Đàn ông VN trong Kim Vân Kiều *

Có anh bạn gửi cho một bài viết, tác giả là phụ nữ ở VN, lên án đàn ông VN; đưa ra những tật xấu của họ tương tự như một bài viết của một cô gái Việt ở Nhật Bản, nhân danh toà án phụ nữ tối cao để kết án đàn ông VN khiến mình nhớ đến truyện Kiều của ông Nguyễn Du.
Năm 3ème, học Việt Văn có phần Kim Vân Kiều đến cuối năm đi thi BEPC thì mình không đủ điểm thi viết nên phải vào thi vấn đáp. Nhờ Kim Vân Kiều mà mình đậu bằng Trung học Pháp. Lúc vào vấn đáp môn Việt Văn thì ông giám khảo hỏi lí do ông Nguyễn Du viết truyện Kiều. Mình trả lời vì ông ta làm quan cho nhà Nguyễn nhưng vẫn nhớ đến vua Lê khi xưa. Vua Lê không có thực quyền vì chúa Trịnh kiểm soát hết.
Có lẻ các quan thời của ông ta rất gian tham nên ông ta dùng các nhân vật trong Kim Vân Kiều để nói lên hiện tình của đất nước. Nào là Tú Bà tượng trưng cho vua Nhà Nguyễn, còn Mã Giám Sinh, Sở Khanh,... chỉ là tay sai, như các quan của Triều đình bắt dân chúng cày cuốc, để nộp thuế cho họ sống sung sướng. Không ngờ ông giám khảo thích câu trả lời của mình nên cho điểm cao, đủ điểm đậu BEPC năm đó.
Lúc học Kim Vân Kiều thì phải công nhận các nhân vật nam trong câu chuyện không có ai khiến mình nể phục, muốn noi theo gương họ rồi nhìn quanh thì thấy đàn ông lớn tuổi như ông cụ mình với tính gia trưởng, tinh thần nho giáo làm mình không phục. Trong 4 đổ tường thì ông cụ mình chỉ không biết uống rượu còn ba thứ kia là có hết. Đánh bài thua, thiếu nợ bắt bà cụ mình buôn bán trả nợ,... nên mình tránh đi theo con đường của ông cụ. Các ông cứ bảo đàn ông là phải ngoài đường nhưng thật ra họ chỉ ở quán cà phê, bia ôm chớ có chạy áp phe, làm việc gì đâu.

Lượm lặt trên đường Đà Lạt

Hôm nay có anh bạn học cũ đến nhà thăm rồi hai thằng đi vòng vòng Đàlạt chơi. Chạy vào ấp Sòng Sơn, Suối Tía để mình viếng lại vườn của nhà khi xưa, sau này ông cụ mình đã bán rẻ dù mình đã nói không được bán khi về lần đầu.
Xe chạy lên đường Pasteur, chạy ngang biệt thự của ông bà Thái Thúc Nha, công ty xi nê Alfa film chi đó, lâu quá rồi không nhớ, rồi căn biệt thự bên cạnh của người dì ruột của đồng chí gái vĩ đại vô vàn kính yêu, Đông Phương Ngân Hàng. Sau 75 họ đổi tên thành trung tâm vắc xin, chích chó gì đó, sau đó phải đổi tên lại thành Pasteur vì nếu không sẽ không nhận được viện trợ của Liên Hiệp Quốc cho các viện Pasteur trên thế giới. Ty công chánh khi xưa thì bị che khuất bởi một ngôi nhà hay chi đó rất cực xấu.
Xe rẽ trái qua đường Triệu Việt Vương mà khi xưa mình hay đi, tuy xa hơn để tránh đám dốc Nhà Bò chận đánh khi vào vườn. Hai bên đường khi xưa chỉ là thông và thông, đi không có một bóng người khiến mình sợ ma mỗi lần đi vườn về, khi nghe tiếng gió thổi xì xào mấy cành thông, nay thì mọc đầy nhà, hàng quán khiến mình không biết đâu đâu là đâu.
Từ thức khi xưa nghe kể đi đâu mấy năm, khi trở lại cố hương thì cứ tính một năm ở thiên đường bằng 10 năm ở trần thế. Mình về lần đầu năm 1992, đến nay là 27 năm mà có cảm tưởng như mỗi năm ở thiên đường bằng 200 năm ở trần thế. Mình về năm kia thì nay đã thấy thay đổi rất nhiều ở Đàlạt.
Mình thấy cái dốc bên phải nên đoán là cái dốc ngày xưa đi vào ấp Sòng Sơn, có đồn Quân Cụ bên phải, nay chỉ toàn là nhà và nhà. Chạy một đoạn xa thì mới thấy một con đường rẽ xuống bên trái thì đoán là con đường đất mà bà cụ cho ủi để xuống vườn nhưng thấy xe hàng đậu đầy nên quay về. Họ cho xe máy ủi cày một vũng sâu khá rộng , chắc để làm cái hồ nước hay chi đó không rõ.

