Nguyễn Hoàng Sơn
"Ôi, tội quá, thương quá!". Đó là câu nói mà vợ mình cứ nhắc đi nhắc lại một mình mỗi lần đi thăm, mẹ ở trong viện dưỡng lão, về. Vẫn biết sinh bệnh lão tử nhưng vợ mình vẫn ngay ngáy, than van khi thấy người sinh ra mình, tuy nói không được nhưng chắc đau đớn lắm.
Mẹ vợ mình được đưa vào phòng cấp cứu của bệnh viện tháng rồi, sau đó được chở thẳng vào viện dưỡng lão để có y tá chăm sóc vết thương.
Để ở nhà thì người chăm sóc bà cụ, không rành thuốc thang nên mấy anh em quyết định để mẹ ở trong viện dưỡng lão, có cháu nội làm giám đốc nên cũng đỡ lo. Lâu lâu bà cụ lại được đưa vào nhà thương. Họ truyền cho hai đơn vị máu rồi khi da hồng hào, lại được chở về viện dưỡng lão. Ngày ngày sau khi đi làm, vợ ghé vào thăm mẹ rồi tối về lại than thương mẹ. Mình chỉ biết ngồi cho vợ dựa
Để lại
Nguyễn Hoàng Sơn
Mình hay kể cho 2 đứa con câu chuyện về một tên tù. Chánh án hỏi hắn muốn ra tù thì phải chấp nhận làm 1 trong 3 điều kiện:
1/ giết mẹ
2/ giết em
3/ uống rượu
Tên tù đồng ý uống rượu và một ngày kia khi đang say bà mẹ và em gái nói gì đó, hắn lấy dao giết cả hai. Rồi hỏi hai đứa phải làm gì nếu phải chọn 1 trong 3 điều kiện.
Hôm trước, có người bạn gửi cho một bài viết về tình trạng con cháu ngày nay ở Việt Nam hay ở xứ người. Hàng ngày mình vẫn nhận được thường xuyên những imeo của thân hữu. Có imeo thì không hợp với sở thích của mình nhưng cũng có
Mình hay kể cho 2 đứa con câu chuyện về một tên tù. Chánh án hỏi hắn muốn ra tù thì phải chấp nhận làm 1 trong 3 điều kiện:
1/ giết mẹ
2/ giết em
3/ uống rượu
Tên tù đồng ý uống rượu và một ngày kia khi đang say bà mẹ và em gái nói gì đó, hắn lấy dao giết cả hai. Rồi hỏi hai đứa phải làm gì nếu phải chọn 1 trong 3 điều kiện.
Hôm trước, có người bạn gửi cho một bài viết về tình trạng con cháu ngày nay ở Việt Nam hay ở xứ người. Hàng ngày mình vẫn nhận được thường xuyên những imeo của thân hữu. Có imeo thì không hợp với sở thích của mình nhưng cũng có
Để đức cho con hay có welfare mặc sức mà ăn
Dạo đi làm ở New York, có một ông ở Connecticut rủ mình lên nhà chơi. Mình tưởng ông ta muốn mình làm rể, ai ngờ ông ta muốn cá độ mình với cô cháu, dược sĩ ở Florida. Cô con gái xinh cực đại nhưng mới xong trung học, mình tính gửi gạo vài năm nhưng ông ta muốn mình dứt điểm cô cháu béo trùng trục. Trong lúc hàn huyên thì ông ta hay nói "có Đức mặc sức mà ăn" nên mình thắc mắc về câu này. Mình nghĩ có tiền thì mặc sức mà ăn xài còn cái "Đức" thì khá trừu tượng vì ở Việt Nam mình nhận thấy nhiều người không có Đức mà sao con cháu họ, sống sung sướng, không học cũng có bằng tiến sĩ, nay lại lăm le xây bia đá ở Lăng Miếu cho đời sau, thăm viếng xin Ấn.Có người nói con người vì ăn ở thất Đức nên nghèo, bị tai nạn, đau ốm nên ai cũng cố gắng ăn ở đàng hoàng, để Đức cho con cháu mặc sức mà ăn. Ý tưởng đó có lẽ do người xưa để lại, răn dạy con cháu, phải ăn ở hiền lành. Đa số là những người đến tuổi lục tuần, gần đất xa trời, mới đi chùa, đi thiền, bố thí để tích Đức cho con cháu. Mình hay gặp người quen, thân hữu rủ mình đi chùa này, đi thiền với ông thầy kia, tu tâm dưỡng tánh. Các khoá dạy thiền mọc như nấm ở khu Bolsa, kiếm khá tiền. Có một chị quen, hai vợ chồng mới gia nhập Ki Tô giáo nên cứ kêu mình trở về đạo, mình thì không thể bỏ được đạo "thờ bà" nên chỉ biết nhỏ lệ từ chối lời mời mọc, dọn đường về đất Chúa hay Niết Bàn. Mình chỉ muốn xuống địa ngục chớ lên thiên đàng, bay bay như các thiên thần không quần, không áo, dị òm! Ngoài ra lên trời hai đứa hai nơi nên mình xin làm người trần gian cho khoẻ. Mình có ông bạn già tuổi bằng bố mình kể là khi xưa gia đình ông ta thuộc loại quan triều đình, nhưng rồi có một thằng cháu đầu thai lầm vào gia đình, làm sao đó nên cả họ 3 đời bị vua giết chỉ có mình ông ta sống sót, phải đổi tên đổi họ để sống đến ngày nay. Dòng họ ông ta bị giết cả 3 đời, mình nghĩ họ không ăn ở thất Đức. Chỉ vì sinh sống trong một môi trường mà người có quyền lực có thể sát hại cả dòng họ để bảo vệ quyền lợi của họ.
Sau 75, rất nhiều gia đình bị tai hoạ, chồng con đi học tập, con cháu đi nghĩa vụ quốc tế hay đào kinh trên nông trường. Nhiều gia đình trắng tay, Đức, gia tài của ông bà hay do mình tích tụ, trong một đêm bị biến mất sau cuộc đổi tiền. Nếu chưa mất hết thì thêm một cuộc đổi tiền nữa hay bị đuổi đi kinh tế mới. Ngay những người giúp đỡ cách mạng cũng bị cho ra rìa hay xử bắn vì tội địa chủ. Làm sao lý giải sự việc này. Có người đổ lỗi dân mình khổ là vì khi xưa cha ông tàn sát, chiếm đất Chiêm Thành, Cao Miên nhưng thực tế thì chính người Việt hành hạ người đồng chủng, đồng tiếng mẹ đẻ. Ngay chính dân khmer cũng tàn sát dân họ trong cuộc diệt chủng 40% dân số của họ trong vòng 5 năm bởi đám khmer đỏ. Nếu bộ đội Việt Nam không qua đánh chiếm Kampuchia thì chắc con số này còn lên cao.
Ngày xưa người ta sinh con để trông cậy vào tuổi già, là an sinh xã hội, quỹ hưu của họ. Nhiều phụ nữ chịu làm lẽ để có con, về già có con nuôi dưỡng. Đời sống nông dân thì từ đời này nối đời sau trong xã hội xưa thì không thể ngóc đầu lên được. Có ăn ở hiền lành mấy đời thì vẫn không thể thay đổi tương lai của con cháu mình. Tá điền không có đất nên phải mướn đất của địa chủ để cày ruộng, đến mùa gặt thì chủ đất thu tô. Được mùa thì no cơm, còn thất mùa thì phải vay mượn thì dù có hy sinh đời bố củng cố đời con, nhưng nợ cha ông để lại với lãi suất cao thì muôn đời chỉ biết nghèo, chổng mông chiếu rách hay cho con đi ở đợ. Do đó trong môi trường nông thôn, với sức người sỏi đá cũng thành cơm, cầy cấy để kiếm cơm, người ta chuộng con trai vì có thể cày cấy, là đơn vị sản xuất, thêm người thêm của. Mình nghe bà cụ kể là gia đình ông cố mình khi xưa giàu có lắm, ông cố đi đánh bài phải bán đất của cha ông để lại. Bán bà ngoại mình cho một lái buôn người Thái để trả nợ theo tục ngữ "đời cha ăn mặn đời con khát nước". Hy vọng đời cháu uống nước.
Ngày nay, đời sống nông dân cũng không thay đổi so với thời chị Dậu, của Ngô Tất Tố. Làm ruộng nhưng chỉ được bán cho nhà nước với giá ấn định nên dù Việt Nam xuất cảng gạo trên thế giới nhưng đời sống nông dân vẫn nghèo. Phải gả con gái cho người ngoại quốc hay đi làm ô sin. Nay lại có nạn cưỡng chế đất đai thì chỉ có đi ăn mày. Mình về thăm quê nội thì thầm cám ơn ông cụ đã bỏ làng, vào nam lập nghiệp vì nếu không thì ngày nay anh em mình chỉ biết cuốc đất, viễn kính không qua khỏi cái đình làng như mấy người em họ, con của hai bà cô ở quê.
Người ta thường kể cảnh mẹ chồng nàng dâu, mẹ chồng luôn luôn uốn nắn cô dâu mà cô con dâu chỉ biết chịu đựng vì cô ta mong đợi sau này sẽ hưởng cái gia tài, căn nhà lá vách tranh. Ngày nay, phụ nữ được đi học có nghề nghiệp nhiều khi lương bổng còn cao hơn chồng, có thể tậu nhà không cần phải ăn nhờ ở đậu nhà chồng. Những người lớn tuổi lại chép miệng thở dài kêu Văn hoá suy đồi thật ra họ không thay đổi tư duy với đời sống mới.
Trong xã hội hay cộng đồng nào cũng vậy, kinh tế là quyền lực. Trong gia đình người có khả năng kinh tế cao là người nắm quyền quyết định.
Chị vợ mình và ĐỒNg chí vợ tuy là phận em gái nhưng về tài chính thì khá hơn mấy ông anh nên mấy anh em bàn chi thì bàn nhưng nếu hai cô em gái không chịu chi tiền thì cũng bù trớt.
Trong xã hội nông thôn, kinh tế dựa trên mùa gặt. Khi cha mẹ qua đời thì ruộng nương đều để lại cho người con trai đầu, em út đến phụ cấy cày rồi chia nhau sau mùa gặt để tránh chia năm xẻ bảy đất của cha ông để lại thì sẽ không sản xuất đủ ăn, phải bán đất cho các địa chủ với giá bèo. Vì vậy các gia đình có đất đai, để ruộng nương lại cho gia trưởng cai quản, giúp em út cầy cấy trên ruộng đất của cha ông rồi chia nhau lúa gạo sau mùa gặt. Giới phú nông mua đất đai của những gia đình chia 5 xẻ 7 rồi cho thuê đất lại để mấy người bán đất cầy cấy rồi thu tô, sống thoải mái và được gán cho cái tên "cường hào ác bá" vì hiểu được luật kinh tế. Ông Henry Ford từng nói: "Lấy hết của cải của tôi thì trong vòng một năm, tôi sẽ làm, có lại như xưa nhờ đầu óc của tôi".
Ở xứ người thì hệ thống an sinh xã hội, hưu trí tương đối được hệ thống hoá hơn Việt Nam. Vợ chồng đa số đi làm và trích mỗi tháng một phần lương để đầu tư vào quỹ hưu trí, khi về già sẽ có một số tiền để sinh sống không cần nhờ vả đến con cái.
Mình thấy mấy người hàng xóm Mỹ về hưu sống riêng không có con cái ở chung. Lúc mới sang thì thấy là lạ, nhưng khi sống lâu nhất là có con thì mới hiểu. Người Mỹ họ nuôi con đủ lông đủ cánh thì để chúng bay đi, tự kiếm ăn trong khi người mình lại vẫn giữ quan niệm xưa, con cháu phải ở chung, nếu không là mang tội bất hiếu. Mình có quen cặp vợ chồng Mỹ hàng xóm đã về hưu. Lâu lâu ông ta chạy qua nhà, nhờ mình phụ ông ta, đỡ bà vợ nặng 250 cân anh, khi ngã thì không đứng dậy được còn ông ta, thấp hơn mình lại ốm nhom. Năm ngoái, bà vợ bị tai biến, không thể trông nom ở nhà nên phải cho vào viện dưỡng lão, mỗi tháng trả $5,000.00. Ông ta vừa bán một căn nhà nghĩ hè nên thong thả trả tiền hàng tháng cho bà vợ. Mình vào thăm, bà ta không còn nhận ra mình nhưng lại chửi ông chồng, bảo nếu tôi biết ông đem tôi vào tù thì không bao giờ làm vợ ông. Bà ở viện dưỡng lão, trả mấy tháng ở tù với giá $5,000/ tháng rồi qua đời.
Người Mỹ đi làm cả đời, để dành tiền đến khi về hưu thì lấy xài, khi chết thì còn bao nhiêu để lại cho con cháu trong khi người Việt mình thì ngược lại. Mình có bà chị dâu, đi buôn bán quanh năm suốt tháng, những ngày họp mặt gia đình như giáng sinh, Tết là lo bán vì là những ngày khách Đông nhất, hái ra tiền nhất. Chị ấy muốn làm có tiền mua nhà cho mấy đứa con, khổ là vợ chồng có 6 đứa con nên cày mệt thở để tậu nhà cho mỗi đứa con.
Mình có thằng cháu vợ, họ hàng mấy thế hệ, hắn là thầu khoán ở Việt Nam nên khi di cư sang thì hay hỏi mình về ngành xây cất ở đây. Hắn có mướn người đi thi dùm lấy bằng thầu khoán nhưng rồi tiếng Tây tiếng U không thông nên bỏ mộng làm giàu bên mỹ. Hắn đem tiền từ Việt Nam sang, mua mấy căn nhà cho thuê, nay đang tìm cách chuyển tên sang cho cô con gái để ăn trợ cấp khi về già. Có welfare mặc sức mà ăn.
