Sự thành lập thị xã Đàlạt, Tuyên Đức

 Hồi nhỏ, nghe thiên hạ nói thị-xã Đàlạt thuộc tỉnh Tuyên Đức nên thắc mắc. Sau được giải thích tỉnh Tuyên Đức gồm 3 quận: Đơn Dương, Đức Trọng và Lạc Dương và thị-xã Đàlạt, được xem là thủ-phủ của tỉnh Tuyên Đức. Có lẻ Đàlạt rộng lớn hơn mấy quận kia nên họ gọi Thị-xã. 

Tỉnh trưởng Tuyên Đức có trách nhiệm hết thị xã và 3 quận kia. Dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm, ông Trần Văn Phước, thị trưởng Đàlạt, đứng ra xây chợ Đàlạt và các công trình khác. Có lẻ sau này, chiến tranh lan rộng nên họ để mấy ông sĩ quan cấp tá làm tỉnh trưởng kiêm luôn chức thị trưởng. Tương tự các quận trưởng đều là quân nhân, chỉ có phó quận trưởng là dân sự, đa số tốt nghiệp viện quốc gia hành chánh. Vị tỉnh trưởng cuối cùng của tỉnh Tuyên Đức là đại tá Nguyễn Hợp Đoàn.

 

Mình đọc trên facebook của Phóng Viên Chiến Trường, thấy có phần này nên ghi lại:

Theo tài liệu; tổng thống Ngô Đình Diệm đã ký sắc-lệnh số 261-NV  ngày 19/5/1958, thành lập tỉnh Tuyên Đức gồm 3 quận, 11 tổng, 28 xã (theo Nghị định số 592-BNV/NC7/NĐ ngày 30/10/1958 của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa).

 

Ngoài thị-xã Đàlạt tỉnh Tuyên Đức còn có:

1 - Quận Đơn Dương (Dran cũ) có 4 tổng: Lạc Mỹ, Linh Nhân, Tu Trang, Xuân Lạc. Đơn Dương thì mình có chạy ngang, có hai tên học chung khi xưa.

2 - Quận Đức Trọng có 4 tổng: Dinh Tân, Mỹ Lệ, Ninh Thanh, Sơn Binh. Quận Đức Trọng, Tùng Nghĩa thì hay đi, nhất là ngày Tết vì có người bà con hay cùng làng với ông cụ, tên Đệ. Sau này, có tên học chung lớp hay rũ về đây chơi.

3 - Quận Lạc Dương có 3 tổng: Đa Tân, Nhân Lạc, Phước Thọ. Chỗ này thì mình có đi hồi nhỏ để leo lên Núi Bà, sau này có chạy lại đây với ông cha Leahy của giáo hoàng học viện.

 

Tài liệu lại nói “tổng”, theo mình nhớ thì khi xưa họ kêu ấp hay phường, chưa bao giờ nghe từ Tổng. Có lẻ người viết là của chính quyền sau 75. Ai biết rõ thì cho mình hay. 

 

Tên Đàlạt khá đặc thù vì có 2 giả thiết:

 

Địa danh Đà Lạt được bắt nguồn từ chữ Đạ Lạch, tên gọi của con suối Cam Ly. Khởi nguồn từ huyện Lạc Dương, dòng suối Cam Ly chảy qua khu vực Đà Lạt theo hướng Bắc – Nam, trong đó đoạn từ khoảng Hồ Than Thở tới thác Cam Ly ngày nay được gọi là Đạ Lạch. Theo ngôn ngữ của người Thượng, Da hay Dak có nghĩa là nước, tên gọi Đà Lạt có nghĩa nước của người Lát, hay suối của người Lát (người Cơ Ho). 

Trong một bài phỏng vấn đăng trên tạp chí Revue Indochine tháng 4 năm 1944, công sứ Cunhac, một trong những người tham gia xây dựng thành phố từ ngày đầu, đã nói: "Cho mãi tới những năm sau này, khung cảnh ban sơ vẫn không có gì thay đổi. Ở tại chỗ của cái hồ nước trước đó, con suối nhỏ của bộ lạc người Lát đã chảy qua và người ta đã gọi suối này là Đà Lạt".


Những người có công kiến thiết thành phố còn sáng tạo một câu cách ngôn khéo léo bằng tiếng La Tinh: Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem, có nghĩa “Cho người này nguồn vui, cho kẻ khác sức khỏe”. Ông André Morval đã viết câu cách ngôn chiết tự này ở đầu một bài báo nhan đề Dalat: Cité de la Jeunesse với nội dung: "Những người khai sinh ra nơi nghỉ mát trên miền núi danh tiếng của chúng ta đã xác định một cách rất hợp lý những nét hấp dẫn và những đặc tính tốt bằng một câu cách ngôn ghép chữ đầu rất khéo léo để liền theo huy hiệu thành phố".

 

Chợ Cũ Đàlạt, phía trước, họ có làm bản hình tròn ghi Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem (DALAT), sau này bị cháy, họ tháo bỏ di tích của người Pháp. Xem hình dưới

Khu Hoà Bình được sửa lại sau 1962, biến chợ thành rạp xi-nê phía trong, xung quanh là các tiệm nhỏ.

Năm 1937, khi xây dựng chợ Đà Lạt mới, khu Hoà BÌnh, thay cho ngôi chợ cũ bằng gỗ bị cháy, người ta đã đề dòng chữ Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem trên tường đầu hồi của công trình, phía trên là huy hiệu thành phố hình tròn, tạc hình một đôi thanh niên nam nữ người dân tộc. 

 

Vùng cao nguyên Lâm Viên từ xa xưa là địa bàn cư trú của người Lạch, người Chil và người Srê thuộc dân tộc Cơ Ho. 

 


Cuối thế kỷ 19, nhiều nhà thám hiểm người Pháp đã thực hiện những chuyến đi xuyên sâu vào vùng đất này. Tiên phong trong số họ là bác sĩ Paul Néis và trung úy Albert Septans với chuyến thám hiểm thực hiện đầu năm 1881. 

 

Năm 1893, nhận nhiệm vụ từ Toàn quyền Jean-Marie de Lanessan, bác sĩ Alexandre Yersin đã tiến hành khảo sát một tuyến đường bộ từ Sài Gòn xuyên qua vùng đất của người Thượng và kết thúc ở một địa điểm trên bờ biển Trung Kỳ. 

 

Ngày 21 tháng 6 năm 1893, trên hành trình thám hiểm, Alexandre Yersin đã tới cao nguyên Lâm Viên. Xem hình dưới



 Năm 1897, trong khi tìm kiếm một địa điểm để xây dựng trạm nghỉ dưỡng (station balnéaire d'altitude) cho người Pháp ở Đông Dương, Toàn quyền Paul Doumer gửi thư hỏi ý kiến Alexandre Yersin. Khi nhận được thư của Paul Doumer, Alexandre Yersin gợi ý chọn cao nguyên Lâm Viên, một vùng đất lý tưởng thỏa mãn đầy đủ các điều kiện: độ cao thích hợp, diện tích đủ rộng, nguồn nước bảo đảm, khí hậu ôn hòa và có thể thiết lập đường giao thông. 

 

Cuối tháng 3 năm 1899, Paul Doumer cùng với Alexandre Yersin đích thân đến khảo sát thực tế tại cao nguyên Lâm Viên.



