm 1986 khi Tây Ban Nha gia nhập cộng Đồng Âu châu, phân phối mỗi nước canh tác đại trà khác với cách thức canh tác của các nông trại nhỏ từ bao thế hệ. Trợ cấp từ Âu châu đến các công ty lớn còn mấy địa chủ nhỏ thì ngọng kiểu ở Hoa Kỳ. Các công ty thực phẩm lớn vớt hết các trợ cấp của chính phủ. Bao nhiêu ngành công nghiệp của kinh tế đều tập trung ở các thành phố. Dần dần miền quê của Tây Ban Nha không còn sự đóng góp vào nền kinh tế Âu châu. 


Thêm Tây Ban Nha áp dụng chiến dịch sử dụng năng lượng xanh nên quạt gió được dàn dựng khắp nơi. Tháng 4 vừa rồi Tây Ban Nha bị cúp điện nên thiên hạ bò ra đường sinh hoạt nhảy múa nấu ăn ngoài đường. 


Du lịch đem lợi nhuận vào mùa hè nhưng cũng chỉ có các thành phố lớn là hưởng lợi. Sự toàn cầu hóa hay Âu châu hóa đã bỏ rơi các vùng quê Tây Ban Nha khiến người dân phản kháng. Nghe nói đâu có trên 100,000 người biểu tình đòi chính phủ đếm xỉa đến họ. Có phòng trào gồm 120 diễn đàn tổ chức mang tên Revua da Espagna Vasiada lên tiếng đòi can thiệp việc suy giảm dân số ở vùng quê đã giúp chính phủ thành lập thêm một bộ để nghiên cứu việc này. Lại thêm hành Chánh trung ương. 


COVID 19 xảy ra. Dân tình chạy về quê tránh nạn và cảm thấy đời sống ở đây thích hợp hơn nếu có hạ tầng cơ sở như Internet. Tây Ban Nha thấy sự phát triển về Internet từ 6% năm 2015 lên đến 79% năm 2023. Hy vọng sẽ giúp dân tình trở lại quê xưa sinh sống. Học thì có Internet qua mạng. 


Nhiều làng mạc lợi dụng sự việc và kêu gọi người dân thành phố trở lại miền quê như cho nhà không, giảm thuế này nọ. Các gia đình trẻ tìm thấy nhà cửa rẻ hơn thành phố và rộng lớn hơn nhưng có lẻ đã quá trễ để lật ngược tình thế dân số của Tây Ban Nha. 


Về cử tri thì các cùng quê tính ra có đến 4 lần nhiều hơn dân thành phố. Vấn đề toàn là người già nên họ chỉ chú tâm kiếm phiếu với các luật về hưu trí để mị dân. Ngày nay tỷ lệ sinh sản của người Tây Ban Nha cũng giảm nhiều nghe 1.14 trong khi họ cần đến tỷ lệ 2.1 để cân bằng dân số. Có lẻ vì vậy họ khuyến khích di dân. Có anh kia quen, đầu tư vào Hoa Kỳ theo chương tình EB5, có thẻ xanh nhưng cuối cùng chương trình đầu tư nghe nói bị lừa, luật sư ăn hết không thành công nên chưa vào quốc tịch Hoa Kỳ được nên phải chạy qua Tây Ban Nha mua nhà, có giấy tờ ngay và sau 5 năm thì vào quốc tịch.


Ví dụ sự phát triển của Tây Ban Nha có thể giúp các nước trên thế giới học bài học về phát triển. Phải để ý đến sự phát triển các vùng xa, miền quê. Lý do là vùng quê, miền xa là nơi còn tồn tại văn hoá ngàn năm của dân tộc, bỏ hết thì chúng ta sẽ mất bản thể của chúng ta và sẽ bị tha hoá, khủng hoảng căn cước một đời. Chưa nói đến thế hệ con cháu mình.


Mình viếng 3 xưa Trung Á vừa qua, thấy họ đang phát triển nhanh sau khi dành độc lập từ khi liên Xô tan rã. Thay vì uống trà, nay thiên hạ uống CoCa cola nhiều hơn. Từ từ họ sẽ bị toàn cầu hóa và mất đi bản sắc của họ. Hay xem Trung Cộng ngày nay, các hình ảnh trên mạng xã hội cho thấy họ mất hoàn toàn bản thể của cha ông khi ra thành thị rồi nay kinh tế te tua, chỉ biết ra đường ngủ. Chán Mớ Đời 


