Showing posts with label Mekong. Show all posts
Showing posts with label Mekong. Show all posts

Tư bản thế kỷ 21

 Nói chuyện người Mỹ lớn tuổi, đã từng trải nghiệm thời đại suy thoái kinh tế (great depression), họ cho biết dạo ấy kinh tế te tua nhưng họ vẫn còn hy vọng vào tương lai nhưng ngày nay thì họ không còn một tia hy vọng nào. Đa số chạy theo ảo vọng của các chính trị gia hứa cuội để được đắc cử.

Hoa Kỳ, trong tương lai ở thế kỷ 21, sẽ không còn là một quốc gia dẫn đầu thế giới về công nghệ như ở thế kỷ 20. Chúng ta đang tiến dần vào một cuộc cách mạng công nghệ về thông minh nhân tạo mà Trung Cộng đã dẫn đầu về các chip điện tử mà chúng ta thấy trong đại dịch vừa qua, máy móc phương tây, xe cộ đều sử dụng bởi các chip điện tử bị đình trệ.


Hoa Kỳ tìm cách làm đình trệ Trung Cộng phát triển hệ thống 5G. Họ lên án Trung Cộng tóm hết các dữ liệu cá nhân trong khi các công ty như Google, Facebook,…đều lấy dữ liệu của chúng ta rồi bán quảng cáo,.. một bên thì họ có quyền làm đủ trò và một bên chỉ làm âm thầm. Thậm chí họ đi đêm với nhau như Facebook đã thảo thuận với Hà Nội và Bắc Kinh,…để được bán quảng cáo.

Ông Snowden bị quy tội phản quốc vì làm lộ các chương trình chính phủ Hoa Kỳ, thu thập dữ kiện cá nhân người Mỹ tương tự chế độ cộng sản như Trung Cộng,… ông Julian Paul Assange thành lập nhóm Wikileaks cho mọi người biết tin tức cá nhân của những chính trị gia thì bị lên án, phải trốn trong toà đại sứ Peru trong khi các công ty như Facebook, Google, Apple bán tin tức cá nhân của khách hàng thì họ được bình yên. Thậm chí họ còn bắt tay với các chế độ độc tài để ngăn cản các tin tức chống đối nhà nước độc tài trên mạng xã hội của họ.

Theo lịch sử từ khi con người bỏ nghề săn bắn, dừng chân thành lập xã hội, cộng đồng thì tên mạnh nhất hưởng được nhiều quyền lợi nhất và củng cố quyền lực của họ và gia đình họ cho đến đời sau qua những vương quốc và giai cấp quý tộc. Các người yếu, thì tiếp tục đời này sang đời khác làm tá điền, đóng thuế cho các địa chủ quanh năm suốt tháng.

Người dân muốn thoát ra cảnh nghèo hèn, phải lên tàu vượt biển sang Mỹ châu để làm lại cuộc đời. Sách báo về lịch sử co rằng người Anh quốc bỏ trốn sang Mỹ Châu vì bị đàn áp tôn giáo. Trên thực tế chỉ có một thiểu số nhưng đa số các người gốc Ái Nhĩ Lan, Anh quốc, Tây BAn Nha và Bồ Đào Nha, di cư sang Mỹ châu để làm giàu, làm chủ ông. Họ khai thác các nô lệ bị bắt cóc từ Phi Châu, làm việc không công cho họ,.. kẻ giàu lúc nào cũng được nhà thờ bảo vệ.

Họ bắt cóc các người da đỏ, đem về âu châu làm nô lệ.


Khi con người nghèo khổ bắt đầu đặt câu hỏi tại sao Kinh Thánh cho rằng ai cũng là con của Chúa nhưng có người nghèo người giàu, không phải một đời mà cả mấy thế hệ là thế nào. Chúa không thương đồng đều con của chúa nên họ bắt đầu có những tư tưởng phản động, không tin lời kinh thánh nên bị đàn áp.

Đến khi người Anh quốc di dân tại Mỹ Châu, ly khai khỏi đế chế Anh quốc mà ngày nay họ gọi là cách mạng Hoa Kỳ, đưa đến cuộc cách mạng tại Pháp quốc vào năm 1789. Họ chặt đầu ông vua Louis 16 và bà vợ, tượng trưng cho cuộc thay đổi chế độ. Giai cấp quý tộc không quản lý xã hội, kinh tế nữa mà là các kỹ nghệ gia trong kỹ nguyên cách mạng kỹ nghệ.

Trong cuộc cách mạng kỹ nghệ, chúng ta thấy sự bốc lột con người trong các nhà máy, mõ than,.. mà các nhà văn như Balzac, Emile Zola,…đã kể trong các truyện của họ. Karl Marx và Engel đã nhận thấy sự bốc lột, đàn áp dã man các công nhân nhà máy. 

Điển hình các công nhân làm cho các hãng thép của ông Andrew Carnegie, bị đàn áp dã man, chính quyền làm ngơ vì đã bị mua chuộc. Sau này, họ khuếch trương qua hệ thống xe hoả,… các công nhân gốc tầu bị bốc lột thêm đạo luật cấm người Tàu,…

Đầu thế kỷ 20, Lenin đã làm cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ quân chủ Sa-hoàng, để thành lập một xã hội công bằng. Lịch sử cho thấy ở thời nào, người đã nắm quyền hành, luôn luôn muốn bảo vệ những quyền lợi, đặc ân cho họ nên ra tay đàn áp các kẻ chống đối. Ai không tin chủ nghĩa cộng sản được đưa vào bệnh viện tâm thần, không khác chi khi xưa Copernic hay Gallileo đặt lại những câu hỏi đã được dạy trong kinh thánh. Họ còn ra luật bôi xấu lãnh đạo là đi tù. Lúc nào cũng vinh danh lãnh đạo sáng suốt muôn năm.

Mình ưa chuộng chủ nghĩa tư bản nhưng các kinh tế gia cho biết chủ nghĩa tư bản của Hoa Kỳ đã thay đổi. Cách mạng công nghệ thông tin đã giúp một số người tạo dựng tài sản, sự nghiệp qua các viễn kiến của họ như Bill Gates, Amazon, Facebook, Tesla,… họ đã trở thành tỷ phú nhờ khai thác các thông tin thương mại,…

Ông chủ hãng Tesla tuyên bố: tôi không học đại học Harvard, các người tốt nghiệp đại học này làm việc cho tôi. Có anh bạn kể, có người bạn làm cho một công ty lớn. Anh ta giỏi, có mấy bằng sáng chế. Tinh thần khoả bảng của người Việt vẫn ray rức nên nói ông chủ là muốn đi học MBA. Ông chủ hỏi mày muốn mấy thằng có bằng MBA? Tao mướn cho.

Aristote khi xưa công nhận giai cấp nô lệ, tương tự ông Madison, một trong những nhà lập quốc cũng đã bày tỏ các quản ngại về giới bị trị, nên không cho quyền bầu cử cho người da đen, phụ nữ. Họ muốn củng cố quyền lợi của các địa chủ. Họ kêu gọi dân chủ nhưng vẫn giữ mấy chục triệu người nô lệ da đen, làm việc không công cho họ. Hoa Kỳ hùng mạnh như ngày nay là nhờ vào đám nô lệ làm việc không công trên các cánh đồng phì nhiêu của Hoa Kỳ.

Ông Madison lo ngại là Dân Chủ sẽ cho đa số người Mỹ, họp nhau lại để chiếm lấy của cải của người Mỹ giàu có. Do đó trong hiến pháp vẫn còn mập mờ, sau đó người ta mới thêm các tu chính án. Trong cuốn The Wealth of Nations, ông Adam Smith có nói rỏ ràng về vấn đề nhân lực, nhân công để giúp sản xuất.

Trong thời đại canh nông, có những đạo luật ra đời giúp các vương tước giữ gìn đất đai của họ, cha truyền con nối. Họ truyền lại gia tài cho người con trưởng, các người con thứ vẫn tiếp tục hưởng các lợi tức từ các cánh đồng cho tá điền mướn. Nếu họ đem chia gia tài thì phân lô nhỏ lại thì đời này sang đời sau sẽ mất dần đất đai, sẽ không trồng trọt có lợi nhiều.

Đến thời cách mạng kỹ nghệ, tá điền bỏ ra thành phố để làm trong các xưởng. Họ sử dụng giáo dục của Bismack, huấn luyện các nhân công và chuyên viên để làm giàu cho các tư bản mới. Một nền giáo dục huấn luyện con người trở thành các nô lệ cho chủ nhân. Chúng ta được dạy học cho giỏi rồi làm cho một công ty, nói trắng ra học một cái nghề đi làm công cho thiên hạ dù với chức tước kỹ sư, cán sự,…

Nền giáo dục chỉ huấn luyện chúng ta trở thành nô lệ cho chủ nhân, chỉ có những người có đầu óc khai phá như Bill Gates, Steve Jobs,..mới bỏ học, mở công ty làm giàu với ý của mình. IBM là công ty lớn về điện toán, lại bị bỏ xa về máy điện toán cá nhân. Thật ra là công ty Compaq hay Xerox đã có thử nghiệm về máy điện toán cá nhân nhưng họ không cho phát triển hơn vì sợ lấy mất khách hàng của những sản phẩm đang bán chạy. Tương tự, Kodak đã cho ra đời máy chụp hình digital nhưng họ say mê trên chiến thắng bán phim nên phải phá sản sau này. Nay bắt đầu khôn  hơn nên có lẻ khá lại.

Dạo này, đảng Dân Chủ đang kêu gọi đánh thuế các tỷ phú Hoa Kỳ. Trên thực tế thì đánh thêm thuế người Mỹ. Một khi họ đánh thuế tỷ phú, sau đó sẽ tuyên bố: cho công bằng đánh luôn các người khác.

Họ kêu gào bãi bỏ chế độ nô lệ, tạo ra cuộc nội chiến. Trên thực tế, các tiểu bang miền Bắc đang bắt đầu cuộc cách mạng kỹ nghệ, cần nhân công nên kêu gọi bãi bỏ chế độ nô lệ để có người da đen lên miền Bắc làm việc cho họ. Đó là nguyên nhân chính cho cuộc nội chiến.nguo da trắng đâu có màng đến người da đen.


Sau khi miền Bắc chiến thắng, thì người da đen ở miền Bắc cũng đâu được họ chiêu đãi, sống trong những khu nghèo nàn, không được mua nhà ở khu da trắng sang trọng. Theo tiến sĩ Thomas Sowell, người da đen cho rằng luật phá thai mà dạo này tối cao pháp viện Hoa Kỳ đang bàn cải nhằm hạn chết sinh sản người da đen. Còn người da đen ở miền nam thì sống trong chế độ kỳ thị chủng tộc, không chung đụng và bị treo cổ, đốt cháy bởi nhóm người chủ nghĩa da trắng độc tôn như Ku Klux Klan,…đến khi bà Rosa PArk không chịu nhường chỗ cho người da trắng mới dấy lên phòng trào bình đẳng.

Sau thế chiến thứ 2, khi các binh sĩ mỹ trở về, đạo luật G.I., ra đời nhằm giúp các cựu chiến binh hội nhập lại đời sống dân sư. Được đi học lại hay vay tiền để mua nhà. Trên thực tế chỉ có 5% người da đen được hưởng các quyền lợi của đạo luật này, miền nam thì chỉ có 1%. Đạo luật này giúp người da trắng vượt lên trong các tầng lớp giàu có của Hoa Kỳ trong khi người da đen vẫn lục đục như trước đây.

Chỉ có đến những năm 60 của thế kỷ 20 thì xã hội Hoa Kỳ bắt đầu có những biến động xã hội. Chúng ta thấy ông Robert Kennedy, ngồi nói chuyện, khuyên ông Martin Luther King Jr., ngưng tuyệt thực. Cuối cùng thì cả hai đều bị bắn chết vì có thể phương hại đến quyền lợi của người da trắng.

Chúng ta thấy lần đầu tiên, người mỹ xuống đường chống chiến tranh Việt Nam, 2 triệu người tuần hành ở Hoa Thịnh Đốn, kêu gọi Quyền Dân Sự (Civil Rights). Người Mỹ không chịu nghe chính phủ, họ đứng lên chống lại sự đàn áp. Bên âu châu, tương tự thanh niên xuống đường chống chiến tranh, dấy lên phong trào cách mạng văn hoá, đình công bãi thị, mà các sử gia gọi Mai 68, khiến tổng thống De Gaulle phải lên đài truyền hình, kêu gọi giải tán biểu tình, và ông ta sẽ cải tổ nền hành chánh và chính trị của Pháp. Ở Pháp, lần đầu thanh niên lên tiếng ủng hộ Hà Nội, một nước nhược tiểu, chống lại quân đội mỹ. Tinh thần thực dân của cha ông họ đã vĩnh viễn cáo chung.

Điển hình thượng nghị sĩ Sanders xuống đường biểu tình cho quyền lợi người da đen. Cựu Thượng nghị sĩ, cựu bộ trưởng ngoại giao John Kerry, đi quân dịch tại Việt Nam về, tham gia các cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam. 


Ở đây, chúng ta chỉ nói đến phương diện lịch sử, còn vấn đề lý do mất miền Nam thì không bàn. Lần đầu tiên, chúng ta thấy bà tài tử Jane Fonda, đến Hà Nội rồi ngồi trên pháo đài hoả tiễn SAM, đã hạ không biết bao nhiêu phi cơ của Hoa Kỳ. Mỗi lần mình đến họp mặt ở câu lạc bộ LIONS thì trong cầu tiêu, họ dán cái nhãn hiệu bà tài tử Jane Fonda nơi bể đi tiểu, để mọi người nhắm cô nàng mà ria nước tiểu.