Dự án xây dựng Đà Lạt bị gián đoạn khi Toàn quyền Paul Doumer trở về Pháp vào năm 1902 và Toàn quyền Paul Beau, người kế vị, thì không sốt sắng gì về việc xây dựng thị trấn miền núi. Mặc dù vậy, trong khoảng thời gian tiếp theo, nhiều đoàn khảo sát vẫn được gửi đến cao nguyên Lâm Viên để nghiên cứu và các tuyến đường giao thông tới Đà Lạt cũng dần hình thành. 

 

Giữa thập niên 1910, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ khiến nhiều người Pháp không thể về quê hương trong những kỳ nghỉ, Đà Lạt dần trở thành nơi họ tìm đến để tìm chút gì của nước Pháp miền ôn đới. 

 

Ngày 20 tháng 4 năm 1916, Hội Đồng Phụ Chính của vua Duy Tân thông báo Dụ thành lập thị tứ Đà Lạt. Toàn quyền Maurice Long đi thêm bước nữa khi bổ nhiệm Ernest Hébrard làm kiến trúc sư quy hoạch thị trấn Đà Lạt. Hébrard là người chủ trương dùng mẫu kiến trúc cổ điển Âu châu nhưng thêm vào đó một số trang trí thuộc mỹ thuật Việt Nam để tạo ra phong cách riêng mà ông gọi là une architecture indochinoise. Hébrard đã thực hiện lối kiến trúc này trong những công trình khác như tòa nhà của Viện Viễn Đông Bác cổ, Hà Nội. Nay lối kiến trúc này được áp dụng quy mô hơn ở Đà Lạt. 



Dụ thành lập thị tứ Đàlạt dưới thời vua Duy Tân


 Đặc biệt là Hébrard vẽ đồ án có vườn hoa, trường sở, sân vận động, biệt thự nhưng hoàn toàn không có công xưởng sản xuất để giữ y nguyên không gian trong lành và yên tĩnh của thị trấn này. Ông này thiết kế tương tự theo tình Banguio ở Phi Luật Tân, do người Mỹ thiết kế.

Trong vòng ba mươi năm, từ một địa điểm hoang vu, một thành phố đã hình thành với đầy đủ hệ thống cơ sở hạ tầng, các trường học, bệnh viện, khách sạn, công sở và dinh thự. Trên diện tích tổng cộng là 1760 ha, thì 500 ha được chính quyền quy hoạch cho các cơ sở công chánh, 185 ha thuộc nhà binh, 173 ha cho công chức và 206 cho dân bản xứ. Phần còn lại còn lại (non 700 ha) thì bán cho người Pháp.


Tới thập niên 1940, Đà Lạt bước vào giai đoạn cực thịnh của thời kỳ Pháp thuộc, "thủ đô mùa hè" của toàn Liên bang Đông Dương. Trong những năm chiến tranh, thành phố vẫn giữ vai trò một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng và khoa học giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa. 

 

Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhiều trường học, trung tâm văn hóa và các công trình kiến trúc tiếp tục ra đời như CHợ Mới Đàlạt, viện đại học Đàlạt, trường Võ Bị quốc gia, giáo hoàng chủng viện, trung tâm nguyên tử lực. Đà Lạt cũng là nơi định cư của nhiều người di cư từ miền Bắc năm 1954. Trong thừoi gian chiến tranh, người Trung, chạy loạn vào Đàlạt rất nhiều, có lẻ vì vậy âm hưởng giọng nói của người sinh tại Đàlạt có giọng hơi Quảng Nam lai giọng Huế.

 



Ngày nay, về Đàlạt thì người bắc di cư vào nam lập nghiệp sau 75 rất đông, chiếm 50% dân số Đàlạt. Đi taxi, nghe mấy anh tài xế kể là vào nam, ở nhà ông chú, bà cô,… đi đâu cũng nghe giọng bắc hậu 75, giọng người Hà Nội sơ tán. Mình nghe kể, trong thời chiến tranh, Hà Nội cho sơ tán (tản cư) người Hà Nội lên các vùng cao để tránh bom của Mỹ. Tại đây, trẻ em Hà Nội tiếp xúc với các em miền núi nên bị ảnh hưởng của giọng vùng này nên giọng người Hà Nội ngày nay, khá đặc thù, không còn như xưa.

 

Nhưng kể từ năm 1964, khi cuộc chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn khốc liệt, việc phát triển đô thị ít được coi trọng, thay vào đó là sự xuất hiện của những công trình phục vụ cho mục đích quân sự. (Trích trên Facebook của phóng viên chiến trường)


Khi người dân chạy loạn từ quê vào thị xã Đàlạt, cần chỗ ở nên họ chiếm đất và xây cất tạm các nhà gỗ, mái tôn. Thêm phần các thương phế binh, đòi hỏi chính phủ chỗ ăn chỗ ở cho gia đình họ nên cũng cắm dùi (chiếm đất), xây nhà bú xua la mua. 


Mình nhớ ở đường Hai Bà Trưng, cạnh cư xá Địa Dư, có vạc đất trống đã được ủi để xây nhà. Mình và đám trẻ trong xóm Địa Dư hay đến đây, đá banh. Sau mùa hè Đỏ Lửa thì thường phế binh và dân chiếm xây, độ mấy chục căn nhà.


Phía đường Cường Để, khi xưa hai bên đường không có nhà cửa, cũng bị thương phế binh, chiếm đất, xây nhà cửa mà chính phủ không làm gì được. Trên Số 4, tương tự khu đất cạnh làng SOS, xưa dân ở đây hay chơi bài chòi, cũng bị chiếm.


Khi Tây về nước sau năm 1956, Đàlạt có độ 30,000 dân cư, đến tháng 4 1975 thì lên đến 100,000 người. Nay nghe nói cả vùng lân cận lên đến 700,000 người. Do đó , thiết kế sự phát triển Đàlạt rất khó, cần phải điều nghiên cẩn thận.


Mình rời Đàlạt năm 1974 nên không biết gì xảy ra sau 1975.

(Có trích tài liệu của phóng viên chiến trường từ Facebook, mình chỉ thêm bớt một số tư liệu đã có. Xin cảm ơn phóng viên chiến trường)

 

Nguyễn Hoàng Sơn 

 

Xông đất đầu năm


 

Từ sáng đến giờ, hắn cứ đi vào đi ra cửa, ngóng ngóng ra đường, miệng cứ chép miệng, sao giờ này chưa đến. Vợ hắn hỏi nhờ ai đến xông đất đầu năm thế thì hắn trả lời anh Thìn làm chung hãng. Vợ hắn bảo sao lại không nhờ mấy người khác lại nhờ ông thần giờ cao su thì hắn bảo mấy ông kia tuổi thuộc loại tứ hành xung với hắn.

 

Này nhé anh Quân tuổi Thìn nhưng vợ anh ta lại tuổi Hổ, anh Quyền tuổi thìn nhưng bà vợ lại tuổi Tỵ chỉ có anh Thìn này tuổi Thìn nhưng bà vợ là tuổi Thân, tuổi con khỉ còn anh Thìn thì ngủ hành Tang Đố Mộc rất hợp với Sơn Hạ Hoả của anh rồi hắn lật cái đồng hồ Apple lên xem giờ rồi chắt miệng bảo sao lâu thế. Không chừng lại hỏng cả việc.

