Nguyễn Hoàng Sơn
Thằng cháu vợ rên, bố hắn bắt mua tặng cho cái iPhone đời thứ 6 làm quà Giáng sinh năm nay, ngặt một cái là ông anh vợ này không biết xài mấy cái apps. Ông chỉ biết ấn nút để trả lời hay gọi điện thoại, ngoài ra ba cái thứ khác thì coi như bò đội nón nhưng vẫn muốn mua cái iPhone 6 để khẳng định đẳng cấp với người đời.
Mụ vợ mình cũng rứa, đòi iPhone loại chiến đấu nhưng mấy cái apps được cài như máy của mình thì Mụ không bao giờ dùng đến. Mụ lại hay quên cắm điện nên điện thoại của Mụ hay hết pin, cứ lấy máy mình mà dùng, riết ai muốn nói chuyện với Mụ là gọi số điện thoại mình. Mình có thói quen thu nhặt tên tuổi, lưu trữ trong máy điện toán, địa chỉ của mấy người bà con bên vợ nên họ hàng vợ, mỗi lần cần số điện thoại ai trong dòng họ là gọi mình khiến nhiều khi muốn điên. Lắm lần mấy ông anh vợ gọi hỏi cho nói chuyện với vợ mình làm mình cáu
AirBnK San Jose
Nguyễn Hoàng Sơn
Cuối tuần này, tháp tùng đồng chí gái lên San Jose để họp mặt mấy người bạn thời sống ở Hội An, luôn tiện liên lạc để gặp mấy người bạn của Văn Học và Yersin. PCB và phu nhân mời ngủ lại nhà qua đêm rồi có điểm tâm kiểu Bed &Breakfast nên phải tải về cái App "AirBnK", để được anh chàng B chỉ đường đến nơi, thêm bỏ số điện thoại của mình vào hệ thống internet của nhà, vì khu nhà của anh chàng ngoài vòng phủ sóng, dân cư không cho các công ty điện thoại gắn các antenne vì sợ làm xấu môi trường. Chủ nhà rất chu đáo nên phải viết review 5 +.
Xe đến nơi vào lúc gần 10:00 tối thì may mắn gặp BnK, cô nàng chịu khó đợi thay vì đi ngủ sớm vì phải đi làm sáng hôm sau. K làm bánh đợi hai vợ chồng, loại có gừng và quế thêm mua cho mấy ổ bánh mì baguette mà lần trước lên, thấy mình thích nên K, chạy ra Costco để mua tặng hai vợ chồng đem về miền nam Cali. Sau 7 tiếng lái xe nên mình bắt đầu oải nên hai vợ chồng BnK kêu đi ngủ.Sáng hôm sau, dậy thì đã thấy Bác B đang làm cà phê expresso cho vợ uống trên đường đi làm. Anh chàng thuộc thành phần kỹ lưỡng nên mua máy pha cà phê của Ý loại chiến đấu, làm sữa nóng rồi cà phê lọc bằng hơi. May mà đồng chí gái đang ngủ chớ thấy anh chàng này lo cho vợ kiểu này thì chắc mình bị đồng chí gái cạo đầu như ác phụ của bác Tóc Gió Thôi Bay.
Bác B khoe là Cô DH có cho một hũ nhỏ nước mắm nhỉ do chính phu quân làm. Lần trước gặp thì có nghe DH kể là ông chồng nghiên cứu làm nước mắm, ra bến tàu để mua cá cơm tươi của ngư phủ đánh về rồi bỏ muối để cho cá vữa trong thùng. Nay lại nghe bác B cũng nghiên cứu cách làm nước mắm để ăn vì đọc các nghiên cứu thì họ cho biết người Tầu bỏ át xít vào đậu để cho vữa mau mà bán xì dầu nên không biết Thái lan hay Việt Nam bỏ gì trong quá trình làm nước mắm. Mình mới nhớ nghe ai nói người Nhật làm xì dầu mất 2 năm để lên men nên nhớ có mua một chai xì dầu Nhật Tamari đâu $35.00.
Ngồi nói chuyện thì được DH nhắn tin là trên đường đi làm, có ghé ngang để một hũ nước mắn nhĩ cho mình ở ngoài cửa. Mùa bơ tới sẽ gửi bơ cho cô nàng và fu quân để trả lễ. Không ngờ người bắc Cali quá dễ thương. Hai tên ăn sáng với Bagel và cream cheese với mứt confiture của NT, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân làng Yersin73-74 từ Maine gửi cho. Phải công nhận lần đầu tiên ăn bagel với cream cheese và confiture, rất ngon, không ngọt lắm hình như trái thị thì phải. Bác B lại nói đến làm nước mắm organic để bán vì không biết người ta bỏ gì trong hủ nước mắm, có thể họ cũng bỏ át xít để cho cá vữa mau để họ có hàng để bán sớm. Mình đề nghị mua đất ở vùng Palm Desert vì nóng sa mạc giúp cá mau lên men thêm vùng xa nên không sợ bị hàng xóm thưa gửi như nhà máy sản xuất tương ớt Scirracia.
Sau đó thì hai tên rủ nhau đi bộ trong khu vực. Khu vực này chắc đã được xây cất lâu năm nên có đất rộng, có hồ bơi, sân quần vợt, bóng rổ thêm sân để đánh bóng chuỳ. Về lại nhà thì hai thằng ngồi nói chuyện về đầu tư, thị trường chứng khoán, đất đai,...., đến khi đồng chí gái dậy, ăn uống nói chuyện công việc ở sở và con cái.
Mình ngạc nhiên là lên bắc Cali thì đi vào chợ búa thì gặp khá đông khách hàng gốc Ấn độ thì lại nghe bác B bảo là thế hệ con mình phải cạnh tranh với dân Ấn Độ vì một số tổng giám đốc công ty ở Silicon Valley là người gốc Ấn Độ, mấy người này có khuynh hướng mướn dân gốc Ấn độ để dể sai khiến nhất là họ giỏi. Nên nhớ đa số xuất thân từ những trường đại học kỹ thuật nổi tiếng của Ấn Độ. Tuần rồi thấy hình ảnh của 2.3 triệu người Ấn độ, đứng xếp hàng để nộp đơn thi khi chính phủ cần tuyển 150 nhân viên.
Khu nhà của vợ chồng BnK ở vùng đồi núi nên rất yên tịnh, nơi về hưu lý tưởng, có đầy đủ sân chơi thể thao, đường mòn đi bộ, làm mình nhớ đến những tiếng động của Đà Lạt nhất là Sàigòn, Nha Trang, ồn ào, còn ở đây quá thanh bình. Tới giờ đi đến Bánh Căn Tự, của Cô Bé Trời bắt chảnh làm trù trì, B đi theo bọn này vì chủ nhân Bánh Căn Tự có mời mấy người Yersin nhưng chỉ có bác B đại diện vì mấy người khác đều bận đi làm ngày thứ 7. Khám phá ra PCB cũng thích hát hò nên giới thiệu hắn với bác Tóc Gió Thôi Bay để hàng tháng ghé lại quán Ác Phụ để nghe và hát nhạc.Cám ơn AirBnK đã cho tụi này tá túc qua đêm, thêm tặng ba ghết và Cô DH đã tặng nước mắn Made in USA. Hy vọng sẽ được đón tiếp gia đình hai bác tại miền nam Cali. Khi nào anh  mở công ty làm nước mắm thì cho hùn với. Sau này anh  có thành lập công ty nước mắm Cali nhưng thấy mua nhà cửa thấy khoẻ hơn là đi làm nước mắm nên mình không dám đầu tư vào công ty này. Nghe nói công ty bán nước mắm nhanh hơn là làm. Nay hai ôn mệ đi du ký ở trời tây, chắc đã bán công ty nước mắm.
Cuối tuần này, tháp tùng đồng chí gái lên San Jose để họp mặt mấy người bạn thời sống ở Hội An, luôn tiện liên lạc để gặp mấy người bạn của Văn Học và Yersin. PCB và phu nhân mời ngủ lại nhà qua đêm rồi có điểm tâm kiểu Bed &Breakfast nên phải tải về cái App "AirBnK", để được anh chàng B chỉ đường đến nơi, thêm bỏ số điện thoại của mình vào hệ thống internet của nhà, vì khu nhà của anh chàng ngoài vòng phủ sóng, dân cư không cho các công ty điện thoại gắn các antenne vì sợ làm xấu môi trường. Chủ nhà rất chu đáo nên phải viết review 5 +.
Xe đến nơi vào lúc gần 10:00 tối thì may mắn gặp BnK, cô nàng chịu khó đợi thay vì đi ngủ sớm vì phải đi làm sáng hôm sau. K làm bánh đợi hai vợ chồng, loại có gừng và quế thêm mua cho mấy ổ bánh mì baguette mà lần trước lên, thấy mình thích nên K, chạy ra Costco để mua tặng hai vợ chồng đem về miền nam Cali. Sau 7 tiếng lái xe nên mình bắt đầu oải nên hai vợ chồng BnK kêu đi ngủ.Sáng hôm sau, dậy thì đã thấy Bác B đang làm cà phê expresso cho vợ uống trên đường đi làm. Anh chàng thuộc thành phần kỹ lưỡng nên mua máy pha cà phê của Ý loại chiến đấu, làm sữa nóng rồi cà phê lọc bằng hơi. May mà đồng chí gái đang ngủ chớ thấy anh chàng này lo cho vợ kiểu này thì chắc mình bị đồng chí gái cạo đầu như ác phụ của bác Tóc Gió Thôi Bay.
Bác B khoe là Cô DH có cho một hũ nhỏ nước mắm nhỉ do chính phu quân làm. Lần trước gặp thì có nghe DH kể là ông chồng nghiên cứu làm nước mắm, ra bến tàu để mua cá cơm tươi của ngư phủ đánh về rồi bỏ muối để cho cá vữa trong thùng. Nay lại nghe bác B cũng nghiên cứu cách làm nước mắm để ăn vì đọc các nghiên cứu thì họ cho biết người Tầu bỏ át xít vào đậu để cho vữa mau mà bán xì dầu nên không biết Thái lan hay Việt Nam bỏ gì trong quá trình làm nước mắm. Mình mới nhớ nghe ai nói người Nhật làm xì dầu mất 2 năm để lên men nên nhớ có mua một chai xì dầu Nhật Tamari đâu $35.00.
Ngồi nói chuyện thì được DH nhắn tin là trên đường đi làm, có ghé ngang để một hũ nước mắn nhĩ cho mình ở ngoài cửa. Mùa bơ tới sẽ gửi bơ cho cô nàng và fu quân để trả lễ. Không ngờ người bắc Cali quá dễ thương. Hai tên ăn sáng với Bagel và cream cheese với mứt confiture của NT, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân làng Yersin73-74 từ Maine gửi cho. Phải công nhận lần đầu tiên ăn bagel với cream cheese và confiture, rất ngon, không ngọt lắm hình như trái thị thì phải. Bác B lại nói đến làm nước mắm organic để bán vì không biết người ta bỏ gì trong hủ nước mắm, có thể họ cũng bỏ át xít để cho cá vữa mau để họ có hàng để bán sớm. Mình đề nghị mua đất ở vùng Palm Desert vì nóng sa mạc giúp cá mau lên men thêm vùng xa nên không sợ bị hàng xóm thưa gửi như nhà máy sản xuất tương ớt Scirracia.