Sau vụ Mai 68, các chính phủ tây phương, tìm phương cách để phòng chống các cuộc nổi dậy tương tự. Họ đưa ra chủ nghĩa tiêu thụ. Họ quảng cáo hàng hoá, cho chúng ta mượn tiền bằng tín dụng để mua sắm. Khi chúng ta lo làm tiền, tiêu thụ và trả nợ, sẽ quên đến chống đối.

Ngày nay, sự khoảnh cách người giàu và người nghèo quá cách biệt nhưng không ai dám lên tiếng vì họ nợ chồng chất khiến họ chỉ muốn kiếm tiền đẻ trả nợ. Hay lên mạng xã hội tạo dáng, câu Like. Bao nhiêu người để ý đến các người vô gia cư/  (Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn 


Đừng bao giờ xù thằng đàn ông có những điểm sau đây

Hôm trước, mụ vợ đi Hạ Uy Di chơi, ở nhà một mình, buồn đời, mình đọc báo phụ nữ của mụ vợ để xem đàn bà nói gì về đàn ông. Hy vọng học hỏi được điều gì để biến “đối choại” thành “đối thoại” theo diễn biến hoà bình hữu nghị cho vợ chồng. Có một bài giúp mình giác ngộ; giải mả lý do mình ế vợ. Có bà nào viết cho rằng, trong cuộc tình của hai người, trước khi bà ta nói lời chia tay với thằng bạn trai. Bà ta đều viết xuống những điểm hay và xấu kiểu Ben Franklin đã dạy.

 Vẽ một đường ở giữa từ trên xuống dưới, bên tay trái liệt kê các tiêu cực và bên phải các điểm tích cực, rồi quyết định, xù hay không xù thằng bạn trai. Hoá ra mấy cô mình quen khi xưa, xù mình, đều làm bảng so sánh Franklin. Kinh


1/ quan sát hắn đối xử tốt với mọi người xung quanh như phục vụ viên, đồng nghiệp, gia đình: cái này thì mình không có. Gia đình ở xa, ai làm gì, mình chả để ý, chỉ lo thân mình. Xem như họ gạch tên mình ra trong khoảnh này. Nói như thời A còng là mình không có tâm, không để ý đến ai cả, vào tiệm ăn ngày nay, ai nấy đều ôm cái điện thoại thông minh, dù bạn trai, chồng ngồi trước mặt. 

Khi người ta đem thức ăn ra, không cho ăn, phải chụp ảnh mấy món thức ăn gọi, tạo dáng chụp bỏ lên mạng câu “Like”. Xem có ai nhấn Like thì mới cho ăn. Đồ ăn nguội luôn.

Trưa nay, đi ăn sinh nhật cô cháu gái. Thấy bàn bên cạnh, 1 cặp ngồi đối diện, mặt ai cũng che khẩu trang. Khi người ta đem thức ăn ra, cả hai đều lấy điện thoại ra, chụp bú xua la mua rồi ghi lên mạng món gì, chơi lai-trim (live stream) cho bạn bè khắp thế gian biết mình đang ăn cơm với gái hay trai. Mụ vợ cứ ngồi nhắn tin. Mình thì luôn luôn để cái điện thoại ngoài xe nếu đi ăn với gia đình, ngồi xem vợ con lướt mạng, chỉ biết ngáp ruồi.

Ngày nay, con người không còn chánh niệm nữa, họ cứ bị cuốn vào những việc khác cùng một lúc kiểu (multitasking). Họ có mặt nhưng đầu óc lại nghĩ đâu đâu như kinh Pháp Hoa dạy.

Có lần, mình đi chơi với một cô bạn. Thấy một tên bán hoa hồng bò lại, mời mình mua. Mình trả giá nên sau này cô nàng kêu mình không có lịch sự, người ta đi bán, mà mình lại còn trả giá. Tên bán hoa, thấy ngồi với gái thì lên giá, mình lại không thích vụ này. Nay thì giác ngộ cách mạng nên mỗi lần ra Bolsa ăn, thường có thấy một bà bắc kỳ, đi bán hoa dạo trong các tiệm ăn, mời mua hoa thì phải mua cho vợ vui lòng. Vừa lòng vợ đến, vui lòng vợ đi. Bà này bận đồ rất chỉn chu, lịch sự. Nghe nói bà ta giàu nhưng thích đi bán cho vui, đi bộ khoẻ người.

2/ hắn cảm thấy hạnh phúc thật sự, bạn không thể nào yêu ai mà họ không hạnh phúc, vui vẻ: cái này thì không luôn. Mặt mình lúc nào cũng hình sự như hải quan ở phi trường Tân Sơn Nhất. Không bao giờ cười dù người ta boa tiền. Mấy cô khi xưa xù mình chắc cứ thấy mình như bị táo bón, chưa uống thuốc xổ. Xù là đúng.

3/ hắn yêu bạn. Yêu đây là yêu điên cuồng, dù bạn đến trễ 30 phút, vẫn ở nụ cười trên môi: cái này mình không có luôn. Đến trễ là mình nhăn mặt như cái bánh đa. Dạo ấy chưa có điện thoại để lướt mạng, đứng đợi, sợ cảnh sát phạt đậu xe quá giờ. Thường thì bỏ tiền đậu xe 15 phút. Chán Mớ Đời 

Đồng chí gái có cô em họ, con nhà giàu khi xưa ở Sàigòn, bố làm giám đốc ngân hàng. Nghe kể mấy tên đi theo, đến nhà, cô nàng chờ đợi cả tiếng đồng hồ, mới xuống lầu. Mình chưa bị vụ này vì khi xưa, đến nhà cô nào, bà mẹ hay ông bố kêu em không có nhà, đi chơi với bạn trai rồi.

4/ hắn làm bạn vui: cái này thì mình có. Mình hay kể chuyện tếu lâm nên mấy cô cười thích lắm. Mụ vợ cứ kêu mình kể đi kể lại,  ngày nay thì mụ thế mình để kể chuyện cho thiên hạ. Được cái là thiên hạ không cười, bắt mình kể lại mới cười. Kể chuyện tếu lâm, phải biết khởi đầu từ đâu và kết thúc như thế nào. Mấy bà chị họ của đồng chí gái, gặp mình là đè đầu xuống bắt kể chuyện tếu, sau đó mới cho ăn. Có người ghi trong sổ lại đàng hoàng để kể cho bạn bè. Kinh

5/ bạn cảm thấy tự nhiên bên hắn. Đa số mấy cô mình quen thì rất là giữ kẻ, chỉ mỗi đồng chí gái là tự nhiên như người Hà Nội. Lên xe mình đi chơi, cô nàng cô cũng e dè vì xe cũ, dơ, sợ làm bẩn áo quần. Đồng chí gái, thích ăn hột mít, tự nhiên địt ầm ầm như Khánh Ly hát đại bác đêm đêm dội về thành phố, Hoàng Sơn đứng cười, lặng lẽ đứng nghe. Mình phải kêu “địt kêu không thối” O cứ tự nhiên hỉ.

6/ hắn là người bạn hay tưởng nhớ đến: cái này không biết vì họ đều bỏ mình, còn hỏi đồng chí gái thì cô nàng kêu không. Cứ thấy cái mặt lầm lì là Chán Mớ Đời. Lấy mình vì cũng ế rồi, không dám chê nữa, sợ lại gặp thằng cà chớn hơn. Khi bán nhà, người Mỹ hay nói là “First offer is the best”, người đầu tiên trả giá muốn mua nhà mình rao bán là tốt nhất vì sau đó là toàn cà bơ không.

Nếu để ý thì luôn thấy một cô gái đẹp đều có chồng là xấu trai, gìa khú đế. Lý do, là khi còn trẻ, đám con trai mà khá khá đến ve vãng, cô ta làm eo, đòi cho được đông cung thái tử. Dần dần mấy tên này bỏ đi hết, chỉ còn lại những tên thiếu phẩm chất ở lại, đưa mặt lỳ ra đỡ. Sợ ế không còn chọn lựa, đành phải lấy thằng xấu trai như Trương Chi. Có lẻ vì vậy người ta hay nói “đẹp trai không bằng chai mặt”. Nói như anh bạn, vợ đẹp như thiên thần, chòng như thằng ở đợ.

Có lần, mình sang Louisiana chơi, bạn bè dẫn đi thăm người quen. Thấy mấy bà chủ tiệm, mới đi Cali “tune-up “ tân trang toàn bộ lại nên trông cũng bắp mắt, đến khi thấy ông nào từ sau tiệm đi ra thì bà chủ tiệm giới thiệu CHồng em. Kinh. Một anh bạn kêu chồng nhưng thằng ăn mày, lọ lem.

Có lần, mình có người quen dẫn đến gặp một bà từ Louisiana đến, ở trong khách sạn. Muốn buôn bán nhà cửa, đầu tư ở Cali. Hoá ra bà ta làm ăn khá tại Louisiana, qua Cali mấy tuần, trốn trong khách sạn để được các bác sĩ cho lên bàn mỗ, tân trang toàn điện lại. Ngày đầu gặp, thấy bình thường, 2 tuần lễ sau gặp lại cứ như Cô bé lọ lem, nhìn không ra.

Cô phụ dâu chính của vợ mình kể khi xưa, mấy tên khá khá đến rũ đi nhảy đầm, cô ta đều chê hết, đến khi lớn tuổi, quay qua quay lại chỉ còn tên chồng đứng sớ rớ, đành phải đi nhảy đầm với hắn rồi phải lấy hắn vì ở tiểu bang Connecticut ít người Việt. Tên chồng thì xấu trai nhưng được cái là chai mặt, cứ đứng nghe chửi thôi, nghe vợ chửi là một hạnh phúc vô biên đến nay gần 30 năm vẫn ăn chửi hàng ngày. Xấu không chai mặt thì cũng phải chai vì các cô chê.

7/ hắn tiêu xài như bạn: Cái này thì đúng. Mụ vợ thuộc dạng Huế xưa nên rất cần kiệm. Đi chơi với mình, sợ tốn tiền mình nên chỉ nói vào các tiệm ăn rẻ tiền như “gà điên” (Pollo loco) hay phở Nguyễn HUệ. Có lần cô nàng thấy một tiệm ăn mỹ sang trọng, muốn vào nhưng ngại sợ không bận quần áo đàng hoàng. Mình mở cửa, kêu sợ thằng tây nào. Có lẻ giây phút ấy đã giúp cô nàng giải phóng cuộc đời ế vợ của mình. Cô nàng thấy mình không sợ thằng tây nào cả. Mỹ trắng lạng quạng, mình chửi mệt thở luôn. Cô nàng phải khuyên ngưng.

Lần đầu tiên đi chơi, mình dẫn vô nhà hàng MacDonald’s, vì có phiếu mua một tặng một. Cô nàng thấy các nhân viên bận đồng phục nên tưởng là tiệm sang lắm. Về nhà khoe với mấy ông anh, bị chửi một tăng, kêu thằng Sơn kẹo. Bể mánh.

Còn 3 điểm khác mình thấy không cần thiết lắm nên không ghi lại.

Mò xuống đọc mấy cái còm của độc giả thì thấy đa số kêu tác giả bú xua la mua. Có thể báo chí viết để câu phụ nữ toàn là những chuyện này. Nếu như phụ nữ nghĩ như vậy thì giải thích được lý do mình ế vợ.

Mấy bác cứ chửi em viết bú xua la mua cho vui cuộc đời.

Nguyễn Hoàng Sơn 

Đường Cầu Quẹo Đàlạt

Khi xưa, hóng chuyện người lớn, họ hay nói đường Cầu Quẹo thay vì đường Phan Đình Phùng như giới trẻ mình gọi, nên ngạc nhiên nhưng không dám hỏi. Tương tự ngày nay, mình nói đường Mình Mạng thay vì Trương Công Định,.. Lý do không dám hỏi vì sợ bị ăn tát khi hỏi kèm theo câu : “mày ăn cơm hớt à?”. Khi hỏi, người lớn không trả lời được câu hỏi, thì mình bị ăn tát, rồi kêu “ sao mày dốt thế”. Mình sợ từ nhỏ hỏi chuyện, đặt câu hỏi người lớn, thầy cô vì sợ gọi: ‘sao mày dốt thế?”. 

Phải chi người lớn giải thích cho mình thì ngày nay, mình không bị lùng bùng trong đầu về những thắc mắc ngày xưa. Người lớn hiểu chuyện thì đã tây phương cực lạc, nay hỏi ai đây. Người sống Đàlạt thì nhìn mình như bò đội nón vì họ gọi mấy đường này khác tên,  khiến mình đực ra như ngỗng ị, điển hình họ gọi đường 3 tháng 2, thay vì Duy Tân. Hình như ngày kỷ niệm ông Trần Phú thành lập đảng cộng sản Đông Dương.

Mẹ mình có nói đường Cầu Quẹo vì quẹo quanh quẹo quất nhưng cái cầu nào nhưng không giải thích được. Cầu Cẩm Đô, trước kia, người Đàlạt gọi cầu ông Cửu Huần, cầu Lò-rèn, xa hơn là cầu La Sơn Phu Tử. Theo mình thì cầu La Sơn Phu Tử thì quá xa cho thời đó, ít ai ở. Chỉ có hai cầu “Cẩm Đô (Cửu Huần) và Lò Rèn”.

Thời tây mới thành lập khu người Việt thì đường Maréchal Foch (Duy Tân), chạy một chiều từ Phan Đình Phùng lên Chợ Cũ (Chợ Cây), khu Hoà Bình rồi chạy xung quanh chợ, đi xuống đường Mình Mạng, rồi quẹo con đường Phan Đình Phùng, để chạy đến cuối đường để quẹo lên đường Duy Tân. Vì lẻ đó mà người lớn khi xưa, gọi đường Cầu Quẹo vì có 2 chiếc cầu “Cẩm Đô” để quẹo qua đường Pasteur mà sau này người ta gọi sau này đường Hai Bà Trưng, và chiếc cầu Lò Rèn, cạnh trường Việt Anh. Bác nào có giải thích nào khác thì cho em xin, hay hỏi dùm người lớn tuổi quen, còn sống.

