Ty Công Quản Nước Đàlạt

 Hôm trước, thấy tấm không ảnh của hồ Đội Có, khiến mình nhớ đến ông cụ. Bố mình làm việc ở ty Công Quản Nước, nhà máy lọc nước và bơm nước cho thị dân Đàlạt dùng. Ông cụ mình là công chức của ty Công Chánh Đàlạt, nhưng sau Mậu Thân, ông cụ được đổi qua ty Công Quản Nước, mình đoán cũng trực thuộc Khu Công Chánh Cao Nguyên Trung Phần. Trưởng ty là ông Nguyễn Văn Tùng, người Bắc, bố của tên Huân, học trên mình một lớp ở Yersin, nghe nói đã qua đời mấy năm rồi.

Tấm không ảnh cho thấy bên trái là đường Đinh Tiên Hoàng, từ đường Bà Huyện Thành Quan, chạy lên Giáo Hoàng Học Viện. Bên tay phải có đường Võ Tánh, từ Phan Bội Châu chạy xuống đến bùng binh ngay bờ hồ. Chỗ này là nơi bố mẹ và Thịnh, học chung với mình ở trường tiểu học Thanh Ngọc, tập lái xe, xuống dưới này rồi mẹ nó hoảng, đạp thắng không đạp, đạp ga bay xuống hồ, chết đuối cả 3. Sáng đó, mẹ mình sai người chở 5 tấn gạo vào cho bà ta ở đường Hàm Nghi, chưa kịp lấy tiền nên mất 5 tấn gạo. Chán Mớ Đời 

Thật ra khi lái xe mà có vợ ngồi bên cạnh hay gây tai nạn lưu thông vì đàn bà không muốn lái xe nhưng thích lái tài xế. Khiến tài xế nổi điên đâm vào lề.

Từ đường Bà Huyện Thanh Quan, có con đường nhỏ chạy vào bên cạnh hồ Đội Có, đến nhà máy lọc nước của Đàlạt. Mình có vào đây vài lần. Nếu nhìn kỹ thì sẽ thấy ống nước lớn từ hồ Xuân Hương, để bơm vào nhà máy nước. Nếu mình không lầm thì có ống thông nước từ hồ Xuân Hương vào hồ Đội Có, để thoát bớt nước cho hồ Xuân Hương vào mùa mưa. Ông Đội Có giàu, có dãy nhà ở khu Hoà Bình đối diện nhà sách Hoà Bình, phía sau là bến xe Tùng Nghĩa.

Tìm ra rồi, hình chụp thấy hồ Xuân Hương, và hai hồ nhỏ bên kia đường: hồ Đội Có và hồ Tống Lệ

Mình vào đây thường là buổi tối, ông cụ đi thanh tra các nhân viên gác trực nhân dân tự vệ ban đêm. Mình đi ké vào xem. Ông cụ là đoàn trưởng nhân dân tự vệ của nhà máy nước nên chỉ xem xét, phát súng trong kho, ghi tên ai có mặt và ai vắng mặt rồi về nhà ngủ. Cũng vì cái chức này mà sau 75, ông cụ đi tù 15 năm.

Số là trước khi di tản khỏi Đàlạt vào tháng 3 năm 1975, ông cụ được lệnh chôn súng của các nhân viên của đoàn nhân dân tự vệ. Sau khi Việt Cộng vào Đàlạt, ông cụ trở về Đàlạt, rủ các người bạn quen, in truyền đơn chống Việt Cộng, bị bắt với súng ống của nhân dân tự vệ đã chôn khi xưa.

Dãy phố của ông Đội Có, phía sau lưng là bến xe đò. Mình bỏ trên đây để khi mình giải thích dễ nhận ra chỗ nào.

Hồ Đội Có và Hồ Tổng Lệ nằm đối diện bên đường hồ Xuân HƯơng, để hứng nước mưa từ trên đồi cù xuống, tránh kéo theo chất dơ, rác thải từ thành phố xuống hồ Xuân Hương. Mình đoán là do người Pháp thiết kế. Ở  âu châu hay Hoa Kỳ, mỗi thành phố đều có một hay nhiều hồ chứa nước mưa, sau đó họ lọc để tưới cây cỏ lại, gọi nước tái sinh. Thứ nhất là để tránh lụt lội vào mùa mưa vì nước ở trên cao đổ xuống các thung lũng.

Đàlạt xưa khi trời mưa thì các ống cống, mưa từ trên đồi chỗ Hàm Nghi, Mình Mạng chảy xuống Phan Đình PHùng, rồi xuống suối từ Số 6 chảy về. Nước thoát không kịp nên làm ngập hết các khu vườn rau ở  xung quanh. Xe mình bị ngập nước một lần ở cầu Cẩm Đô, phải sửa tốn khá nhiều tiền bà cụ. Bao nhiêu rác rưỡi thị dân ở Phan Đình Phùng, mang ra đổ nơi con suối, làm nghẽn con suối. Vào mùa khô, rác chất cao thành núi, đi ngang mấy cái cầu là hôi thối, ruồi nhặng đầy. Mùa mưa thì nước suối chảy siết bị nghẹt, khiến ngập nước. Mình thắc mắc khi về Đàlạt là rác thải ở đâu. Ống cống, rác đủ trò. Chỉ nghe là xứ Đan Mạch có viện trợ làm chỗ phế thải rác cống ở Cam Ly.

Khi xưa, khi trời mưa, cống rãnh từ Khu Hoà Bình đỗ xuống thung lũng trồng rau, sau này người ta xây Chợ Mới. Ống cống đều chảy ra suối Cam Ly, chỗ ấp Ánh Sáng. Nước cống rãnh ở đường Mình Mạng và Dốc Nhà Làng đều chảy xuống Phan Đình Phùng, thải xuống suối nước chảy về Cam Ly.

 Mình nhớ như in, khi đi lên Dốc Nhà làng là ống cống thối không thể tả, đen xì, ruồi nhặng. Vào mùa mưa thì đỡ hơn. Rác thiên hạ đổ ngay suối sau lưng đường Phan Đình Phùng nên mùa khô, chất thành núi rác, mùa mưa thì làm nghẹt suối nên nước dâng lên làm ngập ruộng vườn của mấy người làm vườn, xung quanh đó.

Nhìn tấm ảnh này mới để ý là con đường dẫn vào Thuỷ Tạ, nằm ngay trục của con đường đi thẳng lên Hôtel du Lac. Hình như không phải đường Võ Tánh ở khúc này, chỗ Phan Bội Châu chạy xuống là đường tên khác thì phải, quẹo phải là đường Nguyễn Thái Học. Có nhiều biệt thự rất đẹp. Hình như có nhà ông luật sư nào bị giết chết. Chắc Việt Cộng.

Vấn đề của cư dân Đàlạt khi xưa là nước. Khi tây thành lập thành phố sương mù này thì họ chỉ giới hạn ít dân số nên hệ thống nước đều đưa về những nơi người Pháp sinh sống như đường Trần Hưng Đạo, Yersin, Hùng Vương,…khu người Việt sinh sống thì xài giếng nước, chỉ có khu Hoà BÌnh là có. 

Sau Mậu Thân thì người dân đổ xô vào Đàlạt sinh sống khiến hệ thống nước của pháp xây dựng không đủ cung cấp cho khắp nơi Đàlạt. Thêm hạ tầng cơ sở bị sét rỉ, nghẹt ống. Nhà mình dạo ấy, ở trên đồi nên nước chảy như thằn lằn. Một đêm chưa đầy một thùng thiết nước. Phải đi gánh nước giếng. Dạo ấy mình đi xách nước mệt thở cho em út xài. Nước mưa thì để nấu ăn còn nước giếng thì để giặt quần áo,…

Hình như phía Chi Lăng cũng có một nhà máy nước nhỏ hơn để bơm nước từ hồ Than Thở cho thị dân vùng đó và trường Võ Bị. Mình thu thập được một số hình ảnh của tường võ bị, để hôm nào mình bỏ lên cho bà con xem lại.

Ông cụ mình có kể là dinh tỉnh trưởng ở trên cao nên nước không lên được. Ông Nguyễn Hợp Đoàn, kêu ông cụ lên xử lý. Ông cụ cho làm một cái château d’eau rồi hẹn giờ, chặn ban đêm, khi khu Hoà BÌnh đi ngủ, không xài nước, áp suất mạnh dành để bơm lên cho cả gia đình ông ta xài. Ông Đoàn khoái chí lắm, kêu ông cụ ra ứng cử hội đồng thị xã , bảo đảm đắc cử 100%. Ông cụ kể đi giám sát bầu cử, khi xe nhà binh đến chở thùng phiếu tại các trường học, thấy các thùng phiếu khác đầy nhóc phiếu, họ đổi thùng phiếu cho vẻ dân chủ nên các ứng cử viên của Đảng Dân Chủ thắng to. May ông cụ mình không nghe lời ông Đoàn nếu không đi tù lâu hơn thay vì 15 năm. Chán Mớ Đời 

Nghe nói ông Đoàn sang Mỹ, mở tiệm bán đồ trang trí nội thất, khá lắm, ở vùng Đông Bắc. Ở Quận Cam cũng có một ông tướng kinh doanh ngành này, giàu có, mới qua đời thì phải. Thằng con ông ta, học chung với mình, làm luật sư, nay đã về hưu.