Mình thấy lạ là bỏ cả đời dạy con ăn ở cho có đức, làm người chân thật rồi cuối đời lại ăn gian vô hình trung đi ngược lại những gì đã dạy bảo con cái từ mấy chục năm nay. Thật ra là họ muốn cho con nhà cửa mà họ đã tậu, theo văn hoá Việt Nam, để lại gia tài cho con, chấp nhận vô sống ở bệnh dưỡng lão, đời sống tiện nghi kém hơn ở nhà. Người Mỹ thì họ chỉ lo cho con cái đến 18 tuổi rồi để chúng tự tìm cách sinh sống.
Muốn đi học thì mượn tiền, cha mẹ khá giả thì có thể giúp đỡ về mặt tài chánh trong khi đó thì bố mẹ gốc Việt Nam thì đi cày mệt thở để trả tiền cho con ăn học đại học. Bà em họ của vợ, chồng chết, đi cày nuôi cho con ăn học đại học tốn $200,000.00 cho 5 năm đại học UCLA nhưng thằng con ham chơi nên cuối cùng học đại Nhân Chủng Học để ra trường, nay đi làm tài xế xe cứu thương. Nay lớn tuổi nhưng vẫn phải đi cày vì không có tiền hưu trí. Hai đứa con học đại học rút hết vốn liếng.
Hôm trước bà Inge than, rất buồn vì hôm bà ta bị té, phải đưa vào bệnh viện rồi vào trung tâm phục hồi. Thằng con từ Pháp bay về, than là mai mốt bà ta vào viện dưỡng lão, hắn phải trả tiền nhiều. Bà ta cho thằng con 25 căn nhà mà tên này còn rên. Bà ta mướn 2 người thay phiên chăm sóc bà ta ở nhà. Có một ông quen kể là sau bao năm chắt chiu, về già tính hưởng thụ một tí nên mua một chiếc xe mới thì mấy đứa con kêu tại sao bố lại mua xe mới làm chi, tốn tiền. Ông ta bảo chúng bắt đầu xem tiền của tao là của chúng nên cản ta mua sắm. Chán mớ đời! Vợ chồng mình nói với mấy đứa con là sau này chúng sẽ không nhận được gì của bọn mình khi tụi này qua đời. Mình không muốn chúng ỷ lại rồi không chịu tự bay, tự tìm thức ăn. Trong cuốn sách "the richest man in Babylon", tác giả có kể về người giàu có nhất thành phố Babylon khi xưa ở trung đông. Ông ta có tiền bạc của cải nhưng cho con một số tiền rồi bảo hắn đi xa lập nghiệp. 10 năm sau người con trở về kể lại những thất bại, đau thương của những năm tháng đầu rời mái ấm gia đình, thành công trở về thì ông ta mới giao lại cho cái gia tài.
Người xưa có nói: "để lại cho con ruộng nương tiền bạc, không bằng để lại cho con một cái nghề", tương tự trong thánh kinh có nói: "cho họ con cá thì họ sẽ có một bữa ăn, dạy cho họ câu cá thì họ sẽ có ăn cả đời".
Nghiên cứu cho thấy là những người trúng số, thừa hưởng gia tài thì trong vòng 2 năm là tiền bạc bay hết. Tiền không do mình gầy dựng thì không biết giữ.
Câu hỏi là nên để lại cho con một cái nghề để chúng tự kiếm ăn hay để lại cho chúng tài sản rồi mình phải vào viện tế bần khi hoàng hôn của đời mình phủ xuống. Thương con nên chấp nhận sống trong sự bần hàn hay lòng lam khiến chúng ta, sang tên nhà cửa, tài sản để ăn trợ cấp. Con cháu sẽ cắn xé lẫn nhau nếu chúng không có cái nghề vững chắc, tranh nhau gia tài như ông chủ vườn bơ của mình. Mấy đứa con kiện thưa nhau, thuê luật sư, anh em từ nhau rồi bán tháo tài sản của cha mẹ để vài năm sau không còn gì hết.
Nguyễn Hoàng Sơn
Đặt tên cho con
Nguyễn Hoàng Sơn
Mình nhớ đến thăm tên Nhị Anh khi hắn mới có con thì thấy hắn đặt tên Mỹ cho con thì thấy làm lạ vì tưởng hắn thuộc loại bảo thủ, đặt tên cho con theo chữ Hán, điển tích của Tàu. Hắn giải thích là để khi đi học thì con mình ít bị chọc quê bởi cái tên Việt khó đọc. Sau này thấy dân gốc da đen hay đặt tên cho con với những tên là lạ na ná tên các xứ theo đạo hồi giáo. Võ sĩ Cassius Clay đổi tên mình lại thành Mohammed Ali,.., nên tò mò nhưng không hiểu lý do.
Khi xưa người da đen bị bắt cóc từ Phi Châu, đem sang Mỹ Châu làm nô lệ, sản xuất cho các mẫu quốc Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp...
Thông thường thì họ lấy họ của người chủ và lấy tên các thánh của Thiên chúa giáo như các chủ nông của họ. Sau cuộc nội chiến, phe miền Bắc thắng nên đã bãi bỏ luật nô lệ. Có điều ít ai nói đến là trong cuộc nội chiến, có đến gần 1,000
Mình nhớ đến thăm tên Nhị Anh khi hắn mới có con thì thấy hắn đặt tên Mỹ cho con thì thấy làm lạ vì tưởng hắn thuộc loại bảo thủ, đặt tên cho con theo chữ Hán, điển tích của Tàu. Hắn giải thích là để khi đi học thì con mình ít bị chọc quê bởi cái tên Việt khó đọc. Sau này thấy dân gốc da đen hay đặt tên cho con với những tên là lạ na ná tên các xứ theo đạo hồi giáo. Võ sĩ Cassius Clay đổi tên mình lại thành Mohammed Ali,.., nên tò mò nhưng không hiểu lý do.
Khi xưa người da đen bị bắt cóc từ Phi Châu, đem sang Mỹ Châu làm nô lệ, sản xuất cho các mẫu quốc Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp...
Thông thường thì họ lấy họ của người chủ và lấy tên các thánh của Thiên chúa giáo như các chủ nông của họ. Sau cuộc nội chiến, phe miền Bắc thắng nên đã bãi bỏ luật nô lệ. Có điều ít ai nói đến là trong cuộc nội chiến, có đến gần 1,000
Ký ức lưu vong
Có lần thằng con nói: mình không giống như cha của tụi bạn gốc mít của nó. Mình hỏi sao nó nghĩ vậy thì thằng con cho hay cách đối xử của mình khá cấp tiến so với cha mẹ của mấy đứa bạn. Mình nói có lẽ bố, sinh sống bên Âu Châu trên 12 năm, trước khi sang Mỹ nên đầu óc hơi khác với những người đi định cư từ Việt Nam thẳng đến Hoa Kỳ.
Nhận xét của thằng con khiến mình suy nghĩ, tìm hiểu về bản thể, căn cước của mình. Một kẻ lưu vong, tha phương cầu thực tại nhiều quốc gia trước khi lập nghiệp tại Hoa Kỳ. Nói như Homer, cuộc đời của một kẻ lưu vong như Ulyssus là một bi kịch vì không có ai muốn, tự chọn cuộc đời lưu vong. Đối với mình thì cuộc đời lưu vong là một điều may mắn, nhất là học về ngành kiến trúc, nghệ thuật.Lưu vong là phiêu lưu. Phiêu lưu vào một nước khác, một nền văn hoá mới, một ngôn ngữ mới, một cảm xúc khác, một suy nghĩ khác, một tư duy khác,... May mắn vì dạo đó mình còn trẻ, như cái giá vẽ còn nguyên trắng, chưa bị các nét cọ, bay lượn những màu mè, định kiến, được nhét vào ký ức. Khi đến Pháp, mình như kẻ khát đi trong sa mạc, gặp một giếng nước văn hoá nên tìm tòi, uống nước từ dòng sông văn hoá Pháp, học hỏi dân bản xứ, tìm đọc những áng văn mà khi xưa từng được nghe ai nói đến.
Dạo còn sinh viên, mỗi hè mình đeo ba lô, quá giang xe, đi khắp Âu Châu, vẽ tranh bán kiếm tiền độ nhật. Những chuyến đi kiểu Sơn ba lô này như những cuộc phiêu lưu qua các nền văn hoá, khá đột suất vì mình chỉ đến và đi như cơn mưa rào nhưng cũng để lại cho mình nhiều dấu ấn, kỷ niệm của tuổi trẻ nên sau này mình cho thằng con đi Âu Châu, Nhật vào hè. Con gái mình viết tiểu luận nộp đơn vào đại học khiến mình chới với. Nó muốn sống cuộc đời như mình đã sống, đi du lịch nhiều nơi, nói nhiều ngoại ngữ. Nó học đại học 4 năm, sống tại 4 quốc gia và đi viếng 14 nước. Nay lâu lâu cho mướn căn phòng của nó ở New York để bay đi âu châu chơi một tuần hay hai tuần vẫn làm việc qua Internet.
Một may mắn khác là mình chọn học môn kiến trúc, nên được phiêu lưu, bơi lội trong vùng sáng tạo vô biên. Người sáng tạo phải cần đứng ở vị trí, có khoảng cách với tập thể để có một cái nhìn chung của xã hội, cộng đồng để sáng tạo ra những cái gì cho tương lai với kỹ thuật tân tiến. Sống xa gia đình nhưng nhờ được phiêu lưu, bơi lội trong những nền văn hoá khác, môi trường khác, khát khao tìm hiểu cuộc đời, nghệ thuật,.. nên cũng bớt cảm thấy lẻ loi hay cô đơn.
Khi ra trường, nhất là khi hai người em vượt biển sang định cư tại Pháp thì bỗng nhiên mình cảm thấy như bị lôi cuốn về dòng sông văn hoá Việt. Trước đó, ít khi gặp người gốc Việt nên ít nói tiếng Việt nên đầu óc mình bắt đầu suy nghĩ theo ngôn ngữ của nước sở tại. Mình lại ngỡ ngàng khi nghe mấy người em dùng những chữ xa lạ, hậu 75 làm mình càng hoang mang, tưởng đã đánh mất bản sắc Việt của mình.
Cuộc phiêu lưu của mình bị ì ạch, trì chậm lại như thể kéo theo nền văn hoá gốc Việt mà mình chưa am tường vì rời Việt Nam quá sớm. Mình bắt đầu nhận ra sự khác biệt của mình và mấy người bạn Tây đầm. Sự dị biệt của màu da. Cái di sản mà bao năm nay từ khi sang Tây, mình không để ý bỗng chốc kéo về mà mình không thể nào cắt bỏ để lại sau lưng. Vì nếu bỏ thì mình bỏ đi một phần của chính mình, một phần của bản sắc của mình. Như ai đã nói " mình là những gì mình nhớ". Ra đường tuy có quốc tịch Pháp nhưng Tây đầm vẫn hỏi mình là người gì. Mình không thể dứt bỏ được bản sắc Việt của mình.
Nhưng mình lại mù tịt về văn hoá Việt, lịch sử Việt,...nên phải tìm sách báo Việt ngữ để đọc, hiểu thêm về Việt Nam. Bắt đầu tham gia vào các sinh hoạt của cộng đồng người Việt nơi mình cư ngụ như Ý, Thuỵ Sĩ, Anh quốc hay New York.Bi kịch của kẻ lưu vong như Homer đã kể trong Ulyssus, khi ông ta tìm về cố hương thì cảm thấy xa lạ tương tự như Lưu Nguyễn về lại quê xưa. Bao nhiêu năm, khắc khoải để trở về, ngủ trong mái nhà xưa ở Đà Lạt thì mình nhận thấy trống vắng, rất xa lạ với những cảnh cũ. Những món ăn mà mình thèm khi còn bé nay làm mình lo ngại, sợ bị đau bụng. Quang cảnh khi xưa, nay mình thấy rất dơ bẩn, ruồi bu. Những hình ảnh mà mình ấp ủ từ lúc ra đi từ 20 năm qua, nay thấy tầm thường. Hóa ra sau 20 năm, mình đã keo nhiều lăng kính văn hoá khác nhau như Pháp, Thuỵ Sĩ, Ý Đại Lợi, Anh quốc và Mỹ để nhìn hiện thực của Việt Nam ngày trở lại. Nhớ có lần nói chuyện với bố cô bạn ở Pháp, ông ta gốc Hy Lạp, nói là lần đầu tiên ông ta trở lại Hy Lạp thì rất là thất vọng vì quen sinh sống đời sống tại Pháp nên cảm thấy quê cha đất tổ nghèo nàn, mất vệ sinh,… Thật ra mình muốn tìm lại quê hương trong ký ức, hay đúng hơn, quê hương là ký ức.
Trong phim 1900 của đạo diễn Bernardo Bertolucci, nói về hai người bạn một thời, lớn lên đi hai ngã rồi khi về già, gặp nhau lại, Gerarld Depardieu nói là mình muốn thay đổi cuộc đời nhưng không ngờ cuộc đời đã thay đổi mình. Ngày nay, mình đã thay đổi, đeo một lăng kính khác với tuổi đời trưởng thành tại hải ngoại như một cái cây được bứng khỏi Việt Nam để rồi trồng ở Mỹ với phong thổ, kỹ thuật cách trồng trọt khác nhau. Có lẻ vì vậy mà thằng con kêu mình khác biệt.
Một người lưu vong được gọi Franco-Vietnamien nếu ở Pháp hay Vietnamese-American ở Hoa Kỳ. Cái gạch nối giữa cụm từ Franco và Vietnamien hay giữa Vietnamese và American nói lên vị trí, hoàn cảnh của người Việt lưu vong, đứng trong không gian giữa hai nền Văn hoá Việt và của nước sở tại. Người Việt lưu vong đóng vai một người khách trú như người Minh Hương khi xưa lưu lạc đến Việt Nam. Họ nói tiếng của nước sở tại với giọng Khách Trú Made in Vietnam, đứng mé mé bên lề của nền văn hoá sở tại. Họ không hoàn toàn bơi lội trong nền văn hoá sở tại, vẫn bị những ràng buộc của văn hoá của quê hương, nơi đã sinh ra và lớn lên níu kéo lại vì muốn làm người Hán tốt (hảo hớn).Lập gia đình rồi định cư tại Hoa Kỳ, mình lại khám phá ra không phải một mà có nhiều cái gạch nối văn hoá khác với căn cước của mình. Mình từng sống tại Pháp, Ý, Thuỵ Sĩ, Anh quốc, vùng Đông Bắc Hoa Kỳ nên đeo thêm nhiều lăng kính của nhiều văn hoá khác nhau. Thay vì Vietnamese-American như vợ mình thì lại có những gạch nối như Vietnamese- French-Italian-Anglo ..., mà những di sản văn hoá này mình không thể từ bỏ được.