Xe chạy ra rồi rẽ phải chạy về hướng hồ Tuyền Lâm, đèo Prenn, mà khi xưa không dám chạy vào vì sợ Việt Cộng nằm vùng. Nhìn xung quanh, toàn là nhà và quán ăn,… rừng thông biến đâu hết, rồi xa xa trên đồi núi, cũng thấy họ đốn cây, đốn rừng. Đàlạt mà không còn thông thì đâu phải là Đàlạt, khí hậu mát? Trời nóng như điên, ít hơn Sàigòn nhưng nóng hơn ngày xưa. Mình bận áo cánh tay mà vẫn nóng.
Xe rẽ qua đường xuống đèo Prenn, rồi chạy xuống Đức Trọng, Tùng Nghĩa mà mình có kỷ niệm khi đi lạc quyên cứu trợ bão lụt miền trung với bạn học cũ khi xưa. Khu này khi xưa cũng vắng teo nay thì nhà cửa mọc lên như nấm hoang, không có trật tự, cho thấy không có kế hoạch phát triển gì cả tương tự thương phế binh cắm dùi ngày xưa ở góc Cường Để và Hai Bà Trưng. Dân miền bắc hay xứ nào vào Đàlạt làm ăn rồi kêu con cháu vào rồi chiếm đất, xây cất loạng cào cào lên. Mai mốt nếu có quy hoạch mới, cần nối rộng đường thì lại nghe tin tức cưỡng chế đủ trò. Xe chạy đến Phi Nôm mà khi xưa bà cụ hay xuống mua chén đĩa do người Nhật làm chủ nên kiểu rất đẹp.
Hai thằng nhắc đến Trần Quang Hùng học chung khi xưa, nhà ở Đơn Dương nên chạy xuống đó xem sao. Mình thấy họ xẻo núi mà khi rời phi trường Liên Khương thì có thấy xa xa, nay hiển thị cận cảnh thì xót xa cho thiên nhiên bị tàn phá. Khi xưa bom đạn của mỹ hay thuốc khai quang không phá rừng nhiều như vậy, cho thấy với sức người sỏi đá cũng thành cơm, rừng riết gì cũng thành sỏi đá.
Thấy căn nhà của tên này ở ngày xưa, đối diện cái cây to đùng, lên ở trọ Đàlạt, cuối tuần về nhà. Được biết là bố tên này là dân tập kết nhưng con cháu vẫn được đi học, thậm chí mình đoán hắn ngày xưa lớn tuổi hơn mình, rồi làm giấy tờ giả lên Đàlạt học. Nghe anh bạn kể là có gặp lại sau 75, anh ta về dạy ở Sàigòn rồi làm cán bộ cao cấp chi đó. Cũng mừng cho anh bạn học cũ vì mình có gặp lại vài người bạn te tua sau 75, đang học y khoa rồi công an vào trường, đuổi ra khỏi lớp, đi thanh niên xung phong, nay lêu bêu như người đi bên lề cuộc đời.
Xe rẽ trái lên Đàlạt, chạy qua Cầu Đất mà khi xưa có vài lần dám chạy xuống đây vì có lò chén Thiên Nhiên do người Đài Loan làm. Họ xẻo đồi núi để trồng lê guim trong mấy cái lều bọc nhựa, xa xa thấy hồ Than Thở. Xung quanh là nhà cửa, rừng thông biến mất vì khi mình về năm 1992, có chạy lại đây kiếm Nguyễn Đình Tài thì vẫn thấy hoang vu. Kinh.
Mình bổng nhớ đến tên bà nào có sở trà ở đây, qua tàu buôn bán chi đó bị giết nên hỏi thì anh bạn chỉ những đồi trà là của bà ta. Nghe nói bà ta là gái miền Tây chài được một người đài loan, bỏ công ty ở xứ mình để sang đây trồng trà ô long rồi bà này ly dị vì tài sản đều đứng tên bà ta nên ông chồng mất trắng hết toàn bộ gia tài. Bà ta bị giết chắc là do ông chồng đài loan. Nay con cháu quản lý công ty. Anh ta kể về mấy người khác cũng chài được ngoại kiều,… kinh.
Có người mới sang định cư theo diện di dân ở Hoa Kỳ, hỏi mình có nên để người con đứng tên thì mình khuyên là không vì nếu mai sau con họ ly dị thì họ mất trắng tay tài sản vì đứng tên con trai, phải chia cho con dâu là ngọng. Có những cách khác để đứng tên tài sản nhưng họ nói không rành anh ngữ nên mình không dám nói thêm sợ họ điên cái đầu vì cần thời gian để tìm hiểu pháp lý tại Hoa Kỳ cũng như ai về Việt Nam thì nên tìm hiểu kỹ về pháp luật sở tại tước khi mua nhà cửa.
Mình nghe nói mận Trại Hầm đều bị phá bỏ để trồng Cà Phê, thấy cây nho nhỏ mọc đầy. Thấy buồn vì người nông dân phải bán bao nhiêu tấn cà phê để mua một cái điện thoại thông minh mà thị trường cà phê của thế giới là do các công ty đa quốc gia nắm giữ giá. Họ thu mua rẻ rồi để dành khi nào thất mùa là tung ra bán có lời chớ người nông dân việt trồng cà phê chả lời thêm mà lạng quạng là tiêu vốn phá sản hết vì không có bảo hiểm nông nghiệp.
Đọc báo Việt Nam thì được biết là trái cây của nông dân việt từ xứ quảng không được bán qua Trung Quốc ở biên giới mà người ta gọi là Biên Mậu. Ai muốn bán thì phải dán nhản Madze in China. Các xe vận tải không được chở hàng qua Trung Quốc, đành quay về, đỗ thơm dứa,…bên đường vì hư,… mình đoán không có người giỏi anh ngữ để tìm thị trường ở hải ngoại nên cứ bán rẻ cho Trung Quốc rồi Trung Quốc dìm giá.