Sau đó thì hai tên rủ nhau đi bộ trong khu vực. Khu vực này chắc đã được xây cất lâu năm nên có đất rộng, có hồ bơi, sân quần vợt, bóng rổ thêm sân để đánh bóng chuỳ. Về lại nhà thì hai thằng ngồi nói chuyện về đầu tư, thị trường chứng khoán, đất đai,...., đến khi đồng chí gái dậy, ăn uống nói chuyện công việc ở sở và con cái.
Mình ngạc nhiên là lên bắc Cali thì đi vào chợ búa thì gặp khá đông khách hàng gốc Ấn độ thì lại nghe bác B bảo là thế hệ con mình phải cạnh tranh với dân Ấn Độ vì một số tổng giám đốc công ty ở Silicon Valley là người gốc Ấn Độ, mấy người này có khuynh hướng mướn dân gốc Ấn độ để dể sai khiến nhất là họ giỏi. Nên nhớ đa số xuất thân từ những trường đại học kỹ thuật nổi tiếng của Ấn Độ. Tuần rồi thấy hình ảnh của 2.3 triệu người Ấn độ, đứng xếp hàng để nộp đơn thi khi chính phủ cần tuyển 150 nhân viên.
Khu nhà của vợ chồng BnK ở vùng đồi núi nên rất yên tịnh, nơi về hưu lý tưởng, có đầy đủ sân chơi thể thao, đường mòn đi bộ, làm mình nhớ đến những tiếng động của Đà Lạt nhất là Sàigòn, Nha Trang, ồn ào, còn ở đây quá thanh bình. Tới giờ đi đến Bánh Căn Tự, của Cô Bé Trời bắt chảnh làm trù trì, B đi theo bọn này vì chủ nhân Bánh Căn Tự có mời mấy người Yersin nhưng chỉ có bác B đại diện vì mấy người khác đều bận đi làm ngày thứ 7. Khám phá ra PCB cũng thích hát hò nên giới thiệu hắn với bác Tóc Gió Thôi Bay để hàng tháng ghé lại quán Ác Phụ để nghe và hát nhạc.Cám ơn AirBnK đã cho tụi này tá túc qua đêm, thêm tặng ba ghết và Cô DH đã tặng nước mắn Made in USA. Hy vọng sẽ được đón tiếp gia đình hai bác tại miền nam Cali. Khi nào anh  mở công ty làm nước mắm thì cho hùn với. Sau này anh  có thành lập công ty nước mắm Cali nhưng thấy mua nhà cửa thấy khoẻ hơn là đi làm nước mắm nên mình không dám đầu tư vào công ty này. Nghe nói công ty bán nước mắm nhanh hơn là làm. Nay hai ôn mệ đi du ký ở trời tây, chắc đã bán công ty nước mắm.
Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen
Nguyễn Hoàng Sơn
Âm nhạc và ký ức
Nguyễn Hoàng Sơn
Dạo này mình thích mở đài phát thanh Văn Học, nghe mấy học sinh cũ của trường hát nhạc Việt hay Tây. Yersin 73-74 thì có hai cô; một ở xứ Kanguru và một ở nam Cali nhưng ít khi lên tiếng. Có thể hoà âm hay tiếng hát không hay bằng ca sĩ chuyên nghiệp nhưng không hiểu lý do, mình lại thích nghe các bạn học cũ hát.
Hôm trước tình cờ xem phim "Alive inside" trên Netflix, một phim tài liệu do Michael Rossato-Bennett quay một cán bộ xã hội tên Dan Cohen, coi sóc các người già bị bệnh lãng trí. Lúc đầu ông Cohen nhờ ông Rossato-Bennett, một người vừa tốt nghiệp môn điện ảnh, quay ông ta một ngày trong các viện dưỡng lão trong lúc ông ta cho các người bệnh lãng trí nghe nhạc mà họ thích khi còn trẻ. Cuối cùng ông ta theo và quay ông Cohen tròn ba năm liền và thực hiện cuốn phim tài liệu này.
Dạo này mình thích mở đài phát thanh Văn Học, nghe mấy học sinh cũ của trường hát nhạc Việt hay Tây. Yersin 73-74 thì có hai cô; một ở xứ Kanguru và một ở nam Cali nhưng ít khi lên tiếng. Có thể hoà âm hay tiếng hát không hay bằng ca sĩ chuyên nghiệp nhưng không hiểu lý do, mình lại thích nghe các bạn học cũ hát.
Hôm trước tình cờ xem phim "Alive inside" trên Netflix, một phim tài liệu do Michael Rossato-Bennett quay một cán bộ xã hội tên Dan Cohen, coi sóc các người già bị bệnh lãng trí. Lúc đầu ông Cohen nhờ ông Rossato-Bennett, một người vừa tốt nghiệp môn điện ảnh, quay ông ta một ngày trong các viện dưỡng lão trong lúc ông ta cho các người bệnh lãng trí nghe nhạc mà họ thích khi còn trẻ. Cuối cùng ông ta theo và quay ông Cohen tròn ba năm liền và thực hiện cuốn phim tài liệu này.
Anh hàng phở *
Hôm nay, mình ghé lại tiệm phở của một anh quen vì có khuyến mãi 50%. Anh này khi xưa là kỹ sư sau này già nên bị hãng sa thải, không kiếm được việc mới nên lấy tiền hưu để dành, nghe lời mấy tên bạn khuyến khích, mở hàng phở nên giờ ngáp ruồi. Dạo còn đi làm thì anh hay nấu phở mời bạn bè đến ăn thì cái đám cô hồn, chiêm tinh gia này cứ khuyên anh ta mở hàng phở, nhưng khi anh ta mở tiệm thì không có tên cô hồn nào đến ăn. Khi nấu mời ăn không trả tiền thì ai cũng khen nhưng khi phải trả tiền thì họ phải xem xét lại túi tiền. Thật ra nấu ở nhà ăn rất ngon vì đầy đủ thứ còn khi nấu đại trà cho mấy trăm người thì khác. Mình có anh bạn khác, cô vợ nấu bún bò ở nhà ăn cực ngon. Lần đầu tiên đến nhà, lần đầu tiên ăn 2 tô bún bò cực đại nên đồng chí gái hay đặt trả tiền mỗi lần có khách đến chơi nhưng khi ra mở tiệm thì ăn không thấy ngon như xưa. Thiếu thiếu mùi xả dù thịt thà vẫn nhiều. Do đó người Tàu bỏ bột ngọt nhiều giúp phấn chấn cái bộ não khi ăn. Sau này thì mình thích món cơm hến của tiệm vì rau nhiều.
Khi mình đến thì thấy anh ta đang ngủ gật trên ghế. Nghe tiếng động nên vội vàng thức giấc, vừa chủ vừa đầu bếp vừa bồi bàn. Mình gọi tô phở gân sách vì nghe nói ăn gì bổ nấy nên mình ăn gân cho bổ gân già, ăn sách cho bổ bao tử. Anh ta chạy vào bếp. Nghe nồi niêu xoong chảo hát hò gì đó thì 5 phút sau bưng ra tô phở nóng thơm lừng lựng, thêm đĩa hành trần không nước béo.
Mình chưa kịp ăn thì anh ta đã xà xuống ngồi đối diện mình rồi kể mới nằm mơ thấy ông Khổng Khâu về. Mình chưa kịp nhai thì anh ta đã vội vàng kể: đang nằm ngủ vì cửa hàng ế thì bổng thấy một ông tàu râu ria dài thòng lòng, vuốt râu bảo sao mi không chào ta. Anh ta chưa kịp hoảng hồn thì ông ta tự xưng là "Không Chết" mà bọn biết chữ bên tàu cứ gọi là Khổng Tử, Bất Tử nhưng chúng viết lộn chữ Không (no) thành Không Hỏi (No question)
Ông Không Chết tự giới thiệu làm anh ta hoảng hồn vội chạy vào bếp pha cà phê rồi đem ra mời ông Không Chết. Anh ta chế một tí cà phê để tráng cái tách rồi đổ xuống đất rồi chế cà phê, mời ông khách râu dài.
Ông này vuốt râu, từ từ nói: “Khá khá, ngươi bán phở mà biết "trà đạo" của ta, khen cho ngươi”. Anh ta ngơ ngác thì ông Không Chết bảo: “Theo đạo trà thì người ta không uống nước thứ nhất mà rải xuống đất để tạ ơn Đất Trời đã giúp nuôi trà lớn”. Anh hàng phở bảo: “ Thưa không, con ngu dốt không biết trà đạo, con đổ nước thứ nhất vì tráng cái tách sợ còn dính xà bông, sợ ông uống mất mùi cà phê chớ có biết hay học trà đạo khi nào”.
Ông khách Không Hỏi, uống một ngụm thì bảo: “Đây là trà Ô Long ở vùng Giang Nam”. Anh hàng phở thưa: “Là cà phê phin của Columbia chớ không phải trà rồng đen. Khi xưa, con cháu của ông sang cai trị nước chúng con thì bắt mua trà uống, nhất là cái đám biết chữ Hán, cứ ngồi rung đùi, ngâm thơ Lý Bạch để uống trà, tư tưởng và văn hoá từ từ bị nô lệ, hán hoá, cái gì cũng Tầu là nhất, cái gì cũng Khổng Tử Cỏn. Sau này thì Tây mũi lỏ sang cai trị, chúng không uống trà nhưng lại uống cà phê nên đám sĩ phu theo tây học lại bắt chước chủ của họ uống cà phê, đọc thơ Lamartine, vỗ đùi khen hay hay tuyệt tuyệt. Cái gì của Tây là nhất, Jean Paul Sartre Cỏn”.
Nhân cơ hội này, anh hàng phở muốn tìm hiểu về Tứ thư Ngũ kinh nên hỏi thầy Không Chết. Ông Không Chết bảo bọn cai trị nước ông ta xây dựng mỗi nước trên thế giới mấy cái viện Không Chết nên bắt ông ta đi tuần tra xem có đúng như ý nhà nước vạch định hay không nên hôm nay sang Los Angeles xem xét thì khi bay qua vùng Bolsa thấy thơm mùi phở bò nên ghé lại. Âu cũng là duyên nên ta kể cho người sự thật về ta.
Ta sinh ra tại nước Lỗ sau này bị người Hán chiếm đóng và bị Hán hoá sau vài đời. Lúc nhỏ ta đi học ra làm quan nhưng một hôm cãi không lại một tên ít học hơn ta nên ta ra lệnh chém hắn nên vua kêu ta còn sân si, đuổi ta đi. Ta đi sang mấy nước khác kiếm cơm thì không ai nhận cả vì cái sân si của ta thì gặp một tên chết ngoài đường thì ta cứu sống nên gọi hắn là Tử Lộ.
Tên này cũng đói nên đi theo ta rồi dây dưa thêm vài tên khác. Cuối cùng ta được làm quan vì một ông chúa cần một tên làm lễ tế văn đàn gấp vì một cung phi qua đời và quên xem resume của ta cho nên ta mới kêu "tiên học lễ hậu học văn".
Sau đó thì ông vua xứ này tìm được một tên "tiên học phí hậu học văn", bán văn bằng tiến sĩ, làm giàu cho vua nên đuổi ta. Già rồi nên ta muốn trở lại quê hương để chết thì không ngờ mấy tên cũng đói như ta đi theo. Về quê thì ta mở trường dạy học, bỏ mộng làm quan. Học trò đến đông không phải vì ta giỏi mà học trò thích nghe ta kể chuyện phiêu lưu ký lúc ta đi xứ này xứ nọ kiếm ăn. Dạo đó chỉ đi bộ, giàu thì có ngựa hay xe bò. Mấy tên học trò đề nghị ta ghi lại trong cuốn sách để lở sau này ta chết thì không còn ai nhớ để kể chuyện xưa.