Sau này Tây Đức viện trợ cho hệ thống ống nước mới để giúp giải quyết vấn đề nước trong thành phố. Đường Hai Bà Trưng, Duy Tân, được gắn hệ thống nước mới nên khá hơn, thêm máy lọc nước được nâng cao năng xuất. (Còn tiếp) 

Có người hỏi mình còn tiếp đâu. Mình có kể trong bài “ngày xưa Fan thị “ hôm nào rảnh, sẽ kể thêm. Chán Mớ Đời 

Chỗ hai ống nước lớn hút vào nhà máy nước gọi là cầu đen , ngày xưa đi học xong hay ra Thuỷ tạ bơi qua cầu đen , đứa nào bơi giỏi bơi qua thì quay đầu bơi về lại luôn không cần nghỉ .


Nguyễn Hoàng Sơn 

Trồng rau cải bán cho lính mỹ

 Thấy hình mấy thùng gỗ đựng rau cải Đàlạt thời lính mỹ qua Việt Nam khiến mình nhớ đến dạo đi đóng thùng gỗ ở nhà ông Lào, xóm Địa Dư, kiếm tiền tiêu vặt. Chiến tranh đã giúp khá nhiều người ở Đàlạt giàu có. Họ thầu buôn bán, cung cấp thực phẩm tươi cho quân đội mỹ như rau quả nên người ta mua đất trồng rau cải khá nhiều. Các vùng ngoại ô Đàlạt được người ta mua để làm vườn như ấp Sòng Sơn, Thái Phiên, Trại Mát, hát xung quanh Đức Trọng, Đơn Dương.

Ở xóm mình có chị của Võ Việt Điểu, làm sở Mỹ, nói tiếng Anh như gió, khi được lính mỹ chở về. Mẹ mình có cô em chú bác, trước kia làm thư ký cho bà Hậu, người mẫu đầu tiên áo dài của Cát Tường LeMur, làm thị trưởng Đàlạt. Sau bà Hậu xuống, dì đi làm cho Mỹ, cũng xí lô xí la tiếng mỹ như gió khi mình đến nhà thăm, thấy một hai tên mỹ đứng xớ rớ. Sau này, gặp lại dì ở bên mỹ, thấy tiếng anh của dì của thuộc dạng ESL như mình. Chán Mớ Đời 

Hình chụp ông lính mỹ “anh nuôi”đi mua rau cải  Đàlạt cho quân đội mỹ, chất lên xe lửa, chở về Phan Rang. Sau này Việt Cộng đánh phá con đường rầy nên hết sử dụng xe lửa.

Ông cụ có ông bạn thời quân ngủ, làm sở mỹ, ở cư xá Địa Dư, gần trường Grand Lycee, thấy ông ta sang trọng như mỹ. Đến nhà, thấy có cái tủ lạnh đựng thức ăn thức uống đầy. Đó là lần đầu tiên mình nhìn thấy cái tủ lạnh trong đời. Ông này, lấy cho mình một lon coca để uống một mình, lần đầu tiên trong đời mình uống coca, nước ngọt mà không phải chia với mấy người em. Hạnh phúc kể gì.

Bố của ông dượng mình, tài xế xe rác ở Đàlạt, nhà ngay ngã ba chùa, cũng giàu khá lên nhờ chở rác quân đội mỹ, lượm đồ của Mỹ quăn đem bán cho dân việt. Nói chung dân miền say sưa làm giàu nhờ quân đội mỹ nên quên vụ đánh Việt Cộng. Có người buôn bán với Việt Cộng, cung cấp gạo đường,…

Mình đọc tài liệu của Việt Cộng kể thời ấy họ chỉ tìm cách đổi tiền đôla, có mấy ông tàu chợ lớn cũng nhảy vào chuyển tiền từ HongKong , từ Pháp về Việt Nam qua cách nhập cảng máy móc, đồ phụ tùng. Thiếu tá phong kể đi hành quân có lần bắt được Việt Cộng, có trong mình mấy trăm ngàn đô la, đêm chia cho đồng đội ăn chơi thoải mái, tiền đôla rớt tùm lum trên Núi Voi. Mấy người làm ăn với Việt Cộng sau 75 được gọi là tư sản yêu nước,  cách mạng chi đó rồi đến phiên bị đổi tiền, đánh tư sản nên kiếm ghe trốn khỏi Việt Nam. Xong om

Mẹ mình cũng có tư tưởng làm giàu nên mua 2 mẫu tây đất trong Suối Tía, ấp Sòng Sơn, chỗ đồn Quân Cụ đi vào. Khởi đầu, ông cụ mình cũng hồ hởi phấn khởi với mộng làm giàu, làm vườn bán rau cải, khoai tây cho lính mỹ. Được vài tháng thì cảm thấy lao động vinh quang mệt quá, cả tuần đi làm công chức, cuối tuần đi cuốc đất, giao cho người làm vườn, đi binh xập Xám. Chán Mớ Đời 

Ở Đàlạt xưa, có bà vợ đầu của ông Marcel được thiên hạ nể nang và cảm phục. Bà biết lái xe hàng, đi mua rau cải trước mùa. Tới kỳ rau cải lớn, đến gặt hái đem bán. Đi mua trước thì mua rẻ, dân làm vườn, cần vốn để chuẩn bị cho mùa sau, nên gia đình này giàu có, 18 người con thì phải mà nuôi đầy đủ. Nói chung là phải làm như bà Marcel, thì mới giàu, còn làm vườn không vốn thì bù trớt.

Họ sử dụng thùng gỗ để đựng rau cải, bao tải để khoai tây, còn cần xé tròn để bắp sú.

Mình nhớ cuối tuần, ông cụ mượn chiếc xe đạp của chú Dũng, con bà Thường, hàng xóm. Hai bố con đèo nhau trên chiếc xe đạp từ Hai Bà Trưng, lên đến đường Hùng Vương, rồi dắt xe lên dốc đường Pasteur, rồi qua đường Triệu Việt Vương. Sau đó mới từ từ thả dốc đến đồn Quân Cụ, rồi dắt lên cái dốc kinh hồn, vào mùa mưa thì trơn trợt vì đất đỏ, đất sét. Mình bị té một hai lần trên con dốc này, đầy dấu vết xe be, xe hàng.

Ông mỹ này đi tới tận vườn để xem rau cải. Xem hình thì nhà vườn này giàu to vì bán trực tiếp cho mỹ, nên ở nhà lầu.
Đây trồng hành, để trên cả sập gụ. Mình nhớ trong vườn mình cũng tương tự, khoai tây ủ để làm giống, đầy góc nhà. Thường thì lấy củ khoai tây cắt làm 2 hay làm 3 để ủ, cho mọc nầm thì đem ra trồng lại.

Khi xưa, người ta cân gạo đường, hay dừa,…ngoài chợ bằng cái cân loại này. Xà lách Đàlạt mình thích nhất loại xà lách couronne, về Đàlạt mình vẫn thích ăn loại này, dòn dòn đắng đắng, ăn phở có rau này.

Tuần lễ đầu, hai cha con đạp xe đạp vô vườn để phác cỏ làm rẫy. Ông cụ mình hồ hởi theo giấc mộng làm giàu khoai tây, cầm cái rựa, phác cây, cuốc cỏ còn mình thì kéo nhánh cây vào một ụ để khô rồi sẽ đốt sau này. Hai ngày lao động vinh Quang, ông cụ đuối rồi, không còn hồ hởi nữa, bàn với bà cụ mướn người. Tuần sau, có chú CHiếu, lao công của ty CÔng Chánh, đi bộ với 2 cha con vào vườn, qua dốc Nhà Bò, Đào Duy Từ.

Hình như họ bỏ bí và bắp sú trong thùng gỗ mà có dạo mình đóng mấy thùng này ở nhà ông Lào để có tiền ăn quà. Nghe nói Việt Cộng họ lấy thuốc độc, tiêm vào dưa hấu bán cho mỹ, gây bệnh hoạn cho lính mỹ. Không biết có đúng hay không, chỉ nghe kể khi xưa.
Hình này cho thấy, họ chồng mấy thùng rau cãi lên nhau rồi cho trực thăng không vận đến nơi đóng quân của lính mỹ.
Dân làm vườn đang ăn cơm, hay có bà nào bán dạo, đi qua. Phái sau thấy Giáo Hoàng Học Viện. Mình đoán nơi khu vườn đường Võ Tánh.