Mình hiểu lý do người Đàlạt xưa gọi “quẹo” vì con đường có hai cái quẹo để lên và xuống phố. Còn “cầu” thì chưa tìm ra được.

Đây là hình ảnh của đường Minh Mạng, quẹo xuống đường Cầu Quẹo (Phan Đình Phùng). Mình thấy căn nhà 2 tầng bằng gỗ của gia đình Đinh Anh Quốc, xưa là tiệm hớt tóc Như Ý, cạnh tiệm giày Hồ Út, người Quảng. Mình có xem một video phỏng vấn ông Hồ Út ngày nay. Theo hình này thì mình đoán là chưa có cầu Cẩm Đô vì nhìn phía sau nhà Đinh Anh Quốc thì chỉ thấy đồi thông và một phần nhà thương Đàlạt xưa, chưa thấy đường Hai Bà Trưng, được thành lập.

Nếu vậy là cầu Lò-rèn vì cầu ông Cửu Huần chưa được xây cất.

Có người cho biết lý do gọi là đường Cầu Quẹo vì ngay dốc Minh Mạng đi xuống có con suối nhỏ, nước từ trên đường Hàm Nghi chảy xuống cũng như dọc đường Phan đình Phùng, vì lẻ đó người Đàlạt xưa gọi là đường Cầu Quẹo.

Thấy con đường hẻm đi từ chỗ phòng mạch ông Sohier, tiệm thuốc tây Nguyễn duy Quang, lên đường Tăng Bạt Hổ, chỗ nhà bác Tám, bán ngoài chợ, mẹ của 2 anh em Phước và Hải, hồi nhỏ chơi với mình, sau này mở tiệm chè Mây Hồng. Nghe nói hai tên này đã qua đời sau 75.

Nay mình mới hiểu vì sao họ xây cái talus cao ở đường Phan Đình Phùng vì mấy căn phố tiệm Hồng Ngọc, nhà nghỉ Le Saigonnais, văn phòng bác sỹ Đào Huy Hách. Thật ra họ có thể xây tầng trên đâm ra đường Mình Mạng, tầng dưới đâm ra đường Phan Đình Phùng, khỏi mất công xây tường tốn tiền, lại mất mặt bằng ở đường Phan Đình Phùng.

Mình thấy rõ trường Thăng Long (Hiếu Học) nơi ông cụ mình đi học đêm để thi bằng tiểu học ở đường Hai Bà Trưng nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng con đường Hai Bà Trưng (Pasteur thời Tây) từ góc Cẩm Đô. Đoán là chưa làm. Phía sau là đường Lò Gạch (Hoàng Diệu). Cuối đường này có cái lò nung gạch cho Đàlạt. Mình không biết đường Pasteur (Hai bà Trưng) đã được thành lập chưa vì thấy toàn là cây thông và đồi phía Nhà Thương.

Xa hơn thì thấy trường Couvent des Oiseaux trước núi Cam Ly. Chắc phải đeo kính loupe để xem cho rõ hơn. Chán Mớ Đời 

Đường Cầu Quẹo (Phan Đình Phùng) chỉ có mấy nhà đơn sơ, đoán là của người làm vườn phía sau, đa số là đất của gia đình Võ Đình Dung. Ông này khi xưa, nhà thầu khoán cho Tây, có chân trong hội đồng thị xã, tranh đấu để khu đất dành cho người Việt có đất rộng hơn thay vì 3 mét x 10 mét như kế hoạch. 

Nếu kể về công thì mình nghĩ Đàlạt phải nhớ ơn ông này vì ông ta có rất nhiều ảnh hưởng như cúng dường đất trên đồi cạnh ấp Mỹ Lộc để xây chùa Linh Sơn, và trên số 4, thành lập chùa Linh Quang. Ông ta mua đất hết các khu vực dành cho người Việt như giữa đường Hai Bà Trưng và đường Phan Đình Phùng. Sau này cho trường Việt Anh thuê, ông Ba Đà thuê,….

Nghe kể vợ ông ta là người đàn bà đầy bản lĩnh. Không có bà ta thì chắc ông Võ Đình Dung không thành công như xưa. Có dịp mình kể chuyện vợ chồng ông ta do người lớn như ông bà Võ Quang Tiềm kể lại.
Đây là góc quẹo từ đường Phan Đình Phùng lên Duy Tân khi xưa, thời đường một chiều. Chỗ cây thông khi xưa, có một quán nhỏ, tên Xuân Lan thì phải, nơi dạy đánh máy và ấn loát giấy tờ. Ông cụ mình sau khi giải ngủ, có đến đây học đánh máy, thi vào ty công chánh. 

Ông Đượm đậu đầu, còn ông cụ mình thì được ông Võ Quang Tiềm, kêu ra nhà ông bà ngủ, để học thi vì sợ ông cụ ở nhà buồn đời, lại kêu mẹ mình thức dậy “anh chưa thi đỗ thì chưa, thì chưa..”. Ông Tiềm có hỏi ông trưởng ty công chánh đề bài thi, giúp ông cụ mình đậu thứ nhì. Ông Tiềm không thích ông cụ mình vì bắc kỳ nhưng rất thương mẹ mình. Chính ông đi nhờ thị trưởng Đàlạt, Cao Minh Hiệu, bảo lãnh bà cụ tham gia kháng chiến, năm 17 tuổi bị mật thám bắt nhốt ở Nhà Lao, nếu không thì bị tra tấn, trấn nước nhiều nữa. Thậm chí có thể bị bắn trên Cam Ly như 21 người khác, có một bà tên Lan, trên Số 4 sống sót vụ xử tử các người theo Việt MInh khi xưa. Kinh
Nếu mình không lầm, đường này có cầu Lò Gạch, chạy vào đường Lò Gạch, đường Hoàng Diệu cũ., 

Mình kể lại đây để nhớ ơn mấy người bà con khi xưa đã giúp bố mẹ mình lập nghiệp tại Đàlạt như ông bà Nguyễn Văn Phúng (tiệm Hiệp Thạnh) và ông bà Võ Quang Tiềm (tiệm Vĩnh Hưng), bà con bên mẹ mình. Nghe kể lại ông Tiềm và ông Phúng, làm thợ may khi vào Đàlạt lập nghiệp. Hai ông may áo quần, rồi gánh 3 ngày 3 đêm, đi xuống Đơn Dương, để bán áo quần cho phu thợ đi làm đường rày xe lửa cho Tây. Chịu cực chịu khó nên sau này giàu có tiếng tại Đàlạt.

Xem như đường pHan Đình Phùng có hai cái quẹo, một xuống phố từ đường MInh Mạng và một từ đường Duy Tân (maréchal Foch)  chạy lên phố.

Thấy hai căn nhà nhỏ chỗ rạp xi nê Ngọc Hiệp sau này.
Đây tấm ảnh giúp mình hiểu được tấm ảnh đầu trên. Đường Minh Mạng quẹo xuống Phan Đình Phùng, có mấy bậc thang ngay bến xe taxi , có trạm biến điện, vẫn thấy nhà Đinh Anh Quốc, rạp Ngọc Hiệp đã được xây cất. Phía đường Minh Mạng là mấy nhà ngủ khách sạn. Một của ông Chà Và , chủ tiệm Saigonnais trên khu Hoà Bình làm chủ.

Phía sau thì thấy con đường nhỏ đi từ cầu Cẩm Đô lên nhà thương, và dãy nhà trên đồi thông, chỗ Hạnh ù, học lycee mà mình có gặp lại một lần ở Đàlạt. Cây thông rất nhiều so với thời phôi thai như hình trên, cho thấy người Pháp đã cho trồng thêm cây thông trên đồi.

Mình đọc ở đâu, họ kể là bố mẹ của tên Phước học Yersin, dưới mình một lớp, mua lại rạp xi-nê Ngọc Hiệp của ông tây nào về xứ. Mình có hỏi hắn thì hắn bê ngày bài mình viết về mấy rạp xi-nê Đàlạt xưa về cho mình. Chán Mớ Đời 

Bác nào có ý kiến hay tin tức khác thì cho em xin. Thấy hình dáng Đàlạt thủa ban đầu khiến em thấy bồi hồi và theo những gì nghe thấy để mò xem có đúng Đàlạt ngày xưa.

Có độc giả gửi :’ Đây là góc   nhìn rạp Ngọc  Hiệp  từ  lan can nhà tôi,  Nhà ở phía  số  chẵn trên đường  Cầu  Quẹo..phía sau nhà có 1 ngọn đồi , hình như trên đồi có  một  rạp hát khác không  phải  là  rạp  Ngọc  Hiệp...cám ơn  bạn đã  Post tài  liệu  này.....

Nguyễn Hoàng Sơn 
Có người giải thích như sau:

Sony NguyenUsa 
Mình sống ở  ĐALAT từ năm 1953 năm đó mình 10 tuổi, và nhà mình ngay tại đường HÀM NGHI, cũng gần ngã ba chùa LINH SƠN. Và thấy toàn thể mọi người đêu gọi là NGÃ BA CẦU QUẸO. Chứ chẳng ai nói đường cầu quẹo bao giờ.
Ngã ba cầu quẹo đây có hàm ý là:
Cầu đây không phải là chiếc cầu bắc qua sông. Mà cầu đây mang ý nối nhịp...
Bởi rõ ràng đây là ngã ba nhưng lại chỉ có 2 con đường, đó là đường PHAN Đ PHÙNG và HÀM NGHI mà lại là.... ngã ba, nối nhịp nhau bởi một ngã ba. Vì đây là ngã ba với địa hình tam giác.
Từ HÀM NGHI thì có 2 ngã, một ngã xuống PĐP, một ngã từ PĐP rẽ lên HN.
Còn từ PĐP thì chỉ có một ngã rẽ lên HN thôi. Cũng vì nét  đặc thù khá thú vị ấy nên dân địa phương mới gọi đó là:
NGÃ BA CẦU QUẸO. (Gãy khúc, ý nghĩa của chữ quẹo)
Và sau này có thêm tên NGÃ BA CHÙA nghe thanh tao hơn.
Đó là những gì mình biết về gốc gác ngã ba này từ ngày sống ở ĐL .đến giờ.
Còn cụm từ:
Đường cầu quẹo như bạn nói thì có thể sau này người bắc 1975 họ gọi lầm là đường cầu quẹo, thì mình không rõ. Chứ dân ĐALAT chẳng ai gọi 
"Đường cầu quẹo" bao giờ.

Easy rider đứt chếnh

Easy rider cho biết đứt vốn, sau khi đã kể cuộc tình hữu nghị giữa hắn với cô học trò in-gờ-nít hàng xóm, cỏn con xoàng xỉnh, không như Vòng Tay Học Trò với cô giáo Nguyễn Thị Hoàng của trường Trần Hưng Đạo. 

Sau khi cô bé thương lượng với bố, sẽ không đi tu nữa, ở nhà phụng dưỡng bố với điều kiện bố cho bé lấy Chú Easy rider làm chồng như thầy Nguyễn Minh Diễm khi xưa, có nói: “đàn bà nói có là không , nói đi là ở lấy chồng đi tu”. Cuộc đả thông chăn gối giữa hắn và cô bé bổng nhiên có cái kết rất có hậu, không biến thành chuyện tình “Lan & Điệp” thời A còng. Khi ông bố vợ nhất trí cho hắn gọi bằng bố tiên sư anh thì hôm sau, không chạy cuốc tây cuốc non, hắn ở nhà tắm rữa, kỳ cọ cho sạch, như gọt bỏ những tháng ngày trôi nổi như lục bình trên hồ Xuân Hương, lên đồ vía, đem nhang đèn sang lạy bàn thờ mẹ vợ bằng tuổi con cháu hắn, hưởng dương được 40 tuổi.

Bên nhà trai thì vui lắm, đúng là bề trên ban ân cho dòng họ. Thằng con, thằng cháu sau 75, đi tù về thì chả mong tìm kiếm đối tượng gì cả, sau khi vượt biển mấy lần hút, hết vốn, 60 tuổi đầu mà vẫn tồng ngồng. Nhiều người trong họ mới gặp em lần đầu cũng té ngửa không biết thật hay trong mơ. Đúng là thời A còng. Hắn lên đồ hoành tráng để ra mắt gia tiên, cạo râu nhẵn nhụi, như Tần Hán trong Dòng Sông Ly Biệt của Quỳnh Dao dạo nào. Hỏi con bé, chú có giống Tần Hán khiến con bé đực ra như ngỗng ị, thế hệ nó chỉ biết các sao Hàn quốc chúng mình hô, chứng minh răng.

Bên nhà gái cũng thưa thớt, đơn giản làm đám cưới kiểu chạy tang. Làm sao hiểu được tình yêu, chỉ có chim chuột mới hiểu nhau. Bên nhà trai chụp hình loạn xà ngầu vì tưởng tuyệt giống nòi. Ngày đám hỏi cũng là ngày cưới như đám cưới Việt kiều xa quê hương về Đàlạt, lấy vợ. Nhiều tên hàng xóm trẻ ngẩn ngơ, khe khẽ sao em vội lấy chồng, sao em lấy chồng già mà không lấy chồng non, biến chúng thành những con chim đa đa vội vàng bay xa như Làm Phương khi xưa, từ giả “thành phố buồn”.

Hắn cũng một thời ngông cuồng, sa đọa, bất cần đời. Đi lính vào sinh ra tử, từng bị Việt Cộng dí rượt trong rừng, vượt biển chìm tàu hai lần, nên an phận cuộc đời Easy rider tại Đàlạt. Hắn như con hổ của Thế Lữ, hắn hận lắm, gần 60 tuổi vẫn lông bông, tưởng cuộc đời rồi cũng chết bờ chết bụi như các thi sỹ lừng danh thời thanh niên của hắn.