Ta viết bằng tiếng xứ ta thì có mấy tên học trò như Chết Đường, Chết Mạnh,..., lại không hiểu thổ ngữ xứ ta nên phải dịch ra 4 thứ tiếng cho 4 thằng học trò, nhạc để hoà tấu khi làm đám ma gọi là Ngũ Cung đem về quê hương của chúng để dạy học nên từ đó dân gian nghĩ là ta đã viết Tứ Thư Ngũ Kinh, thật ra là Ngũ Cung chớ không phải Kinh. Nói tới đây thì ông Không Chết bảo đi đường từ Trung Quốc sang mà đám Tàu không bồi dưỡng gì cả nên đói, vô bếp làm cho ông tô phở rồi sẽ kể tiếp. (Còn tiếp)
Ông Không Chết tự giới thiệu làm anh ta hoảng hồn vội chạy vào bếp pha cà phê rồi đem ra mời ông Không Chết. Anh ta chế một tí cà phê để tráng cái tách rồi đổ xuống đất rồi chế cà phê, mời ông khách râu dài.
Ông này vuốt râu, từ từ nói: “Khá khá, ngươi bán phở mà biết "trà đạo" của ta, khen cho ngươi”. Anh ta ngơ ngác thì ông Không Chết bảo: “Theo đạo trà thì người ta không uống nước thứ nhất mà rải xuống đất để tạ ơn Đất Trời đã giúp nuôi trà lớn”. Anh hàng phở bảo: “ Thưa không, con ngu dốt không biết trà đạo, con đổ nước thứ nhất vì tráng cái tách sợ còn dính xà bông, sợ ông uống mất mùi cà phê chớ có biết hay học trà đạo khi nào”.
Ông khách Không Hỏi, uống một ngụm thì bảo: “Đây là trà Ô Long ở vùng Giang Nam”. Anh hàng phở thưa: “Là cà phê phin của Columbia chớ không phải trà rồng đen. Khi xưa, con cháu của ông sang cai trị nước chúng con thì bắt mua trà uống, nhất là cái đám biết chữ Hán, cứ ngồi rung đùi, ngâm thơ Lý Bạch để uống trà, tư tưởng và văn hoá từ từ bị nô lệ, hán hoá, cái gì cũng Tầu là nhất, cái gì cũng Khổng Tử Cỏn. Sau này thì Tây mũi lỏ sang cai trị, chúng không uống trà nhưng lại uống cà phê nên đám sĩ phu theo tây học lại bắt chước chủ của họ uống cà phê, đọc thơ Lamartine, vỗ đùi khen hay hay tuyệt tuyệt. Cái gì của Tây là nhất, Jean Paul Sartre Cỏn”.
Nhân cơ hội này, anh hàng phở muốn tìm hiểu về Tứ thư Ngũ kinh nên hỏi thầy Không Chết. Ông Không Chết bảo bọn cai trị nước ông ta xây dựng mỗi nước trên thế giới mấy cái viện Không Chết nên bắt ông ta đi tuần tra xem có đúng như ý nhà nước vạch định hay không nên hôm nay sang Los Angeles xem xét thì khi bay qua vùng Bolsa thấy thơm mùi phở bò nên ghé lại. Âu cũng là duyên nên ta kể cho người sự thật về ta.
Ta sinh ra tại nước Lỗ sau này bị người Hán chiếm đóng và bị Hán hoá sau vài đời. Lúc nhỏ ta đi học ra làm quan nhưng một hôm cãi không lại một tên ít học hơn ta nên ta ra lệnh chém hắn nên vua kêu ta còn sân si, đuổi ta đi. Ta đi sang mấy nước khác kiếm cơm thì không ai nhận cả vì cái sân si của ta thì gặp một tên chết ngoài đường thì ta cứu sống nên gọi hắn là Tử Lộ.
Tên này cũng đói nên đi theo ta rồi dây dưa thêm vài tên khác. Cuối cùng ta được làm quan vì một ông chúa cần một tên làm lễ tế văn đàn gấp vì một cung phi qua đời và quên xem resume của ta cho nên ta mới kêu "tiên học lễ hậu học văn".
Sau đó thì ông vua xứ này tìm được một tên "tiên học phí hậu học văn", bán văn bằng tiến sĩ, làm giàu cho vua nên đuổi ta. Già rồi nên ta muốn trở lại quê hương để chết thì không ngờ mấy tên cũng đói như ta đi theo. Về quê thì ta mở trường dạy học, bỏ mộng làm quan. Học trò đến đông không phải vì ta giỏi mà học trò thích nghe ta kể chuyện phiêu lưu ký lúc ta đi xứ này xứ nọ kiếm ăn. Dạo đó chỉ đi bộ, giàu thì có ngựa hay xe bò. Mấy tên học trò đề nghị ta ghi lại trong cuốn sách để lở sau này ta chết thì không còn ai nhớ để kể chuyện xưa.
Ta viết bằng tiếng xứ ta thì có mấy tên học trò như Chết Đường, Chết Mạnh,..., lại không hiểu thổ ngữ xứ ta nên phải dịch ra 4 thứ tiếng cho 4 thằng học trò, nhạc để hoà tấu khi làm đám ma gọi là Ngũ Cung đem về quê hương của chúng để dạy học nên từ đó dân gian nghĩ là ta đã viết Tứ Thư Ngũ Kinh, thật ra là Ngũ Cung chớ không phải Kinh. Nói tới đây thì ông Không Chết bảo đi đường từ Trung Quốc sang mà đám Tàu không bồi dưỡng gì cả nên đói, vô bếp làm cho ông tô phở rồi sẽ kể tiếp. (Còn tiếp)
Mấy bác thích loại này thì em sẽ kể thêm.
Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen
Nguyễn Hoàng Sơn
Ăn Tết
Có lần thằng con cắc cớ hỏi tại sao tiếng Việt có nhiều từ kép với chữ Ăn, mình không biết trả lời, nói có lẽ vì nghèo đói, nên người Việt lúc nào cũng nghĩ đến ăn. Đọc đâu đó có đến 224 từ kép với “ăn”.
Ngay vua Gia Long khi xưa, từng tuyên bố: " Có đói nói mới nghe". Vua nào muốn nhường ngôi cho con thì cứ bảo đứa nào đem dâng món ngon vật lạ là được truyền ngôi mà ngày nay người ta gọi là chạy chức. Người Tây, người Mỹ đón Năm mới còn người Việt chúng ta ăn Tết. Giống dân Giao Chỉ chỉ nghĩ đến ăn, ăn ngày chưa đủ tranh thủ ăn đêm.Ở hải ngoại ngày nay nhất là ở Cali thì đồ ăn Việt Nam không thiếu theo mình còn ngon và bớt độc hại hơn cả Việt Nam. Mình khám phá ra những món ăn mà hồi ở Việt Nam, chưa bao giờ nghe đến, nếu có thì chưa bao giờ thấy. Những món ăn chỉdành cho những ngày lễ lớn như Tết, cưới hỏi đều được bán hàng ngày như bánh xu xê, bánh cốm, bánh chưng bánh tét, bánh dầy, thịt đông, thịt kho dưa hành,... Người Việt tị nạn đều có thể ăn hàng ngày những món này cho nên dần dần, những đặc sản này mất đi tính cá biệt của nó, không còn là món ăn xa xỉ như xưa. Tương tự, trái cây theo mùa thì nay với sự toàn cầu hoá, mùa đông dân Cali có thể ăn nho nhập cảng từ Chí Lợi, đu đủ từ Mễ Tây Cơ, uống nước trái dừa tươi từ Thái Lan chở sang, rẻ hơn cả ở Việt Nam.
Thường ngày đi chợ, người việt lưu vong có thể mua các món đặc biệt mà khi xưa ở Việt Nam chỉ được thấy trong những ngày Tết như bánh chưng bánh dầy,...cho nên những món này bị tầm thường hoá mà khi xưa mình rất mong Tết đến để được thức khuya, ngồi canh nấu bánh chưng, bánh tét ở nhà hàng xóm. Trời khuya, cả đám ngồi chồm hổm nghe người lớn kể chuyện ma bên cạnh lò lửa ngoài trời, lâu lâu chêm thêm vài cây củi vào bếp, khiến lửa rộ lên những tiếng tí tách như điệp khúc của mùa xuân đang về. Những ngày Tết tại hải ngoại, chúng ta mua các món này như một sự bắt buộc vì thiếu chúng sẽ không tạo nên khung cảnh, không gian của Tết cổ truyền như thể ngày lễ Tạ Ơn ở Hoa Kỳ, vắng con gà tây đút lò.Chúng ta ăn những món này như để nhớ, để hoài niệm về quãng thời gian đã mất, như thể để gợi lại ký ức trong vài phút, vài tiếng ngắn ngủi trong cuộc đời lưu vong. Hàng ngày đồng chí gái vô vàn kính yêu, thích ăn dưa hấu và cắn hạt bí khi xem truyền hình nên mụ vợ hay mua mỗi tuần để ăn nhưng mình không rờ tới.
Hôm trước đi chợ mua đồ cúng, mình không quên khệ nệ lựa trái dưa hấu để cúng ông bà. Sau đó cắt ra ăn với gia đình khiến đồng chí gái ngạc nhiên.
Thường ngày các món bánh chưng, bánh tét, bánh dầy, dưa hấu, thịt kho, chả thủ,... chỉ là những món ăn bình thường, nhưng vào 3 ngày Tết chúng trở thành những món bắt buộc gần như bổn phận cho phần nghi lễ. Chúng ta cúng mời ông bà về ăn Tết nhưng hồn ông bà về không thấy món này, mà lại thấy gà tây hay hamburger thì giận, bỏ đi? Chúng trở thành bắt buộc phải có trong 3 ngày Tết nên trở thành biểu tượng; một vật thể kiêm ý nghĩa.
Chúng ta ăn thịt đông, thịt kho, chả thủ với dưa hành, củ kiệu hay bánh chưng bánh tét, cắn hạt dưa, ăn dưa hấu,..., như để nhớ lại truyền thống, những huyền thoại của tổ tiên ông bà như người Mỹ ăn gà tây trong ngày Tạ ơn để nhớ đến những ngày tháng, tổ tiên họ vượt biển ra đi tìm tự do tín ngưỡng ở Hoa Kỳ và được các người dân sở tại cưu mang khi họ đến bờ tự do. Mình không biết người da đen nghĩ gì trong ngày tạ ơn vì tổ tiên của họ được bắt cóc từ Phi Châu đem sang châu Mỹ và được bán làm nô lệ, làm việc không công cho các nông trại miền Nam Hoa Kỳ.