Mình vác cái gà mên đựng cơm vắt và khúc thịt sườn heo rô-ti cho 3 người. Đó là lần đầu tiên mình được ăn sườn nướng một mình nên rất thích làm vườn. Sau 2, 3 thứ 7 và chủ nhật, Chú Chiếu đề nghị là nên mướn người thượng để làm cho nhanh. Mình thấy ông cụ trả giá với ông thượng già nhất rồi cuối cùng phải chấp nhận giá của họ. Tuần sau, mình đem thức ăn và gạo vào cho họ thì thấy độ 1/4 vườn đã được phác rẫy, khói đốt cỏ cây mù mịt một góc trời. Độ 1 tháng là xong thì thấy họ làm mấy luống rau để trồng khoai tây. Lần đầu thì ông cụ mình mua khoai giống ở đâu đem lại trồng. Sau này thì đào khoai lên bán thì giữ lại độ 5 giỏ cần xé, để ủ mọc mầm.

Dạo ấy Việt Cộng chưa vô nên chưa có vụ trồng khoai làng đào lên thấy khoai mỳ.

Xe nhà binh mỹ đến chở khoai tây, bắp sú, xà lách về chỗ đóng quân.
Tên mỹ quay phim vì thấy lạ cái cân thời xưa, đời tây để lại.
Bắp sú được chặt, trước khi quăn lên xe tải để chở về Sàigòn, Nha Trang. Nhiều người đứng nối nhau để chuyền bắp sú, người cuối thì quăn lên lên xe tải, có người chụp chất vào xe. Rất mất thì giờ, nhiều khi cả buổi mới chất đầy xe. Ông này đội mũ thì mình đoán là vườn trong ấp Hà Đông, vì khi xưa chỉ có mấy ông ngoài bắc vào mới đội mũ loại này, còn người HUế thì nón lá. Ngày nay, mình thấy người ta đem bao đến vườn, đựng rau cải rồi chất lên xe.
Mấy luống đất trồng gì không rõ, có lẻ là xà-lách, ở giữa để trồng khoai tây. Dạo ấy còn tưới bằng tay, bằng gáo. Gánh đôi thùng nước từ suối lên. Mình không hiểu sao cái luống đất rất rộng. Có lẻ họ ươm trồng gì khác ở giữa. Mình đoán khúc này là vườn rau của ấp Ánh Sáng vì cái suối Cam Ly, vào mùa mưa thì khu này ngập nước.
Vườn mình thì dạo ấy, có con suối, và có cái máy bơm đặt gần suối để bơm nước lên tưới rau cải.
Đây tương tự, khu vườn của ấp ÁNh Sáng. Cuối hình là đường Bà Triệu, bên trái là đường Phạm Ngũ LÃo. Có lẻ chụp ngay cầu Ông Đạo xuống. Có lần Việt Cộng pháo kích trúng gần đây, cạnh bến xe đò Sàigòn-Đàlạt khiến đội đội 302, phải bắn một vài Việt Cộng đem xác bỏ nơi cái hố 122 ly để trấn an người dân Đàlạt.

Từ đó suốt hai năm trời, cứ cuối tuần là mình phải bò vào vườn vào cuối tuần để đem gạo và lương khô cho hai cặp vợ chồng làm vườn, người Quảng Ngãi. Cuộc đời làm vườn của mình chấm dứt khi Mậu Thân đến, hai ông làm vườn, bị động viên. Sau này nghe tin chú Nhị chết trận, còn ông anh tên Hai thì mất tích luôn. Mình nhớ thím Nhị, mang bầu đến nhà mình báo tin. Buồn chi lạ. Hình ảnh thím Nhị khóc chú NHị chết và mấy bà vợ trẻ khác khóc chồng chết trận trên Nhà Xác, cạnh bệnh viện khiến mình không muốn đi lính.

Mẹ mình hay kể về giai đoạn làm vườn. Nói chung là thất bại hoàn toàn. Ông cụ mình thấy làm giàu bằng lao động qua oải, khó khăn quá nên đâm ra thích làm giàu bằng binh xập xám nên cứ kêu bà cụ mình đưa tiền để mua phân bón, máy bơm nước,.. bà cụ nói phân bón vườn tốn gấp 3 vườn người khác, máy bơm nước thì 3 cái nhưng trong vườn chỉ có một cái, chạy lập xập. Nói chung ước mơ làm giàu của bố mẹ mình thất bại hoàn toàn. 

Ông cụ mình ít khi vào vườn lắm, chỉ vào khi xe hàng đến lấy khoai tây và bắp sú. Mình phải vào vườn khi nghỉ hè và cuối tuần nhất là khi khoai tây lớn và bắp sú to, sợ hai cặp vợ chồng làm vườn bán lẻ cho ai khác. Vào vườn rất sớm để xem người làm vườn có ra đồng sớm hay còn tẩm quất với vợ, rồi phải về trễ, đi trên con đường ra đồ Quân Cụ, giữa tiếng thông reo như ma kêu nên vừa di vừa khấn Bồ tát Quán Thế Âm.

Mình học được bài học là khi làm cái gì, phải có mặt ở đó vì thợ không làm nếu không có chủ bên cạnh, thêm sợ họ gian lận. Kiếm được người làm giỏi, chăm chỉ rất khó và nếu kiếm được thì phải nuôi họ tốt, nếu không họ bỏ đi làm cho kẻ khác. Sau Mậu Thân, hai chú làm vườn đi lính thì mẹ mình ngưng làm vườn. Cuộc đời làm vườn của mình được giải phóng từ đó. 

Từ giả đời sống nông dân, mình thâm nhập vào cuộc sống thợ thuyền. Dạo ấy trong xóm mình có ông Lào, anh của ông Mai, ba thằng Banh, xóm địa dư, thầu đóng thùng gỗ cho nhà thầu bán rau cãi cho mỹ. Ông ta kêu hàng xóm đến đóng mấy thùng bằng gỗ thông đã được cắt gọn gàng từng bó. Cái thùng chỉ cần đóng 2 mặt hình vuông và 4 mặt hình chữ nhật nên chỉ lấy búa để đóng. Tối sáng, cứ nghe tỏng xóm tiếng lóc cóc đóng đinh như ngày hội đóng thùng gỗ. Lần sau về Đàlạt, sẽ ghé thăm ông bà Lào, vẫn còn sống, lâu lâu có gặp bà cụ mình.

Mình nhớ thùng chỉ có 4 miếng gỗ, mình hay lấy về để làm súng gỗ bắn lóc cóc. Có hai chồng gỗ ngắn và gỗ dài rồi cứ theo mẫu mà đóng thôi. Chỉ cần được chỉ một vài lần là trở thành chuyên nghiệp. Kích thước thì không nhớ vì còn bé, đoán độ 1 mét x 0.5 mét.

Lúc đầu, mình đến nhà bà Hoà hàng xóm đóng vì bà này lãnh về để con bà đóng, kêu mình đóng phụ. Vấn đề là bà này có trò làm bột mì chiên, vấn như con sâu đóm rồi thảy vào chảo dầu chiên. Mỗi lần mình đi đóng thùng là bà ta đem ra chào hàng, mình cứ lấy ăn rồi khi lãnh tiền thì bà ta cứ trừ khiến mình chả còn đồng nào cả. Mình bị bà ta bốc lột như những tên cường hào ác bá. Chán Mớ Đời 

Buồn đời, mình ghé nhà ông Lào, hỏi mấy thằng con xem cho mình đóng không. Nó đồng ý vì hay đá banh với mình. Thế là trong mấy tháng hè, sáng ngủ dậy, mình vác cái búa đi xuống nhà ông Lào, ngồi ngoài đường đóng, trưa về nhà ăn cơm, rồi chiều lại bò xuống làm nghề nhân công. Sau này, lính mỹ rút quân nên hết làm nghề này nữa vì ngay con ông Lào cũng hết việc. Nghe kể ông bà Lào còn sống, con cháu đều thành công.

Sau này, nhà mình có vạc đất trống nên mình nhớ thời làm vườn ở trong Suối Tía nên có làm dường mương từ trong nhà chảy xuống đường Hai Bà Trưng. Mình chận lại để nước chảy vào vạt đất của mình để có nước tưới cây. Mình trồng đậu Hoà lần, cà chua, dàn su Đàlạt. Sau này quen tên Phạm Anh Tuấn và Ngô Văn Thuỷ nên xin hoa Hồng về trồng. Hoa mới ra được một cái, có cô nào bò vào xin. Mình lắc đầu, kêu là Diêu Bông. Sáng hôm sau, ra vườn, hoa Hồng đầu tiên không cánh mà bay. Từ đó sợ đến già, không trồng hoa nữa vì đám con gái sẽ ăn cắp.