Nên nhớ khi xưa, Tây Ban Nha bị người Bắc Phi, đạo hồi giáo chiếm đóng 400 năm. Nay dân số suy giảm thì có thể từ từ người hồi giáo , phi châu sẽ cai quản vùng đất này như tổ tiên họ khi xưa. 1000 năm sau, ai học sử địa sẽ học về ngày tàn của đế chế Tây Ban Nha và bị người di dân từ Bắc Phi cai trị. Ngày xưa khi em đi chơi ở Tây Ban Nha thì không thấy người da đen hay hồi giáo nhưng nay thì thấy trong đội banh quốc gia của họ có rất nhiều cầu thủ gốc phi châu. Như cầu thủ Hakimi, hay thần đồng Yamal,… nghe nói Daoj này mấy người đến từ Bắc phi, buồn đời hay kéo mấy ông hài Tây Ban Nha đánh chơi cho vui nên dân tình bắt đầu gậy gộc Xuống đường khiến truyền thông kêu phát xít cực hữu. Có lẻ không nên ghé Tây Ban Nha dạo này cho chắc ăn. 


Nghe nói họ đang dự tính xây một đường hầm từ Ma-rốc qua eo biển Địa Trung Hải. Nhớ khi xưa đến Algeciras, Hải cảng của họ cuối đất nước như Cà May của Việt Nam Cộng Hoà. Đứng nhìn thấy bên kia bờ biển là Tangier nên em buồn đời, xuống tàu đi qua đó, gặp ông kiến trúc sư Võ Toàn, tốt nghiệp kiến trúc tại Paris  xong bò qua xứ này sinh sống. Vẽ đủ thứ cho xứ này. Ông  ta kêu mình ở lại vẽ cho ông ta nhưng trả bèo quá nên em về Paris rồi đường đời đưa em qua Thuỵ Sĩ rồi…cuối đời làm nông dân.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắn sơn tử

 

Hai chai bia đổi lấy nhiều mạng người

TWO BOTTLES OF BEER

   By

      Sgt. Nguynh van Cu'

       as told to Tony Spletstoser

 

 Ông Tony Spletstoser, cựu chiến binh tại Việt Nam viết lại theo lời kể của ông Nguyễn Văn Cư trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Mình chắc tên ông ta là Cư vì trong một bài khác, ông ta nhắc đến tên người chị tên “An”. Gia đình có 4 chị em, chắc bố mẹ đặt tên An Cư Lạc Nghiệp.


Chúng tôi đóng quân ở căn cứ của lực lượng đặc biệt, cạnh núi Khỉ phía trên quân cảng của Đà Nẵng. Bạn tôi và 5 đồng đội mới trở về căn cứ sau một cuộc nhảy toán khá nguy hiểm. Họ được thẩm vấn về cuộc trinh sát ở chỗ Việt Cộng đóng quân. hôm trước, xem một phim người nhái Hoa Kỳ thì cũng thấy một toán gồm 6 người.


Họ thoát chết trở về cho thấy các cuộc huấn luyện kỹ lưỡng đã giúp và minh chứng giữa thành công và thất bại. Sau phần thẩm vấn họ mệt mỏi nên ghé qua căng tin tìm đồ gì ăn và thức uống lạnh. 


Bạn tôi hỏi người lo phần căng tin nấu gì cho cả toán ăn rồi tiện tay mở phía sau quầy xem có gì uống thì thấy hai chai bia. Anh bạn sáng hai con mắt kêu hỏi trung sĩ có hai chai bia. Trung sĩ, anh nuôi kêu không được hai chai này của chỉ huy dành cho khách quý. Anh bạn tôi nói giờ đã 10 giờ đêm và ông ta đã ngủ. Không ai đến viếng cấp trên trước sáng ngày mai. Tôi đưa tiền anh, mai anh đi chợ mua 2 chai khác thế lại.

Trại LLĐB tại Plei Mei , Komtum. Mình thấy danh sách trại LLĐB khá nhiều khắp miền Nam, đông nhất vẫn là ở miền Trung

Ông trung sĩ buồn đời, chắc tối khuya mà phải nấu nướng cho mấy ông thần này, kêu bia này không bán. Anh không được lấy. Cũng có lý nhưng lính mới đi trinh sát 8 ngày, chỉ có cơm khô gạo sấy trong rừng về, suýt chết nên Ông ta có thể du di sớm mai đi mua bù lại. Anh bạn tôi cố giải thích cho anh nuôi ở căng tin là chúng tôi mừng quá, sống sót trở về nên muốn ăn mừng. Tôi đưa anh tiền để mai anh mua bù lại cho vị chỉ huy. Đồng ý. Không đồng ý. Bia này là của cấp trên, không được đụng đến. Thế là có chuyện. Chuyện bé xé ra to.