Hôm trước, trong xe cô con gái hỏi sao mình hay nghe nhạc Tây, Ý, Đức, Tây ban nha,..., mình chỉ biết trả lời đó là những bài mà trong quá khứ, mình đã cảm nhận được trong một không gian và thời gian, để lại cho mình nhiều dấu ấn và kỷ niệm. Mình vẫn liên lạc qua điện thư đám bạn khi xưa ở Âu Châu, đọc sách báo Âu Châu để tìm chút gì sưởi ấm bản sắc của mình tương tự như đọc tin tức về xã hội Việt Nam hiện tại. Đồng chí gái thích nghe và hát nhạc Việt Nam trước 75 nhưng mình tuyệt nhiên chỉ thích nghe nhạc pháp, Ý Đại Lợi hay Tây ban nha. Có lẻ vì tuổi trẻ mình có nhiều kỷ niệm khi sinh sống tại Pháp, Ý Đại Lợi, Tây Ban Nha, Anh quốc nên thích nghe lại nhạc của mấy xứ này đẻ tìm lại chút hương xưa.
Đã lưu vong thì con người cảm thấy như mất cảm giác: thuộc về một cái gì vì trong thâm tâm, mình vẫn biết vĩnh viễn sẽ không phải là người Mỹ chính gốc nhưng khi về lại Pháp hay cố hương, nói rõ hơn là Đà Lạt thì mình cảm thấy bơ vơ nơi sinh và lớn lên vì người bản địa nhìn mình như một Việt Kiều, cách ăn cách nói của mình khác, dùng từ vựng của Việt Nam Cộng Hoà. Ngày nay mình mới hiểu cái bi kịch Hy Lạp mà tác giả Homer đã nói khi mình học ở trung học. Bi kịch của một kẻ lưu vong, lững lờ giữa hai luồng Văn Hoá, không biết đâu là nhà.
Tháng 10 vừa qua, mình về Âu châu thăm thân hữu. Mình để ý gặp bạn Tây đầm thì họ vẫn xem mình như ngày nào, nói tiếng Tây với mình còn gặp bạn gốc mít thì nói chuyện vẫn có chêm tiếng Tây hay tiếng Ý. Khá vui. Có vợ anh bạn kêu ngày mai, sau collazione (điểm tâm) thì gặp nhau ở đâu? Hát hò cũng tiếng ý như để nhớ lại một thời sinh viên. Còn bên Tây thì cô em cũng dùng tiếng pháp với mình khá nhiều. Mấy mình hiểu tiếng sở tại nếu không lại đưa cái mặt ngu như bò ra. Gặp lại các bạn Yersin thì ký ức thời Đà Lạt lại trở về.
Có lẽ vì vậy, nhiều người lưu vong, muốn con mình sinh ra tại đất Mỹ, được dạy dỗ như Mỹ, không nói tiếng Việt ở nhà, muốn trở thành người Mỹ thuần tuý. Thằng con mình khi nạp đơn vào đại học, có viết tiểu luận về cái đàn bầu mà cháu học khi xưa cùng với vĩ cầm, guitar, trumpet. Cháu kể là lần đầu tiên, khi nghe tiếng đàn bầu thì cháu nhận ra ngay âm thanh ấy, có gì quen thuộc nhưng không hiểu từ đâu nên tập đàn bầu đến khi khẩy đúng nốt nhạc, âm điệu đó thì cháu khám phá nguồn cội Việt, nằm trong cháu tự bao giờ. Xong om
Có lẽ vì vậy, nhiều người lưu vong, muốn con mình sinh ra tại đất Mỹ, được dạy dỗ như Mỹ, không nói tiếng Việt ở nhà, muốn trở thành người Mỹ thuần tuý. Thằng con mình khi nạp đơn vào đại học, có viết tiểu luận về cái đàn bầu mà cháu học khi xưa cùng với vĩ cầm, guitar, trumpet. Cháu kể là lần đầu tiên, khi nghe tiếng đàn bầu thì cháu nhận ra ngay âm thanh ấy, có gì quen thuộc nhưng không hiểu từ đâu nên tập đàn bầu đến khi khẩy đúng nốt nhạc, âm điệu đó thì cháu khám phá nguồn cội Việt, nằm trong cháu tự bao giờ. Xong om
Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen
Nguyễn Hoàng Sơn
Kỷ niệm mới
Nguyễn Hoàng Sơn
Về VN kỳ này, được cái duyên gặp lại nhiều bạn học và thầy cũ, giúp mình có thêm nhiều kỷ niệm về họ để giữ vào cuốn lưu niệm cho mình.
Lúc đầu mình đoán chỉ gặp một vài người còn nhớ đến mình, ai ngờ khá đông lại thêm quen thêm một số bạn mới.
Tên NVT thì cứ ấm ức hoài về chuyện khờ dại ngày xưa khi đi chơi với bạn khác giống. Cứ mỗi lần gặp nhau là thấy hắn kể lại vụ đi chơi xa với nhóm. Ai đó lấy xe hơi của gia đình rồi rủ bạn và mấy cô đi chơi xa, dã ngoại. Hắn cứ kể N, ban C, mệt hay cố ý ngã đầu trên tay hắn để ngủ.
Hắn cứ dơ cái tay chết cứng suốt đoạn đường dài, không nhúc nhíc để cô nàng
Về VN kỳ này, được cái duyên gặp lại nhiều bạn học và thầy cũ, giúp mình có thêm nhiều kỷ niệm về họ để giữ vào cuốn lưu niệm cho mình.
Lúc đầu mình đoán chỉ gặp một vài người còn nhớ đến mình, ai ngờ khá đông lại thêm quen thêm một số bạn mới.
Tên NVT thì cứ ấm ức hoài về chuyện khờ dại ngày xưa khi đi chơi với bạn khác giống. Cứ mỗi lần gặp nhau là thấy hắn kể lại vụ đi chơi xa với nhóm. Ai đó lấy xe hơi của gia đình rồi rủ bạn và mấy cô đi chơi xa, dã ngoại. Hắn cứ kể N, ban C, mệt hay cố ý ngã đầu trên tay hắn để ngủ.
Hắn cứ dơ cái tay chết cứng suốt đoạn đường dài, không nhúc nhíc để cô nàng
Kung phu kung thê
Đọc bài "tử vi" của thầy Phạm Kế Viêm làm mình nhớ lại đoạn trường tìm vợ. Mất 20 năm mới tìm được người chấp nhận đăng ký quản lý đời Sơn Đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen.
Dạo ấy, kiếm vợ ở hải ngoại như thi sĩ Hoàng Cầm, ngày xưa đi tìm Lá Diêu Bông. Dân di tản 75 thì chuộng môn đăng hộ đối, mình lý lịch trích dọc trích ngang ít ai biết nên khó mà đánh vào nội thành được vì bố mẹ mấy cô, xem xét lý lịch 15 đời nên không cho đăng ký gửi gạo. Sau 79 thì bắt đầu có lớp người Việt vượt biển nhưng đa số là đàn ông, phụ nữ còn rất hiếm hoi. Lý do sợ hải tặc cũng như sợ con trai đi nghĩa vụ quốc tế nên cho con trai đi nhiều hơn.
Đi party, một cô dù xấu đến đâu, cũng có nhiều anh bu theo như ruồi. Nói theo kinh tế thị trường thì hàng độc dù chất lượng xấu vẫn có giá theo nhu cầu cung và ứng. Sau này có chính sách đổi mới, có phong trào các ông đua nhau về VN cưới vợ. Rồi thêm các chương trình đoàn tụ ODP và H.O. nên dần dà thị trường gái Việt ở hải ngoại đỡ khan hiếm nhưng cũng thuộc hàng hiếm, hàng xịn. Có bác kia quen đi H.O., trong vòng 2 năm bác gả 5 cô con gái đem sang. Đi ăn cưới mệt thở.
Ngày nay, về Việt Nam lấy người đẹp chân dài lại được cấp thêm tiền tươi khi bảo lãnh đến khi có thẻ xanh. Đời có những cái lạ không luờng được! Dạo mình mới sang Tây thì mê đầm lắm. Con gái tóc vàng tóc nâu, tóc đỏ, đồ phụ tùng, điện nước đầy đủ không như các cô VN gầy như... con mắm! Mình mê đầm nên khi ở Ý, Đức, Thụy Sĩ hay Luân Đôn cũng không chừa cái tật đó. Nhất là hồi ở Đan Mạch, đầm tóc vàng mắt xanh làm mình ngất ngư không quay lại được bến bờ. Cứ tưởng sau này lấy vợ đầm, nhất là thời gian làm việc ở Ý.
Đùng một cái, nhận tin mấy người em vượt biển sang đến Nam Dương nên phải vội vàng quay về Paris để lo chuyện định cư cho các em. Lúc đó mới bắt đầu được ăn cơm và nói tiếng Việt trở lại. Tiếng Việt thì mình cũng không rành vì hồi nhỏ học trường Tây, chỉ học chương trình Việt hai năm cuối trung học ở trường Văn Học. Thơ Đường thì nhớ na ná cái chi bằng bằng trắc trắc rồi thơ lục bát cữu vạn tổ tôm chi đó mà thôi.
Sau 10 năm, gần như hoàn toàn không nói tiếng Việt, gặp lại mấy đứa em dùng những chữ sau 75 lại càng làm mình như lạc vào cỏi u minh. Khi sang Mỹ chơi, được người bạn học cũ Chử Tam Anh giới thiệu cho hai cô sinh viên Việt làm mình ngất ngư nên quyết định sang Mỹ kiếm vợ. Chử Tam Anh nói con gái Việt Nam, thích thơ văn nên muốn tán là đọc thêm sách báo việt ngữ. Mình bò vào thư viện ở Luân Đôn tìm báo việt-ngữ, đọc mục gỡ rối tơ lòng để điều nghiên về đối tượng Việt Nam. Thấy bài thơ của anh Lành, chôm về đổi vài chữ vào rồi gửi cho nàng:
Sau 10 năm, gần như hoàn toàn không nói tiếng Việt, gặp lại mấy đứa em dùng những chữ sau 75 lại càng làm mình như lạc vào cỏi u minh. Khi sang Mỹ chơi, được người bạn học cũ Chử Tam Anh giới thiệu cho hai cô sinh viên Việt làm mình ngất ngư nên quyết định sang Mỹ kiếm vợ. Chử Tam Anh nói con gái Việt Nam, thích thơ văn nên muốn tán là đọc thêm sách báo việt ngữ. Mình bò vào thư viện ở Luân Đôn tìm báo việt-ngữ, đọc mục gỡ rối tơ lòng để điều nghiên về đối tượng Việt Nam. Thấy bài thơ của anh Lành, chôm về đổi vài chữ vào rồi gửi cho nàng:
Vui biết bao khi anh tập nói
Ba tiếng đầu lòng anh gọi đồng chí gái.
Thương cha thương mẹ thương một
Thương em thương 10
Không ngờ cô nàng là dân di tản 75 lúc còn học tiểu học nên cũng i tờ tiếng Việt, đi chợ mua gạo, nhà dặn là mua gạo ông Địa, ra chợ VN lớ ngớ sao nói:" bán cho bao gạo ông Đĩ " rõ chán mớ đời! Cô nàng đưa thông điệp tình yêu của mình cho ông bố đọc để "thuyết minh" ra tiếng Mỹ. Đọc xong ông già nói mình là cộng sản vì chôm thơ Tố Hữu.Từ đó cạch đến già không dám... chế thơ.
Thương cha thương mẹ thương một
Thương em thương 10
Không ngờ cô nàng là dân di tản 75 lúc còn học tiểu học nên cũng i tờ tiếng Việt, đi chợ mua gạo, nhà dặn là mua gạo ông Địa, ra chợ VN lớ ngớ sao nói:" bán cho bao gạo ông Đĩ " rõ chán mớ đời! Cô nàng đưa thông điệp tình yêu của mình cho ông bố đọc để "thuyết minh" ra tiếng Mỹ. Đọc xong ông già nói mình là cộng sản vì chôm thơ Tố Hữu.Từ đó cạch đến già không dám... chế thơ.
Cứ mỗi lần cô nào mà hỏi tên tuổi ngày sinh của mình là coi như Adieu jolie Candy! không bao giờ gặp lại và không cho biết lý do. Có lần một cô buồn buồn nói là mẹ đi coi bói thầy 3 cầu Tràng Tiền, cô 5 núi Bà Đen, nói anh sinh năm 1956 là "tủi thân" không hạp. Dương Hạ Hoả thì số này nó phá tiền ở các sòng bài casino là tàn đời con luôn. Mình gạt lệ trách: “ sao trời sinh ta lại còn sinh tử vi!". Hôm trước có chị nào còm kêu mình không phải tủi thân. Chị ta đoán tử vi mình qua mạng. Kinh
Ngày xưa đọc Tam Quốc Chí thuê của nhà sách Minh Thu, ở đường Phan đình Phùng. Ông ngoại mình không biết đọc nhưng thích mấy chuyện tầu nên đưa mình tiền, đi mướn về đọc cho ông ngoại nghe mỗi ngày. Nhờ đó mà ngày nay có chuyện để kể. Ông Khổng Minh cải số để giúp Lưu Bị nhưng không rõ làm sao. May là dạo đó Chử Tam Anh, không biết nghiên cứu tử vi hồi nào mà viết phần mềm tử vi như thánh, con gái bu đông như kiến nhờ ông thầy bói coi duyên phận. Anh này cũng khôn lắm, thấy cô nào dễ thương là nói tình duyên sau này sẽ gặp người tương tự như anh ta. Tam Anh còn nói con gái Bắc Kỳ tin tử vi lắm cho nên sau này lấy vợ người Bắc.