Thế là mình chả biết làm gì ngoài đi đánh bóng bàn, tập Thái Cực Đạo, không có tiền tiêu, đến ngày đi tây. 

Nay về hưu chả biết làm gì, thiên hạ kêu mua 20 mẫu vườn bơ để xây nhà bán. Nay chả muốn xây nhà nữa nên trở lại nghề nông dân xưa.  Mật ong mới của năm nay mới về. Bác nào cần mua mật ong thì cho em biết , em đến nhà nhà ông mỹ nuôi ong, mua hộ.  Chán Mớ Đời 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Ký ức về quê hương

 Tuần này, mình có nhận tin nhắn của vài độc giả khiến mình thất kinh. Thứ nhất, một ông mỹ từng tham chiến tại Đàlạt, lấy vợ việt, hay đọc bài trên bờ lốc của mình hỏi: “ Sony, where do you live? Did you ever live in Da Lat?” Tạm dịch “Sơn đen, ông đang sống ở đâu? có bao giờ sinh sống tại Đàlạt?” Chán Mớ Đời. 

Một người khác đang sinh sống tại Đàlạt viết: “ Mình đã đọc hết bài của bạn, rât cảm kích tuy xa quê hương vẫn hướng lòng về đất mẹ. Mình thì giờ hạnh phúc trên quê hương bình ăn.Tối hôm qua coi truyền hình kỷ niệm 9/11 ở New York, Virginia. Sadly” Ông này không ở Mỹ nên nhầm thành phố New York thuộc tiểu bang Virginia. Thành phố New York thuộc tiểu bang New York, có nhiều quận như Manhattan, Queens, Bronx,… 

Có chị bạn cùng trường, không cùng lớp viết: “Thanh nói rất đúng về Sơn. Sơn là một người thông mình, có một trí nhớ phi thường và rất có chí. Đã làm cái gì là nhất tâm làm cho được và thành công.  Điển hình là về lãnh vực viết lách này. Chúc mừng Sơn . Na ” Chị bạn này, người khởi nghiệp dư cho mình kể chuyện Đàlạt xưa. Khi xưa, học chung trường, không chung lớp, chưa bao giờ nói chuyện. Khi qua Mỹ, gặp và giao lưu đến nay. Có lần cô nàng, email báo cho mình biết, đã tìm lại một người bạn học cũ. Cô kia thì mình có học chung 1 năm, có vài kỷ niệm sinh hoạt chung như đi picnic, lạc quyên, Ninh Chữ với mấy người bạn học chung, đối tượng của một tên bạn học chung.

Qua email, mình kể lại vài kỷ niệm của thời học chung với nhau, chị bạn email hỏi còn chi nữa, kể thêm rồi kể thêm, từ từ ký ức mình như cái giếng của “Manon des sources” được  nhà văn Marcel Pagnol khai thông và tiếp tục kể chuyện đời xưa đến giờ. Chị bạn cứ phải sửa lỗi chính tả, văn phạm của mình, trước khi tải lên diễn đàn của trường vì mình dốt tiếng Việt. Nhìn lại đã trên 7 năm, mình viết trên 1,350 bài bú xua la mua, phân nữa là về Đàlạt, vô hình trung trở thành người kể chuyện Đàlạt xưa. Ai tò mò, thắc mắc chuyện chi cũng hỏi mình, thậm chí có người mê cô nào khi xưa, cũng hỏi mình về tung tích, mình nghĩ họ kêu công an khu vực thì dễ kiếm hơn. Chán Mớ Đời 

Có người chửi mình tại sao không biết họ khi xưa ở Đàlạt. Họ làm như mình là ma só của thầy Chiêm Đàlạt xưa.

Lâu lâu thấy hình ảnh xưa của Đàlạt trên mạng, hiện về vài kỷ niệm nên ghi lại để khỏi nhớ. Không nhớ là một niềm hạnh phúc của kẻ xa quê, vì khi nhớ thì đau đáu trong lòng, như một người đột ngột rời xa người mình yêu, không một lời giã từ, khắc khoải niềm nhớ, ân hận, tiếc nuối không nguôi. Có lẻ mình còn mẹ và mấy người em ở Đàlạt nên cứ phải trông ngóng về quê hương bỏ lại, càng nhớ càng phải viết để bớt lùng thùng trong đầu. Không nhớ sẽ giúp chúng ta thành người không quá khứ, chỉ có tương lai trước mặt.

Không ngờ nay đã trên 7 năm trời mình kể chuyện về Đàlạt trước 75. Càng viết càng có nhiều người, bổ túc, giải thích thêm nên lại phải bổ túc như mấy tấm mosaique mình lượm lặt từ từ rồi ghép lại hình ảnh ngày xưa. May thay có 2 ông thần độc giả, tự xung phong làm bờ lốc để lưu lại.

Thật ra mình chả có trí nhớ chi cả. Được cái là hồi nhỏ hay hóng chuyện người lớn, không như con nít ngày nay, chả để ý đến chuyện người lớn cứ chăm đầu vào chơi game. Đến nhà thiên hạ, thay vì chào hỏi, cứ vênh mồm ra hỏi mật mã Wi-fi. Mình hỏi: “ why do you want my wife?” Khiến chúng trố mắt ra như bò đội nón. Chán Mớ Đời  

Có người gửi cho mình hơn 700 tấm ảnh cũ của Đàlạt mà cũng chưa có thì giờ để xem hết. Khi nào rảnh mình lấy ra xem rồi tải lên mạng cho bà con xem thêm chú thích. Mình, kiến trúc sư nên dễ định vị một tấm ảnh nào ở nơi mình đã từng đi qua. Có lẻ mình có trí nhớ về hình ảnh (photographic memory).

Cuộc đời chúng ta như cuốn sách, mỗi ngày là 1 trang giấy nhật ký, ghi lại những gì xảy ra hôm ấy, nói chuyện với ai, làm gì nên khi chúng ta thấy một tấm ảnh như mở trang giấy cũ ấy lại, có thể đọc lại, nhìn lại những hình ảnh của ngày tháng đó. Đa số người Việt chúng ta rời khỏi nước vì bắt buộc nên nhiều khi không muốn nhớ đến sự hải hùng của thời bao cấp, của địa ngục trần gian còn những người may mắn như mình, rời khỏi Đàlạt trước 75, ký ức chưa bị vấn đục bởi cách mạng, còn trong sáng của thời nên thơ, chưa được huấn luyện dạy dỗ căm thù. Do đó vẫn còn sự tiếc nuối về một Đàlạt thân thương, êm đềm của tuổi thơ vì ngày nay, trở về là một sự thất vọng, không tìm lại được những dấu chân xưa.

Nhà mình khi xưa chỉ có 2 phòng ngủ và 1 phòng khách nhỏ. Mỗi phòng ngủ có hai cái giường nên không có chỗ để bàn học. Ngồi học bài ở phòng khách, khách khứa đến nhà, mình ngồi thu gọn trong một góc, học nhưng tai thì chăm chú nghe họ nói chuyện. Dạo ấy, nhà đâu có truyền hình, hay Internet cho nên mình chỉ biết nghe chuyện người lớn, như một cửa sổ mở ra thế giới mênh mông xưa kia. Sau này, có Internet, có tìm đọc mấy bài viết của người Đàlạt xưa nên bồi dưỡng thêm chút ít về ký ức ở Đàlạt xưa. Có người nói: “ký ức không thay đổi chỉ có chúng ta mới thay đổi”. Những kỷ niệm hồi nhỏ thêm đọc chi tiết của người lớn viết về Đàlạt, khiến mình thu nạp thêm vào ký ức rồi kể lại. Đâu đó, có người nói: “mình là những gì mình nhớ”.

Mình viết cho khỏi nhớ nhưng lâu lâu lại có người hỏi vài chuyện đối với mình bình thường nhưng quan trọng đối với họ, khiến mình phải trả lời. Có ông thần nào hỏi tại sao người Đàlạt xưa, gọi ông ngoại anh ta là “Xu Huệ”. Mình biết ông Xu Huệ này ở trong xóm ngay Ngã Ba CHùa, dạy thiên hạ vô thất, bố vợ của anh Minh, dạy mình Không Thủ Đạo tại đây vào buổi sáng. Mình có bà dì lấy chồng, có tiệm hớt tóc, cạnh quán cơm trước đường Phan Đình Phùng.