Mình đi viếng một công trường ở Đàlạt, do người đức xây dựng. Họ có nhà máy làm len bằng lông cừu của Tân Tây Lan ở Trung Quốc nay họ chuyển qua Việt Nam để sử dụng khí hậu Đàlạt để làm loại len đắc tiền này. Mình thấy nội bụi lông cừu bay lan khắp vùng này là cũng khốn nạn cho dân sở tại vì ô nhiểm môi trường. Các luật lệ của Trung Quốc bắt đầu thấy những tai hại của công nghệ hoá man rợ đã làm ô nhiểm môi trường nên bắt đầu kiểm soát gắt gao. Việt Nam thì không nghĩ tới hậu quả môi trường nên nhất trí.
Cuối cùng đói quá, anh bạn kêu vào khách sạn Sàigòn Đàlạt chi đó ăn cơm. Đây là nhà của một gia đình tây khi xưa mà mỗi lần đi học mình hay thấy con gà tây mào đỏ. Có cái xích đu với mấy đứa con nít ngồi chơi. Có lần về Đàlạt, mình có ghé đây ăn cơm mấy bạn học cũ Văn Học. May quá, vừa bước vào thì trời ập cơn mưa xuống. Hai tên gọi món canh khổ qua nhồi thịt, thịt xường rim mặn và xà lách. Mình mê xem như ăn gần hết đĩa xà lách Ku-ron đặc biệt của Đàlạt. Lâu quá mới được ăn lại rau này. Chắc trước khi rời Đàlạt, phải đi ăn lại món này.
Anh bạn kể là có dạo, hai vợ chồng ra Hà Nội chơi thăm quê. Cô vợ nhận xét là ngoài bắc người ta chặt gà, thái thịt rất đẹp mắt nên tò mò hỏi. Được biết họ cắt thịt gà, thịt heo, bò,…bằng kéo thay vì chặt thịt bằng dao với cái thớt ở miền nam. Hỏi thêm thì họ cho biết đó là hệ quả của thời trước 75. Ai mà ăn gà ăn thịt mà chặt thớt thì hàng xóm nghe nên họ phải dùng kéo, sử dụng để cắt vỏ lớp xe để làm dép râu. Họ dùng kéo để cắt khi ăn vịt, gà , heo nên không ai dùng thớt, dao nữa để cắt thịt.
Có ông kia gốc Việt nhưng gia đình ở nghệ An, chạy qua Thái Lan vào những năm 45-54. Mình có ông dượng, chạy qua Thái Lan, lấy vợ Thái, có 4 con, sau liên lạc được với gia đình ở Đàlạt, nên đem con về. Ở Thái Lan, mình có gặp vài người Thái gốc Việt, sinh tại Thái nhưng nói tiếng Việt còn nhuyễn lắm nhưng đa số là theo Hà Nội. Sau 75 thì ông ta về Việt Nam thăm quê cha đất tổ. Đi xe lửa từ Hà Nội xuyên nam. Ông ta thắc mắc là khi xe lửa chạy qua tới Quảng Trị là không khí khác hẳn, cây cối xanh tùm,…nên thắc mắc hỏi một người nam gốc bắc về thăm quê. Ông này giải thích là trước 75, ngoài bắc sống kiểu dân Triều Tiên ngày nay, cái gì họ cũng ăn hết, không thấy cò thấy vạc gì cả, chim muông gì giết ráo để ăn. Nghe giải thích thì ông ta mới giác ngộ cách mạng.
Ngồi nói chuyện thì lại lái về gia đình Võ Đình Dung, được xem là giàu nhất một thời ở Đàlạt. Anh bạn kể là có một người con gái của ông bà Dung, đi du học ở pháp tên là Võ Thị Tri Túc thì phải, sau 54 thì về Hà Nội, gửi con cho gia đình nuôi trong nam. Hai vợ chồng là giáo sư đại học ở Hà Nội. Sau 75, vào Đàlạt, tìm cách đòi lại đất của gia đình, như trường Việt Anh, vườn ông Ba Đà,... ôgn bà Võ Đình Dung, cho đất để thành lập Mả thánh ở Đàlạt, Chùa Linh Sơn,... sau này hai vợ chồng chết vì ung thư sau khi đã tìm cách cho con cháu sang Pháp quốc hết.
Có bà cán bộ cao cấp miền bắc kể là sau 75, trước khi vào nam thì bà ta được học tập chính trị, những khó khăn khi vào nam nhận công tác. Họ cho bà ta biết là trong nam đĩ điếm ma cô nhiều lắm do chế độ thối nát nguỵ quân nguỵ quyền để lại. Đàn bà con gái toàn là đĩ điếm không. Bà ta lấy xe lửa Thống nhất xuyên nam, giúp miền nam làm cách mạng.
Xe đến Quảng Trị thì bà nghe mấy người phụ nữ miền nam rao hàng bán thì bà ta kêu mới 7 giờ sáng mà đĩ miền nam đã ra đường bán dâm rồi mà sao công an của cách mạng không xử lý, làm gì cả. Bà ta nghĩ đúng là bọn nguỵ quân nguỵ quyền tàn ác thật. Xe đến Huế cũng tương tự, thấy mấy bà đi bán rong kêu bán nên lương tâm cách mạng của một đảng viên trung thành không cho phép bà ngồi yên nên chạy xuống xe, kiếm công an, hỏi sao anh không bắt con điếm mới 6 giờ sáng đã đi bán dâm.
Ông công an hoảng hồn, đi theo bà ta tới gặp bà bán rong thì mới vở lẻ là bà ta bán hột vịt lộn. Bà ta rao :” Ai ăn lồn khôn?” Chán Mớ Đời
Chú em rễ nhắc mình đi chạp mộ ông cụ chiều nay. Mai là giỗ ông cụ.
Xong om