May thay, em đã cứu hắn, kéo hắn lên khỏi vũng bùn của thời gian, thoát ly dung dịch của sự cô đơn, buồn chán của kẻ thua cuộc. Đành sống cho hết những ngày tháng còn lại của cuộc đời cùng trái tim ngục tù. Đúng hơn hắn quá may mắn, như trúng lộc của Thánh Cô. Trong một cơn điên cuồng dục vọng, nhắm mắt nhắm mũi, liều mạng nhanh chóng chiếm lĩnh mục tiêu. Hắn từng nghĩ bản chất đàn bà đa phần thiển cận khó ở. Em thì dể ở lại khờ khạo quá đi thôi, như một thiên thần lẻ loi trên sa mạc phủ đầy xeo phì cuộc đời A còng. 

Nhiều lúc hắn muốn điên lên được vì tính thánh thiện, rồi lại nước mắt lưng tròng, rồi lại thua trước đôi mắt ngây ngô. Thua em từ buổi ban đầu. Bố cho con lấy chú. Cười ra nước mắt. Con không đi tu nữa, Bố đừng la chú. Trời đất như sụp đổ. Cô bé cải tạo thay đổi hắn từ ngày ấy. Như Georges Moustaki khi xưa đã phản bội Tự Do để bước chân vào nhà tù êm ái với người nữ cai tù bé bỏng, nhân hậu, đã đánh gục hắn qua sự chọn lựa của em.

Hắn bị em hạ đo ván hết lần này sang lần khác. Xin làm người tình thua, làm kẻ khù khờ. Tạ ơn Chúa trên cao.

Hồi câu chuyện còn chưa đi đến đâu, hắn đã nhủ lòng; phải chiếm cứ cho được con bé này chỉ để trả thù các cô gái Đàlạt đã xem thường hắn, kẻ thua cuộc. Giờ đang trả thù, mà con bé cứ hớn hở hân hoan. Em thắng hay hắn đang thua? Con bé chẳng hề quan tâm, chẳng bao giờ nhìn ra phía bên ngoài! Ai nói gì cũng chẳng màng chuyện cơm áo gạo tiền. Không tích sự. Hớn hở với chim chuột là giỏi. Đời hắn cô đơn bổng nhiên gặp được em như kẻ khao khát trong sa mạc tình yêu, mơ thấy nguồn suối.

Mỗi gia đình mỗi cảnh! Em với hắn chẳng bao giờ giung giăng dung dẻ ngoài đường nào. Chở em đi thì khẩu trang, nón bảo hiểm che kín. Hàng xóm hay bà con biết thôi. Đôi khi cũng nghe được: trâu già gặm cỏ non: hắn khoái chí, tự vuốt râu, cười sung sướng, đê mê. Em đã thay đổi hắn từ cọc cằn, thô lỗ, nông nổi thành hiền lành nhẩn nhục như tên ngoan đạo, cuồng tín đồ. Em có khờ khạo bất tài, hắn cũng thương em. Nhờ em hắn đã học được sự khôn ngoan, trách nhiệm cho cuộc đời ở tuổi 7 bó. Còn sau này sợ lắm không dám nghĩ tới. 

Một hôm hắn hỏi em: Sao? đã thấy ớn lão già này chưa? Em nhìn hắn với đôi mắt Ngô nghê. Hai hôm sau,   em thỏ thẻ: “Ông phải dưỡng sức nuôi mẹ con em”. Ông đang dư sức, dưỡng là dưỡng thế nào. Xe còn chạy được thì cứ rồ máy chạy như Easy rider khi đi cuốc tây. Rồi thì mặc cho mưa gió ngoài trời, giường ta vẫn cứ tơi bời " mây mưa nội địa ".

Thời buổi này chả ai thèm học Anh ngữ, họ kháu nhau đi học tiếng Hàn, tiếng Nhật để đi lao động xứ họ hay làm nhân công cho mấy ông chủ tại quê hương. Báo chí nhà nước cho biết, có 90,000 người Việt đang sinh sống tại Nam hàn, và 90,000 Hàn kiều tại Việt Nam. Khác nhau là Hàn kiều tại Việt Nam là chủ công ty, mướn nhân công rẻ người Việt, và bên Nam Hàn thì việt kiều làm cứ li, đầy tớ cho dân họ. Chán Mớ Đời 

 Ngay như hai ta: Em thì lộn sang tiếng Ông, ông thì lộn sang tiếng em. Ừ thì ông già: già duyên già dáng, dể thương, dê một tí cũng không sao. Em kể chuyện chồng của bạn em: nghe bắt ớn., trai trẻ, gái gú, bạn bè say sỉn. Bạn kể là một dây đòn: no đòn ốm đòn nhừ đòn mập đòn. Hoá ra cỏ non để trâu già gặm đỡ phải bị đòn. Trâu già lại học được nghề của ông Tám Bôn Sa, khi ngựa phi ngựa phi đường xa. Kiểm soát chặn chốt, giúp đối tác đê mê, rồi mới đến tăng 2, cho xả đập mê tơi khi em đang đê mê. Bạn em cho biết lấy chồng già như mày mà vui, không bị ốm đòn với đám chồng ngày ngày xin ngoài đường, về nhà kêu vợ con ra làm bao cát để tập đá sống phi như Lý Tiểu Long.

Hắn hỏi em: các em cũng học được nhiều đòn. Thế em có học được đòn nào không? Có vẻ như em cũng " thèm đòn "Em ứ ừ sợ lắm. Em đi học giáo lý về kể chuyện Adong già khằn khú đế, ngủ chèo queo trong vườn Eđen, bỗng một hôm thức dậy thấy em Eva, mặc dầu trần truồng, ngu ngơ không biết gì đâu. 

Easy rider, người tình già Đàlạt sương mù

Thượng Đế biết ý dí cho cậu một quả táo đầy testosterone, thế là súng ống Adong bắt đầu chổng pháo phòng không như hoả tiễn Sam của bộ đội uncle Lake. Vào một đêm trăng sáng vườn chè. Tình thơ lai láng. Nguyên tổ loài người khai hỏa bắn quả đầu tiên khai sinh loài người. Cảm nhận được món quà Thượng Đế ban tặng loài người, sướng quá đi thôi. Vợ toàn kể chuyện đâu đâu. Người ta hỏi: vợ ở nhà làm gì? Không lý trả lời rửa chén giặt đồ.- thế ông trả lời sao. Toàn việc đại sự: làm thinh nè, làm biếng,  làm tình ( rất giỏi) làm về không có tiền nạp cho bà là bà làm tội. Bố tiên sư vợ với con.

Que  sera sera

Theo lời kể của Easy rider Đàlạt

Nguyễn Hoàng Sơn 

Bố tiên sư em, đừng gọi anh bằng Chú

 Hắn nhớ mãi ngày con bé dẫn bố sang nhà “cầu hôn” hắn. Hắn không nghĩ là người may mắn nhất trên đời. Người không lo âu mới là người hạnh phúc trên cỏi đời này. Quả thật con vợ hắn chả bao giờ lo đến cơm áo gạo tiền. Hắn âm thầm lo cho vợ con đầy đủ sung túc, không bao giờ ì xèo chuyện tiền nong, cũng không đòi hỏi. Hắn chợt nhận ra người đàn ông hạnh phúc, có một người vợ không ì xèo, không so sánh chồng người ta, chấp nhận sự may rủi 12 bến nước của cuộc đời mình.

Có ít nhiều cũng xong, không than thở. Không biết thế hay hoặc dở. Hắn có thằng bạn cứ rên với than: làm không ra tiền, vợ nó ì xèo muốn rụng tóc, đừng nói đến chuyện chim chuột.

Con bé, một đêm thỏ thẻ bên tai: đẻ một đứa nữa đi anh, em thích con gái. Hắn nhìn em không ừ cũng không phản đối; cô bé lại nũng niệu một mình em làm sao được? Hắn bật cười; thế à, thế phải làm sao. Hắn ngây ngô hỏi. Không chịu nổi con bé, coi trời đất chẳng ra gì. Con bé là người của tương lai, của mặt trời cách mạng, còn hắn sau mấy năm trại cải tạo chỉ mong muốn yên thân, gặm cỏ non bên đời.

Hắn thầm nghĩ đẻ thêm con gái để sau này nó xin đi học in-gờ-nít với tên già hàng xóm như mẹ nó thì khốn nạn nữa. Như để trả cái nghiệp cho cha. Hắn không muốn lâm vào hoàn cảnh bố vợ bất đắc dĩ của hắn, dẫn con gái qua, kêu anh sang nhà thưa với mẹ nó. Đời bố gặm cỏ non, đời con làm cỏ non cho người khác gặm. Chán Mớ Đời 

Trước đây hắn là tên ngông cuồng, rồi bị em hạ gục, sẵn đà thua luôn từ đó đến nay, xin làm người tình thua. Ngày em dắt bố em sang " cầu hôn" hắn. Hình ảnh mười năm trước vẫn như in, như mới hôm qua. Hình ảnh của Lan và Điệp. Em trùm khăn kín đầu, cúi đầu nước mắt đầm đìa. Bố không nói gì, lấy thuốc ra hút, hắn mời bố một bi thuốc Lào nhưng bố lắc đầu, chán chường của kẻ bị trầm cảm.

Hắn biết giờ xử tử đã đến, hắn không có can đảm như Nguyễn Văn Trỗi hô lên bác hồ muôn năm trước những ngọn súng của kẻ thù nhưng không ú ớ kêu được. Bỗng dưng bố vừa nói vừa giựt cái khăn trùm đầu của em. Đấy nó đòi đi tu rồi đó, anh tính sao? Con bé cạo đầu. Hắn bàng hoàng như Từ Hải khi xưa. Thấy Thuý Kiều bên cạnh Hồ Tôn Hiến. Ôi nhát chém hư vô! 

Tất cả im lặng, tình thế nặng nề, dung dịch không gian đã nặng, lại bị đè xuống như cái vòng Kim Cô từ từ xiết lại hơi thở củan Easy Rider. Hắn đã sống với giây phút của ngày đó muôn năm. Bố nói. Nó đi tu rồi anh đi tù. Nghe đến “đi tù” hắn thất kinh, nhớ lại những năm tháng dài học tập cải tạo, không may sinh ra trong vùng tạm chiếm, phải đi quân dịch của chế độ cũ, chớ hắn có thiết tha gì bắn giết nhau.

Hắn bỗng nhớ câu: tình tù tội. Không dám nói tử hình. Mà dám lắm đó chứ. Hắn bắt đầu run, run run đưa mắt dò hỏi cầu cứu.Tại em hăng hái tự nguyện nạp mình như những cô gái dẫn đường khi xưa trên đường vào Nam, đánh mỹ cút ngụy nhào. Hắn biết em hiểu rõ điều đó. Tới giờ này vẫn không hiểu lý do: cỏ non lại để trâu già gặm. Có lần hắn hỏi: này có điên không đấy, sao lại lấy ta. Em chỉ mĩm cười thơ ngây như cô bé đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, chỉ biết nam mô a di đà. Cái nụ cười thơ ngây đã đánh gục hắn từ hôm đầu em sang học in-gờ nít tại gia. Em ngây thơ cứ để phơi bày qua cổ áo lộ cặp bông đào trắng mịn, khiến hắn phải nuốt nước miếng bao nhiêu lần và nhiều đêm thức sáng đêm.

Quay lại chuyện hôm ấy: đầu em trọc lóc nước mắt lưng tròng: con không đi tu nữa, ở nhà phụng dưởng ba. Còn bầu bì thì sao ? Hắn hối hận đã thốt ra câu hỏi cực ngu của tên vô đạo, cũng không kịp nữa rồi. Dân chơi không sợ con rơi, đây hắn lại hỏi những câu vô thừa nhận, phản cách mạng. Bố em phang tiếp: phải trình báo công an thôi. Hắn điếng người! Cú này chết thiệt rồi. Bỗng em nói một câu xanh rờn: Con lạy bố hay là bố cho con lấy chú đi. Chuyện kể tới đây không hư cấu. Em đã cứu cuộc đời tôi. Em là thiên thần được Chúa gửi xuống để cứu rỗi tên vô đạo. Đã cho hắn cắn trái táo ngọt lịm của tình yêu học trò. Hắn nghe đến đây thì đang lo lắng, u sầu bổng bật cười. Bố tiên sư em, đến nước này mà còn chú với cháu.

Hắn mềm nhủn dưới chân em, nguyện cả đời làm Easy Rider để thương em và hắn trở nên người hiền lành, khờ khạo từ đó. Em đã ru hắn vô đạo thờ vợ nuôi con. Không phải nhu nhược mà lập công đền tội ăn cỏ non như Valjean của Victor Hugo mà mấy sư huynh kể khi xưa. Ôi khôn ba năm dại 1 lần yêu em. Bản chất em quá thơ ngây trong sáng. Đó là gánh nặng hắn vẫn âm thầm cưu mang. Mọi người đều khen: trâu già mà gặm cỏ non. Dĩ nhiên là hãnh diện đằng sau đó là triền miên lo lắng và chịu đựng. Cái tội giỏi chim chuột là đây. Tiến lên chiếm đóng mục tiêu. Xung phong

Bố tiên sư em.

Viết theo lời kể củan Easy Rider Đàlạt 1 ngày đại dịch tại Đàlạt. Lâu quá không thấy ông thần này còn chắc bận yêu vợ gặm cỏ non.  

Nguyễn Hoàng Sơn 

Chuyện tình Easy Rider Đàlạt

 Mình quen trên mạng một anh chàng người Đàlạt, lớn tuổi hơn mình, từng đi lính nhảy dù; nói ở khu cạnh nhà thờ Domaine de Marie; đọc bài mình kể về Đàlạt xưa, anh ta hay còm bằng anh ngữ nên thấy là lạ. Mình đoán anh ta muốn thực tập anh ngữ như khi xưa mình gặp người Mỹ để tập đàm thoại tại Đàlạt.