Mình có đọc hồi ký của ông Lê Đức Anh, một thời làm tướng, chủ tịch nước của Hà Nội. Ông ta kể khi xưa, làm cai đồn điền cho Tây, tây gọi là “Surveillant”, người Việt thì đọc tiếng tây đa âm khó nên đọc âm đầu là “Sur” thành “Xu”. Đàlạt xưa có mấy ông “xu” như Xu Tiếng, Xu Huệ, ở đường Phan Đình Phùng…

Đó là đọc theo tây học còn gọi theo người Việt là “Cai” như Am Mệ Cai (người HUế) còn người bắc thì gọi Am bà Cai Thỏ vì ông chồng làm cai tên Thỏ. Ông cụ mình xưa cũng làm cai cho ty Công Quản Nước Đàlạt, coi một nhóm thợ bắt ống nước vào nhà dân ở Đàlạt.

Nói tiếng Tây, người lớn khi xưa hay nói chuyện quen thời tây, cứ kêu đường “Ma-ri xanh Phúc” (đường Duy Tân) khiến mình ngơ ngáo như bò đội nón nhưng không dám hỏi, sợ bị ăn tát, bảo ăn cơm hớt. Sau này sang Tây mới khám phá ra là đường “Maréchal Foch”, thống chế của Tây. Coi bản đồ của Tây ngày xưa thì đúng là đường mang tên ông thống chế Tây. Chán Mớ Đời 

Người lớn tuổi gọi đường “Cầu Quẹo” thay vì đường Phan Đình Phùng nhưng đến nay mình cũng không hiểu nguồn gốc của Cầu Quẹo vì đa số những người sống vào thời ấy đã tây phương cực lạc. Có người giải thích vì quẹo qua cái cầu Lò Rèn, chỗ đường Hải Thượng. Nếu theo giải thích này thì mình đoán là dạo ấy đường Duy Tân (ma-ri xanh-phúc) chạy lên, chỉ có một chiều và đường Mình Mạng chạy xuống quẹo đường Phan đình Phùng, có khúc đường ngắn rồi quẹo qua HẢi Thượng để vào đường Hoàng Diệu mà người xưa gọi là đường Lò Gạch vì có lò gạch trong Hoàng Diệu. Có lẻ vì quẹo trước rạp Ngọc Hiệp nên họ gọi đường Cầu Quẹo. Ai biết cho em xin.

Đường Maréchal Foch , tiền thân của đường Duy Tân trước 75, đường một chiều, chạy từ đường Cường Để, Hải Thượng lên và chạy xuống bằng đường Minh Mạng. Hết đường Mình Mạng thì phải quẹo nên họ gọi đường Cầu Quẹo, đường Phan Đình Phùng chạy về hướng Ngã BA Chùa, dạo ấy chưa có ai ở, còn hoang vắng. Mình đoán khúc này, kiosque đầu tiên là khách sạn Thuỷ Tiên sau này.

Sau này, đường Duy Tân được nới rộng ra thành đường 2 chiều, vừa lên vừa xuống. Ai tò mò thì đọc bài mình viết về con đường Duy Tân, có hình ảnh xe một chiều, chiều ngang ngắn như đường Minh Mạng. Có mấy cái kíosques, sau được giải toả để nới rộng đường 2 chiều.

Có lần mình đọc bài viết về Đàlạt của thầy Hứa Hoành, dạy mình địa lý năm 11B. Thầy có nói là cầu Ông Đạo có hai giả thuyết: một là do ông Quản Đạo làm, hai là vì cầu nằm gần nhà ông Quản Đạo. Thầy không biết giả thuyết nào đúng. Mình đọc tài liệu Tây thì cũng không nói đến chi tiết này. Mình nhớ là song song với cầu Ông Đạo, có cầu Bá Hộ CHúc, phía bên kia Ấp Ánh Sáng, nối dài con đường Cường Để và Bà Triệu. Hỏi người lớn thì được biết ông Bá Hộ Chúc, rất giàu, người miền Nam, gốc Long Xuyên thì phải, lên Đàlạt làm nhà thầu, xây cất ở Đàlạt rất giàu. Chính ông ta thầu xây chiếc cầu mà người Đàlạt xưa gọi là cầu Bá HỘ Chúc. Sau này, ông ta về lại quê nghỉ hưu, chỉ còn con cháu ở lại. Do đó mình nghĩ giả thuyết người Đàlạt gọi “cầu Ông Đạo” là vì ông quản đạo dạo ấy xây chớ không phải vì gần nhà ông Đạo. Xem như mình giải thích được câu hỏi của thầy Hứa Hoành. 

Ngày xưa, cứ thắc mắc ông Đạo là ông nào, đạo dừa, đạo dụ hay đạo mu,…sau này đọc sách báo của mấy ông viết sử về Đàlạt mới hiểu là ông Quản Đạo, do triều đình Nguyễn bổ nhiệm vì Đàlạt được xem là Hoàng Triều Cương Thổ nhưng người Việt mình chỉ đọc ông Đạo, tránh lôi thôi.

Tấm ảnh trên khiến mình thắc mắc một thời gian khá lâu dù định vị được ở trên đồi chỗ nhà Lao Đàlạt, hình ảnh ghi chú thích năm 1948 khiến mình như bò đội nón, phải mò mẫn, đọc tài liệu tây mới khám phá ra hình ảnh này chú thích sai. Lý do thứ nhất là ghi năm 1948, Thuỷ Tạ đã được xây cất trước năm 1932 mà người Pháp gọi là “la Grenouillère “. Nhìn trong tấm ảnh không thấy nhà Thuỷ Tạ, chỉ thấy tiệm ăn “La Chaumière “, sau này là quán Đào Nguyên, thêm nữa hồ Xuân Hương do hội đồng thị xã Đàlạt đặt tên sau khi Tây về nước, thời Ngô tổng thống. Thời Tây gọi là Grand Lac, hồ lớn. Do đó mình dám quyết là họ chú thích sai. Hình ảnh này chắc chắn được chụp trước năm 1932. Sau năm 1932, khu vực này bị bão lụt phá tan, hư hại nhiều nhà cửa, người Pháp dời khu vực này lên khu Hoà BÌnh. Cho thấy phải cẩn thận khi chú thích hình ảnh, em có sai thì nhờ các bác chỉ dùm để hoàn chỉnh.

Mình có viết một bài về tấm ảnh này nhưng không hiểu lý do Tây dẹp bỏ đến khi đọc được tài liệu về vụ bão lụt năm 1932, cuốn trôi và làm hư hỏng các nhà ở khu vực này cộng 15 người Đàlạt chết. Mình kể lại đây để bổ túc thêm. Ai biết gì thì cho mình biết để bổ túc.

Trong hình mình thấy con đường chạy từ ngã năm chỗ Thuỷ Tạ được xây sau này, chận suối Cam ly lại để biến thành hồ nhân tạo mà người Pháp gọi Grand Lac, chạy qua đến đường Đinh Tiên Hoàng. Thấy cái đập để thoát nước, kiểu như đập Đa Thiện trong Thung Lũng Tình Yêu. Mình sẽ bỏ lên tấm ảnh chụp ngược lại từ phía bên kia.

Hình này cho thấy rõ con đường và cái đập chận nước của suối Cam ly thành cái hồ nhân tạo lớn mà người Pháp gọi “Grand Lac”, và có cái hồ nhỏ phía bên kia con đường mà tây gọi là “Petit Lac” dùng để xả nước khi mùa mưa đến. Do đó chỉ thấy con suối Cam Ly vào mùa khô. Mình đoán hình này chụp trước khi họ vét hồ và tạo ra ốc đảo của Thuỷ Tạ sau này. Ngay ngã năm, có tiệm ăn “La Chaumière “, dành cho khách ngụ tại các Bunga lớ, trên đồi, cạnh  khách sạn Palace LnagBian, nằm ngay góc, sau này, được xây lại là quán Đ ào Nguyên.
Hình này cho thấy con đường chạy từ Thuỷ Tạ, chận nước suối Cam Ly để thanh hồ nhân tạo Grand Lac, đường Võ tánh, chạy lên dinh tỉnh trưởng sau này (nhà toàn quyền Đông Dương khi xưa). Phía bên trái là hồ nhỏ (Petit Lac). Lúc này chắc họ xả nước nên hồ lớn chỉ thấy con suối Cam Ly. Có thể dạo họ mới làm cái đập, chưa cho vét đất để nước ngập cái hồ như ngày nay.
Ảnh này chụp phía Tây của cái đập mà người Pháp gọi là Petit Lac nhưng ít nước. Họ chận hồ lớn (Grand Lac) để tây thực dân có thể chơi các môn thể thao nước như chèo thuyền cũng là một cách làm biên giới tây-ta để người Việt và người thượng không bén màn đến. Hình chụp từ chỗ mấy BUngalows mà người Pháp xây trước khi xây khách sạn LangBian
Tấm ảnh chụp từ khách sạn Lang Bian cho thấy rỏ hơn, con đường và cái đập, chạy ngăn Hồ Lớn và Hồ Nhỏ. Thấy con đường Đinh Tiên Hoàng, chạy lên đồi Cù, đường Võ Tánh và hồ Đội Có, làm hồ chứa nước cho thị xã Đàlạt, nơi ông cụ mình làm việc trước 1975. Đã thấy con đường Trần Quốc Toản.