Người Thầy cũ

Hôm trước mình có dịp gọi điện thoại cho một người thầy cũ ở trường Văn Học. Rất cảm động sau 42 năm mình mới nghe lại giọng nói của thầy. Nhìn hình ảnh, video tải trên mạng của Văn Học Đà Lạt thì muốn liên lạc với thầy nhưng cứ ngại ngùng rồi cô Tôn Nữ Thể Bình đi lấy chồng nên đám làm đài phát thanh Văn Học Đà Lạt, nhờ mình thế, gọi hỏi thăm thầy.
Trong 40 năm qua, bao nhiêu cuộc đổi đời, người thầy vẫn sống theo thiên chức của mình, một nhà giáo trong khuông khổ của một nhà mô phạm, sống theo tình nghĩa hơn là với thủ đoạn như đa số trong cuộc sống định hướng kinh tế thị trường. Mình hỏi thầy có bí quyết gì để sống trẻ và khoẻ mạnh vì xem video các buổi họp mặt thầy trò thì có nhiều tên học trò đầu bạc răng long. Thầy nói không có bí quyết gì cả, chỉ sống với tình nghĩa.
Người thầy rất ngạc nhiên khi nghe mình kể những gì thầy nói trong lớp khi xưa. Mình nhớ thầy bảo các anh chị nào mà yêu nhau thì đem nhau lên thác Cam Ly, nhớ đem theo lon sơn Bạch Tuyết, để vẽ trên tảng đá, trái tim và mũi tên và tên 2 người quyện vào nhau rồi cùng nắm tay nhau thề: "ngày nào hãng sơn Bạch Tuyết xụp tiệm thì tình đôi ta mới tan vỡ", ai ngờ 75 đến thì chủ công ty Bạch Tuyết bỏ chạy nên lời thề xưa quá linh ứng.
Thầy có viết bài đăng trên trang nhà của Văn Học như gửi gấm những lời nhắn nhủ cho những học trò cũ xưa, đang chạy theo cuộc sống vội vã, định hướng kinh tế thị trường như hình ảnh ông đồ của Vũ đình Liên mà mình học khi xưa. Người thầy vẫn giữ thiên chức của mình, một nhà giáo, kể những gì thầy cố làm về kinh tế sau 75 đều thất bại, đành thúc thủ nhìn cuộc đời qua nhanh. Thầy như nhân vật Don Quichotte, của Miguel De Cervantes mà mình có dịp viếng thăm La Mancha khi du lịch ở Tây Ban Nha, vẫn giữ tác phong của người thầy giáo, ảnh hưởng của Nho giáo ở thế kỷ 21.

Món ăn Đà Lạt

Trong chuyến đi này, có lẻ tô phở Kết ở Đèo Chuối để lại cho mình nhiều ấn tượng nhất. Sau 18 tiếng bay thêm 5 tiếng lắc lư trên xe van, được ăn tô phở tái vào 4 giờ sáng thì ngon tuyệt. Hình như chủ quán là Bắc kỳ 75.
Khi đến nhà nghe ông cụ than là dạo này yếu lắm, đi không nổi thì mình rũ đi ăn phở Cường ở đường Thi Sách thì thấy ông cụ đi băng băng như bộ đội vượt Trường Sơn. Ông cụ mình thích quan trọng hoá về mình nên cứ rên rên để con cháu để ý. Sáng hôm sau đi ăn bún bò Huế do con dâu của thầy TMĐ nấu. Cái hay là họ không bán cả ngày, chỉ làm nồi phở hay bún, bán hết là dẹp tiệm nghỉ. Hình như họ bán chỉ đủ sống chớ không buôn bán như các tiệm ăn ở Bolsa. Như phở Cường thì có hai vợ chồng đứng bán hay cô dâu của thầy Đức, một thân một mình, vừa bán vừa chạy bàn. Mình có mời thầy đến dự hội ngộ với học trò Văn học cũ nhưng không thấy xuất hiện.
Hôm sau cô em ở gần trường Bùi Thị Xuân, mua xôi bắp của quán Nga, đem qua cho anh chị ăn. Chỉ tiếc là đồng chí gái không có ở đây vì mụ vợ thích ăn bắp dẻo mà chợ đại Hàn bán $1.00/ trái. Món xôi này họ nấu với bắp dẻo chớ không dùng bắp Mỹ như ở khu Bolsa. Ăn bùi bùi nên mấy hôm nay mình cứ ăn xôi bắp, tranh thủ ăn ngày ăn đêm. Chỉ tiếc là ngày nay họ dùng giấy nylon để đựng xôi và mấy giấy văn phòng gói lại thay vì lá chuối như xưa. Nói đến xôi thì hôm lễ kim cương của ông bà cụ, nhà thầu họ đến nhà , dựng rạp che nắng mưa, nấu đồ ăn, dọn cho thực khách như kiểu catering bên Mỹ thì được ăn lần đầu tiên món xôi hạt sen, với thịt chà bông và hành phi. Nhức nhối không thể tả. Nghe mình tả xôi hạt sen, có cô bạn bổng thèm cứ nấu xôi hạt sen cho vợ chồng mình ăn ná thở.