Mình nhớ chuyện ông Thiệu, ngày xưa làm tổng thống vì có Tam Tý. Sau này cô nào hỏi ngày sinh tháng đẻ là cứ phán đại là tui sinh năm Tý, giờ Tý, tháng Tý thì cái huông bị gái cho de của mình nó biến mất. Sau này mình có truyền cho thằng con cái software tử vi để đi tán gái Á Đông. Khi đến nhà xin phép đưa mấy cô đi chơi thì các cụ không còn vẻ mặt hình sự như dạo trước.
Đi coi bói thì bố mẹ mấy cô biết mình có... mạng đế vương cho nên quý mình như người bạn vong niên, lâu năm gặp lại. Có lần mình bị một đồng chí gái lôi đến nhà ông thầy 6 Tiền. Nghe nói ông này có viết sách tử vi, nổi tiếng lắm. Sau khi xin xăm, xin quẻ rồi in bản tử vi điện toán, thì ông thầy phán: "Anh tuổi Tý là tuổi con chuột. Chuột thì có nhiều loại như chuột đồng, chuột chù, chuột xù, chuột nhắt, chuột nhí... Anh thuộc dạng chuột nhí nên sợ vợ như Lưu Bị, nghe sấm chớp là đã run không dám luận anh hùng thiên hạ với ai cả. Suốt ngày chỉ biết khóc lóc, hát ca trù cho Tào Tháo chết. Anh có số đào hoa nhưng bị triệt vì có cô thần, quả tú. Số anh không ở với cha mẹ được, chỉ ở với vợ thôi."
Đi coi bói thì bố mẹ mấy cô biết mình có... mạng đế vương cho nên quý mình như người bạn vong niên, lâu năm gặp lại. Có lần mình bị một đồng chí gái lôi đến nhà ông thầy 6 Tiền. Nghe nói ông này có viết sách tử vi, nổi tiếng lắm. Sau khi xin xăm, xin quẻ rồi in bản tử vi điện toán, thì ông thầy phán: "Anh tuổi Tý là tuổi con chuột. Chuột thì có nhiều loại như chuột đồng, chuột chù, chuột xù, chuột nhắt, chuột nhí... Anh thuộc dạng chuột nhí nên sợ vợ như Lưu Bị, nghe sấm chớp là đã run không dám luận anh hùng thiên hạ với ai cả. Suốt ngày chỉ biết khóc lóc, hát ca trù cho Tào Tháo chết. Anh có số đào hoa nhưng bị triệt vì có cô thần, quả tú. Số anh không ở với cha mẹ được, chỉ ở với vợ thôi."
Ra về lòng man mát buồn, không lẽ kiếp trước mình là Thúc Sinh đầu thai lại mà vợ tương lai mình lại là Hoạn Thư? Ông Lưu Bị ngày xưa muốn thoát khỏi vòng tay lãnh đạo và quản lý của vợ, sai Quan Công ở nhà hầu bà vợ, ai ngờ bà vợ hiểu được ý nên bắt Quan Công đứng đốt đuốc sáng đêm để ông chồng không thể lấy cớ, dèm pha mà kiếm bồ nhí chân dài. Đau nhất là phải moi tiền trả cho thầy cho dù mình đã có bản tử vi gồm cả lời giải ở nhà. Không ngờ cô nàng lại tủm tỉm cười, có lẽ phát hiện ra một tên có mạng đế vương chăng? Hay một Thúc Sinh thời A còng.
Đồng chí gái mời về nhà để ra mắt đại gia đình. Cô nàng dặn là phải cẩn thận, ăn nói nghiêm chỉnh, từ tốn, vì bên ngoại là dòng Các Mệ, không được ăn nói phản động vì theo lý lịch thì gia đình mình thuộc hệ 13. Mình có tật là ăn nói búa xua, xuất khẩu không đúng không gian và thời gian. Chử Tam Anh có nhắc là 'bệnh tòng khẩu nhập, hoạ tòng khẩu xuất". Chưa bao giờ mà mình khổ sở như vậy, gặp ai cũng thưa gửi, cười, ngay con chó sủa gầm gừ ngửi ngửi cái Mông, mình vẫn nở nụ cười hàm tếu:" hello! How are you?".
Đồng chí gái mời về nhà để ra mắt đại gia đình. Cô nàng dặn là phải cẩn thận, ăn nói nghiêm chỉnh, từ tốn, vì bên ngoại là dòng Các Mệ, không được ăn nói phản động vì theo lý lịch thì gia đình mình thuộc hệ 13. Mình có tật là ăn nói búa xua, xuất khẩu không đúng không gian và thời gian. Chử Tam Anh có nhắc là 'bệnh tòng khẩu nhập, hoạ tòng khẩu xuất". Chưa bao giờ mà mình khổ sở như vậy, gặp ai cũng thưa gửi, cười, ngay con chó sủa gầm gừ ngửi ngửi cái Mông, mình vẫn nở nụ cười hàm tếu:" hello! How are you?".
Khi thiên hạ ngồi vào bàn ăn cơm, nhà thì đông anh em lại thêm dâu rể, mình mới quay qua quay lại mời cha mời mẹ, mời anh mời chị xong xuôi thì đồ ăn biến đâu mất đành nuốt hận nhai cơm và cơm. Ông bố vợ thì nói giọng Nghệ An hay Nghệ Tĩnh gì đó rất nặng khó nghe. Mình thì ăn nhỏ nhẻ như chuột nhí trong khi ông ấy vừa gắp vừa lua, vừa interview mình. Ông hỏi " Nì! rựa hai bạc bên nhà còn đụ khôn?".
Mình nghe đến đây là tá hoả tam tinh, không biết trả lời ra sao đành thú thật:: " dạ cháu không biết! Để cháu viết thư hỏi Bố Mẹ cháu. Bố cháu ở trại cải tạo 15 năm mới được thả ra nên sức khoẻ còn yếu, nếu có làm chuyện ấy thì chắc cũng lai rai". Lúc đó mình bị đồng chí gái đá cho một cái dưới bàn đau điếng. Tưởng hết lấy vợ.
Cả nhà bỗng cười rầm trời, ai nấy đều mếu máo đập bàn, đập ghế làm mình ngơ ngơ ngác ngác. Sau này nghe đồng chí gái kể là ông cụ nói: "thằng ni thiệt thà, được." Rứa là mình lên xe bông về nhà vợ. Lấy vợ rồi mình mới thành khẩn khai báo là mình tuổi con khỉ chớ không phải tuổi con chuột. Số mình không có mạng đế vương, mạng mình chỉ làm đồng chí chuột nhí. Đồng chí gái bảo: "tui biết từ khuya rồi Ôn!" Chán Mớ Đời Đồng chí gái thời ở Pulau Bidong.
Nguyễn Hoàng Sơn
Khu Hoà-Bình thời xưa
Hôm trước thấy ông Lê Huy Cầm, tải tấm hình này lên mạng rồi hỏi thiên hạ. Được chụp ở đâu. Nhìn hình thì thấy phía sau là tiệm bánh mì Vĩnh Chấn, nằm ngay đầu đường Duy Tân. Thấy một phần trụ điện trước tiệm Vĩnh Chấn thì biết ngay là trước cửa tiệm Đức Xương Long của gia đình Huỳnh Quốc Lương nay cư ngụ ở Úc Đại Lợi. Đến 3 ông sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Quốc Gia trong bộ đồ vía mỗi lần được ra khỏi trường.
Kế đến thấy ông bán khô mực trước tiệm bán radio, máy truyền hình Việt Hoa của Khu Hoà BÌnh, được xem là trung tâm thành phố Đà Lạt xưa. Tấm ảnh này khiến mình nhớ đến một thời lớn lên tại Đà Lạt. Khu phố này là nơi mình đi lại nhiều lần vào cuối tuần ra chợ Đà Lạt, dọn hàng cho bà cụ, sáng và chiều.
Mình nhớ năm thi đậu BEPC (Trung học Pháp), ông cụ mua cho cái đồng hồ không người lái, hai cửa sổ và ba mái chèo hiệu Citizen ở tiệm đồng hồ Tiến Đạt ngay bên rạp xi-nê Hoà Bình. Đứng trước rạp Hoà Bình thì tiệm Tiến Đạt nằm phía bên trái, sau mấy cái panneau gắn hình ảnh của phim sắp chiếu trong nay mai, có rào lưới sợ dân chúng buồn buồn đập kính để lấy hình đem về nhà treo. Rạp xi-nê Hoà Bình to nhất trong ba rạp chiếu bóng ở Đà Lạt, xung quanh rạp là các cửa hàng nhỏ được coi là trung tâm của thành phố. Điểm đặc biệt là có một cái chuông cao để gắn cái còi ụ, báo động giới nghiêm. Nhà mình ở Hai bà Trưng mà còn nghe nên không hiểu dân ở trong phố chắc nghe rất to.Hình này chụp ngày chủ nhật vì sinh viên Võ Bị hay được ra vào ngày cuối tuần. Mấy cô gái Đà Lạt hay lấy sĩ quan Võ Bị. Thấy oai hùng quá, rồi có nhiều người trở thành goá phụ. Gần xóm mình có anh Thống, đậu thủ khao Võ Bị, ra trận chết. Chán Mớ Đời
Khu này trước khi mình ra đời là chợ chính của Đà Lạt, sau này Chợ Mới được xây cất thì khu chợ này được đập phá để xây lại được dân địa phương gọi là Chợ Cũ hay Khu Hoà Bình. Sau này, KTS Ngô Viết Thụ thiết kế thêm cái cầu nối liền khu Hoà Bình tới lầu 2 của chợ Mới và cái cầu thang từ góc Lê Đại Hành và Thành Thái xuống chợ Mới ngay bến xe Lam, Chi Lăng. Trước hội trường Hoà Bình là công trường khá lớn của hai đường Thành Thái từ rạp Ngọc Lan đến và đường Lê Đại Hành từ cầu ông Đạo lên. Mỗi lần có mít tinh thì được tổ chức tại đây. Hồi nhỏ thời đệ nhất Cộng Hoà, mình thấy các cuộc mít tinh của đoàn Thanh niên Cộng Hoà, áo xanh mà ông cụ là thành viên được tập họp tại đây.
Sau này thời chính phủ NCK, có cho dựng một pháp trường bằng bao cát gần khu bán Lan, phía sau vũ trường Tulipe Rouge.
Cửa vào rạp xi-nê Hoà Bình được nâng cao lên vì cái nền của rạp bên trong được xây cao từ cửa ra vào và nghiêng thấp từ từ xuống màn ảnh để người ngồi dãy ghế phía sau không bị cái đầu của khán giả phía trước che khuất cho nên phải bước lên mấy bậc thang cấp mới vào foyer của rạp, bên trái là phòng bán vé mà mình từng chen lấn như đi ăn cướp để mua vé nhất là ba ngày Tết. Thường mấy ngày Tết họ chiếu phim tồi nhất vì ai cũng đi coi, sau đó vài tuần khi khán giả hết tiền lì xì thì mới chiếu phim hay. Đối diện phòng bán vé là nơi quảng cáo các hình ảnh của phim đang chiếu hay sắp chiếu. Sau khi chen lấn mua được vé thì phải bước lên vài thang cấp mới vào được hội trường. Bên trong được chia làm hai dãy ghế. Hình như có ba loại vé cho ba loại ghế xanh vàng đỏ. Vé đắt nhất là màu xanh, gần cửa ra vào, sau đến vàng thì phải, rồi đỏ gần màn ảnh. Hồi nhỏ mình hay mua vé bình dân, ngồi hàng ghế đỏ nên coi xong thường là hai suất cho đã ghiền nên bước ra khỏi rạp là đói meo, mắt hoa, chóng mặt. Mình coi ở đây Dr. Zhivago, Le Cid, Tần Thuỷ Hoàng, La colère d' Achille, Tân Độc Thủ Đại Hiệp có Khương Đại Vệ đóng, Thập Tam Thái Bảo mà cuối cùng KĐV bị tứ Mã phân thây...
Sau năm Mậu Thân thì mình nhớ có lần lính Lực Lượng Đặc Biệt của Mỹ gồm toàn người Nùng, gốc Tàu,...được Mỹ trả lương đi lùng các lính cảnh sát dã chiến đánh. Mình đang ở chợ dưới thì nghe súng liên thanh thì ngạc nhiên vì dạo đó lính VNCH xài toàn M1 hay Garant bắn từng viên, chỉ có AK 47 mới bắn liên thanh được nhưng tiếng nổ nghe khác, nhìn ra thì thấy vài tên lính cảnh sát dã chiến chạy từ cầu thang chợ xuống bến xe lam rồi chạy vào dưới chợ núp, trong khi mấy tên lính LLĐB ôm súng AR17 chạy đi lùng. Sau này mới hiểu lý do; có một tên LLĐB gốc Hoa đang đứng chơi với tên soát vé ở rạp Hoà Bình thì có mấy tên lính cảnh sát dã chiến muốn vào coi cọp nhưng tên LLĐB không cho bị CSDC đánh thì anh chàng này chạy về trại kêu lính LLĐB mà mình có biết vài tên vì trên đường Thi Sách có tên D. đầu bò, người Nùng, nói giọng bắc cả dòng họ nó đi LLĐB hay lái xe Jeep Mỹ về, đeo súng AR 15, lựu đạn cá nhân loại nhỏ,...
Cuối rạp thì có hai cửa thoát phòng cháy, bên phải thì chạy thẳng ra ngoài cạnh tiệm bazar của một ông người chà và còn cửa bên trái thì chạy thẳng ra bên tiệm kính Anh Lân. Phía sau chỗ tiệm Thanh Nhàn, nơi có con đường đi xuyên khu Hoà Bình từ tiệm Mekong xuống cầu thang vô lầu hai của chợ Mới thì có một cái cửa đôi phòng cháy. Hậu trường của rạp này nhỏ nên các gánh hát cải lương không mượn chỗ này vì không làm sân khấu được nên chỉ có tổ chức đại nhạc hội của Phi Thoàn, Tùng Lâm thôi. Trường Văn Học thường mướn rạp này để chiếu phim hay văn nghệ cho học sinh của trường xem. Mình nhớ coi phim Nắng Chiều có người đẹp Bình Dương đóng và một lần trường Văn Học tổ chức văn nghệ có mời ban nhạc Rolling Wheels chơi.