Ngày nay chúng ăn dưa hấu như để nhớ lại An Tiêm, con nuôi của vua Hùng, mang tội phản động, không nghe lời nên bị đầy đi vùng kinh tế mới trên một hoang đảo. Cứ tưởng An Tiêm sẽ chết đói trong cảnh lưu đầy, ai ngờ chim ị trúng đầu thêm mấy hột giống, An Tiêm đột phá tư duy, đã trồng trọt gầy dựng lên một vườn trái cây mà các tàu buôn Trung Quốc đi ngang mua về gọi là hẩu hẩu mà dân mình gọi là dưa hấu. Các ngày Tết, An Tiêm vẫn nhớ đến cha mẹ, anh em, khắc lên mấy quả dưa những lời cầu chúc may mắn cho năm mới, thả trôi các trái dưa, nhờ biển đưa về quê hương như tấm lòng của người con hiếu thảo vẫn nhớ đến cha mẹ, quê hương dù bị bạc đãi, lưu đày. Tương tự ngày nay, các đứa con tỵ nạn xa quê hương, cũng gửi tiền về Việt Nam nghe nói đâu gần 10 tỷ đô la.Ngày nay người việt tị nạn, lưu vong khắp nơi trên thế giới, thường được vua cha xem là phản động. Hàng năm thay vì gửi những trái dưa như An Tiêm khi xưa, họ gửi về những gói quà cho quê hương, những đồng đô la báo hiếu và được vua cha khen là Việt Kiều Yêu Nước thay vì phản động như xưa. Chúng ta ăn bánh chưng, bánh dày để nhớ đến Lang Liêu, tổ tiên nghề nông của Việt Nam, hai cái bánh này tượng trưng cho trời đất. Ngày nay, làm vườn thì mình chợt hiểu sự tích của hai loại bánh này nhưng theo các nhà sử học thì bánh chưng khi xưa có hình dạng bánh tét ngày nay biểu hiệu cho dương vật còn bánh dày tượng trưng cho âm vật. Có lẽ kể chuyện cho con nít nên người xưa chế tá lả.
Hôm qua ăn Tết với gia đình bên vợ, con cháu xúm nhau lại lì xì, đánh bầu cua cá cọp khiến mình nhớ đến không gian của thời xưa ở Đà Lạt, cũng chạy qua hàng xóm hay nhà mình đánh xì lát, đổ xâm hường, bài tới,... Chỉ thấy thương cho cái bánh chưng, nằm trơ trẻn trên đĩa không ai ăn. Người lớn thì sợ mỡ còn con nít thì thích Ken tất ki phờ lai chích cần. Mình thì thích ăn bánh tét chiên vì khi xưa 3 ngày tết, có tiền lì xì là đi xem xi nê xong chạy ra Cẩm Đô ăn tô mì hoành thánh, lên đường Trương Vĩnh Ký làm tô miến gà, hay đường Hàm Nghi xơi tô phở Bằng. Chỉ sau Tết, hết tiền lì xì mới ngấu nghiến mấy đòn bánh tét chiên với dưa món.
Đúng là trời ị trúng đầu. Khi xưa lấy đồng chí gái thì lấy vì thời cơ chín mùi, nhưng sau này mới khám phá ra mụ vợ, ngoài đi làm nuôi mình lại còn có nhiều tài như may vá, cắm hoa,..., còn chăm lo bố mẹ chồng,... Năm nay, mụ vợ học nghề của ai lại tỉa củ hoa Thuỷ Tiên, để trong mấy cái chậu rất đẹp. Hoa lại nở đúng ngày Tết. Hy vọng năm nay tài lộc vào vì năm ngoái, có đứa cháu chúc ông bà năm nay tiền ra như nước, đầu năm sinh trai cuối năm sinh gái. Chán mớ đời! Hôm nay phải đi lên vườn vì đang thay hệ thống tưới. Chiều lại đi ăn cưới nên chắc ngày mai sẽ chiên bánh tét để hai vợ chồng nhâm nhi với dưa món để cùng bay về khung trời kỷ niệm, tìm lại chút hương xưa của một thời đã qua.
Chúc các bác cuối năm có nhiều răng để ăn cho năm tới.
Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen
Nguyễn Hoàng Sơn
Ăn và bụng
Nguyễn Hoàng Sơn
Năm thi trung học đệ nhất cấp, mình có học bài " cái gì cũng cười" của Nguyễn Văn Vĩnh nhưng cũng không hiểu lắm đến khi sang Mỹ mới ngộ ra. Có cô bạn sinh viên Yale, đi làm việc thiện nguyện qua chương trình học bổng Fullbright ở trại tị nạn Hongkong. Khi về cô ta đi thuyết trình về đời sống của dân tị nạn. Khi được các sinh viên ngoại quốc hỏi về vài chi tiết, hình ảnh thê lương của người tị nạn thì cô nàng cười khiến tên bồ sau này là chồng la quá cỡ, bảo không được cười dù là cười kiểu chua chát vì người ngoại quốc không hiểu, sẽ làm mất cảm tình.
Thằng con đi học Việt ngữ cuối tuần, có hôm hứng hỏi mình cấu trúc động từ Việt Nam toàn dùng từ "ăn". Thấy lạ lạ câu hỏi của nó nên mình ngồi đếm xem bao nhiêu cụm từ có chữ ăn. Ăn cay, ăn ngọt, ăn chua, ăn cưới, ăn giỗ, ăn vụng, ăn hối lộ,.. Ăn gian, ăn trộm, ăn cướp, ăn cắp,...đó là làm chuyện thất đức cũng
Năm thi trung học đệ nhất cấp, mình có học bài " cái gì cũng cười" của Nguyễn Văn Vĩnh nhưng cũng không hiểu lắm đến khi sang Mỹ mới ngộ ra. Có cô bạn sinh viên Yale, đi làm việc thiện nguyện qua chương trình học bổng Fullbright ở trại tị nạn Hongkong. Khi về cô ta đi thuyết trình về đời sống của dân tị nạn. Khi được các sinh viên ngoại quốc hỏi về vài chi tiết, hình ảnh thê lương của người tị nạn thì cô nàng cười khiến tên bồ sau này là chồng la quá cỡ, bảo không được cười dù là cười kiểu chua chát vì người ngoại quốc không hiểu, sẽ làm mất cảm tình.
Thằng con đi học Việt ngữ cuối tuần, có hôm hứng hỏi mình cấu trúc động từ Việt Nam toàn dùng từ "ăn". Thấy lạ lạ câu hỏi của nó nên mình ngồi đếm xem bao nhiêu cụm từ có chữ ăn. Ăn cay, ăn ngọt, ăn chua, ăn cưới, ăn giỗ, ăn vụng, ăn hối lộ,.. Ăn gian, ăn trộm, ăn cướp, ăn cắp,...đó là làm chuyện thất đức cũng
Arts-X-Press
Nguyễn Hoàng Sơn
Hôm kia, vợ chồng mình đi xem buổi trình diễn của Arts-X-Press tại đại học Vanguard, quận Cam. Arts-X-Press là một tổ chức vô vị lợi do ông Carl Sinclair, nhạc trưởng của dàn nhạc âm hưởng quận Cam chủ xướng nhân danh người con trai chết vì tai nạn, nhằm khai dẫn các học sinh lớp 7-8 vào các ngành nghệ thuật.
Cách đây 5 năm, con gái mình được chọn trong 100 học sinh vừa xong chương trình tiểu học ở quận Cam để tham dự một khoá hè của hội này.
Muốn được tham dự, học sinh phải được thầy hay cô giáo đề cử rồi phải viết Essay, qua một kỳ khảo sát, phỏng vấn. Mình đoán con gái được cô giáo đề nghị là vì mình có đến lớp con gái, dạy vẽ và nói về kiến trúc cho cả lớp nên cô giáo nghĩ cha kiến trúc sư nên chắc con cũng theo nghề.
Hôm kia, vợ chồng mình đi xem buổi trình diễn của Arts-X-Press tại đại học Vanguard, quận Cam. Arts-X-Press là một tổ chức vô vị lợi do ông Carl Sinclair, nhạc trưởng của dàn nhạc âm hưởng quận Cam chủ xướng nhân danh người con trai chết vì tai nạn, nhằm khai dẫn các học sinh lớp 7-8 vào các ngành nghệ thuật.
Cách đây 5 năm, con gái mình được chọn trong 100 học sinh vừa xong chương trình tiểu học ở quận Cam để tham dự một khoá hè của hội này.
Muốn được tham dự, học sinh phải được thầy hay cô giáo đề cử rồi phải viết Essay, qua một kỳ khảo sát, phỏng vấn. Mình đoán con gái được cô giáo đề nghị là vì mình có đến lớp con gái, dạy vẽ và nói về kiến trúc cho cả lớp nên cô giáo nghĩ cha kiến trúc sư nên chắc con cũng theo nghề.
Bà Hồng
Nguyễn Hoàng Sơn
Tuần rồi đọc trên mạng bài phỏng vấn một nhạc sĩ hải ngoại, về Việt Nam sinh sống và lấy một người vợ kém hơn ông ta đến 44 năm, có đứa con mới lên 2 tuổi. Bài báo kể ông nhạc sĩ mới trở về HK, dự lễ ra trường của một trong những người con của người vợ trước thì có nhiều dân cư mạng, bất bình bảo ông ta bỏ về VN sinh sống, để bà vợ trước ở Mỹ nuôi con mệt thở, không nhận được sự trợ giúp tài chánh từ ông nhạc sĩ có vợ trẻ hơn 44 tuổi, nay con thành tài thì về chụp ảnh lấy điểm.
Đúng hơn thì dân cư mạng lên án ông nhạc sĩ này toàn là phụ nữ, mình không thấy ông nào lên tiếng. Đàn ông Việt như mình rất hèn! Bài báo làm mình nhớ đến Bà Hồng, người nuôi thằng con mình khi còn bé. Bà này tượng trưng cho người phụ nữ Việt mà ông Hồ Dzếnh có lần đã than:
Tuần rồi đọc trên mạng bài phỏng vấn một nhạc sĩ hải ngoại, về Việt Nam sinh sống và lấy một người vợ kém hơn ông ta đến 44 năm, có đứa con mới lên 2 tuổi. Bài báo kể ông nhạc sĩ mới trở về HK, dự lễ ra trường của một trong những người con của người vợ trước thì có nhiều dân cư mạng, bất bình bảo ông ta bỏ về VN sinh sống, để bà vợ trước ở Mỹ nuôi con mệt thở, không nhận được sự trợ giúp tài chánh từ ông nhạc sĩ có vợ trẻ hơn 44 tuổi, nay con thành tài thì về chụp ảnh lấy điểm.
Đúng hơn thì dân cư mạng lên án ông nhạc sĩ này toàn là phụ nữ, mình không thấy ông nào lên tiếng. Đàn ông Việt như mình rất hèn! Bài báo làm mình nhớ đến Bà Hồng, người nuôi thằng con mình khi còn bé. Bà này tượng trưng cho người phụ nữ Việt mà ông Hồ Dzếnh có lần đã than:
Bạn hàng chợ Đà-lạt
Mình đi chợ Đà Lạt mỗi ngày từ khi còn nằm trong bụng mẹ đến khi đi Tây. Bà cụ mình dạo đó bán tạp hoá ở chợ Cũ (khu Hoà Bình) sau này dọn xuống chợ mới xây trên mãnh đất trồng rau cải mà các bạn hàng thường gọi Chợ Mới hay Chợ Dưới. Chợ này do KTS Nguyễn Duy Đức thiết kế và thi công bởi nhà thầu Nguyễn Linh Chiểu. Mình nghe bà cụ kể khi chưa xây chợ thì mổi lần trời mưa thì khu vườn này bị ngập nước vì bao nhiêu nước mưa từ các đồi xung quanh như đường Phan Bội Châu, khu Hoà Bình hay dinh tỉnh trưởng đều đổ xuống thung lũng này.Sau này các ống cống được thành lập giúp nước mưa thoát ra cái suối gần ấp Ánh Sáng cạnh cầu ông Đạo.