Về mái nhà xưa

Nhớ dạo viếng vùng Napoli ở Ý Đại Lợi, mình có đi tàu viếng đảo Capri vì bài hát "Capri, c'est fini" và Sorriento vì bài "Torna a Sorriento" mà Phạm Duy có dịch ra lời Việt. Không hiểu sao mấy ngày nay lại nhớ đến bài hát Back to Sorriento.
Bài hát này được tác giả làm vào năm 1905 nhưng đến khi quân đội Mỹ đổ bộ xứ Ý đại Lợi thì mới được phổ thông hoá nhờ Frank Sinatra, Elvis Presley hát bằng tiếng anh tương tự bản nhạc Il guaglione mà khắp thế giới biết đến qua tên Bambino mà ca sĩ gốc ý Dalida hay hát. Dạo ấy có nhiều bài hát châm biếm dân Ý bị mỹ hoá sau đệ nhị thế chiến kết thúc, lính mỹ đóng tại Âuchâu nên dân ý bắt đầu ăn kẹo cao su, nhảy swing,... Mình có nhớ bài "Tu vuoi fa l' americano ma sei nato in Italy", mĩa mai người dân địa phương muốn làm dân Mỹ nhưng sinh tại Ý. Cho thấy sự ảnh hưởng của văn hoá mỹ từ 1945 đến ngày nay trên toàn thế giới nhất là giới văn nghệ Ý Đại Lợi theo đảng cộng sản, tìm cách đả kích trào lưu theo mỹ.
Mấy bản nhạc này được viết bằng thổ ngữ vùng Napoli nên dân vùng khác không hiểu hay không ưa Văn hoá miền nam Ý. Nhớ dạo đi làm ở Ý, dân miền Bắc Ý khinh, gọi dân vùng Napoli là Taru, như Sáu nẩu miệt vườn. Tương tự món pizza là món của dân nghèo miền nam nước Ý, di cư sang Mỹ và trở thành phổ thông đại chúng tại Hoa Kỳ nên khi quân đội Mỹ đến nước Ý vàđòi ăn pizza thì người Ý phía Bắc, mới biết đến món này. Tương tự ngày nay thế giới biết đến bánh mì, phở, chả giò của Việt Nam nhờ dân tỵ nạn ở hải ngoại.
Kỳ này về không có vợ đi theo nên mình ngủ ở nhà của ông bà cụ, căn nhà mà mình đã đóng góp công sức khi xây nó. Nhớ năm thi trung học Pháp xong là ông cụ bắt mình mỗi ngày, phụ ông thợ cuốc đất bỏ vào xe bồ ệch, rồi đẩy đi đổ phía cuối dốc để sang bằng mặt đất để xây nhà. Nhớ lại vẫn châm. 9m x 10m x 2m chiều cao, tính ra độ 100 m3. Có lẻ vì vậy sau này mình theo ngành kiến trúc khi sang Tây.