Ông chủ tiệm đồng hồ Tiến Đạt, người Bắc, có cái tiệm coi như rộng nhất ở khu này vì ba căn nhập lại, sát góc bên trái của rạp Hoà Bình. Lúc mới xây thì chia ra từng căn cở tiệm sửa radio Việt Quang nhưng dần dà có người bán thì mấy hàng bên cạnh mua, nới rộng thêm tiệm của họ.
Mỗi lần đi bát phố ở khu này, mình hay ghé lại xem đồng hồ Seiko, Bulova, Citizen,.. Mình thích nhất hiệu Seiko nhưng ông cụ mua hiệu Citizen vì rẻ nhưng cũng là niềm hạnh phúc vô biên. Sau này sang Tây thì cái đồng hồ này chết máy nên cũng không đeo đồng hồ tự dạo đó.
Năm ngoái về thăm Đà Lạt mình vẫn thấy cái đồng hồ con gà treo tường mà 50 trước bà cụ mình mua ở tiệm này, nay không còn chạy nữa. Năm 3ème mình bắt đầu không thấy rõ chữ trên bảng nên phải xin lên bàn đầu ngồi nhưng ông cụ không cho đi khám mắt đến khi sang Văn Học thì oải quá năn nỉ ông cụ đưa ra tiệm kính Anh Lân để đo mắt thì thấy cận trên 4 độ. Có lẽ ông cụ mình là gốc Bắc Kỳ nên quen hay mua đồ ở mấy tiệm do dân Bắc Kỳ làm chủ. Tiệm Anh Lân cũng rộng tương tự tiệm Tiến Đạt, có cái bảng đọc chữ khi khám mắt ở giữa để xem độ cận của khách hàng. Mấy anh em mình đều là thân chủ của tiệm Anh Lân đến 75. Tiến Đạt thì sau 75 không thấy trở lại Đà Lạt.
Cạnh tiệm Anh Lân là tiệm sửa radio Việt Quang, có thâu băng nhạc chắc lậu nên dạo đó đi ngang là nghe nhạc Phượng Hoàng vang rền trời.
Có lẽ dãy tiệm này hướng Tây hay Nam nên thấy có mấy tấm vải, biển quảng cáo được che nắng mưa. Nghe nói bà Việt Quang nay sống ở ấp Cô Giang, trồng Lan bán. Ông cụ mình thân với ông Việt Quang nên hay tụ tập ở đây với nhóm đặc phái viên của tờ báo Tiền Tuyến và Con Ong.
Trong nhóm này có chú Nê, anh của chú Nô ở ấp Cô Giang hay hát trên đài phát thanh Đà Lạt. Chú Nê ngày xưa có dạo đi tù chung với bà cụ mình khi tham gia kháng chiến chống Tây. Chú Nô đi lính, hay đánh bóng bàn với anh Tín, du học bên Nhật về, đánh kỉểu cầm thìa, vô địch vùng 2 ở cái tiệm cho mướn bàn ở đường Minh Mạng, ngay dốc Tăng Bạt Hổ, đối diện tiệm chè Long Phụng Lầu. Mổi lần có tin gì lạ thì ông cụ mình hay đánh điện tín về Saigon. Nhóm này hay trù trì ở nhà hàng Mekong nơi tổ chức tiệc cưới của ông bà cụ mình khi xưa. Mình có ăn mì xào với ông cụ ở tiệm này một lần khi đậu bằng Trung học Pháp.
Nguyễn Bình, ông thầy dạy Thái cực đạo của mình bị 302 chĩa súng đánh hội đồng tại đây khi ngồi uống cà phê với hai cô gái. Ông này chả dạy gì cả, cứ vác xe moto 125 cc chở gái chạy vòng vòng.Cạnh tiệm Mekong thì có tiệm bán radio, máy truyền hình Việt Hoa. Bên cạnh là tiệm bazar Sàigòn cua rông người Ấn Độ.
Dãy nhà này rất sâu, ăn ra phía sau tới cái đường nhỏ phía sau, hình như tên đường là Nguyễn Biểu nối đường Minh Mạng và Tăng bạt Hổ, có mấy quán nhỏ bán thức ăn, có bà 7 Quốc bán sữa đậu nành. Mình nhớ có lần ông cụ mình dẫn vào tiệm Việt Hoa bán máy truyền hình, máy nghe đĩa nhạc, radio,.. Mình mê cái tivi vì lúc đó buổi chiều đang phát sóng chương trình đố vui để học rồi vài tuần sau thấy ông cụ bê cái máy nghe đĩa về, cũng to như máy tivi, có bốn chân, có radio và máy quay đĩa, hiệu Panasonic. Ông cụ mình mua đĩa hát và dì Thương ở tiệm Hiệp Thạnh, đường Duy Tân cho mình mấy cái đĩa cải lương cũ 78 tours vì dạo đó người ta sản xuất đĩa 45 vòng có hai bản nhạc hay 33 vòng có nhiều bản nhạc còn 78 vòng thì nó dày và nặng. Khi đĩa quay thì mình cũng chóng mặt vì 78 vòng/ phút, sợ rè kim hay cà lăm. Mấy cái đĩa cũ này hay bị rè nên cứ bị cà lăm. Út Trà Ôn hát 30 năm qua, 30 năm qua, 30 năm qua,...Cũng nhờ mấy đĩa cải lương này mà mình mới biết Tình Anh Bán Chiếu của Út Trà Ôn nên bắt đầu mê cải lương từ dạo đó.
Năm Mậu Thân, gia đình dì Ba Ca trên số 4 chạy tản cư xuống nhà mình. Dì Ba Ca kêu mệ ngoại mình bằng Dì, khuôn mặt rất giống bà ngoại còn dượng Ba Ca thì làm ở ty Kiến Thiết thì phải. Thời Tây, dượng làm nghề tiêm thuốc phiện cho mấy đệ tử của nàng tiên nâu.
Dượng hay kể chuyện dân đi ăn trộm ngày xưa, thổi thuốc mê vào nhà rồi cạy cửa vào ăn trộm hay cách têm thuốc bàn đèn ra sao để được tiền boa. Khi Việt Cộng vào thì gia đình dì đào hầm phía sau vườn để núp. Hôm mồng Ba khi nghe tiếng súng và bom êm nên dượng Ba Ca chui ra khỏi hầm để lên bàn thờ lạy tiễn ông bà để xin mấy đòn bánh tét cho mấy đứa con ăn thì nhìn ra sân thấy quả bom chưa nổ nằm chình ình trước sân.
Hai phút sau là cả nhà bỏ của, chạy lấy người xuống nhà mình xin tá túc. Dì dượng có 5 trai 1 gái, anh đầu tên Việt, học nghề thợ tiện ở tiệm Luồng Điện của ông nội Trần Trọng Ân ở đường Phan Đình Phùng, bên cạnh có chiếc xe mì của bà Tàu bán mì vịt tiềm buổi chiều, hay đeo con phía sau lưng để bán mì còn ông chồng thì tối ngày binh xập xám chướng. Anh Việt sau này đi Xây Dựng Nông Thôn ở Tùng Nghĩa.
Người kế là chị Hoa, rồi anh Hiệp, Thành (Bồn lừa của Trần Hưng Đạo) nghe nói sau này làm nghề cắt tóc ở La Sơn Phú Tử rồi Tèo Anh, Tèo Em,.. Mỗi tối sau khi ăn cơm là hai gia đình ngồi quanh cái máy nghe tin tức đài BBC chương trình Việt Ngữ, rồi mở mấy cái đĩa của ban AVT 45 vòng. Cứ nghe đi nghe lại mấy đĩa hát này trong vòng ba tháng nghĩ hè bất đắc dĩ vì VC có chơi thêm tổng công kích đợt 2, nên ngày nay mình có thể giả giọng Huế, Bắc, Quảng,.. Ngày nào hai gia đình đều ngồi bên cái máy, nghe tới nghe lui đến hết mấy đĩa thì nghe lại rồi cười đến ngày nay mình vẫn còn thuộc mấy bài này. Sau này tới thời nghe băng loại 180 thì ông cụ có mua cái máy hiệu TEAC rồi thâu băng ở tiệm Việt Quang. Dạo ông bà cụ mình sang chơi, mình có đưa ông bà cụ đi ngày Đà Lạt thì có gặp bà Việt Hoa đang ở quận Cam.
Cạnh Việt Hoa là tiệm của bà Phúc Thị Lai, bán vải rồi đến tiệm Chà Và, chuyên bán đồ Mỹ phẩm cho phụ nữ nên mình chỉ nhớ sơ sơ rồi đến tiệm Đức Xưng Long, bán tạp hoá rồi Lưu Vĩnh Ký bán sắt, có thêm cái tiệm ở bên đường Duy Tân. Ông Lưu Vĩnh Ký này, ngày xưa muốn hỏi bà cụ mình cho con trai của ông ta nhưng bà cụ không chịu, nếu không thì nay mình đã mang tên Lưu Linh.Đường Tăng Bạt Hổ , góc tiệm ăn Mekong ngày xưa
Đối diện tiệm ăn Mekong, góc đường Tăng Bạt Hổ thì có tiệm vàng Bùi Thị Hiếu, con của ông Bùi Duy Chước, có mấy người con học Yersin, nghe nói nay ở bên Pháp. Tiệm này được coi là một trong những tiệm vàng đầu tiên ở Đà Lạt, bên cạnh là tiệm giầy Trung Việt rồi tiệm sách Liên Thanh, có con học Yersin rồi đến nhà in Lâm Viên của thằng Phước, người cao cao mà có thời mình học tư chung ở nhà tên này với anh Mai, con ông thầy Kim, người Bắc ở trong xóm, sau lưng phòng mạch Bác sĩ Lương, ông nội của Tuấn Toto ở Phan Đình Phùng. Anh chàng này học Yersin lớp première, một con mắt bị hư hay lé sau này đi đâu không biết. Có lần hè mình học tư với chị của một tên Hà, học chung ở Yersin ở góc Duy Tân và Phan Đình Phùng, sau biệt thự của gia đình tên Hà này, hình như dân bắc kỳ là đường Thủ Khoa Huân. Mình có gặp lại ông thầy Kim khi về thăm Đà Lạt trong lúc ăn phở với ông cụ ở bến xe Tùng Nghĩa, sau lưng khu Hoà Bình, kể sang Mỹ rồi về VN sống với bà vợ thứ hai, cạnh tiệm Lâm Viên thì có tiệm phở gà Bắc Hương, nhà Nguyễn Đăng Sơn có thời học chung với mình sau qua trường Việt trước, đậu Tú tài đi du học ở Pháp trước mình một năm, học ở Troyes, nghe nói nay vẫn ở Pháp, lấy vợ made in VN. Tên này dạo đi Hướng Đạo thường được xem là hướng đạo viên gương mẫu, hình như chung đoàn với Đinh Gia Lành, Nguyễn Trung Thiện. Cạnh đó thì có tiệm Phở Tùng, bị cháy sau Mậu Thân cạnh cái dốc đi xuống đường Phan Đình Phùng gần tiệm bảo hiểm Nguyễn Đình Hoè và tiệm uốn tóc Ba Lê. Mình nhớ dạo đó đứng ở nhà mình bên Hai Bà Trưng thấy lửa khói mịt mù như thời VC tổng tấn công hình như cây xăng ở bến xe gần đó bị cháy. Sau này xây lại thì rất đông khách như các thầy địa lý bảo mua nhà cháy là hên, làm ăn phát đạt.Black paint cho tui bổ túc thêm mấy "căn hộ"của khu nhà tui:
Cạnh nhà in Lâm Viên(mà bây giờ đổi thành khách sạn Europa)là nhà hàng cơm tám giò chả của thím Mỹ Hương (mẹ của Nguyễn đăng Sơn, bố Sơn làm trên đài phát thanh Dalat), kế đó là phở Tùng, nhà may Ngân (trước đó là tiệm ăn Bắc Hương), nhà hàng Mai Hương (cháu của thím Mỹ Hương), nhà hàng tàu của bà Sao, ngân hàng phát triển nông nghiệp,k hách sạn của ông Ngô La, lò bún bà Hoạt,nhà sách Khải Minh, tiệm bánh rồng vàng Hải Dương, nhà may Chí Công, tiệm giày Khanh...(wow nhờ đọc mấy bài về Dalat của đen thui mà mình cũng sáng ra một chút). Trước đó khi tiệm phở Tùng bị cháy bố mẹ tui có mua lại khu này và dự tính là sẽ xây thương xá Dalat,nhưng xây được nửa chừng thì không mấy người đặt mua gian hàng nên đã trở thành nhà ở.
Dãy đối diện nhà sách Khai Trí thì có tiệm giày Bata, tiệm bà Phúc, bà Lê Thị khiêm bán len. Một trong hai bà này là mẹ của Nam Trân hay Đào, học Yersin với mình. Có Ngân hàng Tín Nghĩa mà một thời mình bỏ tiền trong này trước khi đi Tây. Phía bên góc gần cầu thang vào chợ Mới thì có tiệm bà Cháu, người Huế bán xe đạp, Honda góc Phan Bội Châu, sau này xây cái nhà mấy tầng. Tiệm của ông Tây bán rượu, tiệm hình Nam Sơn và có tiệm bán đồ cho du khách mà hồi nhỏ mình lấy mấy bịch hột xanh đỏ tím vàng đem về nhà rồi mấy anh em xúm lại xâu chỉ, làm vòng để giao lại để họ bán cho du khách. Phía bên cái đồi nhìn xuống chợ mới thì có mấy cái kiosque bán đồ lưu niệm cho du khách, họ cưa gỗ thông, đánh vernis vẽ thác Cam Ly, Hồ Xuân Hương,....mình có học nghề này tính sang Tây cưa gỗ bán kiếm tiền ăn học nhưng khi qua Tây thì không có đất dụng võ, chỉ có cưa vài con rồng tặng Tây đầm.