Bà cụ mình bắt thăm được phép bán hàng xén nên mua một gian hàng ở Chợ Dưới thay vì Chợ Trên (lầu 2) như bác Đoàn Mừng gái, có tiệm may ở đường Duy Tân. Chợ Trên thì trần nhà thấp hơn và có cửa sổ đóng mở theo mùa nên tương đối ấm hơn về mùa mưa bão nhất là sạch và ít hôi hơn Chợ Dưới vì các gian hàng toàn bán là vãi, quần áo, áo len, giày dép, sách vỡ,... Nếu có gian hàng ở Chợ Dưới thì khi mưa bão là một cực hình, gió thổi vào bốn bề nên rất lạnh thêm đường đi trơn trợt vì mưa tạt vào nhưng tiện cho việc di chuyển hàng hoá vì hàng xén rất nặng, cho nên nếu có gian hàng ở trên lầu thì phải khiên vác lên cầu thang nên khách hàng cũng ngại vì phải khiên đi xa. Hàng bà cụ mình nằm cạnh dãy hàng ăn, bên hông chợ nằm ngay cầu thang số 1, cạnh bể nước. Chợ có 4 cầu thang để lên lầu, thường gọi là số 1,2, 3,4 thêm một bể nước ở bên cạnh chợ cá. Có dịp mình sẽ kể rõ về cấu trúc, gian hàng của chợ mới.
Dạo đó có thằng Sính, con đầu của ông bà Sở ở hàng cạnh bên, lớn hơn mình mấy tuổi vẫn xưng mày tao, chạy chiếc xe Honda 90 cc, đeo kính mắt Rayban được ông bà Sở rất cưng, hay ăn thịt bò bít tết của hàng chú Lìn, thêm cái trứng gà au plat, uống cốc cà phê sữa, rít điếu thuốc lá Pall Mall rồi phà khói lên trời như Loan Mắt Nhung làm mình thèm thuồng, không biết ngày nào mới được thưởng thức món này. Chú Lìn pha cà phê bằng cái tất, chú bỏ bột cà phê xay vào trong cái tất, cột vào cái quai tay cầm của cái vá lưới dùng luộc mì, nhúng trong cái ấm nhôm rồi đổ nước sôi vào ngâm ít phút rồi chế cho khách hàng uống nên dù có thèm nhưng mình không bao giờ uống cà phê vì hình ảnh bi hùng ấy. Trước khi đi Tây, chú Lìn làm cho mình một miếng bít tếc thêm một cái hột gà au plat với bánh mì quẹt thêm tí bơ Bretel. Mình cắn miếng thịt bò bằng ba ngón tay rồi nhai từ từ để hương vị thịt bò lắng dần trong tâm khảm của mình. Sau này ăn thịt bò bít tếc khắp nơi trên thế giới nhưng cái mùi vị thịt bò bít tếc lần đầu tiên ăn tại hàng cô chú Lìn vẫn theo mình đến ngày nay. Cô chú Lìn có nhà ở dốc Nhà Làng, ngay ngõ hẻm từ mấy thang cấp đối diện với Cẩm Đô, cạnh phòng mạch bác sĩ Đào Huy Hách đi lên Minh Mạng, khúc Tăng Bạt Hổ có cái ống rãnh đen xì và hôi thối đổ từ đường Minh Mạng xuống Phan Đình Phùng. Sau 79 thì gia đình chú Lìn bị đuổi nên chạy sang Mỹ, nghe nói có lần về thăm bà cụ mình, nay đã qua đời.
Thằng Sính có cô em tên Bê, lớn hơn mình đâu một tuổi, rất đô con, ra chợ dọn hàng còn thằng Sính chỉ chạy xe Honda ra ăn hàng, xin tiền đánh bi da. Sau này rớt tú tài, chạy giấy tờ giả về Saigon học, làm cô nào có bầu, rồi đám cưới nên mình không có dịp gặp lại, nghe nói đang ở bên Mỹ. Con Bê thì tội lắm, to con lại học dốt nhưng rất chăm làm, chăm buôn bán sau bỏ học để bán hàng sĩ nên khuân vác mệt nghỉ lại lo 5-6 đứa em. Có lần mình thấy nó vác mấy bao gạo chạy như điên còn mình thì vác bao 50 kí là oải rồi. Nghe nói nay có xe hàng chạy Saigon Đà Lạt, khá sung túc. Ông bà Sở có chiếc xe hàng chạy chở hàng Saigon-Đà Lạt, lấy hàng ở Saigon đem về cho bà cụ mình và những người khác trong chợ rồi chở rau về Saigon. Trước khi xuống Saigon thì ông ta đi một vòng chợ, thâu tiền rồi bà cụ mình dặn mua hàng nào thì ông ghi rồi lấy tiền để trả cho các công ty ở Saigon. Ngoài ra, bà cụ còn mua hàng xén của lò Thiên Nhiên ở Trại Mát, Vĩnh Tường ở Fi Nôm,..Ông Sở dạy mình cách xài máy tính tàu Abacus, hay chất hàng của bà cụ mình cuối cùng nên khi xe hàng của ông ta về chợ thì mình có thể lấy hàng ngay đem vào kho sớm hơn mọi người, không phải đợi các người khác dỡ hàng xong nên có thể về sớm. Mổi lần hàng về là mệt, mình nhớ vác mấy cái lò than làm bằng đất sét màu đỏ bọc thiếc rồi chén đĩa, ly tách, đũa,..mà phải cẩn thận vì dễ bể nếu không là ốm đòn.
Hồi nhỏ như đa số gia đình sinh sống tại Đàlat, nhà mình xài loại bếp than, trong nhà có ba cái lò đất nấu than, có dây kẻm ràn xung quanh để khỏi nức, sau này thì mọi người dùng lò dầu hôi còn bây giờ thì xài lò ga mệt nghỉ. Xài lò than khá tốn công nhất là khói bay mịt mù làm nhà bếp đen thui vì lọ nghẹ. Lò có hai tầng; tầng trên để than và có mấy cái lỗ tròn nhỏ để tro tàn rơi xuống tần dưới, lâu lâu phải hốt tro đem đi đỗ, bón cây trồng ngoài vườn. Lâu lâu có ông bán than chạy chiếc xe camionnette qua nhà, giao một bao tải to đựng than. Than này được đốt bằng gỗ dài như khúc cũi nên phải chẻ nhỏ trước khi dùng do đó bụi than bay đầy nhà. Lò có ba cái chân để kê nồi niêu cho vững, nghe người lớn nói là tượng trưng cho hai ông Táo và bà Táo nhưng không biết có đúng không. Sáng sớm khi thức dậy là mình phải chẻ ngo mua từ những người Thượng hay VN Mới ra từng khúc nhỏ nhỏ bỏ vào tầng 2, rồi chặt than bỏ lên trên, bê ra sân để mồi lửa để tránh khói bay khắp nhà đến khi lửa hồng thì bê vào bếp đun nước sôi, pha trà và chế vào bình thuỷ để khi mấy đứa em dậy thì pha sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ hay bột gạo lức Bích Chi để ăn sáng. Mổi lần than gần tàn thì phải chêm thêm than thì khói bay mịt mù Có lẽ vì vậy mà mặt mình lúc nào cũng đen? Dạo đó chưa có nồi cơm điện nên chỉ nấu bằng than, sau khi nước cạn thì người ta hay gắp mấy cục than đỏ ở tầng 2, bỏ trên nắp nồi cơm để tránh cơm bị sống ở phía trên. Sau này xài lò dầu hôi thì khoẻ hơn chỉ cần khơi cái tim đèn, thắp lửa bằng cây hương rồi châm lửa thoải mái chỉ ngữi mùi dầu hôi hay khi bị cúp điện thì nhà nào cũng dùng đèn dầu hôi, khói đen bay lên đầy nhà nên lâu lâu phải giặt mùng vì bị khói bám với bột giặt Viso với nhãn hiệu con ngỗng mà hảng này hay cho xe lam chạy vòng vòng các đường khuyến mãi. Ở Bolsa mổi lần vào nhà người Việt thì thường thấy họ lấy giấy bạc che trần nhà để khói hương nơi bàn thờ không làm đen trần nhà làm mình hay nhớ đến thời còn bé, ngồi học bên đèn dầu hôi vì hay bị tắt điện, sáng ra thì lọ nghẹ đầy lỗ mũi.
Nhiều khi đường bị tăng bo nên xe hàng của ông Sở về trễ thì cực lắm, phải thức khuya để lấy hàng lại đói nữa vì hàng quán đóng cửa khoảng 6:00 chiều, khi về nhà là coi như giới nghiêm. Ngày nay mình thấy quán xá mở rất khuya, có chợ Âm Phủ. Dạo đó thì chỉ mở khuya mấy tuần trước Tết vì có chợ đêm. Mình phải lấy hàng để các người khác lấy hàng vì hàng của họ được chất phía trong xe, trong khi ông Sở và tên lơ xe, chăm sóc máy xe, dầu nhớt để về lại Saigon. Ông bà Sở người Quảng, siêng làm ăn lại tiết kiệm, ở đâu trong xóm Mỹ Lộc, sau lưng đồi Phan Đình Phùng, cạnh chùa Linh Sơn. Sau này họ mua nhà ở đường Hàm Nghi rồi tiệm Nguyễn Văn Ngạch ở chợ dưới để mấy đứa con gái quản lí còn đám con trai thì được thằng Sính bảo lãnh sang Mỹ. Mình không bao giờ thấy họ ăn hàng ngoài chợ, lúc nào cũng đem cơm nấu ở nhà ra chợ rồi cả gia đình ngồi ăn ngoại trừ thằng Sính là được ăn hàng thoải mái. Bà Sở rất giỏi về buôn bán nhưng rất dử, ngoài chợ không ai muốn đụng tới bà lại hay la chồng bai bãi ngoài chợ còn ông Sở thì rất hiền, cam phận làm thằng đàn ông, cười nhe cái răng vàng sáng chói. Nay mình cũng im lặng đi bên cạnh đồng chí gái như ông Sở, chỉ khác là không có cái răng vàng.
Bán hàng xén nhưng bà cụ mình còn cho mướn chén đĩa, muỗng, đũa, ly tách,.. cho những đám cưới hay tiệc tùng thường vào tháng Chạp hay cuối năm. Thường thường sau đám cưới thì người mướn không rữa ly tách,...trước khi trả lại Có lẽ vì bận đi tuần trăng mật nên trả tiền cho mình và cô em gái rữa ở cái bể nước bên cạnh hàng nên có tiền bỏ heo đất nhưng rất mệt vì phải về khuya nhưng nhờ vậy mà khi sang Tây đi làm bồi rữa chén cho tây đầm cũng chuyên nghiệp. Rữa xong lấy dây lạt buộc lại để bán cho khách hàng. Dạo trong lớp tổ chức bán chè, làm văn nghệ thì mình có mượn bà cụ chén đĩa cho lớp nên có lời tổ chức đi picnic ở thác Datanla. Mấy bà ban C có làm bể mấy cái nhưng mình không bắt đền.