Ngây ngô ngày xưa

Tuần rồi, đi thăm bà cụ ở miền đông bắc, có dịp gặp lại một người bạn học cũ từ thời tiểu học mới ngộ ra mình thật sự không hổ danh con cháu của Bố Cái Đại Vương của xứ Đại Ngu một thời.
Nghe hắn kể chuyện ngày xưa nhất là thời trung học thì mình thua xa hắn đến mấy trăm cây số. Bù lại nếu mình mà khôn lanh như hắn, biết tán gái, viết bản báo cáo tình hình trái tim, nhịn ăn sáng để mua ô mai tặng cho mấy cô mình mê một thời thì chắc đã có một cuộc đời khác, dây dưa với Việt Cộng đến 48 năm nay của một đời người.
Mình chọc anh bạn là dạo ấy, Ligne de l’air đã hiện ra trên chỉ tay của mình còn anh ta có ligne de pied. Hai đứa đều đi nước ngoài cả, mình thì đi tây còn anh bạn, cuốc bộ đi xứ Tuntra, nói tiếng Chu Ru đến 20 năm sau Ligne De L’air mới hiện ra trên bàn tay của anh ta, mới được di dân sang Hoa Kỳ, khiến cả hai đều cười.
Anh ta không biết mình đi Tây vì 7 ngày sau khi có sổ thông hành và chiếu khán là mình dọt liền, không kịp chào hỏi ai hết. Dạo ấy VNCH đã mất Phước Long, thấy ở Sàigòn, có treo biểu ngữ toàn dân sống chết với Phước Long. Ông cụ sợ chính quyền không cho xuất ngoại nên chỉ vài người bạn biết, đến dự buổi tiệc cuối ở nhà mình. CBMT, Ngày Xưa Fan Thị kể là cố ý tìm mình ở Đàlạt mà không thấy. Chán Mớ Đời
Anh bạn kể chuyện về coup de foudre đầu đời khi học lớp 11, tham gia trại hè Lửa Hồng do mấy ông cố đạo tổ chức trên Giáo Hoàng Chủng Viện khiến mình thất kinh, thêm anh chàng lại tán Lá Diêu Bông. Dân bắc kỳ rặc nên có lẻ anh ta bị ảnh hưởng luật tảo hôn xưa.
Mình có mấy người bạn lấy vợ, tương tự chị Vinh của Hoàng Cầm, mình phục sát đất. Báo chí dạo này nổ rộ khi thấy đám cưới một anh chàng 24 tuổi chi đó với một bà trên 60 tuổi. Tên này muốn chết sớm vì uống sữa quá date.
Lá Diêu Bông của anh chàng kêu tên này “Điêu” lắm, người to con, cứ bú xua la mua là hắn cũng lớn tuổi như Lá Diêu Bông nên tiếp tục hồi âm, ăn ô mai, sau này theo hắn vào buôn thượng Chu Ru làm tổ trưởng, quản lý đời hắn, tránh cuộc đời làm người tình Chapi với sơn nữ Ka Beng. Có nhắc đến một cô tên D, người đưa thư và nhận ô mai nên mình đoán là người mình có gặp lại, nói ở gần nhà thầy Tín, dạy Pháp Văn ở dưới Chi Lăng. Thầy Tín dạy pháp văn ở trường Trần Hưng Đạo, dạy thế thầy Trịnh Minh Đức, cũng giáo sư trường Trần Hưng Đạo. Cô này mình có gặp lại một hai lần. Bố mẹ mất sớm thời còn học sinh, nuôi 4 người em.
Mình thì ngược lại, gặp mấy cô tuổi nhỏ hơn mình, kêu Chị xưng em, ngay cả ngày nay cũng kêu Bác xưng Em trong khi tên bạn dám tán gái hơn 2 tuổi dậy thì, theo phương trình trai 16 gái 18. Mình kêu mấy bà bạn của đồng chí gái bằng Chị, mấy bà than, đừng kêu Chị vì sợ bị Già. Đồng chí gái thua mình 3 tuổi, mình thấy mụ vợ quá cao xa, bay bổng tận trời xanh. Ra đường, cứ mang giày cao gót để cao hơn mình, cho người ta tưởng mình là đại gia đi chân già.
Dạo ấy năm 11B, mình thấy trong lớp có màn trao đổi thư học trò. Có hai tên trong lớp cứ nhờ mình chuyền hộ thư vì mình ngồi ngay đầu bàn, bên cạnh hàng ghế của mấy nữ sinh trong lớp. Tò mò mình hỏi mày viết gì mà ngày nào cũng có thư thì tên HKS kêu mình lại nhà hắn sau ăn trưa. Tên này ở ngay xóm của 2 anh em trùm du đảng Đàlạt một thời, tên Lai và Thái, sau này đi Tuần Cảnh, phía sau trường Nữ Công Gia Chánh, có 2 thằng em cũng du côn không kém. Bà mẹ và cô chị bán cơm ở hàng ngoại chợ, ngon cực kỳ. Cơm xường nướng với mỡ hành, thơm nức nở.
Được cái là quen tên HKS cũng đỡ sợ bị du côn chặn đường. Khu này có thằng tên Hoà rổ, đào binh, hay bận cái áo blouson, bỏ cái ống nước bằng sắt trong người, hay đi đánh lộn. Cuối cùng ai nhờ đánh lộn ở trường Việt Anh thì bị tuần cảnh bắt, mình không bao giờ gặp lại.
Tới nhà HKS, thì thấy hắn ngồi nơi bàn học, nghe đi nghe lại “Ngày nào cho tôi biết vui biết buồn,…” do Lệ Thu hát trong cái máy cassette. Hắn đưa cho cuốn vở, mà hắn nắn nót chép mấy bài thơ, vẽ thêm mấy đoá hoa Hippie, ép bông Pensee, tư tưởng rất là xôm trò.
Mình thấy trang bìa đầu, có hình chiếc xe xích lô máy, phía dưới hắn viết nơi hàng kẽ “Yêu là chết trong lòng 1 ít”, chả hiểu gì cả nên hỏi hắn. Hắn nhìn mình lắc đầu rồi chậm rãi nói mày chưa yêu nên không hiểu. Mình hỏi hắn yêu là gì, hắn bảo là nhớ nhung muốn điên lên. Mình nói điên như bà K trên đường Calmette, thôi tao không muốn yêu. Mình hỏi lại nếu yêu nhiều con gái được không? Trong xóm tao có hai chị hàng xóm, má hồng xinh ra phết. Nó lắc đầu. Cho đến bây giờ, đầu bạc mình cũng chưa hiểu; yêu là chết 1 ít.
Chơi với tên này, mình như bước vào một không gian xa lạ như người đi trên mây. Mình dạo đó, sáng 6:00 giờ, còi hụ báo hết giới nghiêm là chạy bộ, băng qua vườn ông Ba Đà, chạy đến võ đường ở ngã ba chùa, gần nhà ông Xu Huệ tập với anh Minh, đai đen Không Thủ Đạo và Tạ Quang Vinh, mấy đẳng Hiệp Khí Đạo đến 7:30 thì dọt về, thay áo quần rồi đi học. Dạo ấy có Tài, Sỹ ở xóm gần rạp Ngọc Hiệp, Dũng La san,.. tập chung. Sỹ sau này đi nhảy dù chết. Ăn cơm trưa xong thì chạy ra sân vận động, cạnh bờ hồ đá banh. Trời mưa đá theo trời mưa nên sau này sang Luân Đôn, mình quen cảnh đá banh trong mưa.
Gái gú thì có để ý 2 Lá Diêu Bông hàng xóm nhưng chỉ dừng lại đó, lâu lâu Lá Diêu Bông số 1 cho mượn sách đọc như Dr Zhivago, Giờ Thứ 25,… còn em Lá Diêu Bông, cô bé Ừ Trời Mưa, cho mượn báo Tuổi Hoa... Lâu lâu nhà có cúng kỵ, ông bà cụ kêu đem chén chè, đĩa xôi qua nhà biếu hàng xóm lấy thảo, gặp lá diêu bông thì mặt mình nóng lên như gái non bị gợi tình nhưng chỉ biết vậy thôi. Yêu yết gì thì không biết chết chiết gì cả.
Trong khi đó HKS đã đi trước mình một bước xa đến một vùng trời bình yên, đầy cỏ xanh, hoa dại, mộng mơ. Rồi sau mùa hè đỏ lửa, HKS sinh 1955, bị đôn quân, đi lính nên mình không còn được bồi dưỡng về yêu chết trong lòng gì cả. Hắn nhận giấy tờ kêu đi trình diện, đưa cho mình đọc rồi hôm sau lên đường mà từ đó không bao giờ gặp lại. Nghe nói hắn ở Texas, có người ở Đàlạt cho số điện thoại nhưng gọi thì số không còn được sử dụng nữa. Mấy tên đá banh với mình bị đôn quân nên hết đi đá banh nên chán đời chiều mình đi tập võ Thái Cực Đạo thêm ở lò Nguyễn Bình. Sáng tập võ chiều tập võ nên người ốm như cây tăm miệt vườn.
Có một tên học chung lớp rủ đi thăm mấy ông thầy, mấy ông thầy thì không bồi dưỡng về yêu đương, ghét tương gì cả, lại bắt mình tiếp thu chính trị học, triết học. Một ông cho mượn cuốn sách của Phạm Công Thiện, một ông thì cho mượn cuốn sách nói về sự chống đối của các văn nghệ sĩ miền bắc. Mình tiếp thu được ý định đi du học của hai ông thầy toán. Nghĩ lại nếu tên HKS không bị đôn quân, gần nó chắc cũng lây bệnh chết trong lòng một ít, chắc sẽ nếm mùi Việt Cộng sau 75 thay vì ăn bơ thừa sữa cặn của thực dân.
Một hôm bị thầy CBA kêu lên bục, hô hét làm lễ chào cờ vào mỗi sáng thứ hai. Chân mình thì run run như người bị bệnh Parkinson, phía dưới sân trường là một vùng bóng đen với bao nhiêu cặp mắt hình viên đạn đồng AK nhìn mình xoi xoi. Bổng mình thấy một cặp mắt nhìn mình, bên cạnh cái cái bớt đỏ rực như mặt trời cách mạng, khiến mình đang chới với lại thêm choáng váng.
Hôm đó không hiểu tại sao mình hô to như chưa từng hô to, đám tập Thái Cực Đạo với mình kêu mình hét Kiai khi song đấu như thằn lằn. Vào lớp thầy Nguyên, kêu mình hét khá lắm còn thằng Mơ, trốn chào cờ dưới đường, hỏi trong lớp thằng nào hét chào cờ. Mơ này làm hướng dẫn du lịch cho mấy thằng tây ba lô, đi phược khắp Việt Nam với xe gắn máy. Rồi thầy đề nghị mình ứng cử chức trưởng lớp, tranh với cô tên Hường, nhà ở Thi Sách, gần xóm mình, dân hướng đạo Lâm Viên. Mình được số phiếu ủng hộ nhiều hơn Thị Hường, chắc tại con trai đông hơn con gái.
Xong om