Hình như Ngô Văn Thuỷ 11B, có làm mấy cái thiệp, cắt hình bóng con gái với mái tóc thề, dán giấy pelure trắng hay hồng, thiên thanh rồi ép hoa pensée vào rồi để mối ở mấy cái kiosque này, bán cho con gái trời bắt mộng mơ, trai mê gái hay du khách. Chổ này hay có một ông bán bong bóng đẫy xe đạp bán mà hồi nhỏ mình hay mua, gần mấy hàng bán Hoa Lan và bãi giữ xe Honda cho rạp Hoà Bình.
Phía dãy Hoà Bình bên phải của rạp thì có một tiệm bazar của một ông Chà và Ấn độ mà trước khi đi Tây, ông cụ mình có mua một sợi dây nịt cho mình ở đây. Có hai anh em học Trần Hưng Đạo có một cái quầy trước một tiệm, chắc thuê của cái tiệm ở đây làm nghề ép nhựa, ai có giấy tờ gì đều đem ra đây bọc nylon lại hết. Họ chỉ có cái bàn, gắn cái fermature bằng sắt ở trên miếng gỗ và cái bàn ủi bằng than thêm hai cuộn nylon. Họ lấy kéo cắt giấy nylon theo khổ rồi kẹp giấy tờ vào, để cái mé trên cái fermature rồi lấy cái bàn ủi, đẩy trên cái khăn chồng lên tấm nylon để tránh nhựa chảy rồi lấy cái kéo cắt gọn ghẻ lại kiếm tiền dễ dàng. Sau này hai tên này đi lính nên chỉ còn ông bố làm. Mình hay đứng xem hai anh em này ép nylon khi trú mưa ở đây.
Có lò bánh mì Vĩnh chấn và Vĩnh Hoà hình như là anh em đối diện nhau trên đầu đường Duy Tân. Hình như mình có học chung với Mã Kiến Lương, con tiệm Vĩnh Hoà, sau này hắn đổi tên, khai trụt tuổi thành Mã Kiến Hậu, đánh vũ cầu rất chiến. Sau Mậu Thân nhà hắn mua được cái máy làm bánh mì bằng điện đầu tiên ở Đà Lạt nên làm ăn rất khá giả, hàng ngày cứ thấy Thiên Hạ bu lại đứng đợi mua bánh mì mới ra lò.
Trời lạnh vừa đi vừa ăn cái bánh mì điện mới ra lò rất là tuyệt vời, nếu chịu khó đợi về nhà thì lấy bơ mặn trét lên, ăn khỏi chê tương tự ngày nay con mình thích bánh mì Tip Top hay Lee's sandwiches.
Cạnh tiệm này có tiệm thuốc Tây Minh Tâm của bác Phấn, nay ở San Jose. Lúc vượt biên thì gia đình bác đến trại tạm cư ở ngoại ô Paris thì mình có ghé thăm nhưng sau này sang Mỹ sinh sống, hình như có cô con gái tên Lili học Yersin với mình một thời. Nghe nói sau này lấy con trai của ông bà Đoàn, ở số 4, gần nhà Phạm Đình Kháng. Chương có thời cũng học chung vơi mình ở Ỷersin, đi du học bên Mỹ trước mình, có em trai tên Trình, mà mình có mời đến Văn Học đánh trống khi tổ chức văn nghệ năm 12B. Ông bà Đoàn trước 75 có xây xong hai ba căn nhà ngay khách sạn Cẩm Đô nhìn chéo qua dốc Nhà Làng. Mình có vào nhà này một hai lần nghe mấy tay này chơi nhạc, hình như bản ruột của tên Trình là Les Marionettes vì cứ nghe hắn hát đi hát lại khiến mình thuộc lòng. Ông Đoàn làm về đốn cây rừng xuất khẩu dạo đó nên được coi là đại gia của những năm sau Mậu Thân. Nghe nói ông nay đã về lại sống ở Đà Lạt với người vợ sau này.
Sau này tiệm bánh mì Vĩnh Chấn có trang bị thêm cái lò bánh mì điện nên bớt tình trạng phải đứng hàng giờ dưới trời mưa để mua được ổ bánh mì. Ngay góc Duy Tân và Minh Mạng có tiệm vàng Kim Thịnh của gia đình thằng Biểu, người Huế, bé con học Yersin với mình hay bị bắt nạt nhưng nó có cái mồm to nhất Ỷersin nên sau này không tên nào dám ăn hiếp nó vì sợ bị nó đem tam đời tứ đại ra chửi. Gần đó hình như có tiệm vàng gì quên tên vì thiên hạ hay gọi Bùi Vàng, nhà của anh em Bùi Văn Đông, Bùi Thị Hoa. Mình học chung với Bùi Văn Đông sau này hắn học nhảy qua trường việt rồi đi du học thì phải. Bùi thị Hoa nay ở Paris, quen thân với cô em kế của mình, hình như đi cùng ghe hay gặp lại nhau ở Paris. Chỗ này có hai chiếc xe đẩy bán bánh mì thịt, xịt tương ớt đỏ, dưa leo. Bánh mì này họ lấy ở lò Phan Đình Phùng, chỗ dốc đi lên nhà thờ Tin Lành, đường Hàm Nghi, có cái giếng bên cây mít, cạnh chỗ dạy của ông giáo Kim mà mình có học hè hồi nhỏ. Họ bỏ bột nổi khá nhiều nên phồng to kiểu bánh mì ổ Chè Cali.
Mình nhớ năm thi đậu BEPC (Trung học Pháp), ông cụ mua cho cái đồng hồ không người lái, hai cửa sổ và ba mái chèo hiệu Citizen ở tiệm đồng hồ Tiến Đạt ngay bên rạp xi-nê Hoà Bình. Đứng trước rạp Hoà Bình thì tiệm Tiến Đạt nằm phía bên trái, sau mấy cái panneau gắn hình ảnh của phim sắp chiếu trong nay mai, có rào lưới sợ dân chúng buồn buồn đập kính để lấy hình đem về nhà treo. Rạp xi-nê Hoà Bình to nhất trong ba rạp chiếu bóng ở Đà Lạt, xung quanh rạp là các cửa hàng nhỏ được coi là trung tâm của thành phố. Điểm đặc biệt là có một cái chuông cao để gắn cái còi ụ, báo động giới nghiêm. Nhà mình ở Hai bà Trưng mà còn nghe nên không hiểu dân ở trong phố chắc nghe rất to.Hình này chụp ngày chủ nhật vì sinh viên Võ Bị hay được ra vào ngày cuối tuần. Mấy cô gái Đà Lạt hay lấy sĩ quan Võ Bị. Thấy oai hùng quá, rồi có nhiều người trở thành goá phụ. Gần xóm mình có anh Thống, đậu thủ khao Võ Bị, ra trận chết. Chán Mớ Đời
Khu này trước khi mình ra đời là chợ chính của Đà Lạt, sau này Chợ Mới được xây cất thì khu chợ này được đập phá để xây lại được dân địa phương gọi là Chợ Cũ hay Khu Hoà Bình. Sau này, KTS Ngô Viết Thụ thiết kế thêm cái cầu nối liền khu Hoà Bình tới lầu 2 của chợ Mới và cái cầu thang từ góc Lê Đại Hành và Thành Thái xuống chợ Mới ngay bến xe Lam, Chi Lăng. Trước hội trường Hoà Bình là công trường khá lớn của hai đường Thành Thái từ rạp Ngọc Lan đến và đường Lê Đại Hành từ cầu ông Đạo lên. Mỗi lần có mít tinh thì được tổ chức tại đây. Hồi nhỏ thời đệ nhất Cộng Hoà, mình thấy các cuộc mít tinh của đoàn Thanh niên Cộng Hoà, áo xanh mà ông cụ là thành viên được tập họp tại đây.
Sau này thời chính phủ NCK, có cho dựng một pháp trường bằng bao cát gần khu bán Lan, phía sau vũ trường Tulipe Rouge.
Cửa vào rạp xi-nê Hoà Bình được nâng cao lên vì cái nền của rạp bên trong được xây cao từ cửa ra vào và nghiêng thấp từ từ xuống màn ảnh để người ngồi dãy ghế phía sau không bị cái đầu của khán giả phía trước che khuất cho nên phải bước lên mấy bậc thang cấp mới vào foyer của rạp, bên trái là phòng bán vé mà mình từng chen lấn như đi ăn cướp để mua vé nhất là ba ngày Tết. Thường mấy ngày Tết họ chiếu phim tồi nhất vì ai cũng đi coi, sau đó vài tuần khi khán giả hết tiền lì xì thì mới chiếu phim hay. Đối diện phòng bán vé là nơi quảng cáo các hình ảnh của phim đang chiếu hay sắp chiếu. Sau khi chen lấn mua được vé thì phải bước lên vài thang cấp mới vào được hội trường. Bên trong được chia làm hai dãy ghế. Hình như có ba loại vé cho ba loại ghế xanh vàng đỏ. Vé đắt nhất là màu xanh, gần cửa ra vào, sau đến vàng thì phải, rồi đỏ gần màn ảnh. Hồi nhỏ mình hay mua vé bình dân, ngồi hàng ghế đỏ nên coi xong thường là hai suất cho đã ghiền nên bước ra khỏi rạp là đói meo, mắt hoa, chóng mặt. Mình coi ở đây Dr. Zhivago, Le Cid, Tần Thuỷ Hoàng, La colère d' Achille, Tân Độc Thủ Đại Hiệp có Khương Đại Vệ đóng, Thập Tam Thái Bảo mà cuối cùng KĐV bị tứ Mã phân thây...
Sau năm Mậu Thân thì mình nhớ có lần lính Lực Lượng Đặc Biệt của Mỹ gồm toàn người Nùng, gốc Tàu,...được Mỹ trả lương đi lùng các lính cảnh sát dã chiến đánh. Mình đang ở chợ dưới thì nghe súng liên thanh thì ngạc nhiên vì dạo đó lính VNCH xài toàn M1 hay Garant bắn từng viên, chỉ có AK 47 mới bắn liên thanh được nhưng tiếng nổ nghe khác, nhìn ra thì thấy vài tên lính cảnh sát dã chiến chạy từ cầu thang chợ xuống bến xe lam rồi chạy vào dưới chợ núp, trong khi mấy tên lính LLĐB ôm súng AR17 chạy đi lùng. Sau này mới hiểu lý do; có một tên LLĐB gốc Hoa đang đứng chơi với tên soát vé ở rạp Hoà Bình thì có mấy tên lính cảnh sát dã chiến muốn vào coi cọp nhưng tên LLĐB không cho bị CSDC đánh thì anh chàng này chạy về trại kêu lính LLĐB mà mình có biết vài tên vì trên đường Thi Sách có tên D. đầu bò, người Nùng, nói giọng bắc cả dòng họ nó đi LLĐB hay lái xe Jeep Mỹ về, đeo súng AR 15, lựu đạn cá nhân loại nhỏ,...
Cuối rạp thì có hai cửa thoát phòng cháy, bên phải thì chạy thẳng ra ngoài cạnh tiệm bazar của một ông người chà và còn cửa bên trái thì chạy thẳng ra bên tiệm kính Anh Lân. Phía sau chỗ tiệm Thanh Nhàn, nơi có con đường đi xuyên khu Hoà Bình từ tiệm Mekong xuống cầu thang vô lầu hai của chợ Mới thì có một cái cửa đôi phòng cháy. Hậu trường của rạp này nhỏ nên các gánh hát cải lương không mượn chỗ này vì không làm sân khấu được nên chỉ có tổ chức đại nhạc hội của Phi Thoàn, Tùng Lâm thôi. Trường Văn Học thường mướn rạp này để chiếu phim hay văn nghệ cho học sinh của trường xem. Mình nhớ coi phim Nắng Chiều có người đẹp Bình Dương đóng và một lần trường Văn Học tổ chức văn nghệ có mời ban nhạc Rolling Wheels chơi.
Ông chủ tiệm đồng hồ Tiến Đạt, người Bắc, có cái tiệm coi như rộng nhất ở khu này vì ba căn nhập lại, sát góc bên trái của rạp Hoà Bình. Lúc mới xây thì chia ra từng căn cở tiệm sửa radio Việt Quang nhưng dần dà có người bán thì mấy hàng bên cạnh mua, nới rộng thêm tiệm của họ.
Mỗi lần đi bát phố ở khu này, mình hay ghé lại xem đồng hồ Seiko, Bulova, Citizen,.. Mình thích nhất hiệu Seiko nhưng ông cụ mua hiệu Citizen vì rẻ nhưng cũng là niềm hạnh phúc vô biên. Sau này sang Tây thì cái đồng hồ này chết máy nên cũng không đeo đồng hồ tự dạo đó.
Năm ngoái về thăm Đà Lạt mình vẫn thấy cái đồng hồ con gà treo tường mà 50 trước bà cụ mình mua ở tiệm này, nay không còn chạy nữa. Năm 3ème mình bắt đầu không thấy rõ chữ trên bảng nên phải xin lên bàn đầu ngồi nhưng ông cụ không cho đi khám mắt đến khi sang Văn Học thì oải quá năn nỉ ông cụ đưa ra tiệm kính Anh Lân để đo mắt thì thấy cận trên 4 độ. Có lẽ ông cụ mình là gốc Bắc Kỳ nên quen hay mua đồ ở mấy tiệm do dân Bắc Kỳ làm chủ. Tiệm Anh Lân cũng rộng tương tự tiệm Tiến Đạt, có cái bảng đọc chữ khi khám mắt ở giữa để xem độ cận của khách hàng. Mấy anh em mình đều là thân chủ của tiệm Anh Lân đến 75. Tiến Đạt thì sau 75 không thấy trở lại Đà Lạt.
Cạnh tiệm Anh Lân là tiệm sửa radio Việt Quang, có thâu băng nhạc chắc lậu nên dạo đó đi ngang là nghe nhạc Phượng Hoàng vang rền trời.