Hình này chụp từ khách sạn Palace, thấy hồ nhỏ (Petit Lac) vào mùa mưa và dãy phố người Việt đầu tiên tại Đàlạt.
Đường và đập chạy từ Thuỷ Tạ chạy qua bên kia hồ, chia ra thành hai hồ: Grand lac và Petit Lac. Đường nơi chiếc xe bò sau này là đường Trần Quốc Toản., bên trái là địa điểm cây xăng Esso.
Hình này chụp từ bên kia hồ, cho thấy Thuỷ Tạ chưa được xây cất, vẫn còn cái đập nước. Mình đoán là trước năm 1930

Tấm bưu thiếp này đề tem đóng dấu ngày 12 tháng 8 năm 1933. Họ đã tạo ra ốc đảo Thuỷ Tạo nhưng chỉ có một nhà dù phía bên hồ.
Hình này chụp từ chỗ tiệm Đào Nguyên, thấy cái đập nước, cầu. Bên trái là trại lính của Tây, về đây dưỡng thương, sau này họ làm nhà lao nhốt tù. Mẹ mình bị bắt nhốt ở đây mấy tháng cùng với vợ chồng bác Phấn, tiệm thuốc tây Mình Tâm ở đường Duy Tân. Phía trên đồi là dinh tỉnh trưởng sau này.

Tấm ảnh cho thấy Thuỷ Tạ được xây cất trước sau vụ bão lụt năm 1932. Xa xa là cái đập mới được gọi là cầu Ông Đạo.
Đây là tiền thân cầu Ông Đạo. Ta thấy nhà ông đạo trên cao một tị, bên trái con đường và chiếc cầu gỗ là phố người Việt. Mình đoán dạo ấy đường Phạm Ngũ LÃo chưa được xây cất.
Cận cảnh khu phố người Việt nhìn từ nhà thờ Con Gà, thấy cái hồ nhỏ, Petit lac.
Khu phố người Việt trước khi bị bão lụt cuốn trôi năm 1932, nhìn chiếc cầu gỗ làm mình nhớ chỗ cư xá Địa Dư ở đường Hai Bà TRưng, có chiếc cầu gỗ do hướng đạo Lâm Viên xây cất, để thiên hạ băng qua đường Phan Đình Phùng.
Con đường chính của khu phố người Việt trước khi bị bão lụt cuốn trôi, theo chú thích vào năm 1925. Có người cho rằng tấm ảnh này, chụp tại Huế, thấy cũng có lý, vì ngói mái nhà khác với mái nhà Đàlạt thêm mấy cây không giống cây Mai Đàlạt. Áo quần thì đúng là người Huế vì ông ngoại mình bận đồ như ông đi bên trái. Xe kéo ở Đàlạt thì hơi châm vì kéo lên dốc là khổ.
Cửa tiệm khu phố của người Tàu cạnh chiếc cầu gỗ.

Tiệm ông tàu làm thợ hàn, đóng mấy cái thau, nồi bằng nhôm, kiêm luôn bán xe đạp, bánh xe, dầu, tạp hoá,… phải công nhận người Tàu hay, chỗ nào cũng chui tới đẻ sinh sống và giàu có vì tiên phong.
Khu phố người Việt đầu tiên tại Đàlạt, nằm dưới thung lũng, sau này bị bão lụt năm 1932 phá hủy khiến người Pháp dời lên khu Hoà Bình

Vào năm 1932, có trận bão đã cuốn đi dãy nhà cận cảnh, được xem là phố người Việt. Tây thuộc địa mới dời phố này lên khu Hoà Bình.

Hình này cho thấy cái đập của hồ lớn bị phá vỡ trong trận bão lụt năm 1932, cuốn trôi và phá hủy khá nhiều nhà ở phố Việt, nằm phía Tây của hồ.

Nếu nhìn rỏ thì căn nhà này có trong tấm ảnh đầu tiên ở trên, xem mấy cây thông, cột điện,.. sau này người Pháp dời phố Việt lên Khu Hoà Bình nhưng họ vẫn bắt chia lô đất là 3 mét ngang và 10 mét dài. Sau này ông Võ Đình Dung có chân trong hội đồng Thị Xã mới lên tiếng, kêu sự kỳ thị giữ các lô đất người Pháp như ở đường Trần Hưng Đạo, Yersin, to lớn nên mới được đổi nới rộng thêm như ngày nay. Khi đọc tầm liệu Tây, cho thấy Tây đô hộ chúng ta nhưng ít ra học của cho người Việt vào hội đồng thị xã để bàn bàn đường hướng xây dựng thành phố Đàlạt.

Tây thực dân thiết kế đô thị Đàlạt, họ dành những khu nào trên đồi để cho người Pháp và tây phương ở, các lô đất được chia cắt rất lớn thay vì 3 mét x 10 mét ở khu dành cho người Việt, ở thung lũng, đất bằng như khu vực Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng (Cầu Quẹo),… khu Hoà Bình được thiết kế dành cho tây thực dân vì họ chiếm cái đồi cao nhất là dinh toàn quyền, thị trưởng sau này.

Người Pháp phải bỏ ý định làm hai hồ vì sợ bị vỡ đập nữa nên họ phá cái đập cũ và cho xây cái cầu Ông Đạo vừa là cái đập cho hồ Xuân Hương ngày nay. Xem hình dưới khi họ đang xây cái đập cầu Ông Đạo.

Đây là hình chụp chỗ đường từ nhà thờ Con Gà đi xuống Phạm Ngũ Lão, Trần quốc Tuấn, lúc đang xây cái đập mới, còn được gọi là cầu Ông Đạo. Ta thấy nhà ông Quản Đạo bên tay trái. Chiếc cầu chưa được thực hiện, chỉ có hai ụ đất chận nước. Tây gọi con đường này là Rue de la Poste. Vì chạy lên bưu điện.
Hình chụp từ Bưu điện nhìn xuống. Bên tay trái, sau 3 cây thông, sau này là vườn của mấy người ở Ấp Ánh Sáng. Thấy đường mòn, sau này trở thành đường Phạm Ngũ Lão, còn con đường kia, tây gọi đường La Poste, bưu điện. Bưu điện nằm đối diện với nhà thờ con gà, được xây cất trước khi nhà thờ con gà được xây cất.

 Cầu mang tên Ông Đạo vì do ông Quản Đạo của triều đình nhà Nguyễn xây, phái đến để quản lý khu vực được xem là Hoàng Triều Cương Thổ, thật ra để tránh người Việt đến đây sinh sống. người Pháp muốn hạn chế dân sở tại đến lập nghiệp tại đây, vì muốn dành riêng cho người Pháp. Sau này họ cần nhân công, cu-li để làm việc cho họ, mới cho phép người Việt đến định cư như mẹ mình phải được người bảo trợ, đủ trò mới lên Đàlạt lập nghiệp. Sau này họ là cửa chắn cao hơn.

Cầu Ông Đạo được xây xong, biến hai hồ lớn và nhỏ thành một. Phía bên kia cầu là nhà ông Quản Đạo, đại diện triều đình nhà Nguyễn. Sau này được dỡ bỏ để xây vào đó cái bùng binh, bể nước. Phía trên đồi là rạp xi-nê Eden, tiền thân của rạp Ngọc Lan. 

Mình còn một số hình ảnh cũ ở khu vực hồ Xuân Hương, để hôm nào, mình tải lên và giải thích thêm, nếu không thì tưởng là ở xứ nào.
Tiền thân cầu Ông Đạo với mấy nhà tranh. Đó là hình ảnh của những nơi người Việt đến lập nghiệp tại Đàlạt.ở dưới vùng bằng tỏng khi người Pháp chiếm hết các ngọn đồi. Năm 1932 bị bão lụt cuốn trôi hết, mới được dời lên khu phố Hoà BÌnh ngày nay.
Hình cầu Ông Đạo trước năm 1932. Bên tay trái là khu phố việt, ở xa xa thấy nhà ông Quản Đạo, bên phải.con suối Cam Ly chảy qua cầu.
Đây là cầu Ông Đạo làm bằng bê-tông, đá, đầu cầu là nhà ông Quản Đạo. Người Đàlạt gọi cầu Ông Đạo vì do ông quản đạo xem coi công trình. Mình có đọc kỷ yếu của bộ công chánh thì đề một kỹ sư người Việt làm tính toán cái đập này.