Bên cạnh hàng bà Sở thì có hàng bà Tàu tên Cẩu, bán tương ớt dưới cầu thang. Hai ông bà Tàu này có hai thằng con thua mình đâu 4-5 tuổi không nhớ tên, ngoài tương ớt thì có bán tầu vĩ yểu, hột vịt muối, cam thảo,...nói chung đồ tạp phô của người Tàu. Sau 75, khi gia đình mình chạy di tản về thì bà này cho bà cụ mình mượn tiền để buôn bán, vẫn nói chuyện thăm hỏi khi ông cụ mình bị lên án 18 năm tù nhưng được thả ra sau 15 năm.
Cạnh hàng bà cụ mình thì có hàng dì Gái, con bà Cáp người Huế bán đồ khô như đường, muối, bột ngọt, ớt bột, đậu mà mình đã kể rồi. Có lần bà Cáp đau mình có lên nhà trên số 4 thăm thì thấy cái bụng to như đàn bà có chữa, nghe nói bị ai thư nên lúc thầy bùa móc ra toàn là tóc và tóc, không biết ai thù ghét nhưng rồi cũng chết. Mổi lần bà cụ mình đi sinh ở nhà bảo sanh Tôn Thất Chí thì dì Gái hay đem biếu một đòn chả lụa và một lố hột gà. Hột gà để uống với soda còn chả lụa để kho tiêu với thịt ba chỉ. Mổi lần mình đem cơm cho bà cụ thì hay được ăn ké vì cơm nấu ở nhà bảo sanh không ngon lại đắt tiền.
Cạnh dì Gái là hàng dì Nhâm bán dừa, người Bắc được xem là người hàm hồ nhất khu đó. Có lần dì Nhâm chửi lộn với bà Sở, bên giọng Bắc cầy bên giọng Quảng nghe muốn bể tai. Mỗi lần mà người đi mua, trả giá mà không mua là bị dì chửi toát móng heo luôn. Mẹ truyền con nối lúc đầu mẹ dì Nhâm bán rồi dì Nhâm là con đầu, nghĩ học phụ mẹ rồi khi tay nghề chữi lộn đạt chỉ tiêu thì bà mẹ giao lại cái xập, về nhà nghĩ hưu. Sau này lấy chồng lính, nay ở bên Mỹ với chồng con ở Minnesota.
Mình nhớ cách chặt dừa của dì Nhâm nên sau này trong chợ á đông có bán dừa tươi của Thái Lan, hay mua về chặt cho đồng chí gái uống. Dì Nhâm hay ngồi nạo dừa bằng cái đồ nạo dừa, đầu tròn với bán kính khoảng 2-3 cm, có những răng cưa quanh vòng tròn. Dì cắt trái dừa khô làm hai rồi lấy một bàn chân đè lên cái nạo dừa, nhiều khi thấy dì ấy gãi chân nên đất nơi chân lọt vào thùng dừa nạo để bán cho những người làm xôi bắp, bán chè để họ làm nước dừa. Mổi lần xe chở dừa từ lục tỉnh về là phải mướn mấy tên gánh mướn ở chợ, gánh mấy cần xé vì dừa dính từng chùm mà mổi trái khá nặng hay dừa khô thì cũng bỏ cần xé.
Tên trước tên sau xỏ cái gậy tròn qua mấy sợi dây thừng cột ở bốn góc của cái cần xé nếu nặng còn nhẹ thì cột dây ở hai cái quai cần xé để gánh. Mình có học chung ở Văn Học với một tên người Huế ở ấp Ánh Sáng nhưng không nhớ tên, thân với Huỳnh Kim Sang hơn, chiều là hắn ra chợ đi gánh thuê cho mấy hàng dừa, đường, gạo,..mà hắn rất nhỏ con nhưng gánh tài lắm sau này không thấy mặt nữa chắc bị động viên khi bị Đôn quân năm 1973 sau mùa hè đỏ lửa.
Cạnh Dì Nhâm thì có dì Liên cũng bán dừa, ngày xưa làm công cho cô Ba Chỉ, sau cô Ba Chỉ cho mượn thêm để mua cái xập buôn bán, sau này chắc cũng có chồng con vì mình không bao giờ gặp lại. Mình chỉ nhớ trước khi đi Tây có đến chào thì dì bảo mẹ mày mất một đứa con, ngẫm lại đúng vì mình đi luôn cho tới nay, chỉ về thăm gia đình được vài lần.
Nói đến dừa làm mình nhớ đến mức dừa. Mọi năm vào tháng chạp ta thì bà cụ mình tối đi chợ về thì làm mức bỏ mối cho mấy tiệm hay bán ở cửa hàng, sau này bà Thanh Nhàn trong xóm thầu hết. Cứ sáng còi vừa hụ báo hết giới nghiêm là bà chạy lên nhà mình lấy hết mức mới làm đêm qua vì sợ các tiệm khác đến lấy. Bà cụ mua dừa khô về cắt làm hai, lột võ rồi bào mỏng, luộc sơ cho khỏi hôi mùa dừa vì trong cơm dừa có dầu, nếu không luộc thì lâu ngày sẽ bốc mùi dầu hay chảy dầu ra ướt mức, rồi rim với đường cát trắng, tương tự như mứt gừng, gừng cắt ra cũng luộc nhưng lấy kim chỉ xâu chung mấy lát gừng thành từng xâu để khi rim không phải trở để tránh gãy vụng. Gừng vụng thì thái mỏng để làm mứt gừng dẽo cay với đậu phụng. Còn mức bí thì cắt ra tỉa bông hoa rồi luộc sơ, ngâm nước với vôi trắng để khi rim thì bí giữ được màu trắng. Bà cụ mình có món mứt dâu có một không hai ở Đà Lạt, mua dâu còn cái cuống đem luộc sơ rồi rim với đường rồi lấy ra từng trái để nơi cái mâm cho khô rồi lấy giấy bóng gói chừa cái cuống để vào hộp rồi gói giấy bóng đỏ. Ngoài ra bà cụ còn lấy dâu bị rụng cuống hay bị nát làm rượu dâu kiểu Lafaro nhưng chỉ để dùng mời khách thăm viếng trong nhà.
Cạnh dì Liên là dì Bộ bán đồ khô, dầu ăn, khi xưa cũng làm công cho cô Ba Chỉ, tiệm Bình Lợi rồi ra riêng sang cái xập, lấy hàng hoá của tiệm Bình Lợi ra bán nên cũng có của ăn của để đến khi lấy chồng thì gặp tên cà bơ, đánh bài thua phải bán cái xập để trả nợ. Bà vợ của ông thầy Chiêm mua lại nên cũng thân với gia đình mình. Mình nghe ông chủ tiệm Hương Giang ở Bolsa kể; nhờ cái tượng của bà ngoại mình đem từ Thái Lan về đã giúp ông bố của thầy Chiêm và sau này đến ông nối nghiệp, nổi tiếng một thời ở Đà lạt. Ông này cũng như Kim Trọng lấy hai chị em, người vợ đầu sinh nở bị sản hậu qua đời, cô em gái đến nhà phụ chị rồi thương ông anh rễ đơn côi khi bà chị qua đời nên lấy có đâu 4 mặt con. Bà cũng dễ thương, ít ai ghét lại kiếm thêm khách hàng cho chồng ở chợ. Mình có gặp thầy Chiêm vài lần ở chợ khi ông ta ra chợ phụ vợ dọn hàng nhưng chưa bao giờ vào nhà.
Giáp hàng bà cụ là hàng của dì Huê, con của tiệm Nguyễn Văn Ngạch, cạnh tiệm Bình Lợi, người Huế, có ông chồng trốn lính, nhà ở dốc Nhà Làng chổ cái hẻm đi lên đường Duy Tân mà mình có lần ngũ lại nhà một vài lần. Ông chồng ban ngày thì cứ leo lên gác sinh hoạt trên đó để khỏi bị bắt đi lính nên người lúc nào cũng tái vì thiếu ánh nắng. Nhờ có con nuôi nên sau này dì sanh được vài đứa con. Cảnh sát tới nhà bắt lính không tìm thấy ông chồng nhưng cứ thấy dì sinh năm một nên bó tay chấm còm. Dì Huê này ganh tị với bà cụ mình vì cũng bán hàng xén, sau 75 nhờ chồng không đi lính nguỵ nên cũng có thớ với chế độ mới nên cũng đì bà cụ mình mệt thở. Dạo mình về lần đầu thì có gặp, sau này thì dì dọn về Saigon ở với mấy đứa con ruột.
Cạnh hàng dừa của dì Nhâm là hàng thịt của ông Tàu tên Dồng. Mỗi chiều khoảng 3-4 giờ, thịt ở abattoir mới làm được chở ra chợ, mình thấy ông ta đội cái áo mưa nilon kiểu khăn tang của đàn bà để che đầu và cái lưng để máu không thấm qua áo rồi lấy cái móc sắt ra xe chở thịt, móc mấy con heo hay đùi bò bỏ lên vai vừa chạy vào buồng thịt vừa kêu lước sôi, lước sôi rồi móc thịt lên các thanh sắt để bán cho khách hàng.
Lâu lâu thấy mấy bà rụt rè hỏi mua ngầu pín sau này lớn lên mới hiểu ăn gì bổ nấy. Dân bán hàng ngoài chợ thì mua thịt sau 4 giờ chiều vì tươi còn dân đi mua thường là ban ngày sau một đêm phơi trên mấy cái móc, ruồi bu khá nhiều vì dạo đó không có tủ lạnh đông đá mà mình cũng không biết bây giờ trong chợ có dùng máy này chưa. Dạo học Petit Lycée thì mình hay đi ngang abattoir gần garage Trung Tín thì nghe tiếng bò kêu rống có lần chạy vào lò sát sinh xem thì thấy người ta cột con bò lại, có một ông cầm cái búa tạ, đứng trước con bò rồi giáng cái búa tạ lên đầu con bò đến khi nó ngã quỵ xuống, sau đó họ treo bò lên cái móc để lột da, mổ bụng. Cái này chắc phải hỏi lại Nguyễn Trung Thiện vì nhà hắn ở gần đó, nếu mình không lầm chính hắn rũ mình đi xem.
Cạnh đó thì có hàng bà Tạo, người Bắc, lúc nào cũng quấn khăn, răng đen ăn trầu hình như có một thằng con trai lớn hơn mình nhưng không chơi với mình. Bà này hay lấy trà của bà Tư, em dâu của ông ngoại mình ở Bảo Lộc, hãng trà Nguyễn Đăng. Dòng họ này khi xưa thuộc họ Mạc Đăng Dung, khi bị tru di tâm tộc thì một số con cháu trốn chạy vô Nam, đổi họ thành Nguyễn Đăng, lấy chữ lót Đăng để con cháu nhớ tổ tiên mình là họ Mạc Đăng, tương tự như con cháu của Hồ Quý Ly chạy vào phía Nam đổi tên họ Nguyễn sau này là có con cháu khởi nghĩa lập nên nhà Tây Sơn. Mình thường thấy bà Tư, đi xe đò từ Bảo Lộc lên với mấy bao bố trà để bỏ hàng cho chợ Đà Lạt. Đa số dân Đàlạt mua trà từng kí, bỏ bịt nilon để pha uống ở nhà còn trà gói trong bao thường để mua tặng hay đám hỏi,... Bà Tạo có bán lá vối cho người nghèo mua để pha uống.