Có lẽ dãy tiệm này hướng Tây hay Nam nên thấy có mấy tấm vải, biển quảng cáo được che nắng mưa. Nghe nói bà Việt Quang nay sống ở ấp Cô Giang, trồng Lan bán. Ông cụ mình thân với ông Việt Quang nên hay tụ tập ở đây với nhóm đặc phái viên của tờ báo Tiền Tuyến và Con Ong.
Trong nhóm này có chú Nê, anh của chú Nô ở ấp Cô Giang hay hát trên đài phát thanh Đà Lạt. Chú Nê ngày xưa có dạo đi tù chung với bà cụ mình khi tham gia kháng chiến chống Tây. Chú Nô đi lính, hay đánh bóng bàn với anh Tín, du học bên Nhật về, đánh kỉểu cầm thìa, vô địch vùng 2 ở cái tiệm cho mướn bàn ở đường Minh Mạng, ngay dốc Tăng Bạt Hổ, đối diện tiệm chè Long Phụng Lầu. Mổi lần có tin gì lạ thì ông cụ mình hay đánh điện tín về Saigon. Nhóm này hay trù trì ở nhà hàng Mekong nơi tổ chức tiệc cưới của ông bà cụ mình khi xưa. Mình có ăn mì xào với ông cụ ở tiệm này một lần khi đậu bằng Trung học Pháp.
Nguyễn Bình, ông thầy dạy Thái cực đạo của mình bị 302 chĩa súng đánh hội đồng tại đây khi ngồi uống cà phê với hai cô gái. Ông này chả dạy gì cả, cứ vác xe moto 125 cc chở gái chạy vòng vòng.Cạnh tiệm Mekong thì có tiệm bán radio, máy truyền hình Việt Hoa. Bên cạnh là tiệm bazar Sàigòn cua rông người Ấn Độ.
Dãy nhà này rất sâu, ăn ra phía sau tới cái đường nhỏ phía sau, hình như tên đường là Nguyễn Biểu nối đường Minh Mạng và Tăng bạt Hổ, có mấy quán nhỏ bán thức ăn, có bà 7 Quốc bán sữa đậu nành. Mình nhớ có lần ông cụ mình dẫn vào tiệm Việt Hoa bán máy truyền hình, máy nghe đĩa nhạc, radio,.. Mình mê cái tivi vì lúc đó buổi chiều đang phát sóng chương trình đố vui để học rồi vài tuần sau thấy ông cụ bê cái máy nghe đĩa về, cũng to như máy tivi, có bốn chân, có radio và máy quay đĩa, hiệu Panasonic. Ông cụ mình mua đĩa hát và dì Thương ở tiệm Hiệp Thạnh, đường Duy Tân cho mình mấy cái đĩa cải lương cũ 78 tours vì dạo đó người ta sản xuất đĩa 45 vòng có hai bản nhạc hay 33 vòng có nhiều bản nhạc còn 78 vòng thì nó dày và nặng. Khi đĩa quay thì mình cũng chóng mặt vì 78 vòng/ phút, sợ rè kim hay cà lăm. Mấy cái đĩa cũ này hay bị rè nên cứ bị cà lăm. Út Trà Ôn hát 30 năm qua, 30 năm qua, 30 năm qua,...Cũng nhờ mấy đĩa cải lương này mà mình mới biết Tình Anh Bán Chiếu của Út Trà Ôn nên bắt đầu mê cải lương từ dạo đó.
Năm Mậu Thân, gia đình dì Ba Ca trên số 4 chạy tản cư xuống nhà mình. Dì Ba Ca kêu mệ ngoại mình bằng Dì, khuôn mặt rất giống bà ngoại còn dượng Ba Ca thì làm ở ty Kiến Thiết thì phải. Thời Tây, dượng làm nghề tiêm thuốc phiện cho mấy đệ tử của nàng tiên nâu.
Dượng hay kể chuyện dân đi ăn trộm ngày xưa, thổi thuốc mê vào nhà rồi cạy cửa vào ăn trộm hay cách têm thuốc bàn đèn ra sao để được tiền boa. Khi Việt Cộng vào thì gia đình dì đào hầm phía sau vườn để núp. Hôm mồng Ba khi nghe tiếng súng và bom êm nên dượng Ba Ca chui ra khỏi hầm để lên bàn thờ lạy tiễn ông bà để xin mấy đòn bánh tét cho mấy đứa con ăn thì nhìn ra sân thấy quả bom chưa nổ nằm chình ình trước sân.
Hai phút sau là cả nhà bỏ của, chạy lấy người xuống nhà mình xin tá túc. Dì dượng có 5 trai 1 gái, anh đầu tên Việt, học nghề thợ tiện ở tiệm Luồng Điện của ông nội Trần Trọng Ân ở đường Phan Đình Phùng, bên cạnh có chiếc xe mì của bà Tàu bán mì vịt tiềm buổi chiều, hay đeo con phía sau lưng để bán mì còn ông chồng thì tối ngày binh xập xám chướng. Anh Việt sau này đi Xây Dựng Nông Thôn ở Tùng Nghĩa.
Người kế là chị Hoa, rồi anh Hiệp, Thành (Bồn lừa của Trần Hưng Đạo) nghe nói sau này làm nghề cắt tóc ở La Sơn Phú Tử rồi Tèo Anh, Tèo Em,.. Mỗi tối sau khi ăn cơm là hai gia đình ngồi quanh cái máy nghe tin tức đài BBC chương trình Việt Ngữ, rồi mở mấy cái đĩa của ban AVT 45 vòng. Cứ nghe đi nghe lại mấy đĩa hát này trong vòng ba tháng nghĩ hè bất đắc dĩ vì VC có chơi thêm tổng công kích đợt 2, nên ngày nay mình có thể giả giọng Huế, Bắc, Quảng,.. Ngày nào hai gia đình đều ngồi bên cái máy, nghe tới nghe lui đến hết mấy đĩa thì nghe lại rồi cười đến ngày nay mình vẫn còn thuộc mấy bài này. Sau này tới thời nghe băng loại 180 thì ông cụ có mua cái máy hiệu TEAC rồi thâu băng ở tiệm Việt Quang. Dạo ông bà cụ mình sang chơi, mình có đưa ông bà cụ đi ngày Đà Lạt thì có gặp bà Việt Hoa đang ở quận Cam.
Cạnh Việt Hoa là tiệm của bà Phúc Thị Lai, bán vải rồi đến tiệm Chà Và, chuyên bán đồ Mỹ phẩm cho phụ nữ nên mình chỉ nhớ sơ sơ rồi đến tiệm Đức Xưng Long, bán tạp hoá rồi Lưu Vĩnh Ký bán sắt, có thêm cái tiệm ở bên đường Duy Tân. Ông Lưu Vĩnh Ký này, ngày xưa muốn hỏi bà cụ mình cho con trai của ông ta nhưng bà cụ không chịu, nếu không thì nay mình đã mang tên Lưu Linh.Đường Tăng Bạt Hổ , góc tiệm ăn Mekong ngày xưa
Đối diện tiệm ăn Mekong, góc đường Tăng Bạt Hổ thì có tiệm vàng Bùi Thị Hiếu, con của ông Bùi Duy Chước, có mấy người con học Yersin, nghe nói nay ở bên Pháp. Tiệm này được coi là một trong những tiệm vàng đầu tiên ở Đà Lạt, bên cạnh là tiệm giầy Trung Việt rồi tiệm sách Liên Thanh, có con học Yersin rồi đến nhà in Lâm Viên của thằng Phước, người cao cao mà có thời mình học tư chung ở nhà tên này với anh Mai, con ông thầy Kim, người Bắc ở trong xóm, sau lưng phòng mạch Bác sĩ Lương, ông nội của Tuấn Toto ở Phan Đình Phùng. Anh chàng này học Yersin lớp première, một con mắt bị hư hay lé sau này đi đâu không biết. Có lần hè mình học tư với chị của một tên Hà, học chung ở Yersin ở góc Duy Tân và Phan Đình Phùng, sau biệt thự của gia đình tên Hà này, hình như dân bắc kỳ là đường Thủ Khoa Huân. Mình có gặp lại ông thầy Kim khi về thăm Đà Lạt trong lúc ăn phở với ông cụ ở bến xe Tùng Nghĩa, sau lưng khu Hoà Bình, kể sang Mỹ rồi về VN sống với bà vợ thứ hai, cạnh tiệm Lâm Viên thì có tiệm phở gà Bắc Hương, nhà Nguyễn Đăng Sơn có thời học chung với mình sau qua trường Việt trước, đậu Tú tài đi du học ở Pháp trước mình một năm, học ở Troyes, nghe nói nay vẫn ở Pháp, lấy vợ made in VN. Tên này dạo đi Hướng Đạo thường được xem là hướng đạo viên gương mẫu, hình như chung đoàn với Đinh Gia Lành, Nguyễn Trung Thiện. Cạnh đó thì có tiệm Phở Tùng, bị cháy sau Mậu Thân cạnh cái dốc đi xuống đường Phan Đình Phùng gần tiệm bảo hiểm Nguyễn Đình Hoè và tiệm uốn tóc Ba Lê. Mình nhớ dạo đó đứng ở nhà mình bên Hai Bà Trưng thấy lửa khói mịt mù như thời VC tổng tấn công hình như cây xăng ở bến xe gần đó bị cháy. Sau này xây lại thì rất đông khách như các thầy địa lý bảo mua nhà cháy là hên, làm ăn phát đạt.Black paint cho tui bổ túc thêm mấy "căn hộ"của khu nhà tui:
Cạnh nhà in Lâm Viên(mà bây giờ đổi thành khách sạn Europa)là nhà hàng cơm tám giò chả của thím Mỹ Hương (mẹ của Nguyễn đăng Sơn, bố Sơn làm trên đài phát thanh Dalat), kế đó là phở Tùng, nhà may Ngân (trước đó là tiệm ăn Bắc Hương), nhà hàng Mai Hương (cháu của thím Mỹ Hương), nhà hàng tàu của bà Sao, ngân hàng phát triển nông nghiệp,k hách sạn của ông Ngô La, lò bún bà Hoạt,nhà sách Khải Minh, tiệm bánh rồng vàng Hải Dương, nhà may Chí Công, tiệm giày Khanh...(wow nhờ đọc mấy bài về Dalat của đen thui mà mình cũng sáng ra một chút). Trước đó khi tiệm phở Tùng bị cháy bố mẹ tui có mua lại khu này và dự tính là sẽ xây thương xá Dalat,nhưng xây được nửa chừng thì không mấy người đặt mua gian hàng nên đã trở thành nhà ở.
Dãy đối diện nhà sách Khai Trí thì có tiệm giày Bata, tiệm bà Phúc, bà Lê Thị khiêm bán len. Một trong hai bà này là mẹ của Nam Trân hay Đào, học Yersin với mình. Có Ngân hàng Tín Nghĩa mà một thời mình bỏ tiền trong này trước khi đi Tây. Phía bên góc gần cầu thang vào chợ Mới thì có tiệm bà Cháu, người Huế bán xe đạp, Honda góc Phan Bội Châu, sau này xây cái nhà mấy tầng. Tiệm của ông Tây bán rượu, tiệm hình Nam Sơn và có tiệm bán đồ cho du khách mà hồi nhỏ mình lấy mấy bịch hột xanh đỏ tím vàng đem về nhà rồi mấy anh em xúm lại xâu chỉ, làm vòng để giao lại để họ bán cho du khách. Phía bên cái đồi nhìn xuống chợ mới thì có mấy cái kiosque bán đồ lưu niệm cho du khách, họ cưa gỗ thông, đánh vernis vẽ thác Cam Ly, Hồ Xuân Hương,....mình có học nghề này tính sang Tây cưa gỗ bán kiếm tiền ăn học nhưng khi qua Tây thì không có đất dụng võ, chỉ có cưa vài con rồng tặng Tây đầm.
Hình như Ngô Văn Thuỷ 11B, có làm mấy cái thiệp, cắt hình bóng con gái với mái tóc thề, dán giấy pelure trắng hay hồng, thiên thanh rồi ép hoa pensée vào rồi để mối ở mấy cái kiosque này, bán cho con gái trời bắt mộng mơ, trai mê gái hay du khách. Chổ này hay có một ông bán bong bóng đẫy xe đạp bán mà hồi nhỏ mình hay mua, gần mấy hàng bán Hoa Lan và bãi giữ xe Honda cho rạp Hoà Bình.
Phía dãy Hoà Bình bên phải của rạp thì có một tiệm bazar của một ông Chà và Ấn độ mà trước khi đi Tây, ông cụ mình có mua một sợi dây nịt cho mình ở đây. Có hai anh em học Trần Hưng Đạo có một cái quầy trước một tiệm, chắc thuê của cái tiệm ở đây làm nghề ép nhựa, ai có giấy tờ gì đều đem ra đây bọc nylon lại hết. Họ chỉ có cái bàn, gắn cái fermature bằng sắt ở trên miếng gỗ và cái bàn ủi bằng than thêm hai cuộn nylon. Họ lấy kéo cắt giấy nylon theo khổ rồi kẹp giấy tờ vào, để cái mé trên cái fermature rồi lấy cái bàn ủi, đẩy trên cái khăn chồng lên tấm nylon để tránh nhựa chảy rồi lấy cái kéo cắt gọn ghẻ lại kiếm tiền dễ dàng. Sau này hai tên này đi lính nên chỉ còn ông bố làm. Mình hay đứng xem hai anh em này ép nylon khi trú mưa ở đây.
Có lò bánh mì Vĩnh chấn và Vĩnh Hoà hình như là anh em đối diện nhau trên đầu đường Duy Tân. Hình như mình có học chung với Mã Kiến Lương, con tiệm Vĩnh Hoà, sau này hắn đổi tên, khai trụt tuổi thành Mã Kiến Hậu, đánh vũ cầu rất chiến. Sau Mậu Thân nhà hắn mua được cái máy làm bánh mì bằng điện đầu tiên ở Đà Lạt nên làm ăn rất khá giả, hàng ngày cứ thấy Thiên Hạ bu lại đứng đợi mua bánh mì mới ra lò.
Trời lạnh vừa đi vừa ăn cái bánh mì điện mới ra lò rất là tuyệt vời, nếu chịu khó đợi về nhà thì lấy bơ mặn trét lên, ăn khỏi chê tương tự ngày nay con mình thích bánh mì Tip Top hay Lee's sandwiches.