 

Bổng nghe tiếng chuông vợ chồng ngẫn đầu lên đưa mắt nhìn nhau với nụ cười như kẻ mới nhặt được tiền tiền trên môi. Hắn bảo vợ ra mở cửa nhưng không quên lập đi lập lại, dặn vợ là phải bước chân trái trước nhưng không được chạm đất. Nhớ nhé vì nếu không mọi việc sẽ trái ngược với ý định của mình cả năm.

 

Vợ hắn lật đật xem tóc tai trong gương, vuốt quần áo lại rồi nhấp nhỏm mở cửa trước, không quên bước chân trái trước rồi nhón một cái để chân phải lên sàn xi măng. Hắn chuẩn bị rượu bánh trái để mời khách. 


Số là năm nay hắn muốn lên chức manager vì tên boss của hắn sẽ nghỉ hưu nên hy vọng được cấp trên cho hắn cái chức này nên mới cần người hạp tuổi đến xông đất nhà hắn theo tập tục dân gian của người Việt. Có kiêng có cử có lành như ông bà thường nói. Hắn tính bay về Việt Nam, ra Côn Đảo để khấn cô Võ Thị Sáu, một thời quăn lựu đạn giết dân vô tội thay vì tên Tây lai đầu bếp của thực dân trong chợ. Nghe nói năm nay, trước đại hội đảng, thiên hạ bay ra Côn Đảo, cúng Cô 6 đông lắm nhưng nay bị dính vụ Covid, phải cách ly 2 tuần nên thôi. Đành lập bàn thờ khấn Cô Sáu.


Họa sĩ Ba Bụi
 

Vợ hắn cầm cái điện thoại trên tay, với chức năng Ring, nói không phải anh Thìn mà bố em. Có nên mở cửa cho bố vào không. Hắn đâm hoảng bố vợ tuổi Tỵ, lại tứ hành xung với hắn, đưa tay xua ra nói em ra nói bố về đi chiều, mình đưa cu Tí sang thăm bố mẹ. Vợ hắn nói ai lại nói dối với bố mẹ như thế nên hắn đành chạy ra không quên đi chân trái trước qua cửa nhưng không đụng đất. Hắn nói thằng cu tí ngủ chưa dậy. Chút chiều con đem cu tí sang bố chơi.

 

Lúc đó một chiếc xe vừa đổ trước nhà hắn, vợ chồng anh Thìn bước xuống, bảo xe hư nên phải kêu Uber đến đón. Hắn vội vàng mở cổng, thằng cu tí chạy ra ôông ngoại, hắn lật đật mời vợ chồng anh Thìn vào nhà lòng hân hoan.

 

Bổng hắn chợt khựng lại vì chị Thìn bận bộ đồ đen từ đầu xuống chân, để tang ông bố mới qua đời vì dính Covid trong viện dưỡng lão. 6 tháng bị cách ly, không gặp, chỉ nghe báo tin rồi đến nhà quàn hôm chôn cất, không thấy mặt bố vì họ đậy nắp hòm, sợ lây lan. Chị ngại đi nhưng anh Thìn bảo là xếp nhớn dặn, kêu nên chịu khó đi theo cho có cặp có đôi. Hắn hốt hoảng kêu đồng chí gái, chạy vào nhà đem cááo khác cho chị Thìn mượn. Hắn kéo anh Thìn vào nhà để chị Thìn sớ rớ ngoài cửa.

 

Hắn hỏi anh Thìn dùng rượu Việt Nam do người Việt nấu lậu đem bán ở mấy tiệm thuốc bắc ở Bolsa. Sau hớp rượu thì hắn mới cảm ơn anh chị Thìn đã chịu khó đến xông đất nhà hắn vào ngày mồng một. Hắn thú thật đã xem lý lịch trích ngang của mấy người trong hãng nên mới dám mời anh Thìn vì anh tuổi Bính Thìn. Theo lịch Tam Tông Miếu của TT, in tại Việt Nam cho rẻ nên chúng ghi tên các lễ lạc, sinh nhật ông Hồ, đành đem quăn vì bị dân Bôn Sa tẩy chay, may hắn kiếm được một cuốn, bảo năm nay phải có người tuổi Thìn xông nhà trước giờ Ngọ.

 

Anh Thìn sau một ly cối rượu đế Made in Bolsa, thêm vài miếng prosciutto và cheese, chậm rãi nói, Không. Em đâu phải tuổi Thìn, năm ấy là năm nhuận nên em tuổi Mẹo. Em sinh 28 tết, tuổi Tây thì em là tuổi Thìn còn tuổi ta thì em vẫn là tuổi Mẹo, đuôi mèo. Hắn toát mồ hôi lạnh, không thể được chú không thể nào tuổi Mẹo được, chú phải tuổi Thìn cho anh chớ. Thế năm nay hết mong lên làm manager.

 

Anh Thìn lại bồi thêm như vợ em thì thật ra tuổi Hổ nhưng khi vượt biên, sang đây nghe ai bảo là tuổi cọp là cao số nên đổi năm sinh thành tuổi Tý. Em đâu biết cứ tưởng bà ta là tuổi tý nên lấy về ai ngờ lại lấy nhầm con cọp cái. Rõ khốn cho đời em.

 


Hắn thấy không ổn nên nói với anh Thìn, cảm ơn chú đã đến xông đất nhà anh, anh nay phải đem thằng cu sang nhà ông bà ngoại rồi đưa khách ra sân trong khi bà vợ anh Thìn, con cọp cái lại vận áo khăn đỏ của vợ hắn cho mượn vừa bước vào. Hắn chợt nhớ kêu “bước chân trái trước nhưng không đụng chân xuống đất” khiến bà vợ anh Thìn ngơ ngác như bò đội nón đầu năm.


 Chán mớ đời!

 

Nhs

 

Vì đó ta yêu em

 Nhớ cuối năm 11 B, đi cắm trại ở hồ Than Thở với trường. Trời mưa, lạnh, thấy hai tên học chung lớp cãi nhau ỏm cù tỏi về bản nhạc “ L’amour c’est pour rien” khiến mình đã ngu lại càng ngu lâu vì không hiểu tại sao 2 tên này, mới sáng sớm đã cãi nhau và cãi sai. Hai anh chàng cứ gân cổ cãi ai là tác giả bài này, bên thì kêu Phạm Duy, bên thì kêu Elvis Phương. 1 tên hiện còn ở Đàlạt và 1 tên ở Úc.

https://youtu.be/AWcx4b0qkHU

Sau này sang Pháp, mới khám phá ông Enrico Macias là tác giả, và ca sĩ bản nhạc bất hủ này theo điệu tango này. Mình thích nhất bản nhạc “Adieu mon pays “ cũng do chính ông ta sáng tác khi bị quê hương ruồng bỏ, phải lên tàu, đi định cư tại Pháp vì ông bố vợ bị người Algérie giết chết vì chủ trương Algerie của người Pháp. Trong những số người này, có ông Albert Camus, khôi nguyên Nobel về văn chương.

 https://youtu.be/UEpbFM3_l-g

14 năm trước khi mình đến xứ Pháp, ông ta cùng trên 200,000 người sinh trưởng tại Algérie, mà người ta gọi “les pieds noirs “, những bàn chân đen, ý là những người sinh tại Phi châu, bị buộc phải bỏ lại nhà cửa, đất đai của ông bà tổ tiên, ra đi nếu không sẽ bị giết như bố vợ. Kể từ đó, ông không bao giờ được phép trở về nơi chôn nhau cắt rún vì ông ta gốc Do Thái.