Mình có uống vài lần ở nhà mấy người làm vườn. Hồi còn bé mình hay đi xuống Blao thăm ông ngoại nên có thấy mấy cái vườn trồng trà nhưng không nhớ cách sấy lá trà ra sao. Chỉ nhớ là xứ khỉ ho cò gáy, ông ngoại mình hay đoán cọp, thấy chụp hình rồi da cọp treo trên tường. Sau này vì lí do an ninh, đi đường hay bị mấy ông kẹ ra bắt lính, đóng thuế nên mình không đi nữa. Mình có ghé lại Blao thăm mấy người bà con trong chuyến về thăm đầu tiên sau này thì đi máy bay cho nhanh, khỏi mất thì giờ.
Cạnh hàng bà Tạo là hàng của dì Bê bán trái cây nhất là chuối, có ông chồng theo bà nhỏ, chị của bà Bửu Ngự. Ở dưới ấp Ánh Sáng, một mình nuôi người con trai lớn hơn mình đâu 2 tuổi tên Phong, đi hướng đạo sau 75 nghe nói làm giám đốc Ngân hàng ở Đà Lạt. Ngoài dãy hàng trái cây có dì Bơn bán trái cây. Dì này có đặc điểm là không bao giờ nghỉ bán hàng, quanh năm ngày nào cũng như ngày nào đi bán ngay cả ngày mồng một Tết, thì dì ra bán mở hàng nhưng khi thấy khách đến mua là cứ ở lì đến tối, ông chồng là bạn nối khố với ông cụ mình ở trong quân đội sau này đi tù chung trại. Nghe nói năm nay bệnh nặng nên phải ở nhà, đúng là một anh hùng lao động gương mẫu. Dì có mấy đứa con gái và thằng út. Con đầu tên Hương có tên Việt Kiều nào về cưới 10 năm trước nhưng không bảo lãnh sang, nghe nói năm trước hắn về lại dẫn đi du lịch Thái Lan, con thứ nhì tên Loan, lấy chồng nghe nói nay ở Đức còn mấy đứa sau thì không nhớ vì còn bé khi mình xa Đà Lạt.
Phía hàng thịt đi vào khu chợ cá thì bên tay phải có các hàng giày, guốc và thuốc lá thì có hàng của cậu Liễu bán thuốc cẩm lệ mà dân gốc Huế hay hút và có bán mấy cái điếu bát để hút thuốc lào. Nó như cái ấm tròn bằng sành, nơi chứa nước đặt lên cái đĩa hay trong một cái chậu bằng sành, người ta vân vê thuốc lào bằng một viên cở ngón tay rồi têm thuốc vào cái lỗ thường gọi là nõ ở trên cùng rồi mồi lửa bằng cái đóm, cây que dài như cây kem bằng tre, lấy cái điếu cắm bào cái lổ nhỏ bên hông rồi hít chậm chậm để lửa cháy đều thuốc ở cái nõ, rồi hít dài thì nghe tiếng lạch tạch trong bình thuốc lào do hơi trong cái nõ được hút nên làm nước ở trong bì bỏm, rồi thả khói ra rất phê, uống cụm nước trà. Ông cụ mình với người bạn bắc kỳ hay hút cái này khi đánh tổ tôm. Su này thì không thấy ông cụ hút thuốc lào nữa, lại chuyễn qua hút thuốc lá Mỹ.
Mình hay thấy cậu Liễu ngồi trên cái sập, thái thuốc với con dao hai cán hình cung như mấy ông thầy thuốc Bắc, rồi tẩm thuốc cho thơm. Mình hay ra hàng cậu Liễu để mua thuốc Cẩm Lệ và giấy quyến cho bà ngoại.
Người hút thuốc cẩm lệ không cuốn tròn như thuốc lá mà cuốn theo kiểu hình ống, cuốn có cái đầu thì to còn đuôi thì nhỏ dẹp để dính nơi môi.
Khi nào hút thì mới cuốn thuốc hút, sau này sang tây thì thấy mấy thằng bạn tây mua thuốc Gauloise với giấy quyến để quấn tròn thành hình ống để hút. Cậu Liễu, kêu bà ngoại mình bằng O, nhà ở ngay vườn chổ xóm Địa Dư băng qua đường Phan Đình Phùng, có cây ổi và cái am màu xanh trước nhà. Nhà cậu luôn luôn bị ngập nước khi trời mưa vì nước trên số 4 chảy về thác Cam Ly theo hai con suối dọc đường Hai Bà Trưng và Phan Đình Phùng qua trường Việt Anh, Hoàng Diệu,.. nên nền nhà được xây khá cao. Cậu hay tếu nói ở đây khi lụt để khỏi nhớ Huế.
Lần về đầu tiên thì có gặp cậu còn lần sau về thì cậu đã qua đời.
Ngoài ra gần hàng của bà cụ có hai anh em tên Ba và Thạc, người Bắc, hàng thợ thíết nằm sát đường dưới chợ thuộc dãy hàng ăn, ở xóm địa dư.
Ông này làm cho nha địa dư nhưng có nghề tay trái là thợ hàn, chuyên đóng các thùng tưới nước cho nhà vườn. Nhà vườn lấy đòn gánh, lấy hai cái quai sắt móc hai thùng nước có vòi sen, đi xuống ao hay suối để múc rồi đi giữa hai cái vồng để tưới bên trái và phải của vồng nước. Hình như Đà Lạt chỉ có hai anh em ông này chuyên đóng thùng tưới nước nên cũng khá giả. Ông không có đồ nghề gì nhiều, cái bình phun lửa chạy bằng dầu, bỏ cái mỏ hàn có tay cầm bằng gổ cho lửa hơ nóng cái mỏ hàn rồi lấy chì hơ theo cái kẻ giữa hai tấm thiết. Cái khó nhất là cắt cái vòi hình ống để ráp vào cái bình để hàn, vì phải cắt theo góc 45 độ. Sau này học kiến trúc mình bị bầm dập khi học vẽ hình học cắt đủ thứ loại hình tròn, ống,...nên phục ông này. Ông này người Bắc, có lần lên nhà mình đi hỏi chị ô sin cho người em trai tên Hải nhưng không may chị này đã đi hái chè gặp thằng phải gió, sau này anh Hải này đi lính tử trận.
Cạnh hàng của ông Thạc có hàng của dì Sắc, có chồng làm cảnh sát ở trên đường Thi Sách, xóm ông Ba Tây. Dì này bán đồ Mỹ như Coca Cola, Fanta. RC Cola, bia Mỹ,... Mổi lần có tiền là mình chạy ra hàng dì mua mấy lon bánh Mỹ có peanut butter, khui cái lon có hai ngăn; một là bánh biscuit và một là cái hộp nhỏ đựng bơ đậu phụng để nếm mùi bơ thừa sữa cặn của đế quốc mỹ hay mua kẹo cao su thổi bong bóng to đùn rồi vỡ. Dì cũng bán đồ chơi cho con nít như cái mũ bằng nhựa của lính La Mã mà mình hay đội khi chơi với con nít trong xóm. Tết thì bà cụ mình hay mua của dì mấy lon đồ hộp trái cây như đào, peach,...để tủ lạnh cho khách tới nhà mừng tuổi ăn. Dạo đó ở nhà 10 anh em, khui ra một lon nhỏ màu cứt ngựa, cở hột sửa ông Thọ, chia nhau ăn mổi đứa một muỗng trái Peach đến ba ngày sau vẫn còn thấy ngọt cổ. Dạo đó dì hay bán mấy cục pin to đùn cở 12 inches x 12 inches x 2 inches mà lính Mỹ dùng gắn bóng đèn còn dân Việt thì gắn vào cái radio transistor nhỏ xíu để nghe vì pin thường mau hết lại khá đắt tiền. Khi hết pin thì bỏ dưới đất để chạc điện lại nhưng không nhiều lắm. Mình nhớ dạo ấy ai cũng dùng mấy cái cốc nhựa của Mỹ màu nâu nâu mà quân đội Mỹ dùng uống cà phê rớt không bể chớ mấy cái ly nhựa làm ở Chợ Lớn thì dễ bể.
Mình không biết dì buôn đồ PX của Mỹ ở đâu, chỉ nhớ có một lần đến thăm nhà người bạn của ông cụ khi còn trong quân đội ở xóm nha Địa Dư gần ấp Cô Giang thì thấy ông này chuyên buôn đồ PX, nhà có cái tủ lạnh rất sang trọng, ông ta lấy mấy cục nước đá lấy từ chổ đông lạnh mời mình uống chai Fanta sướng đến buốt óc. Mình chỉ thấy mấy cục nước đá to đùn do hai tiệm kem Việt Hưng ở đường Thành Thái và một tiệm ở dốc Minh Mạng và Phan Đình Phùng sản xuất. Tiệm này vớt tiền mình cũng khá nhiều với kem Eskimo, bọc chocolat. Chổ bến xe đò Đà Lạt - Chi Lăng ngay Vũ trường La Tulipe Rouge có mấy xe bán đá nhận, mình hay ra mua, họ có cái bào tương tự như cái bào gổ của thợ mộc, nhưng để ngược rồi bào bỏ vô ly rồi nhận xuống bỏ thêm sirop. Mình không thích đá nhận lắm nhưng đọc truyện Chương Còm của Duyên Anh thấy nói đến món này thì ăn thử nhưng Đà Lạt lạnh ăn tê răng.
Đối diện hàng của dì Sắc là tiệm Lộc Sơn của bố mẹ thằng Võ Lộc Sơn, có thời học Yersin với mình sau này nó chuyên đánh bi da cá độ với Trung Ba Tai ở tiệm bi da Minh Tâm ở Phan Đình Phùng, nơi bố của Trần Trọng Ân, tiệm Luồng Điện ở Phan Đình Phùng bị bắn chết. Mình nghe nó kể là người ta đang đánh cá độ tới khúc chót, có một tên đang chuẩn bị đánh cái giò gà thì bố TTA, say đi vào xem nên đụng cái cơ của tên này khiến hắn đánh trật giúp Trung Ba Tai đi một lèo thắng độ. Tên thua độ tức quá, rút súng bắn bố TTA chết trước tiệm này. Tên Sơn này chết sau 75. Cạnh tiệm Lộc Sơn thì có tiệm Bình Lợi bán đồ tạp hoá của cô Ba Chỉ, không chồng con, người Nam, nuôi một đám con gái để lo buôn bán trong tiệm rồi ai lớn thì cô cho vay vốn mua cái xập ở chợ rồi lấy hàng của cô ra bán, kiểu franchise mà mình thấy bên Mỹ. Cô này có xe hàng chạy Saigon Đà Lạt.
Bên cạnh tiệm Bình Lợi là tiệm của ông bà Nguyễn Văn Ngạch, bán hàng xén và ngủ cốc, bố mẹ của dì Huê có hàng xén cạnh hàng bà cụ mình. Cùng dãy mấy tiệm này thì có tiệm của gia đình Nguyễn Văn Thuận 11B rồi Hùng Con Cua rồi Long Hưng. Khúc nhà HCC, gần chợ Cá có xập bán báo mà mình thấy bà cụ mướn tuần san phụ nữ để đọc và mình cũng hay đọc ké. Báo dạo đó in bằng khổ giấy lớn nên nhà in in nhiều trang trên một tờ rồi gấp lại làm đôi cho nên khi mua báo thì phải lấy dao rọc chổ gấp lại. Mấy người mướn tuần báo thì không rọc trang giấy nên phải đọc theo kiểu quấn tròn cuốn báo để thấy chữ phía trong mà đọc, rồi trả lại.