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 
Nguyễn Hoàng Sơn 

Hàng xóm ngày xưa

Gần đến Giáng Sinh, bổng nhớ đến hàng xóm ngày xưa ở Đàlạt. Cạnh nhà mình có gia đình ông bà K, làm công chức cho ty Kiến Thiết, sau ông K về hưu, trả nhà lại cho chính phủ, về làng Ba Ngòi, gần Cam Ranh hưởng già.
Ông bà K có 4 người con: người lớn nhất tên B, làm nghề gõ đầu trẻ, có lần Như Hoa và phu quân từ Gia Nã Đại ghé lại Quận Cam thì khám phá ông chồng khi xưa là học trò của anh B. Sau đó là Cô C, Chú S và Chú H. Chú S, đậu tú tài xong thì đi Võ Bị, khi ông bà K về hưu thì không gặp lại nữa, Chú H hay ký học bạ cho mình khi ông cụ mình bị đổi lên Ban Mê Thuột, sau này làm cho Không Lưu ở Sàigòn.
Lần đầu tiên về Đàlạt sau 20 năm, mình có lên Ấp Du Sinh, thăm mộ hai người em thì thấy gần đó mộ của Anh B, với cái tên LMS nên thắc mắc hỏi. Hoá ra anh B, khi xưa theo VC bị chính phủ Ngô Đình Diệm bắt đày ra Côn Đảo, sau này về, đi lính Nghĩa Quân, đóng ở chỗ dinh Thị Trưởng, lấy tên khác. Anh B và mình có nhiều kỷ niệm khi xưa, tuy lớn hơn con anh ta có một tuổi nhưng mình với anh ta hay tụ nhau, luận bàn về đá banh, nổi đam mê chung.
Số ông cụ mình mua báo thể thao như Thao Trường,.. sau khi đọc, lại cất giữ dưới cái Divan nên hè mình cứ lấy ra đọc, mấy ngàn tờ từ thời mình mới ra đời đến giờ. Lạ thật, ông cụ mình không bao giờ đọc sách, chỉ mua báo đọc thì nhiều, nhất là báo thể thao. Mình đọc mấy ngàn tờ nên biết trung phong Nguyễn Văn Chiêu, người đá lọt bàn giúp VNCH thắng giải Merdeka ở Mã Lai năm 1966, có Phạm Huỳnh Tam Lang, thủ quân,… cầu thủ Việt Nam thì coi như biết hết, rồi đến Di Stephano của đội cầu Real Madrid, Raymond Kopa của Tây hay Just Fontaine, Pele, Toastao,…. Ôi thôi đủ trò. Phải chi mình nhớ học hành thì chắc ngày nay đời đã khá, vợ bớt khổ.