Anh bạn tôi nói tôi mệt mỏi cãi nhau với anh. Tui lấy hai chai bia này rồi anh muốn làm gì thì làm. Ông thượng sĩ nổi máu khùng lên chửi thề đủ trò rồi bỏ đi. Ông thần nổi điên vì có người cãi lệnh mình nên bò lên phòng của cấp chỉ huy và đánh thức ông này dậy. 


Ông này đang ngủ ngon lành bị đánh thức dậy nên điên tiết lên bận áo quần rồi lận cây súng vào lưng quần rồi đi theo ông thượng sĩ già đến câu lạc bộ. Ông thần đi vào, la lớn kêu mấy anh rời chỗ này ngay. Anh bạn tôi kêu dạ để tụi em ăn tô bún và uống xong rồi đi về. Ông thần hét to kêu phải rời khỏi chỗ này ngay lập tức nếu không tôi bỏ tù. Bỏ tù thì khỏi ra trận.


Đó là điều không nên thốt ra. Thường chúng tôi rất kính trọng cấp chỉ huy và các sĩ quan. Nhưng đồng thời cấp trên cũng thông cảm và hiểu cấp dưới. Phải đi hai chiều mới toại lòng nhau. Mấy người lính bỏ chai bia xuống. Vị sĩ quan quay gót và bỏ về, theo sau ông Trung sĩ. Không khí đang vui bổng chuyển qua nặng nề vì sự hiểu lầm hay sĩ quan phản ứng hơi quá qua các lời tố giác của vị trung sĩ anh nuôi.


Vị sĩ quan này biết mấy người này đã trải qua 8 ngày ở địa ngục khi đi thám sát ở căn cứ đóng quân của Việt Cộng vì ông ta mới thẩm vấn họ hồi chiều khi họ được trực thăng bốc về căn cứ. 


Sau khi ăn xong tô bún và uống hết hai chai bia. Mình đoán là chai bia con cọp chớ bia 33 thì nốc một cái là hết. Mấy người lính trở lại doanh trại. Họ biết là sẽ có chuyện lớn nhưng mặc kệ vì họ quá mệt mỏi sau chuyến đi. Trong khi mấy người kia đi ngủ thì bạn của tôi lấy cây súng AK-47 và lấy thêm 30 viên đạn. Bạn tôi bực tức vì vị cấp trên làm khó dễ chỉ vì 2 chai bia. Dù biết họ đã trải qua 8 ngày ở địa ngục. 


Ông trung sĩ không chú tâm đến công lao của mấy người lính vừa từ căn cứ của Việt Cộng trở về. Thêm Ông sĩ quan thì bực tức nghe lời ông trung sĩ đôn hót lại.


Bạn tôi lấy súng và rời doanh trại và đi lại căng tin trong đêm tối. Thấy vị sĩ quan, thượng sĩ và quân cảnh đứng trước cửa. Vị sĩ quan thấy bạn tôi thì nổi điên lên, bảo anh ta đi về doanh trại vì chúng tôi đang bận, bàn bỏ tù mấy anh về tội gì. Anh bạn tôi chậm rãi, nói không cần nữa và bắt đầu bắn vị sĩ quan rồi đến thượng sĩ và những người khác. Có một người thoát chết khi thấy bắn nên thụp người xuống và trốn đi cửa sau. 


   Bạn tôi trở về doanh trại. Chúng tôi không ai biết chuyện gì xảy ra vì chúng tôi quen tiếng súng trong căn cứ. Lính bắn thử súng đêm ngày. Bạn tôi ghé lại chỗ chúng tôi ngủ và chậm rãi nói. Tụi bây không phải lo nữa, tao đã thanh toán mọi việc. Sau đó trở lại căng tin nơi các xác chết nằm la liệt. Anh bạn chỉa mũi súng AK dưới cằm và bóp cò. Viên đạn bay qua đầu. Một đồng ngủ thức giấc và chứng kiến mọi việc nên chạy lại băng bó cho anh bạn. Anh ta vẫn còn sống, thều thào đừng cứu tao rồi lột băng ra. Họ kiếm được chiếc xe jeep chở anh bạn ra bệnh viện Đà Nẵng nhưng khi đến nơi thì bạn tôi đã tắt thở. 


Bạn tôi đã làm một điều không đúng nhưng đã lãnh trách nhiệm chung cho chúng tôi. Sau đó, các sĩ quan đều được thay thế và các sĩ quan được gửi đi họp về cách cư xử với lính lực lượng đặc biệt vì rất khó thay thế các người lính lực lượng đặc biệt so với hai chai bia quá đắt. 