Dần dần anh ta kể đang chạy xe ôm tại Đàlạt, có cô vợ thua đến 40 tuổi, có đứa con mới 7 tuổi đầu khiến mình thất kinh. Mình bái anh chàng làm sư phụ vì ở Việt Nam, chạy xe ôm mà vẫn tán dính em gái chân dài thua đến 40 tuổi. Hỏi thêm bí kiếp, vì cớ nào mà cưa đỗ một em chân dài tại Đàlạt.

Hoá ra chuyện tình cũng vì tiếng anh. Khi xưa đi lính, anh ta làm thông dịch viên cho đệ nhất sư đoàn không kỵ mỹ tại Phước Long. Anh ta là cựu học sinh Lasan Adran Đàlạt nên tiếng Tây tiếng Anh cũng ok. Sau 75, được đi cải tạo, học tập tốt để trở thành con người mới của xã hội chủ nghĩa, được trả về quê quán Đàlạt. Giác ngộ cách mạng làm nghề chạy xe ôm, phục vụ quần chúng hay easy rider cho có vẻ mỹ một chút.

Một hôm có hai cô bé láng giềng ghé nhà, đề xuất một kiến nghị: “ Chú dạy cháu tiếng anh với”. Anh chàng ởm ờ chưa biết nói sao, thôi về mai mốt tính sau. Hai cô bé kêu “lemon question “. Hai ngày sau, em dắt bố em sang, bố em nói: cháu nó thích học tiếng anh, nhờ anh giúp dùm” rồi thì. Tối cũng rảnh. Thế là sự cố bắt đầu từ đó. Sau khi làm easy rider kiếm gạo trong ngày, tối về dạy anh văn vỡ lòng cho cô bé.


Ngày qua ngày qua mau, ngày đực ngày cái, những buổi dã ngoại núi rừng Đàlạt. Anh chàng phát hiện ra một chân lý mới, bổng nhận ra: em bắt đầu đẹp ra, em đẹp hẳn lên khiến anh ta bắt đầu ngoan ngoãn dễ thương, khiến có lần em thốt lên câu ngây ngô: “ you are a wonderful man” như anh ta đã dạy cô bé trong cuốn English For Today của Lê Bá Kông, cuốn I, trang 35.

Anh chàng bắt đầu cảm thấy yếu ớt, mất tự tin trước sự hồn nhiên của cô bé, cái gì cũng muốn thua trước, như Nguyễn Tất Nhiên khi xưa, xin làm người tình thua rồi bắt đầu tương tư, hát khe khe ngày nào cho chú biết yêu cháu rồi, ôm mối tương tư, khiến người tên Vinh đau khổ ăn năn. Ngày nào cánh thiên đường đã mở hé và anh ta đã cắn vào đôi môi ngọt ngào, hồn nhiên của cô bé học trò English For Today. Cô bé nở đôi mắt Nai ngơ ngác, như ma soeur chống đối qua loa, ơ ơ chú chú cháu cháu trong khi anh ta tiến lên như vũ bão của chiến sĩ nhảy dù ra trận, tái chiếm An lộc năm xưa. Cả đời anh ta vẫn nhớ ơn em đã dành cho anh ta.

Bổng nhiên cô bé mất tích cả tháng trời khiến anh ta chơi vơi, khắc khoải, anh ta hoang mang như người yêu cô đơn. Một hôm em dẫn bố em sang nhà như lần xin học English for tomorrow. Bố em sang, kéo ghế, không nói năng chi khiến anh ta nín thở. Mây đen phủ kín bầu trời nhà anh ta.

Một lúc sau, ông bố nói từ từ từng chữ một như tòa án nhân dân đấu tố anh ta, đã hủ hoá, phản đạo đức, mất lập trường cách mạng mà anh đã học tập mấy năm trời ở trại cải tạo, trong khi cô bé quay lưng thút thít khóc nỗi lòng người ở lại Charlie. Ông bố chậm rãi nói: “ con bé có bầu, nó nói là của anh đấy”. Không gian dung dịch trong nhà bổng nhiên chùng hẳn xuống, anh chơi vơi, mặt anh xanh như đít nhái, cố với tay lên thì ông bố lại nện cho một tạ nữa: ‘Đúng của anh không ” . Anh líu lưỡi toát mồ hôi kêu khẽ “dạ Đúng”. Anh chợt nhận ra mình là Tuấn Vũ đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng có thai, đời tôi yêu ai cũng mang bầu.

Ông bố đổi ánh mắt ngại ngùng, ngượng ngạo thành đôi mắt hình sự của công an khu vực rồi hỏi: ‘anh có thương nó không? Anh tính sao?” Anh ta chỉ ngáp ngáp được cụm từ “thương thật mà”. Ông bố như người từ Coma sống lại, bảo “ thôi được, mai anh qua nhà thưa với mẹ nó”. Anh ngớ người không hiểu, bị đứng hình ngoài vùng phủ sóng, cảm giác này vẫn còn mãi trong anh ta đến ngày nay.

Em quay lại nói: “ý bố là chú sang nhà thắp nhang cho mẹ cháu”. Bố tiên sư, giờ này còn cháu với chú. Thế là hôm sau, anh mua nhang đèn qua nhà thắp hương cho bà mẹ vợ, xin bà tác hợp cho đôi trẻ già tiền dâm hậu thú. Chán Mớ Đời nay nhắc lại vẫn thấy vui. Anh ta nhiều lúc cảm thấy già nhanh quá, khi chơi trống bỏi với thằng con 7 tuổi đầu, còn đến 15 năm “hy sinh đời bố củng cố đời con”, lâu lâu thố lộ với cô bé. Có lần cô bé trả lời “ càng già càng dẻo càng dai”.

Bố tiên sư em

You are Superman 

Hy vọng lần sau về Đàlạt, sẽ có dịp gặp Easy rider Đàlạt .

Chán Mớ Đời 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Con là nợ?

 Hồi nhỏ, hóng chuyện người lớn, nghe họ than con là nợ, vợ là oan gia nên không hiểu lắm. Vì sao là nợ, là oan gia. Mẹ mình có đến 11 người con, có 11 nợ còn ông cụ mình có bao nhiêu oan gia? Chán Mớ Đời

Sau này lập gia đình, đồng chí gái sản xuất được hai đứa con rồi kêu nghỉ, đủ chỉ tiêu dù mình muốn làm thêm một trự hay hai vì quen gia đình đông con từ bé. Thêm người thêm của nhưng đồng chí gái sinh hai lần, bể nước ối đến 22 tiếng mà mấy đứa con, thuộc dòng phản động, do thế lực thù địch tư sản mỹ xúi dục, không chịu bò ra, bác sĩ phải kêu lên bàn mỗ nên không dám đòi thêm.

Nuôi con mới thấm sự hy sinh của mẹ mình. Tháng trước, gia đình cô em ở Philadelphia sang thăm, hai anh em ngồi nói chuyện về mẹ thì chỉ biết phục lăn bà cụ. Bố mình đi cải tạo, mẹ mình nuôi được 11 đứa con trong khi mình chỉ có 2 đứa đã than với thở. Nhất là sau 75, ông cụ mình đi cải tạo 15 năm, hàng xóm CM30 tố lên tố xuống mà vẫn nuôi 10 đứa con. Ngày đi buôn đi bán, tối về lo cơm nước cho con rồi phải đi họp tổ khu phố, học tập cách mạng chi đó, để nuôi con thành cháu ngoan của bác, học trò giỏi của thầy rồi không được học đại học, vì lý lịch trích dọc, khuyên chồng hoc tập tốt ở tù để được cách mạng khoan hồng. Mình đoán mẹ chỉ ngủ đâu vài tiếng một đêm.

Hôm qua, nói chuyện với bà cụ qua Facebook, nay đã 89 tuổi mà đọc sách không cần kính. Mỗi ngày phải đi bộ trong sân vì Đàlạt bị phong toả. Thấy thương, cô em hỏi có nên cho mẹ tiêm chủng ngừa cô-vi thì mình nói hai mũi. Covid-19 nay lại biến hoá nên không lường được. Cô em dặn mua thêm sinh tố và chất bổ sung vì hết rồi. Hôm nay ra Bôn Sa lên đài truyền hình, nói về chương trình hỗ trợ cho người thuê nhà, được chính phủ giúp đỡ, sẽ ghé gửi chút quà cho quê hương về cho mẹ.

Mình không nghĩ có con là nợ, mà là may mắn, người Việt thường nói “cha mẹ sinh con trời sinh tánh”. Sinh con ra, thấy chúng không bị tật nguyền là một cái may mắn, mình có vài người bạn, con bị khùng khùng nhưng họ vẫn phải chăm lo. Lớn lên, chúng chịu khó học hành, không lêu lổng là đại phúc cho mình nên không đòi hỏi gì thêm.

Đồng chí gái hay kể cô bạn nào có con học ra bác sĩ, ra tiến sĩ bú xua la mua, mình thì không quan tâm lắm. Mình chỉ mong con mình làm business, khởi nghiệp, làm việc cho chúng. Mình quan niệm đi làm cho chủ để giúp họ giàu có thêm hay sạt nghiệp. Làm cho mình thì vui hơn, có ít ăn ít, có nhiều cũng ăn ít.

Chúng muốn học gì thì cứ để chúng học, nếu không có đam mê thì chúng sẽ không thích và sẽ Chán Mớ Đời. Đồng chí gái và mình có 2 đứa con, một trai một gái. Theo mình nhận xét thì cá tính con gái giống mình hơn, con trai thì giống mẹ, muốn có một cuộc sống bình an, cầu toàn. Khi đọc tiểu luận con gái viết để nộp đơn xin vào đại học, mình thất kinh vì nó muốn sống cuộc đời như bố nó. Kinh 

Nó học về môn thương mại thế giới (world business), một môn mới của đại học USC dù được nhận vào khoa kỹ sư điện tử ở UCSD. Chương trình được hai đại học nổi tiếng khác đồng hành; Bocconi, trường đại học kinh tế nổi tiếng nhất của Ý Đại Lợi, và trường đại học khoa học Hương Cảng. Chương trình gồm có 4 năm, năm đầu thì tất cả sinh viên của 3 trường đều phải học tại USC, rồi năm thứ 2, học tại Hương Cảng, năm thứ 3, học tại Milano của Ý Đại Lợi. Năm cuối thì muốn về trường mẹ hay trường nào cũng được. Tốt nghiệp thì nhận 3 bằng của 3 trường. Con gái theo tiêu chuẩn mua một tặng hai.

Trong 4 năm, nó học tại 3 nước, viếng thăm và đi thực tế rất nhiều nước, đâu 14 quốc gia, khiến mình phải trả tiền mệt thở. Năm đầu, đi thực tế ở xứ Ba-Tây, năm thứ 2 thì ở Hương Cảng, nó viếng thăm, Nam Dương, Việt Nam, Nhật Bản, Trung Cộng, Phi Luật Tân, rồi đi làm hè ở Thái Lan. Công ty ở Thái hỏi nó muốn làm ở Thái thì họ nhận luôn khi ra trường. Năm thứ 3 thì ở Ý Đại Lợi, cuối tuần đi viếng các thành phố khác như dạo mình ở Ý Đại Lợi, cuối tuần, vác ba lô đi vẽ các nơi khác.. Lâu lâu, nó nhắn tin đi BUdapest, Barcelona, Paris, Munich, Hè đi làm cho khách sạn Hilton ở Maui, Hạ Uy Di, rồi Hilton mướn nó, lương cao sau khi tốt nghiệp … năm thứ 4 thì về Hương Cảng học vì nó thích không khí ở đây nhưng được mấy tháng vì cô-vi nên phải chạy về mỹ, học qua mạng, ra trường. Hilton vì Covid nên chấm dứt hợp đồng với nó. Kinh

Nó nhảy qua kiếm được việc làm cho một công ty khởi nghiệp, làm nghề Sale. Mình không biết nó học nghề buôn bán từ đâu mà làm việc ở nhà, chỉ thấy nó gọi điện thoại ào ào cả ngày từ 6 giờ sáng. Có lẻ nó thừa hưởng được tài ăn nói của bà nội. Nó phá chỉ tiêu hàng tháng, được bonus bú xua la mua, công ty gửi nó Hoa Thịnh Đốn để nhận giải chi đó và gặp khách hàng. Có khách hàng bay từ xa đến với mục đích để gặp nó. Sau đó, nó đi một vòng lên Boston và New York 3 tuần lễ, vẫn làm việc hằng ngày. Về lại Cali, nó tuyên bố tháng 9 này sẽ dọn qua New yOrk ở khiến mẹ nó chới với. Mình đến New York năm 30 tuổi, 36 tuổi mới dừng bước giang hồ nên chắc con gái còn lâu mới lập gia đình.

Khi xưa mình làm việc ở Paris,  Ý Đại Lợi, rồi Thuỵ Sĩ, Lausanne, Zurich, Basel, Geneva, qua Anh Quốc, đến New YOrk, rồi gặp đồng chí gái nên dừng bước giang hồ tại Cali. Mỗi chiều, mình đi bộ với đồng chí gái, có thời gian để đồng chí gái giáo huấn mình, đả thông tư tưởng để học tập cách mạng làm người chồng nhân dân và người cha anh hùng. Lâu lâu, có vài con coyote, bò ra băng qua đường khiến đồng chí gái sợ. Mình thì gặp mấy con này hàng ngày trên vườn nên chả lo. Thậm chí ở ngay sau nhà mình, lâu lâu có con nhảy vào đi bắt thỏ để xơi.