Không ảnh chụp khi Đàlạt vét hồ Xuân Hương, không nhớ rõ năm nào. Thấy rõ bên cạnh THuỷ Tạ, dấu vết con đường vừa là cái đập chận nước, chia ra hai hồ: Grand Lac bên tay phải và Petit Lac bên tay trái. Dấu vết ngầm của con suối Cam Ly.
Đây là tấm bưu thiếp chụp hồ Đàlạt khi người Pháp mới tìm ra địa danh này. Người đứng tạo dáng, quay lưng là Sơn Đen ngày nào. Chán Mớ Đời 

Mình cảm thấy vui là đã giải mã được tấm ảnh cũ về Đàlạt, chú thích năm 1948 khiến mình chới với thêm cũng đã giải mã câu hỏi của thầy Hứa Hoành, dạy địa lý mình năm 11B, về cầu Ông Đạo. (Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn 

Những giờ phút cuối cùng của quyền lực

 Cuối tuần này, đáng lẻ đang leo núi Mount Whitney nhưng tiểu bang Cali ra lệnh đóng cửa các công viên quốc gia và tiểu bang vì sợ cháy rừng nên toán của tụi này phải hoãn lại cuộc leo núi nhưng chưa biết lúc nào sẽ leo lại. Hy vọng tháng 10 năm nay sẽ xin được giấp phép nếu không sẽ bị tuyết, nguy hiểm hơn. Buồn đời ngồi nhà xem hai cuốn phim đức ngữ nói về hai nhân vật quan trọng trong lịch sử hiện đại của xứ xở này. Một thời nổi đình nổi đám khi mình ở Pháp và 1 khi mình ở Hoa Kỳ.

Phim đầu tiên; Die Stille nach dem  Schuss: nói về Inge Viett, được xem là một trong những người trẻ, làm khủng bố ở đức cùng thời với tiểu đoàn Hồng quân (red brigade army) mà Andreas Baader và Meinhof  là chúa trùm. Các người trẻ ở Tây Đức dạo ấy, mê hoạt thuyết cộng sản chủ nghĩa, đứng lên cướp ngân hàng, làm cách mạng chống lại bọn tư bản dãy chết. Họ được xem là khủng bố vì không thành công vì nếu thành công thì họ sẽ được gọi là anh hùng lập quốc đủ trò.

Dạo ấy mình ở bên Pháp, lâu lâu lại nghe mấy nhóm này ở Đức quốc bắn phá, bắt con tin đủ trò, ở Pháp quốc có một toán tự gọi là Action Directe cũng bắn phá đủ trò, chưa kể nhóm khủng bố Palestine “tháng 9 đen” (Black september) để tưởng nhớ ngày ông vua xứ Jordan đánh đuổi các người Palestine tỵ nạn ra khỏi xứ này. Hay bên Nhật Bản cũng có một đám khủng bố mang tên HỒng Quân. Các nhóm này liên kết với nhau, đánh phá các xã hội tây phương. 

Mình đoán là có bàn tay của KGB nhúng tay vào. Sau này, có xem phim Carlos, một tên khủng bố hay muốn làm cách mạng nổi tiếng một thời khi mình ở Pháp. Hình như mình có kể về anh chàng này như Che Guevara, đi làm cách mạng, bắn phá, giết bọ tư bản dãy chết.

Phim này kể lại công an mật vụ của đông Đức STASI, giúp đỡ và huấn luyện các phần tử “khủng bố” muốn đánh đổ chế đô tư bản, bốc lột giai cấp công nhân. Mặt khác họ lại ký tên trong các văn bảng quốc tế, dẫn độ các khủng bố của các nước tây phương.

Sau khi được huấn luyện quân sự, mấy người này được cho trở về Đức quốc để tiếp tục con đường cách mạng đấu tranh, phá hoại xã hội tư bản và họ có thể chọn ở lại Đông đức. Nếu ở lại thì họ phải làm công nhân. Trong số này có hai cô chọn ở lại thiên đường cộng sản, đem hết tâm huyết sức trẻ để phụng sự xã hội, xây dựng một thiên dường mới cho nhân loại. 

Họ phải đổi tên và lý lịch. Lúc này mới thấy sự khác biệt của những người sinh ra tại Tây Đức và mê chủ nghĩa cộng sản và những người đang sống trong chế độ cộng sản. Mấy người kia thì từ từ bị bắn chết hết, còn đám Andreas Baader thì được chính phủ giúp tự tử trong tù. Hết phim

Phim có chiếu cảnh các nữ công nhân Đông đức được kêu gọi đóng góp cho kháng chiến nhân dân Nicaragua thì cô Viett, cúng nhiều tiền khiến mấy nữ công nhân khác la làng, tiền này sẽ vào túi các đảng viên cấp lớn. Cô này hăng hái làm việc nhưng sau đó có cô bạn công nhân nhà máy, phát hiện cô ta trên đài truyền Tây đức, gọi là khủng bố nên được công an Đông Đức đổi tên họ đưa đến một thị trấn khác gần bờ biển.

Tại đây, cô ta làm quen và yêu một tên người nga, lại có bầu. Cuối cùng cô ta thú thật với tên người nga thì hắn sảng hồn, kêu cô ta phá thai và bỏ chạy. Tình yêu ở thiên đường cộng sản không đủ lớn để vượt qua lý lịch giai cấp tư sản.

Trong một buổi hoà nhạc, tình cờ cô Rita gặp lại một đồng chí khi đấu tranh ở Tây Đức, cũng xin ở lại Đông Đức để sống thiên đường cộng sản, hát trong một ca đoàn. Hai người nói chuyện, cô đồng chí cũ nay đã có con nhưng không thích thiên đường cộng sản, phản tỉnh sự mê muội của tuổi trẻ.

Đúng vào lúc ấy, Đông Đức lâm vào tình trạng nợ nần, không trả được nên bị Tây Đức kêu phải trao trả các khủng bố đang ẩn nấu tại đông Đức. Cô đồng chí kia bị bắt, bỏ lại chồng con, giao cho Tây Đức còn cô Rita thì lái xe mô-tô chạy trốn. Khi cô ta chạy trốn, cảnh sát công lộ pháp chạy theo đuổi bắt, ngược lại cảnh sát công lộ đông đức bắn AK 47 khiến cô ta ngã lăn ra chết và toại nguyện, được chết tại thiên đường cộng sản mà nhà văn Dương Thu Hương gọi là Thiên Đường Mù.

Phim thứ 2 nói về ngày 9 tháng 11 năm 1989, khởi đầu sự sụp đổ của đế chế Liên Xô.  Kể vụ hải quan biên giới đông Đức cho người đông đức qua Tây Bá Linh, đưa đến sự sụp đỗ của chế độ công an đông Đức, khét tiếng STASI. Phim này được thực hiện qua cuốn sách của ông Harald Jäger, người trưởng toán công an biên phòng tại một trong 6 cửa cổng của Đông Bá Linh, kể lại sự việc ngày hôm ấy.

Ngày nay, người ta được biết sự sụp đỗ của bức tường Bá Linh là một sự tình cờ, ngẫu nhiên. Vào đầu tháng 11, các biên giới Đông Đức giáp ranh với Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi đã được cho phép người dân Đông Đức xuất cảnh. Trước đó thì có màn các người dân đông đức leo trèo qua tường rào để vào các toà đại sứ của Tiệp Khắc, Hung gia lợi vì các nước này bắt đầu muốn dành lại độc lập trong khối Liên Xô. Dạo ấy, mình đang làm việc tại Nữu Ước, ngày nào đi làm về, cũng trố mắt vào đài truyền hình để xem hình ảnh sụp đỗ của một chế độ từ năm 1917.

 Ngày hôm ấy, 9 tháng 11, có nhiều người dân Đông Đức xuống đường đòi hỏi thay đổi như Gorbachov. Cộng sản đông đức muốn làm êm dịu tình hình nên tuyên bố sẽ cởi mở cho phép người ta đi lại, nhưng vẫn cẩn thận với những điều khoản an ninh quốc gia để ngăn chận làn sóng muốn xuất cảnh. Nói chung là không có vụ mở cửa, mở bức tường ô nhục Bá Linh ngày 9 tháng 11 nam 1989.

Ông Jaeger, một đảng viên trung thành, đã ra lệnh cho người dân Đông Đức xuất cảnh vào đêm 9 tháng 11 năm 1989

Tối hôm đó, Guenter Schabowski, một thành viên trong uỷ ban trung ương Đông Đức, phát ngôn viên của đảng cộng sản Đông Đức có một cuộc họp báo. Trước cuộc họp báo, ông ta nhận được một bản văn của cuộc họp uỷ ban trung ương mà ông ta không có mặt, nói về những điều khoản cho phép xuất cảnh và không có thời gian để đọc. Ông Tom Brokaw của đài truyền hình Mỹ, có mặt lúc ấy, cho rằng buổi họp báo rất cộng sản. Chán Mớ Đời.