 Có sự khác biệt giữa binh sĩ mỹ và Việt Nam Cộng Hoà được nuôi ăn. Lính Mỹ có đầu bếp, nhà bếp và có nhà ăn trong khi lính Việt Nam Cộng Hoà thì mỗi tháng cấp trên thâu tiền của binh sĩ và giao cho hai người lo việc đi chợ và nấu ăn cho binh sĩ. Vì trong trại lính không có tủ lạnh nên thường họ phải đi chợ mỗi ngày. Sau đó thì các binh sĩ chia phiên dọn ăn cho mọi người. Chuyện này không có gì phiền toái vì lực lượng đặc biệt ít người. Dân sự không được phép vào căn cứ.  


Còn quân đội thường thì họ có nhà thầu tư nhân nấu ăn và lo vụ phát thức ăn trong căng tin. Thường tiền binh sĩ đóng góp hàng tháng hay bị đi lạc vào túi các sĩ quan có nhiệm vụ lo thức ăn cho binh sĩ và mấy người có nhiệm vụ đi mua thức ăn. Do đó súp và thức ăn có phần ít ỏi hơn. Do đó ông trung sĩ lo vụ căng tin nghĩ mình là cha thiên hạ trong căng tin trở thành một PX nhỏ để buôn bán thêm lính việt ít lương nên đâu có tiền mua sắm như lính Mỹ trong PX. Theo tôi thì ông trung sĩ lo căng tin làm quá với mấy người lính mới sống sót trở về từ mặt trận.


Bạn tôi rất bình tỉnh  như các binh sĩ của Lực Lượng Đặc Biệt vì được huấn luyện không để sự nóng giận làm chủ mình. Tối nay anh ta không tỏ vẻ tức giận hay lớn tiếng. Nhưng có những điểm mà con người không thể bị đẩy vào chân tường. Có điều tôi rất ghét mà không bao giờ nói cho ai, nhiều khi chúng tôi nhận lệnh nhưng biết là sai. Như các đặc vụ vô ích mà cấp trên hay sĩ quan ngồi văn phòng ở căn cứ đột phá tư duy, đưa người vào chỗ chết. Tôi không muốn nói nhiều vì nghĩ chúng tôi đều huynh đệ chi binh cả.


Các sĩ quan đều lên chức qua chiến trận như chúng tôi nhưng khi họ lên cấp chỉ huy thì họ thay đổi và quên sự việc trong rừng. Ngay khi chúng tôi có tài liệu là sĩ quan ở bộ chỉ huy sai, chúng tôi không dám nói vì có thể được đưa đến các mục tiêu rất nguy hiểm và không bao giờ được trực thăng đến bốc về cả.


Khi cuộc chiến gần kết thúc, chúng tôi khám phá ra có nằm vùng trong bộ não chỉ huy. Cho dù chuyện gì xẩy ra chúng tôi vẫn thi hành nhiệm vụ, chống giặc. Tôi không bao giờ quên anh bạn được. Anh ta là một người đàn ông tốt, một chiến sĩ giỏi, can trường. Anh ta bị đưa vào chân tường nhiều lần. Vị sĩ quan và anh nuôi đã được huấn luyện và có kinh nghiệm, phải hiểu biết hơn. Mấy người này vừa trở về sau một chuyến đi đầy khó khăn, và họ đã xoay sở rất hay để thoát hiểm. Adenalin khiến họ như đang sử dụng ma tuý. Lẽ ra họ biết rằng là đừng bao giờ làm những điều  như chọc giận mấy người này trong tình trạng đó. Những người đàn ông vừa thoát hiểm trở về như chết đi sống lại. Sự việc đẩy bạn tôi khỏi tầm kiểm soát của mình. Tôi có nghe những bi kịch tương tự trong các đơn vị lực lượng đặc biệt của Mỹ. Đừng bao giờ dây dưa với một người vừa trải qua một ngày vô cùng tệ hại. Chán Mớ Đời 


Đọc câu chuyện này mình mới hiểu khi xưa, mấy người lính đi trận về thành phố hay đập lộn. Có thể một người bạn đồng đội vừa tử trận, họ đang buồn thì thấy mấy người dân sự trong thành phố như học sinh sinh viên, để tóc dài, kêu gọi hòa bình không chiến tranh này nọ. Chán Mớ Đời 

 Ban nhạc Băng Sao băng có bài hát về thành phố rất hay.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen tôi 

Hắc sơn tử