Đồng chí gái hỏi” anh không sợ con nào” mình nói không sợ con nào hết ngoại trừ con vợ. Đồng chí gái kêu rứa là anh sợ vợ rồi. Thằng con mình lại giống mẹ, hay sợ người ta nói, hay dè dặt. Có lần nói hỏi mình làm sao để khỏi sợ. Mình nói có gì phải sợ. Có nhiều cô thích nó mà nó sợ không dám tiến tới, ngại bị từ chối. Nay mẹ nó phải đi tiếp thị nó cho mấy bà bạn, xem có ai để giới thiệu cho nó. Chán Mớ Đời 

Nói chung thì mình may mắn, có hai đứa con học xong đại học, không phá làng phá xóm như vài người mình quen biết. Còn tương lai thì mình không biết. Mình chỉ mong chúng có một cuộc sống tốt đẹp, vui là được.

Con là nợ, tuỳ hoàn cảnh nữa. Nếu có con bị tật nguyền, có thể xem đó là một cái nợ, mình phải trả. Con hư hỏng cũng tương tự. Nói chung ở mỹ, con cái người á châu, Do Thái ít phạm tội ác hơn các chủng tộc khác. Họ cho rằng vì văn hoá gia đình, yêu thương của cha mẹ hoàn toàn, dù chúng có sa cơ thất thế cũng vẫn yêu thương chúng.

Con trai mình, để râu cho nó già thêm một tí, mới 26 tuổi, còn độc thân vui tính.

Mình có cái may mắn, làm việc cho mình nên có thời gian với con nhiều hơn. Chúng đi học về thì mình đón, rồi nấu ăn cho chúng, chở đi học đàn, bơi lội, bóng rổ, đá banh, đủ trò. Mình đọc đâu đó, thời gian mà đả thông tư tưởng giữa cha mẹ và con cái là lúc đón chúng đi học về. Chúng hồ hởi vì có chuyện gì trong lớp để kể nên cứ hỏi chúng là chúng khai tuốt luốc. Khi chúng đi bơi thi mỗi tháng, mình phải dậy sớm, chuẩn bị thức ăn, đồ đạt để chở chúng đi bơi. Ngồi trong gió lạnh mưa nắng để xem con bơi thi hay phải chở đi xa để thi đấu với các đội ở vùng khác như Las Vegas, Los Angeles do đó mình gần với chúng hơn.

Trên mạng hay có nhiều người viết bài về con, nói là chúng không chăm sóc mình về già, đủ trò. Mình nghĩ những người này trông mong về con mình quá nhiều. Mình chỉ làm bổn phận nuôi chúng không lớn, học hành cho xong rồi xong bổn phận, còn đời mình về già thì mình tự lo. Có lẻ vì vậy, người ta hay lo cho con dù chúng đã lớn khôn, thậm chí đến mãn đời.

Mình và đồng chí gái muốn có con chớ mấy đứa con có muốn ra đời đâu. Do đó mình phải có bổn phận và trách nhiệm khi chúng ra đời, còn chúng có lo cho mình sau này thì đòi hỏi hơi quá về con mình. Chúng có đời sống của chúng, cũng sẽ phải lo chăm sóc con chúng. Nếu chúng yêu thương, chăm sóc con cái chúng tốt thì xem như mình thành công, đã truyền cho chúng tình thương cho con.

Có con là điều may mắn, mình biết nhiều người giàu có mà không con, mẹ mình chắc cũng không bao giờ kêu “con là nợ”. Bà cụ dành tình thương hết cho 11 người con nhất là mấy người em mình lớn lên không có sự hiện diện của bố mình, 15 năm ở trại cải tạo. Có lẻ nhờ sự hy sinh của mẹ mình mà sau này mình đồng hành với con từ khi chúng còn bé. Mẹ mình thích nói chuyện với mình. Lý do là mình nghe mẹ kể chuyện dù đã nghe rất nhiều lần, còn mấy cô em mình thì nghe đến là bỏ chạy mất dép. Mình hay thâu khi nói chuyện với mẹ, một ngày nào đó, mình sẽ có dịp nghe lại những câu chuyện mẹ kể. Xong om

Nguyễn Hoàng Sơn 

Người Pháp và giáo dục tại Việt Nam #1

 Năm 1873, người Pháp hoàn toàn làm chủ Việt Nam, triều đình Huế ký hiệp ước 1874 công nhận Pháp quốc có chủ quyền tại Đông Dương. Tàu Mãn Thành không chấp nhận hiệp ước này vì người Việt sẽ hết triều cống hàng năm nên cho quân đến Bắc kỳ. Cuối cùng Anh Quốc can thiệp vào giúp người Tàu ký hiệp ước Tien-Tsin, người Pháp công nhận biên giới của Trung Hoa, và được giao thương với Việt Nam.

Thực dân pháp có hai chọn lựa: lãnh đạo với một chính phủ bù nhìn của dân địa phương hay trực tiếp lãnh đạo dưới chính quyền thực dân. Cách thứ nhất tốt nhất nhưng không hiểu sao người Pháp lại muốn lãnh đạo trực tiếp. Sẽ kể sau về chủ nghĩa Ferry được áp dụng tại Pháp quốc trong cuộc tranh dành, chống ảnh hưởng của nhà thờ vào ngành giáo dục bắt buộc cho mọi công dân. Khi mình sang Pháp thì mới hiểu các trường họ gọi Laïque.(thế tục).

Lý do là ngành giáo dục tại Pháp trước đây đều do nhà thờ công giáo nên từ khi đạo luật Falloux, trường học công giáo từ từ được đổi sang trường học thế tục với các luật về giáo dục từ năm 1881 đến 1886. Từ cuối thế kỷ 19 thì nền giáo dục tại Pháp, được đặt căn bản thế tục, không bị ảnh hưởng chính trị và tôn giáo.

Năm 1882, luật Jules Ferry được ra đời, bắt buộc giáo dục miễn phí và thế tục ở bậc tiểu học cho mọi trẻ em tại Pháp. Năm 1886, đạo luật Gobblet ra đời để thế tục hoá nền giáo dục của Pháp, các nhân viên của ngành giáo dục đều thế tục. Đến năm 1905, có đạo luật 9-12-1905 ra đời để ngăn tách nhà thờ và nhà nước và tuyên bố về sự tự do tín ngưỡng trong khi đó các thuộc địa, thậm chí các vùng Alsace Loraine vẫn được cai trị dưới luật Concordat du 26 messidor an IX năm 1801. Mình đoán các linh mục đi giảng đạo tại các thuộc địa, có một vai trò quan trọng với giáo dân nên họ vẫn không bỏ các nhà dòng dạy học. Việt Nam có rất nhiều trường do các dòng như Lasan, Couvent,…

Đến năm 1946, sau đệ nhị thế chiến thì giáo dục Pháp bắt buộc và miễn phí các chương trình, nhờ vậy mình đi học đại học mới không tốn tiền.

Người Pháp với hào quang, tự hào về văn hoá của họ, được mệnh danh là thế kỷ ánh sáng, với bao nhiêu trí thức gia nổi tiếng của họ, muốn cai trị trực tiếp vì họ nghĩ lối lãnh đạo của người Việt quá dã man, lạc hậu, nghĩ sẽ giúp đông dương phát triển nhanh hơn và bị đồng hoá nhanh.

Cách lãnh đạo thực dân muốn người bản xứ phải ham chuộng văn hoá của người tây phương và từ bỏ các tập tục, phong tục, lịch sử của dân họ, nói cách khác là tây hoá người Việt. Người pháp đã thành công kế hoạch này ở các thuộc địa Bắc Phi như Algerie, Ma-rốc,.. người âu châu đổ xô về vùng Bắc phi, gần âu châu nên tạo dựng được một giai cấp người âu châu cai trị khá đông. Nói chung, lịch sử của âu châu và Bắc Phi khá gần gũi. Tôn giáo của họ cũng xuất xứ từ kinh thánh chung,...

Ngược lại, tại Việt Nam thì văn hoá và tôn giáo quá khác biệt, đưa đến những xung đột từ căn bản. Theo nho-giáo, người Việt rất kính trọng người già “kính lão đắc thọ” nhưng theo văn hoá tây phương thì tự do cá nhân được đề cao, tuyệt đối tôn trọng. Người Việt bị đồng hoá, bị bắt buộc quay lưng lại với nền văn hoá tổ tiên và chính quyền thực dân không màng đến nền văn hoá sở tại.

Mình nghe kể thế hệ bố mẹ mình, rất thích xổ tiếng tây. Như bà Nhu nói tiếng tây, ông Thiệu hay Phạm Văn Đồng,..cứ xổ tiếng tây dù không học cao lắm. Mình nghĩ đó là thành quả của sự giáo dục do người Pháp áp dụng tại Đông Dương. Khi xưa học Yersin, mình thấy đám học sinh trường tây khác với dân trường việt, mình cảm thấy chơi với dân học trường việt dể hoà đồng hơn vì nhóm học trường tây có vẻ thuộc một giai cấp, đẳng cấp khác. 

Trước khi người Pháp đến Việt Nam, hạ tầng cơ sở Việt Nam xem như không có. Con đường Cái Quan chỉ là một con đường đất nhỏ để di chuyển bằng ngựa hay đi bộ. Người Pháp muốn thành lập đường xá để di chuyển nhanh chóng cho công việc rút tài nguyên của thuộc địa và trong trường hợp có bạo loạn, sẽ di chuyển quân của họ nhanh chóng.

Năm 1879, người Pháp cho áp dụng bộ luật Napoleon tại Đông Dương, và cho ra đời Conseil Colonial, hội đồng thuộc địa nhằm thay thế hết các quan triều đình Nguyễn tại Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Trung Kỳ thì vẫn còn dưới sự lãnh đạo của triều đình Nguyễn.

Năm 1897, Paul Doumer, làm khâm sứ Bắc kỳ, người được xem là thấu hiểu vấn đề Đông Dương nên cho cải tổ khá nhiều nền hành chánh thực dân tại Đông Dương. Ông giảm bớt quyền hành các lãnh đạo thực dân tại Cam bu chia, cho vua xứ này có thêm quyền hành, ngược lại Campuchia cho phép người Pháp buôn bán, sử dụng đất đai tại xứ này. Ông ta trao quyền lại cho triều đình Huế để tránh các phong trào Cần Vương,...nhưng họ là người chỉ định ai lên ngôi, vua lấy ai như trường hợp ông Bảo Đại và bà Nam Phương hoàng hậu.

Điểm đáng chú ý là ông Bảo Đại sống ở tây từ bé, như làm con tin ở mẫu quốc nên khi về nước, ông ta thích ở Đàlạt hơn vì khí hậu không có nóng như ở Huế. Đàlạt có khí hậu lạnh lạnh như âu châu vào mùa Xuân.

1912, chính quyền Đông Dương muốn mượn 90 triệu quan pháp để xây dựng hạ tầng cơ sở tại Đông dương. Họ muốn xây dựng hệ thống đường xá, kinh nước dẫn thuỷ nhập điền, trường học, bưu điện dây thép.

Trong các vụ đầu tư vào hạ tầng cơ sở của người Pháp thì dẫn thuỷ nhập điền là có hệ quả tốt nhất. Miền nam phì nhiêu nhưng các sông ngòi, không được quản lý tốt. Mùa mưa đến ào ào rồi đi, để lại 9 tháng nắng khô, giới hạn sự trồng trọt của nông dân Việt Nam.

Hệ thống dẫn thuỷ nhập điện được cải tổ ở miền nam, giúp nông dân từ làm 1 vụ mùa mỗi năm lên đến 2 vụ mùa. Mùa đầu tiên được 2 vụ mùa thì đông dương trở thành nước sản xuất gạo thứ nhì thế giới và lợi tức lên đến 20 triệu quan pháp năm đầu tiên. Bỏ ra 90 triệu, lời được 20 triệu năm đầu tiên, đầu tư tốt, 5 năm lấy lại vốn.

Ngoài ra người Pháp còn xây dựng một hệ thống đường xá tại Đông Dương, giúp di chuyển hàng hoá từ Lào, Cam bốt. Xứ LÀo không có đường ra biển nên phải đi nhờ qua Thái Lan, nay có thể chạy thẳng ra Vinh, Đà Nẵng,... họ cho xây 600 dậm đường xe hoả, có rất nhiều đường lên biên giới tàu như ở Lạng Sơn, để chuyên chở hàng hoá,... nói chung thì đường xe hoả mang lại ít lợi ích cho người dân. Giá vé quá đắt cho một người Việt bình thường để di chuyển. Điển hình đường xe hoả lên Đàlạt, đa số dành cho người tây phương. Năm 1948, Mẹ mình vào Đàlạt, đi xe vào từ Huế vào Đà Nẵng, rồi lấy tàu thuỷ đến Phan Thiết, rồi từ đấy lấy xe đò lên Đàlạt. Người tây thì họ lấy xe lửa ở Phan Rang lên thẳng Đàlạt, khoẻ hơn nhưng đắt tiền hơn.

Muốn cai trị Đông Dương, người Pháp phải sử dụng đến giáo dục, giáo hoá, đào tạo người Việt, để cộng tác với chính quyền thực dân. Mình nghe người lớn kể thầy thông thầy ký, những người được pháp đào tạo để làm thông ngôn hay thơ ký cho nền hành chánh của họ. Họ không muốn đào tạo nhiều người Việt lên cấp trung học, do đó mới có thi tuyển rất khó khăn.

Thư của ông Nguyễn Tất Thành xin vào trường thuộc địa (école coloniale

Mình rất ngạc nhiên khi đọc lá thư của ông Nguyễn Tất Thành, viết cho chính quyền thuộc địa, xin cho ông ta học trường thuộc địa (école coloniale), để ra làm việc với chính quyền thực dân như ông Trần Trọng Kim nhưng bị từ chối. Buồn tình, ông ta lên tàu, sang tây, rồi gặp các ổ cộng sản quốc tế, nuôi dưỡng biến ông ta thành người cộng sản. Mình nhớ ngày đầu tiên đến phi trường Roissy, thấy mấy người Việt, của nhóm Việt kiều Yêu Nước thân Hà Nội, ra đứng ở phi trường, hỏi có cần chỗ ở không, miễn phí. Họ biết sinh viên du học từ Sàigòn qua nên ra đón, ai không có nhà cửa, lơ mơ thì họ đón về ổ của họ, giúp lo giấy tờ,... cái này là cái dỡ của toà đại sứ Việt Nam Cộng Hoà trên mặt chính trị ở hải ngoại. Có lẻ được làm vua thua làm đại sứ đến mấy ông đại sứ Việt Nam Cộng Hoà ở hải ngoài không giỏi về chính trị hay chưa đọc Nguyễn Trãi.