Tên cúng cơm của ông ta là Gaston Ghrenassia, còn tên nghệ nhân là Enrico Macias, nghe hơi Tây Ban Nha 1 tí, chớ lấy tên Do Thái, khó đọc và dạo ấy dân tây không thích người do thái hay ả rập. Khi Sàigòn rơi vào tay Hà Nội thì mình có 1 gia đình “chân đen” cưu mang, kiếm công ăn việc vào mùa hè ở Mantes La Jolie. Nay ông chồng mới qua đời cách đây hai năm, chỉ còn bà vợ mà mình hay liên lạc.

Algerie, cựu thuộc địa của người Pháp, tương tự như Đông Dương, đấu tranh dành độc lập và số người muốn duy trì nền thuộc địa của Pháp, đa số là những “người chân đen”, nên khi tổng thống De Gaulle tuyên bố trao trả lại nền độc lập cho Algérie thì có một số quân nhân không đồng ý và ám sát hụt ông này. Nhóm này được gọi OAS (organisation d’armée secrète) mà mình có quen vài ông bị De Gaulle bỏ tù, người nổi tiếng nhất là ông sĩ quan hải quân, được dựng phim “Le crabe tambour” do đạo diễn Pierre Schoendoerffer viết và thực hiện, do Jacques Périn đóng vai chính.

Mình có gặp và ăn cơm với ông này vài lần tại Paris khi ông ta lên có việc. Sau này có ghé nhà ông ta chơi vài ngày ở Nimes. Ông ta chở mình đi vẽ Pont du Gard của La-mã, và giới thiệu cháu ông ta ở Ma-roc để viếng thăm khi sang Ma-rốc. Ở Paris, mình có gặp và ăn cơm với ông tướng Bigeard, bác sĩ Grovin, 2 người có mặt tại trận Điện Biên Phủ, tướng RaoulSalan,...được họ kể về lịch sử của thời họ ở Việt Nam và Algerie. Do đó khi cuốn phim Le Crabe Tambour được trình chiếu thì mình biết các nhân vật trong phim. Vui.

Thời sinh viên, hai bản nhạc mình gối đầu giường là “Adieu mon pays “ của ông này và “Sàigòn niềm nhớ không tên” do Khánh Ly trình bày. Sau này nghe riết mình sợ vì nhớ nhà, nhất là mấy năm đầu, mất liên lạc với gia đình, chẳng muốn học hành hay làm gì cả nên ngưng, cất dấu ở đâu. 

Ông “le crabe tambour” nói với mình là nên tránh xa, đám bạn mày quen vì cứ xúm nhau lại thì cứ kể chuyện Việt Nam, buồn, không thiết học hành, cứ nhậu cho quên đời, quên buồn. Từ đó mình ít giao tiếp với người Việt đến khi tốt nghiệp. Nhìn lại thì nghe lời ông ta là điều đúng, vì các bạn mít dạo ấy, sau này gặp lại, ít ai ra trường lắm, bỏ học đi làm hết. Gặp họ là cứ nói làm kháng chiến đâu đó rồi nhậu.

Giọng ông Enrico Macias là giọng ả rập, ông ta hát rất có hồn. Nhạc ông ta được khán giả ở các xứ ả-rập ưa chuộng nhất là Algerie, quê hương của ông. Các xứ hồi giáo như Thổ-nhỉ-kỳ rất mê nhạc của ông vì có âm hưởng nhạc trung đông. Khi bỏ nước Pháp đi kiếm cơm ở các xứ khác thì mình quên ông này đến khi YouTube xuất hiện thì mò kiếm các bài hát của ông .

Sau này lấy vợ, mình thích nhất bài hát “pour toutes ces raisons, je t’aime », được sáng tác khi vợ ông ta qua đời. Các ca từ được sử dụng rất chân thành, khi kể lại cuộc đời, thời gian sống bên vợ ông ta. Trong một buổi trình diễn trên đài truyền hình, ông ta kể bà vợ bị đau hồi còn trẻ lúc mới lấy ông ta. Lâu quá mình không nhớ bệnh gì.

Mình thích quá nên có lần sinh nhật mụ vợ, mình làm cuốn video, để gửi nhắn vợ tâm trạng của mình qua những ca từ mộc mạc của bài hát nhưng đồng chí gái không hiểu tiếng tây nên Chán Mớ Đời. 

https://youtu.be/07x2_TPQch4

Bài hát nói lên tình cảm chân thành, cảm ơn người vợ, đã sinh ra 2 người con, sát cánh bên nhau trong thời gian hai người xa quê hương, cùng một lứa bên trời lận đận. Bài hát đã nói lên những gì mình cảm nhận về đồng chí gái. Bao nhiêu năm đợi chờ, để rồi đón nhận được mối tình hữu nghị của vợ. 

Paroles "Pour toutes ces raisons je t'aime"

Toi tu m'as donné ton sourire de femme
Tes larmes sucrées que je n'oublie pas
Avec toi j'ai eu des années lumière
Des châteaux de cartes et des feux de bois
Pour toutes ces raisons, je t'aime

Les nuits de l'exil, on était ensemble
Mon fils et ma fille, ils sont bien de toi
Tu es comme moi et je te ressemble
Je suis orphelin quand tu n'es pas la
Pour toutes ces raisons, je t'aime

Je n'ai pas de médaille, je suis venu comme ça
Je suis un homme un fou d'amour, un fou de toi
J'ai passé ma vie, ma vie à t'attendre
Mais j'ai gagné l'amour de toi

Les bouquets de fleurs semblent dérisoires
Je ne chante plus dès que tu t'en vas
Tu connais par cœur ma vie, mon, histoire
Mes chansons d'amour parlent encore de toi
Pour toutes ces raisons; je t'aime

Je n'ai pas de médaille, je suis venu comme ça
Je suis un homme un fou d'amour, un fou de toi
J'ai passé ma vie, ma vie à t'attendre
Mais j'ai gagné l'amour de toi
Pour toutes ces raisons, je t'aime

Hôm trước, có chị bạn gửi bài hát tây, tặng mình, mình gửi lại bài này khiến ông chồng chị ta nhảy vào kêu hay quá, nên tải về đây cho các bác nghe.



Nguyễn Hoàng Sơn 



Adieu sois heureuse (Art Sullivan)

 Có bản nhạc tây mà mình thích nghe khi gần rời Việt Nam đi tây, đó là bản “Adieu, sois heureuse “ do ca sĩ người Bỉ tên Art Sullivan trình bày. Bài này nói lên tâm trạng của mình dạo ấy, trước khi rời Đàlạt, bỏ lại sau lưng những hình ảnh đối tượng của những mối tình đơn phương toả nắng.