Văn hoá Việt trong tôi

Mấy người lớn kể hồi bé mình nói tiếng việt ngọng ngọng, cứ xổ tiếng tây ở nhà vì học trường Tây. Dần dần cũng nói được tiếng việt đơn thuần hàng ngày nhờ những lớp Việt văn ở trường, bắt đầu đọc báo việt của ông cụ, những tờ Tuổi Hoa, mượn của hàng xóm hay mướn sách ở tiệm Minh Thu ở đường Fan Đinh Phùng. Đọc sách Việt nhưng không đọc sách báo Tây, vì không có tiền mua nên dần dần Việt ngữ của mình khá hơn còn tiếng Tây vẫn ở trình độ lớp vở lòng.
Nhà dạo đó có một chị giữ em, người miền nam hay hát cải lương nên lỗ tai mình thích cải lương từ dạo đó. Có đi xem Út Bạch Lan và Thành Được ở rạp Ngọc Hiệp. Mỗi lần nghe mấy danh ca này xuống một câu vọng cỗ là mình thấy dựng tóc gáy, lưng thấy lạnh lạnh, phê không tả nổi. Cứ nói về Sàigòn, đi coi cải lương lại nhưng đi theo mụ vợ nên đành gác lại.
Nhớ cô Ngô Thị Liên dạy Việt Văn, bắt học thuộc lòng ca dao, tuc ngữ chi đó mà chả nhớ hết bài.
Tháng Giêng là tháng ăn chơi
Tháng Hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà
Tháng Ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô ...
Thì đúng lúc năm đó xẩy ra vụ tổng công kích Mậu Thân nên trường học đều bị đóng cửa. Con nít hàng xóm tụ năm tụ bảy, đánh bài, chơi đủ trò nguyên cả tháng, chả cần phải học bài, làm bài tập. Hồi nhỏ mê Tết mà nay còn được nghỉ cả tháng giêng nên sướng hết lớn, cứ mong VC vào đánh nhau, đến khi nghe nói phải lên trường lấy bài tập về làm. Chán mớ đời.

Lượm lặt 2

Hôm nay, có anh bạn đến từ sớm rũ mình đến hội Hoa Hà Đông, cạnh chùa Linh Giác nơi tụ tập các di tích về sự thành hình của ấp Hà Đông, Đàlạt. Có người đại diện của hội tiếp 2 thằng. Ông này gốc Hà Nội, vào Đàlạt sau 75 nhưng lại yêu mến, sự thành hình của ấp Hà Đông tại Đàlạt từ thời tây trước chiến tranh chống pháp đến nay. Có lẻ nay Hà Đông được nhập vào Hà Nội nên đối với người Hà Nội, Hà Đông là Hà Nội. Mai sau chắc họ lại kêu Tiểu Hà Nội thay vì ấp Hà Đông.
Nay mới hiểu anh bạn học khi xưa rất thích hoa. Dạo ấy, mình thấy Anh ta gửi mua các hạt giống hoa ở Hoà Lan, Pháp quốc để gieo trồng ở vườn nhà anh ta ở ấp Hà Đông, cạnh am bà Cai Thỏ, nơi mà bà cụ mình đã bán cho ông 9 bà cô ở đây. Mình hỏi nay còn thích hoa, anh ta kêu vẫn còn. Mình thì thích cái gì ăn được, bán được còn hoa hiếc thì sợ lắm. Tốn công mà chả được gì cả.
Năm 1936, bố anh ta làm việc ở Hà Nội cho La Flore Générale de L’Indochine, được gửi vào Đàlạt để giúp trồng tỉa hoa ở Đàlạt, được xem là Hoàng Triều Cương Thổ của nhà Nguyễn. Lúc đầu, ở ấp Hà Đông, nơi người ta đập đá để làm đường. Rồi bố anh ta mới kêu người em vào phụ giúp, dần dần các người khác ở Hà Đông vào tương tự một số người Nghệ An và Hà Tỉnh cũng vào Đàlạt, rồi năm 1938, các di dân thành lập ấp Nghệ Tỉnh bên cạnh dân Hà Đông.
Người Nghệ An, Hà Tỉnh đa số được vào Đàlạt để làm culi, xây dựng tuyến đường xe lửa Phan Rang-Đàlạt mà mình nghe kể là ông Võ Quang Tiềm, người làng Ngọc Anh, Thừa Thiên và mấy người em rể, may quần áo, rồi gánh bộ mất 3 ngày 3 đêm mới đến những công trường để bán cho những người phu làm đường. Sau này bán rựou, và thuốc lá rê, trở nên giàu có nhất Đàlạt. Được biết dạo ấy, cọp đông lắm nhưng không biết có mánh gì để đi rừng ban đêm, tránh cọp beo vì thấy tấm hình chú của người bạn đâm chết con beo khi bấm đèn pin ở ấp Hà Đông.

Dã quỳ = Vệ đường hoa

Kỳ này về Đàlạt, nghe anh bạn kể về một cuộc tình từ Huế vào Đàlạt rồi từ Hoa Kỳ về Đàlạt khá đặc thù nên kể cho các bác nghe. Có lẻ cô Vi Khuê đã đọc nên có làm thơ Vệ Đường Hoa. Tác giả kể về mối tình đầu ở Huế là một cựu giáo sư trường Bùi Thị Xuân Đàlạt.
Câu chuyện kể là ông giáo sư xin vào ở Viện Dục Anh ở Huế vì con mồ côi rồi nhờ mê một cô gái nên ông ta chịu khó học hành và đậu thủ khoa trường đại học Huế. Như bài hát ngày nào giới trẻ Việt hay nghe của Sam Cooke “only 16”:
She was only sixteen, only sixteen
But I loved her so
She was too young to fall in love
And I was too young to know
We'd laugh and we'd sing
and do funny things
And it made our hearts glow
But she was too young to fall in love
And I was too young to know