Theo lời kể của luật sư Vũ Quốc Thúc, đồng môn với ông Võ Nguyên Giáp, cho hay ông Giáp học rất giỏi nhưng bị thầy tây đánh rớt, không được sang tây học luật như ông nên sau này chán đời theo Việt mInh, chiến thắng tây ở Điện Biên Phủ. Đọc tài liệu pháp, được biết họ không muốn người Việt giỏi nhiều lắm vì ngại những người này sẽ chống lại họ. Kiểu Việt Cộng dùng lý lịch để thanh lọc, không cho con của ngụy quân ngụy quyền lên đại học.

Nếu người Pháp có ý đồ khai sáng dân trí người Việt thật sự thì có lẻ người Việt theo tây học sẽ đồng hành với họ rất xa. Người Pháp muốn khai sáng người Việt nhưng lại cản trở người Việt theo họ, học từ họ. Lý do sẽ kể sau nếu còn chỗ vì mình kể lung tung xà bèn.

Mình có kể là người Pháp do dự nên dạy người Việt bằng chữ Nôm hay chữ quốc ngữ do người tây phương lập ra. Cuối cùng thì họ sử dụng chữ la-tinh, khiến người Việt chới với vì bị cắt đứt với nguồn gốc của họ, bị khủng hoảng bản thể. Giáo dục trường tây, đào tạo học sinh người Việt tin tưởng văn hoá tây là số một khiến họ bảo hoàng hơn vua. Vụ này còn ảnh hưởng đến ngày nay, người Việt cứ thích đồ ngoại, chê đồ lô-can. Cái gì của Tây là tốt, của Mỹ là tốt, coi thường người Việt.

Có lần mình nhận được điện thoại của một người Việt, hỏi có phải anh là người vẽ và xây căn nhà ở đường  ..., Fountain valley. Mình kêu đích thị thì anh ta nói một câu khiến mình như bò đội nón. Anh ta kêu không ngờ là người Việt lại vẽ nhà đẹp như thế. Anh ta kể là muốn mua căn nhà này nhưng bị người khác đặt cọc tiền trước nên muốn mình vẽ một căn y-chang như vậy cho anh ta. Mình nhất trí ngay vì dễ, chỉ cần cóp-pi là xong.

Hôm trước, có người còm, kêu phải kêu kiến trúc sư Tây qua Việt Nam để thiết kế lại Đàlạt khiến mình càng thất kinh. Họ cứ Đinh ninh không có kiến trúc sư người Việt giỏi. Theo mình đó là tinh thần của kẻ bị trị, vẫn còn lưu lại đến thời nay. Xem bao nhiêu người thành đạt ở á châu, phi châu, nơi từng bị người tây phương cai trị, họ đều thích bận áo quần tây phương, đeo ví LV hay áo quần thời trang của các nhà thời trang âu châu. Đọc 3 cuốn sách về người giàu có á châu, chỉ thấy họ đi âu châu, mua sắm, áo quần thời trang,... á châu có giàu hơn nhưng về văn hoá vẫn chịu sự ảnh hưởng của tây phương, vẫn xem văn hoá của Tây Phương là số một.

Khi người tây phương cai trị, người bị trị muốn đạt được lối sống của người cai trị nên khi họ khá khá là muốn sống như người cai trị, chủ của mình. Hội nhạc tây, nhảy đầm múa kép,... Mình thấy ông Ngô Đình Diệm, bận áo dài khăn đóng, do anh của mệ ngoại mình, may để đón các nguyên thủ quốc tế. Con cái họ đều cho học chơi vĩ cầm, dương cầm, hình ảnh mà họ thấy con của người chủ cũ thay vì cho học đàn tranh, đàn bầu,... rất khó cho người á châu trở thành một chuyên gia về văn hoá tây phương. Có vài người thôi. Đứa bé lớn lên ở xã hội á châu nhưng lại được giáo huấn theo tây phương sẽ bị khủng hoảng bản thể.

https://youtu.be/iit7aKRh5js

Mình học với tây đầm 6 năm trời tại Paris, đâu có thấy tây đàm nào cực giỏi đâu. Có vài người có óc sáng tạo vì được đào tạo trong một nền giáo dục, được khuyến khích có tư duy thay vì học thuộc lòng như người Việt mình. Ở Việt Nam mình có gặp ở Đàlạt , chị Nga con của Trường Chinh, hay ông kiến trúc cứ nào chiếm căn nhà ở Đinh Tiên Hoàng, sửa lại thành nhà 100 mái. Sau này người ta bắt dỡ, chắc là cán bộ lớn muốn cưỡng chế căn nhà này. Ngày nay, cũng có vài kiến trúc sư giỏi mà mình theo dõi qua báo chí nghệ thuật tại Việt Nam.

Khi xưa, học trường tây, hổi tiểu học không để ý nhưng lên trung học là thấy dân học chung với mình, cứ như tây con, xổ tiếng tây bú xua la mua. Do đó mình cảm thấy thỏi mái chơi với đám học trường ta hơn. Thêm nữa, thầy người Việt rất nhiều. Vào lớp ở Yersin nghe người Việt giảng bài bằng pháp ngữ nên mình hay bị lộn xộn trong đầu.

Mình có cô bạn đầm ở Paris, năm kia có ghé thăm gia đình mình. Có về Việt Nam, thăm viếng Nam Định, nơi mẹ cô ta sinh ra đời, khi bà ngoại cô ta đi dạy thời thực dân, còn ông ngoại làm cho sở thuế. Vào đầu thế kỷ 20, người Pháp xung phong qua Việt Nam làm việc trong ngành giáo dục rất đông như bố mẹ nhà văn Marguerite Duras, sinh năm 1914 tại Gia Định, kể về cuộc đời thơ ấu của bà ta qua tác phẩm “L’amant” mà trong phim có cô tài tử người anh rất sexy. Thôi để kể trong bài khác, đầy chi tiết hơn.

Nhìn cuộc đời của gia đình nhà văn Duras, chúng ta thấy rõ sự hình thành giáo dục của người Pháp tại Đông Dương. Pháp ngữ rất khó học, so với nền giáo dục cổ xưa. Người bản xứ, xem học chương trình pháp là cái vé đưa họ đến sự giàu có, sẽ giúp cải thiện đời sống của họ về kinh tế dù chỉ làm thông ngôn, hay theo ký cho chính quyền thực dân. Từ đó họ yêu tây hơn cả đầm. Ai không được tham dự vào giai cấp này sẽ làm cách mạng chống đối.

Các học sinh trường tây học tổ tiên của họ là người Gaulois (nos ancêtres sont des Gaulois). Hồi nhỏ mình bị lấn cấn vụ này. Học bà đầm ông tây thì họ nói tổ quốc chúng ta có thánh Jeanne d’Arc, trong khi giờ việt ngữ thì ông thầy Tường kêu con rồng cháu tiên, có bà nào sinh ra 100 cái trứng khiến mình chả biết mình là người gì. 

Dạo mình ở tây, nhiễm tính kiêu căng tự phụ của người Pháp nên cũng tưởng mình là tây con, chê bai đủ thứ. Đến khi đi làm tại các quốc gia khác, khám phá những văn hoá khác trên thế giới, mình mới nghiệm lại cái xấu của chính mình. Chẳng hơn thằng tây nào cả mà cũng không thua con đầm nào hết.

Năm 1942, chỉ có 0.2% người Pháp tại Đông Dương hay 42,000 ông tây bà đầm cai trị 21 triệu người. Các nhà cầm quyền tây thuộc địa, có hai cách hợp tác hay đồng hoá người sở tại. Đồng hoá thì người sở tại phải từ bỏ văn hoá và tiếng mẹ đẻ để trở thành người Pháp, như ông Étienne Aymonier, giám đốc đầu tiên trường thuộc địa (l’École coloniale) , đào tạo các nhà hành chánh tương lai cho thuộc địa tuyên bố: « Ils seront des Français, nos égaux, à qui nous ne pourrons, à qui nous ne devrons pas refuser la juste part d’autonomie qui sera nécessaire à leur développement ». Nguyễn Tất Thành cũng muốn gia nhập giai cấp này. Nếu người Pháp cho ông ta học bổng thì có lẻ cuộc chiến Việt Nam đã không xẩy ra. 

Nếu theo lối hợp tác thì người Việt giữ nền văn hoá, ngôn ngữ sở tại và hợp tác với người Pháp, chấp nhận  chính quyền thực dân. Do đó chúng ta thấy các chính sách cai trị của người Pháp tại Đông Dương, được thay đổi nhiều vì chính quyền mẫu quốc thay đổi. Có lẻ thời gian mà người Việt hưởng được sự tôn trọng của người Pháp, khi Mặt Trận Bình dân (Front populaire) nắm chính quyền tại Pháp quốc. Những thay đổi của mặt trận này, để lại dấu ấn rất nhiều cho xã hội ngày nay.

Vấn đề là các giáo viên hay giáo sư người Pháp không rành tiếng địa phương thì làm sao có thể giảng dạy  theo phương pháp hợp tác. Năm 1886, toàn quyền Paul Bert , quyết định sử dụng chữ quốc ngữ để giảng dạy thay vì tiếng tàu như cách giáo dục từ ngàn xưa tại Việt Nam. Chương trình vẫn lệ thuộc vào các chính sách giáo dục tại mẫu quốc.

Năm 1905, có 4 loại giáo dục: giáo dục Tây-ta, giáo dục dạy nghề, giáo dục cổ cải cách và giáo dục pháp ngữ. Những hệ thống giáo dục song song này, tạo ra các phân biệt sau này. Mình nhớ khi xưa, học trường Tây thì họ các annales về đề thi như của France d’ Outre-mer , xem như thuộc địa, hay của Métropolitaine của mấy quốc. Thiên hạ hay gọi bằng Local xem như thấp hơn ở mẫu quốc. Có lẻ vì vậy người giàu có ở Việt Nam, cho con họ du học bên tây vì tiền Đông Dương đổi thành 10 quan pháp dạo ấy. Người ta mua nhà cho con họ ở để ăn học bên tây.


Hình chụp đám học sinh tây đầm tại Đàlạt. Cờ Tam-tài to đùng còn cờ triều đình Huế, bé tí ti bên cạnh. Mình nhớ khi xưa, đứng chào quốc kỳ của tây hồi nhỏ đều đều.

Điểm sáng cho nền giáo dục Tây tại Việt Nam là phụ nữ được đi học, trái với nền văn hoá sở tại, con gái không được đi học, chỉ lo chuẩn bị làm dâu nhà người ta và trở thành máy đẻ, tạo nòi giống bên chồng. Trường hợp bà Nam Phương Hoàng Hậu, con nhà giàu, được đi học rồi gửi sang tây du học. Sau này về lại Việt Nam, bà ta mới cho đất để xây dựng trường Couvent Des Oiseaux do các bà sơ đảm trách.

Lúc đầu thì phụ nữ được đi học, ngoài ra còn học thêm nữ công gia chánh đến tiểu học. Sau này ông toàn quyền Albert Sarraut, cải tổ, cho phép họ học lên đại học. Ngoài ra, giáo dục của người Pháp cho phép trai gái học chung, dù phụ nữ chỉ chiếm có 25% nhưng cũng tạo được sự gặp gỡ giữa trai gái người Việt vào thời ấy, còn bị Nho giáo áp đặt khá nhiều.

Ông Phạm duy Khiêm, anh của ông nhạc sĩ Phạm Duy, giáo sư trường Albert Sarraut, nói trong buổi trao giải thưởng năm 1937: « vous avez ici l’avantage unique de rencontrer, sur les memes bancs, dans les memes chaires, des representants des deux sexes, et d’au moins deux races [...]. à chacun de vous il est permis, directement ou indirectement, de faire connaissance avec des pays autres que le sien, avec des ames tres differentes de la sienne. [...] à cote des differences de race ou d’education, vous saurez distinguer aussi les differences individuelles, souvent les plus importantes »

Ông Phạm duy Khiêm là kết quả của hai nền giáo dục đông tây, theo chính sách hợp tác với giáo dục sở tại trước khi toàn quyền Albert Sarraut thay đổi, hoàn toàn theo Tây, có ảnh hưởng đến thời mình học trường tây. Tây không tây mà mít cũng không mít, do đó có lẻ ông ta bị khủng hoảng bản thể nên sau này tự tử. 

Người Việt ở hải ngoại lâu ngày cũng có vấn đề tâm lý vì phải đối chọi với hai nền văn hoá, đứng ở gạch nối của Việt-Mỹ, hay Việt-Tây., Việt-đức,... văn hoá thịt ba-chỉ, nữa nạc nữa mỡ. Chán Mớ Đời 

 Hệ thống giáo dục của người Pháp đặt để tại Việt Nam, tuy nghiên cứu cẩn thận nhưng thống kê cho thấy người Việt vào năm 1920, 90% học sinh không qua cửa tiểu học. Dạo còn bé, hóng chuyện người lớn, họ kêu ông A, ông B giỏi lắm, đậu bằng ri-me khiến mình đã ngu lại còn ngu lâu dốt bền, hoá ra là bằng tiểu học (Primaire) mà người Việt mình đọc thành ri-me.

Người Pháp chỉ muốn đào tạo một thiểu số người Việt để làm việc cho nền hành chánh của họ nên sau khi học, không có công ăn việc làm nên người Việt cũng nản lòng theo học mấy ông tây bà đầm.