Toi qui n'as pas voulu de moi
Toi qui n'avais pas confiance
Toi qui ne m'as pas ouvert
Toi qui ne m'aimes pas
Toi qui n'as pas voulu comprendre
Toi qui n'as pas voulu m'attendre
Toi qui passais sans me voir
Toi qui ne m'aimais pas
Adieu, sois heureuse
Adieu et bonne chance
Avec celui que ton cœur a choisi
Adieu sois heureuse
Adieu et bonne chance
Avec celui qui t'emmène aujourd'hui




Nghĩ lại cũng vui khi thấy mấy đối tượng của mình đứng nói chuyện với tên nào trong trường là tim mình nhói lên rồi ngâm nga “Adieu, sois heureuse”, cứ làm như đối tượng là bản quyền của mình, một thời ngu dại. Chán Mớ Đời 

Ông ca sĩ này người gốc Bỉ, thuộc dòng hoàng phái, tên họ Flamand rất khó đọc Marc van Lienart de Jeude, họ hàng với bà hoàng hậu nước Bỉ. Có lẻ vì họ hoàng phái nên ông ta lấy tên nghệ nhân là Art Sullivan, rất mỹ hay Anh Quốc. Điểm lạ là tại xứ ông ta thì không được ưa chuộng lắm nhưng ở hải ngoại, ông ta được yêu mến, tôn thờ như tại các nước Bồ Đào nha, Ba-Tây, Hoà Lan,...

Ngoài bản “Adieu, sois heureuse” ra ông ta có làm vài bản nhạc khác rất hay nhưng mình không nhớ hết. Nói chung các ca sĩ nổi tiếng thời thập niên 60 thì sau các cuộc biểu tình năm 1968, được xem là cuộc cách mạng văn hoá tại Pháp quốc, Âu châu suýt làm nền cộng hoà Pháp quốc bị sụp đỗ. Giới trẻ bắt đầu dấng thân vào chính trị nhiều hơn nên các thần tượng nhạc trẻ, Ye-ye như bị loại bỏ cuộc chơi. 

Thời mình học đại học là hậu 1968 nên sinh viên thích nghe nhạc có máu xã hội mát-xít một chút, gọi là nhạc phản kháng như ông Renaud, sử dụng các ca từ rất đương đại, dùng tiếng lóng tạo nên một âm thanh vang dội, khá là lạ. Nói chung lúc đầu, mình nghe ông này là ngọng vì ông ta dùng toàn là tiếng lóng của pháp. Dần dần ở lâu, đọc Charlie Hebdo, mới bắt đầu hiểu.


Dòng nhạc tình cảm nhẹ nhàng của thời Hippie, tiểu tư sản của đầu thập niên bổng nhiên biến mất khiến các ca sĩ loại này, khó khăn tìm đất sống nên đi lưu diễn ở hải ngoại nhiều hơn để kiếm ăn. Tương tự ca sĩ miền nam quen hát nhạc Bolero, bổng nhiên kêu hát nhạc đỏ là ngọng. Phải có tâm ác mới dám hát mùa này đẹp lắm, ra trận để giết người. Kinh

Tương tự, dòng nhạc trẻ ở Sàigòn khi xưa đang hăng lên bổng nhiên Việt Cộng vào, bị tắt cái cụp. Lôi ra nhạc đỏ để hát, khiến các ca sĩ, nhạc sĩ nhạc Vàng bị ngưng cái rụp, phải chạy ra hải ngoại để có thể tiếp tục hát Bolero.

Có thời gian ông Art Sullivan sang Hoa Kỳ làm việc trong ngành truyền hình, rồi trở về âu châu làm về kỹ thuật. Có lẻ hết hứng hát. Sau 15 vắng bóng, ông ta trở lại sân khấu nhưng khán giả chỉ muốn nghe những bản nhạc xưa của ông ta thêm người bạn đời bị bệnh nên ông ta bỏ sự nghiệp ca hát của mình.

Mình chỉ thích bản nhạc Adieu sois heureuse của ông này vì có chút kỷ niệm về thời mới lớn, sắp sửa đi du học, để lại sau lưng bạn bè, các đối tượng một thời. Thời ở Đàlạt, thông tin về âm nhạc rất hạn chế, qua các băng nhạc sản xuất từ Sàigòn nên khi ra hải ngoại thì đủ loại nên có thể chọn lựa. Khổ là dân tỵ nạn, lưu vong nên lại quay về nhạc việt với những lời thống than vì mất quê hương của người di tản buồn.

Cuộc đời là dòng sông không trở lại, phương trình cuộc sống có hai ẩn số; không gian và thời gian. Nhưng nếu chúng ta dùng đạo hàm với hàm số ký ức, bơi ngược lại dòng sông ký ức thì sẽ thấy lại những kỷ niệm của những mối tình toả nắng, không trọn vẹn. Những nụ cười, những giọt nước mắt của các đối tượng một thời mà chính mình đã gây ra cho họ.

Kết thúc các cuộc đả thông tư tưởng, điều tra lý lịch trích ngang trích dọc rồi hát “Adieu, sois heureuse” có lẻ hơi tàn nhẩn. Dòng nước vẫn chảy dưới chiếc cầu Mirabeau, dòng sông định mệnh vẫn tiếp tục ra khơi dù phải gặp nước mặn.

Mình đi Seminar rất nhiều nhưng có lẻ hai Seminar quan trọng nhất: tài chánh mà mình dự định sẽ gửi con mình đi vào tháng 9 này, và về luyện tập kỷ năng của ông Stephen Covey. Hai Seminar này đã giúp mình thay đổi tư duy, và tự sửa đổi, học tập các kỷ năng, thói quen mới để tạo dựng một mái ấm gia đình và cuộc sống cho tương lai.

Khi cái tôi của chúng ta lớn, sẽ cản trở cái nhìn, viễn kiến về tương lai. Mình nhớ trong cuốn sách “Đắc nhân tâm”, ông Dale Carnegie, có kể câu chuyện về một bà vợ, tham gia hội phụ nữ nào đó. Về nhà nghe lời các bà trong hội phụ nữ đòi quyền sống, hỏi ông chồng nêu rõ 12 cái tật xấu của mình để giúp bà ta sửa đổi, tạo dựng hạnh phúc gia đình. Chiều hôm sau, ông ta đi làm về, ghé tiệm hoa, mua 12 đoá hồng tặng bà vợ, kêu em không có tật xấu nào cả. Bà vợ khóc như mưa. Từ đó, mình không đòi hỏi gì ở đồng chí gái, cứ chấp nhận hiện tại, không muốn thay đổi mụ vợ theo ý mình. Đồng chí gái bắt mình phải như thế này như thế nọ thì nhất trí, chả có gì phàn nàn. Làm vui lòng vợ mình chớ có phải động viên bà hàng xóm nào đâu.

Sử dụng cuốn Planner do ông Stephen Covey thành lập từ mấy chục năm nay, mình cảm thấy cuộc sống dễ dàng hơn, bao nhiêu dự tính của mình đều hoàn thành. Nay đang tìm cách làm cho cái vườn bơ, có lợi nhuận cao và ít tốn thì giờ. Chán Mớ Đời 

Nguyễn Hoàng Sơn 



Tuần Báo Salut les Copains

 Tuần này nghe tin ca sĩ Johnny Hallyday từ trần khiến mình nhớ đến thời mới lớn, tập tành để ý đến con gái, như người đẹp phao câu gọi “les amourettes.” Nhớ một thời đọc lén Salut Les Copains, Playboy…nghe ké nhạc tây của tên hàng xóm. Sang Tây thì mình mới bắt đầu bình dân học vụ văn hóa của người Pháp, nhất là đám trẻ cùng lưới tuổi với mình vì khi chúng nói chuyện, mình cứ đực ra như ngỗng ị, không hiểu chúng đang nói về cái gì.