Đó là những người quen thân với bà cụ ở chợ dưới, còn trên lầu thì có bác Phước bán len, người Huế. Mổi lần gặp là nghe bác kể ngày xưa khi mình mới sinh ra thì hai gia đình ở cạnh nhau trong ấp Ánh Sáng, ông cụ mình còn trong quân đội nên bác hay sang nhà, quạt than cho bà cụ mình nằm ở cử, tắm cho mình. Hồi nhỏ mình thấy tấm hình bác đang tắm cho mình treo ở nhà. Sau này bác dọn về dốc Nhà Làng, mua cái nhà của dì Thể bán vãi trên lầu, mua bán lặt vặt nhưng lần chót mình về thì nghe bác kể bị người ta giựt hụi nên phải bán nhà đền cho mấy con hụi nên phải mướn cái tiệm ở đường Minh Mạng để bán áo quần với đứa con gái. Trên 80 tuổi mà vẫn phải đi buôn đi bán trả nợ.
Hồi nhỏ mổi lần tựu trường là mình chạy lên lầu đến hàng bác Tám bán đồ dụng cụ văn phòng, cho học sinh, mua cái plumier đựng viết, viết chì màu và giấy tập,... Mổi năm nhà mình đều nhờ Bác trai nấu bánh tét và bánh chưng. Cứ cúng ông Táo xong là bà cụ sai mình đem nếp, thịt heo và đậu xanh lên nhà bác. Bác trai không cho mình xem bác gói, bác kêu thằng Phước, con bác vô phụ bác nhưng thằng này rũ mình đi chợ tết.
Chỉ thấy bác lấy một cái chân bằng sắt bỏ vào nồi để tránh bánh ở tầng chót cạnh nồi bị cháy, rồi bỏ bánh chưng ở giữa rồi bánh tét được xếp đứng xung quanh chồng bánh chưng. Nấu một thời gian, bác lại lấy ra, đổi bánh dưới lên trên và bánh trên xuống dưới rồi châm thêm nước nóng để tránh bị sượn. Sau này bác sang lại cái xập ở chợ, về nhà mở quán "Mây Hồng" bán chè ở nhà đường Tăng Bạt Hổ. Bác có mấy người con gái nên mở tiệm cho chúng trông coi, như tiếp thị con gái rồi lần lược mấy cô này đều được trai rước đi hết. Hai thằng con trai Phước và Hải thì nghe nói chết sau 75.
Trên lầu có hai bà mà bà cụ mình gọi là mợ, vợ của hai ông cậu bà con, em của bà Võ Quang Tiềm, chị em bạn dì với bà ngoại mình. Hai người này có tiệm ở đường Duy Tân là Long Hưng và Hiệp Thạnh ngay góc Trương Vĩnh Ký. Tiệm Long Hưng nối dài phía TVK có thêm khách sạn Thuỷ Tiên. Bà Phúng là chị, bán vãi và bà Đàn là em cũng bán vãi gần nhau nhưng chỉ khác một điều là bà Đàn buôn bán đắc khách hơn, Có lẽ nhờ tính lanh lẹ, ăn nói linh hoạt còn bà Phúng chỉ ngồi ngáp ruồi. Ngày xưa làm ăn phát đạt lắm, có nhà ở đường Minh Mạng chổ nhà may Hoàng Nho, sau xây nhà ở đầu đường Duy Tân thì tự nhiên xuống. Hồi tuổi bà cụ mình rời Huế vô Đà Lạt làm công cho gia đình bà Phúng, tiền lương thì bà ấy gửi thẳng về Huế cho bà ngoại mình để nuôi mấy bà dì, ông cậu. Sau này lớn lên, học được tài buôn bán của gia đình này thì bà cụ xin ra riêng, ra chợ cũ ở khu Hoà Bình buôn bán, rồi lấy hàng ở tiệm bà Phúng ra bán như franchise cả hai đều được lợi vì bà cụ không cần có vốn lớn, mượn đầu heo nấu cháo. Ông Phúng và ông Đàn lúc được bà Võ Quang Tiềm đem vào Đà Lạt thì làm nghề thợ may sau rồi buôn bán mới giàu lên. Lúc có tiền thì ông Phúng chơi bời có vợ bé bỏ bê buôn bán, sau này theo đạo Tổ Tiên Chính Giáo nên không màn đến tiền bạc trong khi ông Đàn thì chịu khó lắm vì con đông, xây khách sạn Thủy Tiên, có hai người con đi du học bên Tây. Dạo mình về lần đầu thì khám phá ra bà Đàn gọi vợ mình bằng Chị vì bà phải gọi mẹ của đồng chí gái là Bác vì bà con xa bên vợ mình.
Dần dần thì mấy người em lớn lên, mình nhân danh làm anh bắt mấy cô này ra chợ phụ bà cụ nên rãnh rỗi đi đánh bi da. Sau này bà cụ mình nghe lời cô Ba Chỉ buôn thêm gạo, đường và dầu ăn vì dạo đó giá cả bị lạm phát rất nhanh. Gạo hôm nay mua 1200 đồng tuần sau lên 1500 nên bà cụ mình dùng một căn nhà để trữ gạo và đường, dầu ăn, mướn ông Tác ở gần xóm, có chiếc xe Lam chở gạo mà phải đi tối hay sáng vừa hết giới nghiêm để hàng xóm đừng để ý vì bà cụ không có tiểu bài bán gạo nên hợp với thời khoá biểu của ông Tác vì ban ngày làm công chức của viện Pasteur, còn mình thì bà cụ nhờ đi giao lẻ tại nhà khách hàng.
Dạo đó chỉ có đại lí và tiệm có tiểu bài mới có thể bán gạo vì sợ tiếp tế cho VC. Bà cụ mình không có tiểu bài nên mua chui rồi bán chui. Bà cụ hay mua lại gạo của mấy nhà thờ như ở Tùng Lâm, Đa Thiện,..Mỹ viện trợ gạo cho mấy giáo xứ này nhưng không dùng hết nên bán cho bà cụ mình rồi bà cụ bán lại cho cho các lò bún, lò nấu rượu hay dân thường.
Dạo đó dân Mỹ viện trợ đồ cũ cho mấy bà sơ ở Domaine de Marie, cho đám con mồ côi được mấy bà sơ nuôi bận nhưng mấy bà sơ mang ra chợ trên bán nên dân Đàlạt bận đồ cũ mỹ rất nhiều, ngày nay họ gọi đồ Sida (AIDS). Nhà thờ này nuôi một đám trẻ mồ côi, hàng năm có tổ chức hội chợ vào mùa Noel, cũng không gì đặc sắc lắm nhưng có cớ để trai gái đi liếc nhau. Mình nhớ mấy bà sơ lấy chiếc xe camionette, kê lên mấy cục đá, tháo cái bánh xe ra, gắn cái cần sắt rồi cho máy nổ thì cái trục di chuyễn như xe đang chạy khiến cái trục sắt cũng quay mấy cái ghế có hình máy bay,.. cho con nít ngồi cũng quay theo. Ngoài ra có các trò chơi quăn lon, bắn súng, rao lô tô mà mình có lần trúng chai rượu dâu khi đi chơi với Phạm Anh Tuấn 11 B.
Có người trong quân đội ăn cắp gạo hay sao đó, bán lại cho bà cụ mình.
Dân thường thì chỉ được mua gạo ở khu phố, đem sổ gia đình lên phường, rồi họ xem có bao nhiêu người thì bán chừng đấy gạo, hình như mổi người được mua 20-24 kí/ tháng mà gạo do phường bán thì rất xấu nên ai có tiền thì phải kiếm mua gạo thơm ăn. Nhà mình ở khu phố II nên lên số 4, đường La Sơn Phu Tử, cạnh tiệm hớt tóc mua. Thường người ta ra đại lí hay tiệm có tiểu bài mua gạo ngon rồi kêu xe lam chở về trong khi bà cụ mình giao tận nhà cho họ lại không lấy tiền nên họ thích lắm. Đi học về là mình ra chợ, lấy tên tuổi địa chỉ, lấy Honda chở gạo giao tận nhà cho họ, mấy lò bún, lò nấu rượu rồi cho mình tiền boa nên không có thì giờ đi đánh bi da. Lúc làm ra tiền thì mình bổng nhiên tiếc, không muốn tiêu phí phạm nên bỏ quỹ tiết kiệm ngân hàng. Có dạo mình đọc báo thấy có công ty ở Saigon bán cỗ phần thì gửi thư mua, lấy địa chỉ trường Văn Học vì sợ ông bà cụ biết mình có tiền nhưng vốn của mình ít quá nên họ viết thư cám ơn. Khi đi Tây thì mình có trong ngân hàng trên 40.000 đồng hay 40 tạ gạo có thể gửi gạo cho 40 gia đình nhưng mình rút ra đưa cho bà cụ. Của César thì trả lại cho César.
Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen
Nguyễn Hoàng Sơn
Bánh căn Tự
Nguyễn Hoàng Sơn
Từ ngày gia nhập diễn đàn Văn Học thì được nghe nói đến một nhân vật ở Thung Lũng Hoa Vàng với cái lò tự chế Bánh Căn mà các cựu học sinh của trường Văn Học xưa, mỗi lần ghé qua vùng này đều được chủ nhân cái lò tự chế, mời đến tệ xá để dùng món khoái khẩu của những người con dân của Đà Lạt khi xưa, khiến mình tò mò làm quen trên diễn đàn vì cô nàng học trên mình một năm mà năm mình vào Văn Học thì cô nàng đã di tản học vấn qua trường Việt Anh của thầy Lê Phỉ.
Người Đà Lạt xa quê hương nhưng lúc nào cũng nhớ đến món ăn nhà nghèo, gốc người Chàm mà mình có thấy ở Nam Dương. Món này rất đơn sơ như người Đà Lạt, không thịnh soạn, không văn vẽ, chỉ bột gạo đổ vào khuôn của cái lò nung bằng đất sét rồi ăn với mắm nêm hay nước mắm. Sang trọng hơn thì thêm hột vịt. Ngày nay, họ thêm thịt bò bằm, tôm,..., hay xíu mại trong nước chấm.
Từ ngày gia nhập diễn đàn Văn Học thì được nghe nói đến một nhân vật ở Thung Lũng Hoa Vàng với cái lò tự chế Bánh Căn mà các cựu học sinh của trường Văn Học xưa, mỗi lần ghé qua vùng này đều được chủ nhân cái lò tự chế, mời đến tệ xá để dùng món khoái khẩu của những người con dân của Đà Lạt khi xưa, khiến mình tò mò làm quen trên diễn đàn vì cô nàng học trên mình một năm mà năm mình vào Văn Học thì cô nàng đã di tản học vấn qua trường Việt Anh của thầy Lê Phỉ.
Người Đà Lạt xa quê hương nhưng lúc nào cũng nhớ đến món ăn nhà nghèo, gốc người Chàm mà mình có thấy ở Nam Dương. Món này rất đơn sơ như người Đà Lạt, không thịnh soạn, không văn vẽ, chỉ bột gạo đổ vào khuôn của cái lò nung bằng đất sét rồi ăn với mắm nêm hay nước mắm. Sang trọng hơn thì thêm hột vịt. Ngày nay, họ thêm thịt bò bằm, tôm,..., hay xíu mại trong nước chấm.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)