Hệ thống giáo dục tại Việt Nam còn chưa được chấp thuận bởi mẫu quốc, thêm đi học là một gánh nặng kinh tế cho gia đình. Ngoài ra, các gia đình giàu có, muốn con mình học lên cao nhưng bị hạn chế vì người Pháp lo ngại cho người Việt học cao, sẽ giúp họ hiểu được quyền lợi của mình mà đòi hỏi, chống đối lại sự kiểm soát của chính quyền thực dân. Do đó, học sinh phải xoay qua học trường tư, hay đi du học tại pháp lúc còn bé.

Vấn đề là các văn bằng nữa, bằng local nên các gia đình Việt Nam tìm cách cho con vào học trường Albert Sarraut hay Chasseloup-Laubat. Các trường này chỉ cho phép độ 45% là học sinh người Việt, nhất là học phí rất đắt để ngăn cản người Việt theo học các trường này, chỉ có 157 học sinh người Việt theo học so với 953 học sinh người Pháp. Dân thuộc địa thường gọi là trường của người da trắng (l’école des blancs).


Trường Petit Lycee thời xưa, toàn là con tây và đầm. Trong hình có một học sinh gốc việt, đứng lớ ngớ một mình. Chỗ này mình ra chơi mỗi ngày suốt 3 năm trời.

Nói chung, hệ thống giáo dục hợp tác ở Việt Nam, không đào tạo những nhà thơ, nhà văn pháp ngữ nổi tiếng ở thuộc địa như ông Senghor (Senegal) hay Albert Camus (Algérie) Ngược lại, nhờ chữ quốc ngữ được giảng dạy, giúp người Việt tạo thành một nền văn chương, âm nhạc cải cách khá đặc biệt. 

Mình rất ngạc nhiên là ông Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn,.. từng du học tại pháp nhưng họ lại làm thơ, diễn đạt tâm tình của họ qua chữ quốc ngữ. Nếu người Pháp sử dụng cách giáo dục như tại Algerie, hay phi châu thì có lẻ ngày nay chữ quốc ngữ không được phát triển tốt và chúng ta sẽ không có một nền văn chương huy hoàng được gọi là Thời Tiền Chiến. Chúng ta sẽ không có Hàn MẠc Tử, Văn Cao,...

Thôi ngưng đây, sẽ kể tiếp kỳ tới.

Nguyễn Hoàng Sơn 



Xe lửa Đàlạt Việt Cộng bán đi về đâu?

 Mình đọc lâu rồi bài của ông nào, tên Thịnh Nguyễn, kể về vụ Việt Cộng chơi khôn, gỡ đường rày xe lửa Đàlạt - Song-pha đem bán cho Thuỵ Sĩ, kiếm được đâu $650,000. Gần đây lại nghe mấy ông Siêu-việt, muốn làm lại đường rày này để kiếm ăn, nghe nói chi phí gần 500 triệu đôla, gấp 1000 lần số tiền bán khi xưa. Hy vọng họ sẽ không làm công trình này.

Ga xe lửa Đàlạt được xem là đẹp nhất Đông-Nam-Á một thời, do người pháp thiết kế và nhà thầu Việt Nam, ông Võ Đình Dung thi công. Mình có kể vụ này rồi. Nay chỉ bỏ lên mấy tấm ảnh mà mình giữ lại vì bài viết thì quên mất không lưu lại. Nay lười đi tìm lại quá. Mình đoán ông này sống ở Thuỵ Sĩ nên mới có tin tức và hình ảnh của vụ mua bán này và chuyến đi xe lửa mới này.


Khi xưa, mình đọc rất nhiều bài về Đàlạt nhưng không lưu giữ. Ai ngờ ngày nay lại lò mò viết về Đàlạt khi xưa. Chán Mớ Đời 


Tuyến đường này dài 84 cây số trong đó có 16 cây số đường răng-cưa, giúp xe lửa lên dốc để không bị tụt lại. Việt Cộng bán 16 cây số đường rày này như bán sắt vụng. Thời chiến tranh, họ đặt mìn vì xe lửa được dùng chở thực phẩm cho quân đội mỹ. Sau chiến tranh, đói quá nên đem bán hết cho Thuỵ Sĩ như người dân bị chính sách “ngăn sông cấm chợ”, bán đồ của ông bà để lại mà sống trong thiên đường mù hay vượt biển tìm con đường sống.

 


 hình ảnh Việt Cộng câu đầu máy bán cho Thuỵ Sĩ.




Đoàn xe chở đầu máy và các toa xe lửa, hoan hô tinh thần hữu nghị Thuỵ-sĩ Việt.



Xe lửa này do Thuỵ-sĩ chế tạo nên họ tìm kiếm mua lại. Nhìn thấy khẩu hiệu “back to Switzerland”. Hoan hô tinh thần hữu nghị, bị lừa mà không biết.



Xe lửa được đưa ra bến tàu, chở về Âu châu. Chắc nhập cảng ở Ý Đại Lợi vì gần biên giới, và núi Alpes.



Hà Nội ăn mừng đã bán được đồ phế liệu. Mình không hiểu bọn tư bản Thuỵ Sĩ nghĩ gì mấy ông Việt Cộng khi mua được tất cả đường rày, xe lửa.



Máy móc được đem về tu sửa, phục chế lại để cho chạy lại lên núi



Đem về Thuỵ sĩ được Sơn phết lại màu xanh như xe mới



Đoàn tàu này được Thuỵ-sĩ sử dụng để lên núi Alpes. Nghe nói đâu, du khách phải trả tiền cả $150 đô để đi chơi 25 cây số mà phải mua trước cả 6 tháng


Ngày nay, trên thế giới chỉ có 2 tuyến đường xe hoả răng cưa chạy lên núi, đều ở Thuỵ Sỹ. Một trong hai là từ Việt Nam được người Thuỵ Sĩ mua lại của Việt Cộng.


Việt Cộng muốn làm lại con đường ngày nay tốn nữa tỷ đôla. Có bao nhiều người ở Việt Nam có khả năng tài chánh đi chuyến xe lửa này. Máy bay Đàlạt - Sàigòn chỉ tốn có 40 chục đô mà thiên hạ đi xe buýt mất 8 tiếng. Chán Mớ Đời 


Có bài này do ông nào viết về hành trình trên xe lửa Đàlạt tại Thuỵ sĩ, đọc trên mạng, tải về đây cho bà con xem. Chán Mớ Đời


http://hoangkimviet.blogspot.com/2013/04/tu-krong-pha-viet-nam-en-furka-thuy-si.html


Lần sau về thăm Âu châu, chắc mình sẽ về thăm Thuỵ Sĩ nơi mình đã sinh sống 2 năm trời, sẽ tìm cách đi chuyến xe lửa này để nhớ về thời bé được ông cụ cho đi về Trại-mát để thăm người quen.


Còn đây là bài của một chứng nhân “bán rẻ quá khứ” đã kể vụ việc buôn đường giày xe lửa Đàlạt.


Đà Lạt vừa “giải phóng”, ông Phạm Khương thay mặt ban quân quản tiếp nhận ga Đà Lạt khi đầu máy, toa xe và toàn bộ tuyến đường đã nằm phơi sương suốt từ năm 1969 vì chiến tranh. Dầu mazut, thứ dầu đặc chủng để chạy đầu máy răng cưa, cũng không còn. Vậy mà chỉ hai tháng sau, ngày 6.6.1975, chiếc đầu máy răng cưa lại lần đầu tiên lăn bánh gần 70km, vượt D’ran, vượt Eo Gió, vượt Krongpha về tới Tân Mỹ, chỉ còn chờ cầu Tân Mỹ hoàn nhịp là lăn bánh về đến ga cuối Tháp Chàm. Không có dầu mazout, ông Khương đã cùng anh em kỹ sư còn lại ở ga Đà Lạt mày mò hoán đổi cho tàu chạy bằng than củi. Vậy mà tàu lăn bánh gọn gàng, công nhân đi hái trà ở Cầu Đất, cán bộ đi công tác xuống Phan Rang, rồi lâm nông sản xuôi ngược Phan Rang–Đà Lạt được tiếp tế cho nhau sau ngày giải phóng đều nhờ những toa tàu răng cưa vừa hồi sinh chở miễn phí.

 

Nhưng tàu chỉ chạy được đúng 27 chuyến. Cuối năm 1975, khi vừa chuyển giao tuyến đường cho Liên hiệp Xí nghiệp đường sắt VN thì ông nhận được lệnh sét đánh: ngừng chạy tàu, tháo toàn bộ tà vẹt trên tuyến đường Phan Rang–Đà Lạt để chuyển ra tu bổ cho đường sắt Thống Nhất đoạn Bình Định–Quảng Nam. Không chỉ ông Khương mà cả chính quyền tỉnh Lâm Đồng lúc đó cũng bàng hoàng. Một sự đánh đổi cấp tốc được đề ra, Lâm Đồng quyết định hạ cây rừng, cấp 230.000 thanh tà vẹt gỗ cho ngành đường sắt. Nhưng số tà vẹt ấy vẫn không làm thay đổi được quyết định ban đầu.

 

Tàu răng cưa ngưng chạy. Đường sắt răng cưa vẫn bị tháo tà vẹt. Ông Phạm Khương một lần nữa gửi công văn hỏa tốc năn nỉ lần cuối cùng: xin tháo 70% tà vẹt để những thanh ray còn có điểm tựa (không bị gỡ đi vì khác kích cỡ với tuyến đường sắt Thống Nhất). Nhưng tất cả đều bị khước từ. Sau đó thì gần như toàn bộ tuyến đường từ ga Trại Mát trở về Tháp Chàm đều bị gỡ sạch tà vẹt. Còn những thanh ray và cả những đoạn răng cưa mười mấy cây số thì được hóa giá đưa về các nông trường, nhà máy tận dụng làm các công trình và sau đó tiếp tục được người dân “tiếp sức” cho vào những xưởng phế liệu.

 

Quá khứ bị bán rẻ

 

Vậy là tuyến đường răng cưa huyền thoại đã tan hoang chỉ sau một quyết định. Bảy đầu máy Furka lầm lũi nằm lại ga Đà Lạt, Tháp Chàm và Krongpha phơi sương gió. Những đầu máy răng cưa ấy có thể bị quên lãng trên chính xứ sở nó từng hoạt động, nhưng với những kỹ sư hỏa xa Thụy Sĩ, nơi cũng có một tuyến đường sắt răng cưa nhưng lại không còn chiếc đầu máy răng cưa hơi nước nào còn vận hành được, thì “đống sắt” trên những nhà ga ở miền cao nguyên Việt Nam là một báu vật.

 

Ông Khương nhớ đầu năm 1988, Ralph Schorno, một kỹ sư hỏa xa người Thụy Sĩ, đã tìm đến ga Đà Lạt và Tháp Chàm để xem những chiếc đầu máy răng cưa. Trong số bảy chiếc đầu máy, Ralph Schorno chấm được bốn cái còn tốt có thể khôi phục và một số toa tàu của Mỹ để lại. Và sau chuyến thị sát ấy của kỹ sư Ralph Schorno, những cuộc mặc cả đã được đẩy đi nhanh chóng với sự trợ giúp của Đại sứ quán Thụy Sĩ tại Hà Nội bởi một lý do rất đơn giản: cả một tuyến đường đã bị phá dỡ, chỉ còn mấy đầu máy hoen gỉ bỗng dưng có người mang đến những khoản USD lớn xin mua thì tại sao phải ngại ngần. Số tiền đề nghị bán là 1 triệu USD nhưng sau nhiều lần đàm phán đã được chốt giá 650.000 USD.

 

Thương vụ diễn ra nhanh chóng đến mức không ai kịp can thiệp. Ông Phạm Khương kể khi tỉnh Lâm Đồng một lần nữa hay biết về quyết định đó đã triệu tập một cuộc họp suốt 3 ngày liền để tìm cách giữ lại những chiếc đầu máy răng cưa. Nhưng “tiền trao cháo múc”, tháng 8.1990 khi mọi người đang họp thì phía Thụy Sĩ đã đưa xe đặc chủng lên tới Đà Lạt. Và cứ vậy, lần lượt những chiếc đầu máy và toa tàu răng cưa rời D’ran, rời Eo Gió, vượt Krongpha về Tháp Chàm rồi thẳng cảng Vũng Tàu, xuống tàu biển Thụy Sĩ. Câu chuyện về thương vụ bán những đầu máy răng cưa ấy đã vĩnh viễn đóng chặt giấc mơ nối lại tuyến đường xe lửa răng cưa trong ông Phạm Khương và rất nhiều người. Nhưng với người Thụy Sĩ lại mở ra một chương mới về sự hồi sinh của tuyến đường răng cưa mà từ nhiều thập kỷ trước đó, họ đã không còn đầu máy để chạy.

 

Chỉ hai tháng sau khi những đầu máy răng cưa rời Đà Lạt, ông Phạm Khương đã nhận được bưu phẩm của kỹ sư Ralph Schorno từ nhà ga Jungfraujoch. Đó là một cuốn sách rất dày, in những tấm ảnh màu trên nền giấy tốt, kể lại hành trình tìm ra đầu máy răng cưa ở Đà Lạt, đưa về Thụy Sĩ. Và cuối sách là những hình ảnh về hai trong bốn chiếc đầu máy răng cưa mà họ đã khôi phục thành công đang nhả khói trên đường đèo vượt dãy Alpes. Và rất lịch sự, người Thụy Sĩ đã không quên đính kèm một tấm bảng trên thành đầu máy, với dòng chữ về mốc thời gian mà chiếc đầu máy từng chạy trên tuyến đường Phan Rang–Đà Lạt. Như một sự nhắc nhớ về nguồn cội, nhắc nhớ về cả một nỗi đau trong những người Việt Nam từng yêu mến và tự hào về con đường răng cưa đã mất.

--Phạm Chân Dũng Fb


http://trchoa.blogspot.com/


NHs