Nguyệt san Salut Les Copains khởi đầu bởi chương trình nhạc yêu cầu có tên “Salut Les Copains” trên đài Europe 1, một đài phát thanh tư nhân ở Pháp Quốc, lấy tên lời của một bài hát của Gilbert Becault, khởi đầu năm 1959. Sau thấy ăn khách, năm 1962, chủ chương trình cho phát hành báo nguyệt san rồi tuần san lấy tên của chương trình nhạc tuyển của thế hệ nhạc  "yé-yé", do một ký giả Tây, quên tên, đặt khi nghe ban nhạc The Beatles cứ rống “Yeah! Yeah” rồi thanh thiếu nữ cũng rống lên theo. Nguyệt san này ra tới số thứ 2, tưởng bị kiểm duyệt dẹp tiệm vì trang bìa có hình ca sĩ Elvis Presley, đang cầm con dao nên bị ty văn hoá kêu lên tính rút môn bài lại. Dạo mình ở Pháp, có thêm một đài phát thanh Radio Television Luxembourg. RTL

vì tấm ảnh cho rằng khuyến khích giới trẻ bạo lực nên cấm

 Năm 1963, đài phát thanh Europe 1 tổ chức một buổi ca nhạc miễn phí tại quảng trường Place De Nation, trong thủ đô Paris thì có đến 150,000 giới trẻ vùng Paris đến tham dự, mặc dù chỉ cho biết trước đó có mấy ngày, không quảng cáo, khiến giới truyền thông ngạc nhiên, kêu một sự kiện lịch sử “Folle Nuit De La Nation”. Cứ xem như đại hội nhạc trẻ lần đầu tiên tại Paris. Nguyệt san này ăn khách nên ra hàng tuần, có xuất bản bằng tiếng Đức, Ý, Tây Ban Nha,… như ca sĩ Françoise Hardy, kể là nhờ chương trình nhạc tuyển và tuần san này đã đưa cô ta và các ca sĩ khác lên đài danh vọng.


Khi xưa, mấy người làm chương trình phát thanh nhạc trên radio, là những người lăng-xê các bài hát mới trên thị trường. Nghe nói các công ty sản xuất nhạc phải mớm tiền cho mấy ông thần này. Ca sĩ muốn được người ta biết đến thì phải qua mấy người này.


Hôm trước, có anh quen hỏi mình vụ nhạc tây mà khi xưa trước 75 nghe như Christophe,….nên kể lại đây cho tiện.

 

Có một ca sĩ Yé Ýe, nổi tiếng năm 16 tuổi khi đoạt giải Eurovision, giải nhạc của Âu Châu được tổ chức hàng năm mà ban nhạc ABBA hay Céline Dion (Thuỵ Sĩ) từng đoạt giải. Giải nhạc âu châu được thành lập từ năm 1956, mỗi năm mỗi nước chọn một bài hát, đại diện quốc gia mình đi thi và ca sĩ đại diện của mỗi nước hát trực tiếp và khán giả gọi điện thoại để bầu. Nhớ dạo ở Âu châu, hàng năm mình hay xem chương trình này, ngày nay trải dài đến các nước Đông Âu, có đến 600 triệu khán giả xem.

Ca sĩ France Gall, 16 tuổi, đại diện cho nước Lục Xâm Bảo, hát bài “Poupée de cire, poupée de son”, do nhạc sĩ Serge Gainsbourg viết, đoạt giải này và đưa cô ta lên đài danh vọng. Thời ở Đà Lạt, có nghe ca sĩ Thanh Lan hát. Mình nhớ có tên bạn cho nghe “Je t’ aime…moi non plus” của ông nhạc sĩ này với Jane Birkin, cô ca sĩ rên rỉ như đang làm tình, nổi tiếng nhờ bản nhạc này. Ca sĩ Françoise Hardy với những ca khúc đã làm mình thấm thía nổi cô đơn khi thấy mấy tên trong lớp viết thư cho bồ như Le Temps de l’ amour, Tous les garçons et les filles,… hình như có một cô lớp 12 A hát bản này, được thầy CBA mở cho cả trường nghe trong giờ ra chơi. 

 

Ca sĩ Sylvie Vartan với mái tóc ngắn dễ thương với bài hát “Jolie Poupée”, lấy Johnny Hallyday rồi ly dị đủ trò,… hay Sheila với bản L’ école est finie, Bang Bang... Sau này lấy ca sĩ Ringo rồi ly dị. Hồi còn ở bên Tây, mình nghe nói ông Ringo này có cái tên do người khác giữ bản quyền nên sau này không được hát nữa vì không nhất trí với người chủ tên cúng cơm cúng tổ của mình tương tự như ca sĩ Prince ở Mỹ, phải ngưng hát một thời gian khá dài để hợp đồng về cái tên cúng tổ của ông ấy hết hạn. 

 

Đâu năm 1980, khi còn ở Pháp, mình có xem một chương trình văn nghệ trên đài truyền hình thì khám phá ra ông Hervé Vilard, người ca sĩ nổi tiếng khi làm bài hát “Capri, c ‘est fini”, mất tích trên làn ca nhạc của Pháp từ khi nổi tiếng với bài hát này. Ông ta kể là thấy bản quảng cáo trong Métro về du lịch một đảo ở Ý đại lợi, tên Capri rồi cộng với bài hát của Charles Aznavour “‘c’est fini” để làm bản nhạc đã giúp ông ta bán được trên 3 triệu đĩa nhạc và dịch ra 7 thứ tiếng dù chả bao giờ bước chân đến hòn đảo này. 

Sau này qua Ý, đến vùng Napoli, mình lấy tàu sang đảo này vẽ. Cảnh rất đẹp, được một gia đình Ý, ở cái biệt thự to đùng mời vào ăn trưa khi thấy mình ngồi vẽ bên cạnh nhà họ. Ngon chi lạ. Ai có dịp đi Ý nên ghé thăm đẹp hơn Hạ Uy Di nhiều.

 

Mình nhớ xem phim xi nê ở rạp Ngọc Lan, hình như D’où viens-tu Johnny thì phải. Một phim cao bồi, ông thần Johnny Hallyday đóng, kéo cái hòm đi rồi cuối cùng, dỡ nắp hòm lấy khẩu súng đại liên bắn thiên hạ chết như rạ. Ông Hallyday lấy họ của ông bố nuôi, gốc Mỹ, khuyến khích ông ta trên con đường ca nhạc. Năm 14 tuổi đi xem xi nê, thấy Elvis Presley, giúp ông ta giác ngộ cách mạng, hát nhạc Rock. Mình biết đến ông này qua những bài hát dịch từ anh ngữ sang như “Noir c’ est noir, Le Pénitencier,  ông này thì đưa Rock N’ Roll vào thị trường nhạc pháp với Eddy Mitchell hay Jacques Dutronc với bài La fille du père Noël hay nhiều bài tình ca Love me please love me của Michel Polnareff, được xem là những Yé Yé boys của Pháp quốc thời đó. 

 

Nhớ đi Ninh Chử nhân dịp Tết 1974, trong xe ai mang theo máy cassette, có mở bản này thì Phi Liên Sô có hỏi tại sao nhạc pháp lại hay bỏ anh ngữ. Không ai trả lời được. Ông này có ông bố gốc Nga nên có cái tên khá lạ so với Tây, có thời sinh sống ở Hoa Kỳ. Chuyện vui là một hôm ông ta và bà bồ kêu mới hạ sinh được một bé trai thì vài ngày sau trên facebook, ông ta kêu xem DNA thì không phải con của ông ta và bà bồ biến mất với đứa con.