Cuối cuộc họp báo một phóng viên Ý Đại Lợi hỏi ông Schabowski về các điều khoản mới cho việc xuất cảnh, khiến ông ta nhớ đến tờ giấy mới nhận hồi chiều nhưng chưa có dịp đọc nên khi ông ta tìm cách để giải thích những điều khoảng mới và ông ta nói lộn xộn như “ uỷ ban trung ương vừa họp hôm nay và đã quyết định về việc xuất cảnh, cho mọi công dân của đông đức,..”

Một phóng viên hỏi bắt đầu lúc nào thì ông thần này, buồn đời kêu ngay lập tức. Trong phim cho xem cảnh các người lính biên phòng đông đức xem cuộc họp báo này qua đài truyền hình Tây Đức, chửi thề đủ trò. Nhiều tên kể chúng ta xây dựng bức tường này từ năm 1961 để xây dựng thiên đường cộng sản, nay mấy tên uỷ viên đảng khùng khùng đòi bỏ hết là thế nào. 28 năm. Kinh

Kẻ bị trị thì muốn rời khỏi thiên đường mù, để sống ở xứ tư bản dãy chết còn đảng viên thì vẫn tin tuyệt đối vào đảng sáng lòng họ.

Ông Schabowski biết là bị hớ nên nói là NATO phải tự giải giới nhưng đã trễ, ông ta nghĩ chắc cũng không có gì thay đổi tối hôm đó. Nhưng các điện báo quốc tế cho biết là biên giới của bức tường Berlin đã được mở cửa từ 7:03 tối hôm ấy. Các đài truyền hình của Tây Đức đã thông báo vào 10:42 tối sau trận đấu túc cầu, đều truyền tin là biên giới Đông Đức được mở cửa bắt đầu từ hôm đó.

Nhân dân đông đức xem đài truyền hình Tây Đức và tin những gì phát ngôn viên uỷ ban trung ương đông đức là đúng nên họ rời nhà, đến 6 địa điểm cửa khẩu ở ĐÔng BÁ LInh để xem xét tình hình. Ở cửa khẩu Bornholmer Strasse, ông Harald Jäger, làm việc từ năm 1964, là trưởng nhóm, xem đài truyền hình thấy Schabowski. Ông ta kêu điên khùng, và gọi cấp trên, được biết là vẫn chận không cho xuất cảnh. Phim chiếu cảnh họ lấy súng AK 47 thậm chí có người muốn lấy đại liên để bảo vệ chế độ vô sản chuyên chính.

Lúc đầu ông ta cho người có sổ thông hành đi qua nhưng sau đó những người không có thông hành la hét, đòi đi luôn nên cuối cùng ông ta ra lệnh cho mọi người được đi qua Tây Bá Linh vào lúc 11:30 tối. Thời điểm lịch sử được xem là bức tường Bá Linh được xây cất để phòng ngừa người dân Đông Bá Linh trốn khỏi thiên đường mù.

Thật ra thì bức tường sẽ bị phá bỏ nhưng chắc không theo trường hợp này một cách vô tình, ngẫu nhiên. Các uỷ viên trung ương của đảng cộng sản đang hội thảo nhưng chưa được chỉ thị của Liên Xô vì thời gian, lúc đó giờ Nga Sô là khuya, đã ngủ rồi. Ông Gorbachov không muốn sử dụng vũ lực. Nếu các tướng Liên Xô quản thúc ông ta, và làm cuộc đảo chánh như dự định thì chắc lịch sử sẽ đi theo một chiều hướng khác nhưng tại Mạc Tư Khoa, ông Yeltsin đã tranh đấu cùng dân chúng, khiến các chiến xa không nổ súng như mùa xuân Prague.

Dân chúng Đông Bá Linh nhảy qua bức tường ô nhục Bá Linh, đưa đến sự sụp đỗ của Liên Xô.

Trong phim có thêm mắm muối khi quay các người dân muốn vượt qua bức màn sắt như một bà già nói chỉ muốn đi thăm con gái dù chỉ có 1 tiếng đồng hồ, hứa sẽ trở về nhưng các tên công an biên phòng đóng rất hay. Họ muốn đem súng ra bắn để củng cố chế độ, đúng hơn là quyền lợi của Đảng viên. Có tên đi kiếm đại liên để bắn hết các phần tử phản loạn, chống lại chế độ.

Ông trưởng toán biên phòng, cứ gọi ông đồng chí đại tá để xin chỉ thị, rồi ông xếp gọi xin chỉ thị cấp trên. Có lúc ông Jaegger lấy điện thoại đưa ra cửa sổ để cho xếp mình và các uỷ viên trung ương nghe tiếng nhân dân đòi tự do xuất cảnh, là điểm hay nhất. Sau 25 năm sống tỏng thiên đàng mù, họ muốn xổ lòng đê r đi đến một nơi khác để so sánh. Nếu là thiên đường thì cứ đê người dân đi và sẽ trở lại.

Mình thích nhất là lúc ông ta trả lời cho một tên công an biên phòng khác, tên này bực mình vì bị ông ta xin bánh biscuit hoài. Ông ta trả lời: “Kommunismus ist Kolektivismus”. Tạm dịch chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa tập thể, phải chia sẻ. Thua non.

Có xem phim mới thấy các đảng viên cộng sản, có quyền lợi nên tìm cách bám víu lấy quyền lực của họ. Cuối cùng thì nước tức vỡ bờ. Người cộng sản huấn luyện các nhóm trẻ tây phương mê say, đam mê thuyết cộng sản, để phá hoại những xã hội tư bản này. Nói như Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nam Tư Milovan Djilas sau khi “phản tỉnh” từng tuyên bố “20 tuổi mà không theo Cộng sản là không có trái tim. 40 tuổi mà không từ bỏ Cộng sản, là không có cái đầu”.

Họ quay cảnh các nữ công nhân Đông Đức chới với, không tin vào thiên đường cộng sản trong khi cô gái từ Tây Đức mê thiên đường cộng sản, tình nguyện ở lại để sống ở thiên đường mù. Chán Mớ Đời 

Đảng viên thì trung kiên vì quyền lợi cho bản thân, có đời sống sung túc hơn giới vô sản khác. Cô gái ngây thơ đến từ Tây Đức, tin vào chủ nghĩa đại đồng, đi ăn cướp ngân hàng để làm cách mạng nhưng khi thấy mật vụ đông đức dạy các phần tử cách mạng bắn B40 thì cô ta hoảng sợ.

Hôm nào hứng mình sẽ kể vụ bức tường Bá Linh này từ ngày ông Kennedy tuyên bố: “Ich bein Ein Berliner” đến ông Reagan kêu ông Gorbachov, phá bỏ bức tường. Thế hệ mình chứng kiến những sự kiện này với Mậu Thân và 30/4/75.

Nguyễn Hoàng Sơn 

New York và Tôi

 Mình đi làm tại New York được 5 năm trước khi sang Cali lập gia đình và lập nghiệp. Năm 1986, mình viếng Hoa Kỳ lần đầu tiên sau đó dòng đời đưa mình sang Hoa Kỳ làm việc rồi phát hiện ra mối tình hữu nghị của đồng chí gái rồi định cư luôn. Xin làm quê hương thứ 5 sau Pháp quốc, Thuỵ Sĩ, Ý Đại Lợi và Anh Quốc.

Mình rất ấn tượng về New York, cái gì cũng to lớn. Nhớ nhất là lúc viếng thăm Wall Street, có đến hai building sinh đôi của kiến trúc sư mỹ gốc nhật Yamasaki, rất nổi tiếng khi mình học kiến trúc.

Buồn đời, ăn Pizza mình vẽ hai toà nhà này, không ngờ nay gần đúng 20 năm đã bị thiêu huỷ trong cuộc khủng bố vô tiền khoán hậu, cho máy bay chở đầy xăng bay vào đây để làm cháy xụp hai toà nhà. Mình có xem trực tiếp khi đi seminar, bà con bỏ học ra ngoài xem truyền hình. Mình có làm cho một công ty ở ngay bên cạnh của hai toà nhà này.

Hôm ấy, mình chợt nhận ra mình là người Mỹ. Có cái gì khiến mình căm tức, mua cờ Hoa Kỳ về treo trước nhà như để tang cho mấy ngàn người tử nạn trong biến cố này.



Chán Mớ Đời 

Nguyễn Hoàng Sơn