 

Có lẻ dạo mới lớn lên, đám bạn mình thích nhất là ca sĩ Christophe và những bài như Aline, Mal, Les Amoureux qui passent, Adieu sois heureuse hay Les Marionettes,… dân Tây phải đợi mấy năm, nhạc của Mỹ ra thị trường, để xem bản nhạc nào bán chạy trên thị trường, mới dịch ra tiếng Tây cho dân Tây nghe như Le Pénitencier từ The House of Rising Sun, Noir c’ est noir từ Black is Black… rồi khi tây nghe quen thích thì dân Mít mới bắt đầu nghe nên tính ra là trễ độ 5 năm, tạo ra phong trào nhạc trẻ, chuyển lời Việt mà mình nhớ bản nhạc Mal, ông thần nào dịch ra tiếng Việt thành “Đau” nghe phản cảm vô cùng, không như khi nghe tiếng tây.

 

Mình có một kỷ niệm vui vui về bản nhạc “Mal”. Số là hè năm 1972, mình học hè ở trường Việt Anh để chuẩn bị qua chương trình Việt, cuối khoá ông thầy cho nghỉ, kêu văn nghệ. Ông thầy này học tiếng Nhật với mình với ông sư từ Nhật Bản về nên kêu mình đứng lên nói tiếng Nhật, xổ một tràng bài thơ nào ông sư dạy, đại khái xê ku ra, to yo ta,… giờ chữ nghĩa trả về sư hết trong khi ông thầy hát bài Sakura bằng tiếng Nhật. 

Có một cô tên Hoàng Lan, rất xinh, học Bùi thị Xuân, nhà ở Hai Bà Trưng, góc trường Thăng Long khi xưa, hát Ngày Xưa Hoàng Thị nhưng mình cứ đực ra không hiểu, sau này qua Văn Học, được mấy tên bạn định hướng thị trường tình ái thì vỡ cái đầu ra. Có một cô học Couvent Des Oiseaux, hát bài “Mal” hay nức nở khi mình cứ trố mắt, lén nhìn cô Hoàng Lan, rồi có một tên học chung, nhà trong Hoàng Diệu, cũng hát bản “Đau” này bằng tiếng Việt. 20 năm sau khám phá ra tên này là ca sĩ Anh Dũng, em rể của Nguyễn Minh Dũng hay đánh bóng bàn với mình.

 

Lúc đi học ở bên Tây, mình ngồi vẽ trong atelier, mình hay hát nhạc tây hồi xưa ở Việt Nam thì con Dominique Alba kêu mày hát toàn nhạc Hit Parade không, để tao cho mày nghe nhạc chính thống Tây, cho mình mượn nhạc của Georges Brassens, Barbara, Édit Piaf, Léo Ferré, Georges Moustaki, Jacques Brel… cho mình đọc Jacques Prevert, đủ loại trong mục đích định hướng mình từ nghe nhạc sến Tây qua nghe nhạc cao cấp Tây như Cung Tiến, Trịnh Công Sơn,…của Việt Nam, nâng cấp văn hoá pháp của mình lên một tí. 

 

50 năm qua thì vịt vẫn hoàn vịt. Người ta bắt một con thiên nga bỏ vào đàn vịt, lớn lên con thiên nga cư xử như vịt. Ngược lại người ta bỏ con vịt vào đám thiên nga thì con vịt vẫn cư xử như con vịt đực. Chán Mớ Đời 

 

Xong om

Nguyễn Hoàng Sơn 

 

 

Tous les garçons et les filles (Françoise Hardy)

 Mấy hôm nay, tự nhiên nhớ đến mấy bài hát ngoại quốc khi xưa, thời choai choai khiến mình nhớ đến bài hát nổi tiếng “le temps de l’amour” do Chử Nhất Anh hát trong giờ ra chơi. Dạo ấy thầy Chử Bá Anh có cho các học sinh tổ chức văn nghệ, thu băng rồi mở băng nhạc do các học sinh trường hát trong giờ ra chơi hay trước khi vào lớp, tạo dựng một không gian, một dung dịch khá đặc thù, khiến giới học sinh như mình dạo ấy, nức nở, nhìn các cô dạo trong sân trường, chớm nở những mối tình đơn phương, toả nắng một thời.


C'est le temps de l'amour
Le temps des copains
Et de l'aventure
Quand le temps va et vient
On ne pense à rien
Malgré ses blessures
Car le temps de l'amour
C'est long et c'est court
Ça dure toujours
On s'en souvient
On se dit qu'à vingt ans
On est les rois du monde
Et qu'éternellement
Il y aura dans nos yeux
Tout le ciel bleu
C'est le temps de l'amour
Le temps des copains
Et de l'aventure
Quand le temps va et vient

On ne pense à rien
Malgré ses blessures
Car le temps de l'amour
Ça vous met au cœur
Beaucoup de chaleur
Et de bonheur
Un beau jour c'est l'amour
Et le cœur bat plus vite
Car la vie suit son cours
Et l'on est tout heureux
D'être amoureux
C'est le temps de l'amour
Le temps des copains
Et de l'aventure
Quand le temps va et vient
On ne pense à rien
Malgré ses blessures
Car le temps de l'amour
C'est long et c'est court

Ça dure toujours
On s'en souvient
On s'en souvient
On s'en souvient
On s'en souvient
On s'en souvient


Bài hát này làm nhớ đến ca sĩ pháp Françoise Hardy nổi tiếng một thời với bản nhạc này. Cô Françoise Hardy sinh ra tại Paris, con của một vợ lẻ nên ít bao giờ sống chung với bố nhưng khi cô ta đậu tú tài thì ông bố mua cho cái đàn Guitar, đã thay đổi cuộc đời cô ta. Cô ta theo học Sorbonne nhưng độ một năm sau đó thì bỏ học, theo nghiệp ca sĩ. 

Tiện đây, mình xin nhắc lại là Paris có rất nhiều trường đại học, và trường Sorbonne là một trong những đại học tại Paris. Hình như có đến 4 trường đại học tại Paris như Paris I, III, V , VI) sử dụng khuôn viên của trường này. Trường này được thành lập vào thế kỷ 13 để dạy môn thần học, do ông  Robert de Sorbon thành lập. Ông giáo sĩ này xuất thân từ vùng Sorbon, vùng Ardennes . Trường này được xem là cổ nhất của Pháp quốc, không có nghĩa là trường giỏi nhất của Pháp quốc. 

Lý do mình nhắc là mỗi lần mình gặp người Việt, họ hỏi mình học trường nào, có phải học Sorbonne vì họ chỉ nghe đến trường này. Hôm kia, có ông bố của anh bạn vào vườn mình chơi. Ông ta hỏi mình học trường nào, mình kêu là trường cao đẳng quốc gia mỹ thuật Paris, thì ông này kêu có ông bạn xuất thân kiến trúc tại Sorbonne, khiến mình như bò đội nón vì trường này không có môn kiến trúc. Chán Mớ Đời. Có dịp mình sẽ kể rõ hơn, người Việt nhiều khi cứ bú xua la mua, không hiểu nên cứ phán phải học Sorbonne mới là giỏi.

Cô ta thu đĩa 45 tours nhạc chung với Johnny Hallyday  “Oh Oh Chéri” . Mỗi đĩa hát thường có 2 mặt: một bản chính do ca sĩ chính còn bản mặt kia thì thường để thâu cho có lệ, vì mỗi đĩa 45 tours chỉ có hai mặt, người ta thâu âm một bài của ca sĩ không chuyên nghiệp và tác giả vô danh để khỏi tốn tiền nhiều. Mình có đọc bên Tây một bài viết về một ông nhạc sĩ, chuyên cho thâu âm nhạc của ông ta, ít nổi tiếng nhưng bỏ túi rất nhiều tiền vì đĩa nhạc có hai mặt và nếu mặt chính bán như tôm tươi thì theo hợp đồng cũng kiếm tiền bạc cắc, không cần nổi tiếng, chỉ bỏ tiền vào túi. Không ngờ bài thâu cho có lệ “tous les garçons et les filles“ trở thành nổi tiếng, được giới trẻ thời đó ưa chuộng.

Tous les garçons et les filles de mon âge
Se promènent dans la rue deux par deux
Tous les garçons et les filles de mon âge
Savent bien ce que c'est qu'être heureux
Et les yeux dans les yeux
Et la main dans la main
Ils s'en vont amoureux
Sans peur du lendemain
Oui mais moi, je vais seule
Par les rues, l'âme en peine
Oui mais moi, je vais seule
Car personne ne m'aime
Mes jours comme mes nuits
Sont en tous points pareils
Sans joies et pleins d'ennui
Personne ne murmure "je t'aime"
À mon oreille
Tous les garçons et les filles de mon âge
Font ensemble des projets d'avenir
Tous les garçons et les filles de mon âge
Savent très bien ce qu'aimer veut dire
Et les yeux dans les yeux
Et la main dans la main
Ils s'en vont amoureux
Sans peur du lendemain
Oui mais moi, je vais seule
Par les rues, l'âme en peine
Oui mais moi, je vais seule
Car personne ne m'aime
Mes jours comme mes nuits
Sont en tous points pareils
Sans joies et pleins d'ennui
Oh, quand donc pour moi brillera le soleil?
Comme les garçons et les filles de mon âge
Connaîtrai-je bientôt ce qu'est l'amour?
Comme les garçons et les filles de mon âge
Je me demande quand viendra le jour
Où les yeux dans ses yeux
Et la main dans sa main
J'aurai le cœur heureux
Sans peur du lendemain
Le jour où je n'aurai

Plus du tout l'âme en peine
Le jour où moi aussi
J'aurai quelqu'un qui m'aime

Bản nhạc này được truyền hình ngày chủ nhật 28 tháng 10, năm 1962 trong buổi trực tiếp kết qua cuộc bỏ phiếu trưng cầu dân ý, do tổng thống De Gaulle thực hiện về bầu trực tiếp tổng thống của nền cộng hoà pháp. Trong lúc chờ đợi kết quả cuộc trưng cầu dân ý, đài truyền hình đã phát hình bản nhạc này và cuộc đời của cô bé sinh viên 18 tuổi đã thay đổi từ đó. Bài hát nổi tiếng ngày và bán trên 700,000 đĩa nhạc trong năm. Báo Paris Match đăng hàng đầu: "Françoise Hardy : 18 ans, 1 disque, 2 millions de fans"… 

Sau này, trong một cuộc phỏng vấn, ca sĩ này kể làm bài hát rất tự nhiên, nói về cảm xúc của mình như bao cô gái ở tuổi dậy thì vào thời đại đó: “C'était un texte totalement autobiographique, au premier degré, sans aucune subtilité. J'y exprimais mes états d'âme avec la candeur des filles de mon âge»

Ca từ của có ta như những vần thơ của tuổi học trò, đơn thuần, diễn đạt nội tâm của người con gái mới lớn. Thấy con trai và con gái cùng trang lứa, nắm tay nhau đi ngoài phố còn cô ta một mình lẻ loi. Đó là tâm trạng của lưới tuổi dậy thì ngày xưa. 

Cô ta cặp Bồ với một ông nhiếp ảnh gia nên được ông này lăng-xê lên báo Vogue. Cô ta có đóng phim nhưng không được thành công lắm, toàn những vai phụ, mình có xem bên tây vài phim cũ nhưng không hay lắm. 


Bài hát này, đã đưa ca sĩ Françoise Hardy lên đài danh vọng của lứa tuổi Ye-ye, lứa tuổi khi nghe nhạc cứ la hét của ban nhạc The Beatles Yeah yeah theo giọng người Pháp nên được các đài truyền thanh gọi là thế hệ ye-ye. Dáng cô ca sĩ mảnh khảnh, gầy gầy, khuôn mặt lạnh như đồng như một người mẫu của hoạ sĩ Modigliani. Mình thích cô Jane Birkin hơn nếu nói về vóc dáng, tựa tựa.

Thật ra cô Francoise Hardy này đã làm nhiều ca sĩ nổi tiếng đương thời chới với như Mick Jagger, Keith Richards, George Harrison, Paul McCartney, John Lennon, Brian Jones,..

Người ta để ý đến áo quần cô ta bận hơn là giọng hát đến khi. (Trích phỏng vấn Françoise Hardy)

 Có dạo ca nhạc sĩ Bob Dylan thầm yêu cô này dù chưa bao giờ giáp mặt và có viết nhạc, thơ dành cho cô ta trong “some the kinds of songs và trong cuốn album “Another side of Bob Dylan”, ông ta ghi chú “for Francoise Hardy, at the Seine’s Edge, a giant shadow of Notre Dame”. Nghe cô ta kể ông Bod Dylan viết thư cho cô ta và có lần hát cho cô ta trong phòng khách sạn tại Paris cùng với bạn bè cô ta.



for françoise hardy
at the seine’s edge
a giant shadow
of notre dame
seeks t grab my foot
sorbonne students
whirl by on thin bicycles
swirlin’ lifelike colors of leather spin
the breese yawns food
far from the bellies
or erhard meetin johnson
piles of lovers
fishing
kissing
lay themselves on their books, boats.
old men
clothed in curly mustaches
float on the benches
blankets of tourist
in bright nylon shirts
with straw hats of ambassadors
(cannot hear nixon’s
dawg bark now)
will sail away
as the sun goes down
the doors of the river are open
i must remember that
i too play the guitar
it’s easy t stand here
more lovers pass
on motorcycles
roped together
from the walls of the water then
i look across t what they call
the right bank
an envy
your
trumpet
player

Dạo mình ở Pháp thì ít khi thấy bà ta xuất hiện trên truyền hình, có lẻ nhạc thời đại của cô ta đã đi qua, nhường cho những ca sĩ với những giai điệu trẻ hơn.

Mấy năm trước, bà ta bị ung thư rồi có lần bị nằm Coma, bác sĩ nghĩ là sẽ không bao giờ thức dậy nhưng phép kỳ lạ đến. Bà ta sống lại và trở lại sân khấu . Bà ta lấy ca sĩ Jacques Dutronc, ông này hát hay nhưng mình biết ông ta nhiều hơn trong lĩnh vực điện ảnh. Ông ta đóng khá nhiều phim với Isabelle Adjani. Sau này rời khỏi Pháp nên mình không còn theo dõi nữa. Hình như hai người đã ly thân vì ông chồng ở đảo Corse còn bà ta ở Paris.

Đầu năm nghe lại mấy bản nhạc tây khi xưa, một thời đã làm mình thầm yêu trộm nhớ mấy cô gái Đàlạt khi xưa. Xong om

Nguyễn Hoàng Sơn