Cạnh tiệm này có tiệm thuốc Tây Minh Tâm của bác Phấn, nay ở San Jose. Lúc vượt biên thì gia đình bác đến trại tạm cư ở ngoại ô Paris thì mình có ghé thăm nhưng sau này sang Mỹ sinh sống, hình như có cô con gái tên Lili học Yersin với mình một thời. Nghe nói sau này lấy con trai của ông bà Đoàn, ở số 4, gần nhà Phạm Đình Kháng. Chương có thời cũng học chung vơi mình ở Ỷersin, đi du học bên Mỹ trước mình, có em trai tên Trình, mà mình có mời đến Văn Học đánh trống khi tổ chức văn nghệ năm 12B. Ông bà Đoàn trước 75 có xây xong hai ba căn nhà ngay khách sạn Cẩm Đô nhìn chéo qua dốc Nhà Làng. Mình có vào nhà này một hai lần nghe mấy tay này chơi nhạc, hình như bản ruột của tên Trình là Les Marionettes vì cứ nghe hắn hát đi hát lại khiến mình thuộc lòng. Ông Đoàn làm về đốn cây rừng xuất khẩu dạo đó nên được coi là đại gia của những năm sau Mậu Thân. Nghe nói ông nay đã về lại sống ở Đà Lạt với người vợ sau này.
Sau này tiệm bánh mì Vĩnh Chấn có trang bị thêm cái lò bánh mì điện nên bớt tình trạng phải đứng hàng giờ dưới trời mưa để mua được ổ bánh mì. Ngay góc Duy Tân và Minh Mạng có tiệm vàng Kim Thịnh của gia đình thằng Biểu, người Huế, bé con học Yersin với mình hay bị bắt nạt nhưng nó có cái mồm to nhất Ỷersin nên sau này không tên nào dám ăn hiếp nó vì sợ bị nó đem tam đời tứ đại ra chửi. Gần đó hình như có tiệm vàng gì quên tên vì thiên hạ hay gọi Bùi Vàng, nhà của anh em Bùi Văn Đông, Bùi Thị Hoa. Mình học chung với Bùi Văn Đông sau này hắn học nhảy qua trường việt rồi đi du học thì phải. Bùi thị Hoa nay ở Paris, quen thân với cô em kế của mình, hình như đi cùng ghe hay gặp lại nhau ở Paris. Chỗ này có hai chiếc xe đẩy bán bánh mì thịt, xịt tương ớt đỏ, dưa leo. Bánh mì này họ lấy ở lò Phan Đình Phùng, chỗ dốc đi lên nhà thờ Tin Lành, đường Hàm Nghi, có cái giếng bên cây mít, cạnh chỗ dạy của ông giáo Kim mà mình có học hè hồi nhỏ. Họ bỏ bột nổi khá nhiều nên phồng to kiểu bánh mì ổ Chè Cali.
Mỗi sáng có ông Tàu lấy bánh mì ở đây bỏ trong cái bao bố trùm cái mền để giữ bánh mì cho nóng rồi qua đường Hai Bà Trưng rao bán, giao cho nhà mình năm ổ, mỗi đứa nửa ổ nhưng mấy đứa em lớn ăn không đủ nên mình phải nhịn đói đi học. Có lẽ vì vậy mà mình nhỏ con nhất nhà vì hai thằng em cao hơn mình gần một cái đầu. Khu này còn có mấy người bán cóc ổi, thơm, bắp nướng vào mùa lạnh, xoa chút mỡ hành lên trên ăn nức nở. Bánh mì dạo đó mình mê nhất là bánh mì thịt của Tulipe Rouge chỗ bến xe đò Chi Lăng, làm theo kiểu Tây, baguette có paté, sauce mayonnaise gói giấy trắng in chữ sạch sẽ trong khi mấy chỗ khác, gói bằng giấy báo nhưng đắt tiền. Ngoài ra có cái nhà làm bánh croissant ở góc Duy Tân, Hải Thượng, chổ gara Trung Tín ngó qua bùng binh, đi ngang thơm lừng lựng mình hay vào mua bánh mới ra lò ăn.
Cạnh tiệm Vĩnh Chấn có tiệm thuốc Con Cua bán dầu Nhị thiên đường và rượu thuốc mà mình hay gọi Huỳnh Quốc Hùng là Khương Đại Vệ, tán gái nhanh như thần. Từ tiệm Vĩnh Chấn đi lại phía đường Thành Thái thì có tiệm thuốc Tây Nguyễn Văn An, nhà hàng Shanghai mà mình hay đem bồ câu đến đây bán. Dạo đó, nhà mình có nuôi Bồ câu, mình sơn chuồng rất đẹp so với nhà ông Quán nên chim của ông ta hay ở đâu hay bay về chuồng của mình để cù rũ, đạp mái thế là mình canh me, bắt mấy con chim dại gái này đem ra tiệm ăn này bán để họ làm Bồ câu hầm thuốc Bắc, hạt sen cho khách. Kế đó thì có tiệm vàng của bà Tư Bổ, tiệm Song Song của Vĩnh Ích, chắc cùng dòng họ với Vĩnh Chấn, bán cà phê, trà rồi đến tiệm ông bà Võ Quang Tiềm mà bà cụ mình kêu bằng Dì Dượng, chị em bạn dì với mệ ngoại mình, bán rượu.Tiệm ông Võ Quang Tiềm (Vinh Hưng)
Khi mới vào Đà Lạt lập nghiệp, ông Võ Quang Tiềm làm nghề thợ may, sau xoay qua bán rượu và thuốc lá Cẩm Lệ. Thời Tây, thuốc lá, thuốc phiện và rượu là do nhà cầm quyền quản lý nên chỉ có môn bài mới được bán. Ai nấu rượu lậu hay bán thuốc phiện lậu bị bỏ tù. Ông Tiềm là đại lí ở vùng Cao Nguyên bán sĩ lại cho các tiệm bán lẻ trong vùng nên rất giàu, có mấy tiệm ở đường Hàm Nghi làm kho chứa rượu và hàng.
Mình thấy mấy cái lu to bằng sành đựng rượu trong tiệm. Khi bà cụ mình lập gia đình thì ông Tiềm có nói xuống thành phố Di Linh, ở nhà của ông và bán rượu ở đó nhưng bà cụ mình đã buôn bán ở chợ cũ nay là rạp Hoà Bình.
Thời Tây thì dân mình sợ nhất là lính Lê Dương (légionnaire) và Mặt Gạch (malgache). Nhóm lính trước là những thành phần bất hảo, bị tiền án tử hình hay lính đào ngũ,... Khi vào đoàn lính này thì coi như quá khứ bị xoá bỏ nên lính này không sợ chết, đi tới đâu là cướp hiếp tới đó còn lính mặt gạch thì dân thuộc địa Pháp ở Madagascar, Phi Châu như người VN được tuyển sang Pháp đánh giặc trong hai thế chiến. Năm 1945, lính Tây thay thế lính Anh, đổ bộ lại Đông Dương để giải giới quân đội Nhật thì dân Đà Lạt bỏ chạy tản cư vì phong trào kháng chiến chống Pháp tuyên truyền, ông Tiềm không chịu tản cư, ở lại Đà Lạt và mua nhà của dân chạy loạn với giá rẻ như bèo nên sau này được coi là người giàu nhất Đà Lạt. Khi hồi cư thì có một số người bị chiếm đoạt nhà cửa, tiệm buôn tương tự sau 75 nhưng không dám hó hé vì sợ bị chụp mũ theo Việt Minh. Sau 75 thì nhà nước tịch thu hết cả 100 căn nhà cho thuê, khách sạn và tài sản trong thời kỳ đánh tư sản, nay hình như chỉ còn một căn nhà do một người cháu ở thì phải. Lần đầu tiên về thăm Đà Lạt thì có đi thăm mộ ông bà ở Mã Thánh do người con rể KTS Ngô Viết Thụ phát hoạ nhưng nay nghe nói khu này bị giải tỏa nên không biết con cháu dời đi đâu vì mấy người con còn sống đều ở bên Pháp.Chợ Cũ Đà Lạt xưa, còn được gọi là Chợ Cây. Lúc này dãy tiệm chụp hình Hồng Châu được xây cất. Dãy phố của rông Võ Đình Dung đã được xấy cất.
Hình này cho thấy dãy phố bên phải đã được xây, sau này ông Ngô Viết Thụ thiết kế lại, phá bỏ, đền cho mấy người chủ dãy nhà dưới chợ Mới
Nhìn từ đầu đường Duy Tân chỗ tiệm thuốc bắc Hai COn Cua
Mình có nhiều tấm ảnh thời Tây, để hôm nào buồn đời mình tải lên và chú thích. Mình tính làm chuyện này lâu rồi mấy năm tước nhưng lười. Phải tìm động lực
Nghe nói khu Hoà Bình là do ông Võ Đình Dung, thầu khoán xây cất, ông ta làm chủ mấy căn ở dãy phố này. Thời Tây, ông Võ đình Dung, bà con chi bên vợ mình đi thầu xây cất rồi tụi Tây giao tiền giả nhưng tối nên không kiểm lại. Về nhà tối ngủ bà vợ thấy ai về mách nên đêm khuya thức dậy, xét lại mới khám phá ra tiền giả nên đem đốt hết. Vừa đốt xong là bảo an kéo lại lục soát nhà nhưng không thấy nên sau đó ông bà mới cúng tiền xây chùa Linh Sơn, được xem là nhà hảo tâm nổi tiếng của Đà Lạt rồi hưu trí, không làm ăn thầu xây cất nữa. Nghe kể cách làm ăn hại nhau khi xưa và ngày nay nên mình không dám nghĩ đến làm ăn hay về sinh sống tại VN.
Cạnh tiệm ông Võ Quang Tiềm thì có một ngân hàng hình như Đông Phương, Văn phòng Hàng Không Việt Nam, đến tiệm ăn Nam Sơn trước bãi xe taxi mà anh Bôn và Thanh của đội banh Đà Lạt bị VC gài lựu đạn nơi xe bị nổ chết, cuối cùng là phòng nha sĩ Trình, bố tên Hy học Yersin với mình có lần nhổ mình mấy cái răng và mấy thang cấp nối đường Thành Thái qua Trương Vĩnh Ký chỗ trường Đoàn Thị Điểm mà mình từng học Hội Việt Mỹ ở đây.
Phía sau dãy phố này là đường Trương Vĩnh Ký, có mấy quán ăn mà nổi tiếng nhất là quán bánh xèo của hai ông bà người Huế. Xa Đà Lạt 40 năm nhưng mình vẫn nhớ rau xà lách couronne mà ngày xưa ăn phở thường có rau này. Bên Tây thì mình có ăn loại rau này có vị hơi đắng đắng, dòn dòn, lá có răng tua tua nhưng bên Mỹ thì không thấy bán. Về Đà Lạt tuy thèm nhưng không dám ăn vì lần đầu về mình bị Tào Tháo rượt ói mật xanh luôn vì ăn rau. (còn tiếp)
Sơn đen
11/29/13
Cạnh tiệm Vĩnh Chấn có tiệm thuốc Con Cua bán dầu Nhị thiên đường và rượu thuốc mà mình hay gọi Huỳnh Quốc Hùng là Khương Đại Vệ, tán gái nhanh như thần. Từ tiệm Vĩnh Chấn đi lại phía đường Thành Thái thì có tiệm thuốc Tây Nguyễn Văn An, nhà hàng Shanghai mà mình hay đem bồ câu đến đây bán. Dạo đó, nhà mình có nuôi Bồ câu, mình sơn chuồng rất đẹp so với nhà ông Quán nên chim của ông ta hay ở đâu hay bay về chuồng của mình để cù rũ, đạp mái thế là mình canh me, bắt mấy con chim dại gái này đem ra tiệm ăn này bán để họ làm Bồ câu hầm thuốc Bắc, hạt sen cho khách. Kế đó thì có tiệm vàng của bà Tư Bổ, tiệm Song Song của Vĩnh Ích, chắc cùng dòng họ với Vĩnh Chấn, bán cà phê, trà rồi đến tiệm ông bà Võ Quang Tiềm mà bà cụ mình kêu bằng Dì Dượng, chị em bạn dì với mệ ngoại mình, bán rượu.Tiệm ông Võ Quang Tiềm (Vinh Hưng)
Khi mới vào Đà Lạt lập nghiệp, ông Võ Quang Tiềm làm nghề thợ may, sau xoay qua bán rượu và thuốc lá Cẩm Lệ. Thời Tây, thuốc lá, thuốc phiện và rượu là do nhà cầm quyền quản lý nên chỉ có môn bài mới được bán. Ai nấu rượu lậu hay bán thuốc phiện lậu bị bỏ tù. Ông Tiềm là đại lí ở vùng Cao Nguyên bán sĩ lại cho các tiệm bán lẻ trong vùng nên rất giàu, có mấy tiệm ở đường Hàm Nghi làm kho chứa rượu và hàng.
Mình thấy mấy cái lu to bằng sành đựng rượu trong tiệm. Khi bà cụ mình lập gia đình thì ông Tiềm có nói xuống thành phố Di Linh, ở nhà của ông và bán rượu ở đó nhưng bà cụ mình đã buôn bán ở chợ cũ nay là rạp Hoà Bình.
Thời Tây thì dân mình sợ nhất là lính Lê Dương (légionnaire) và Mặt Gạch (malgache). Nhóm lính trước là những thành phần bất hảo, bị tiền án tử hình hay lính đào ngũ,... Khi vào đoàn lính này thì coi như quá khứ bị xoá bỏ nên lính này không sợ chết, đi tới đâu là cướp hiếp tới đó còn lính mặt gạch thì dân thuộc địa Pháp ở Madagascar, Phi Châu như người VN được tuyển sang Pháp đánh giặc trong hai thế chiến. Năm 1945, lính Tây thay thế lính Anh, đổ bộ lại Đông Dương để giải giới quân đội Nhật thì dân Đà Lạt bỏ chạy tản cư vì phong trào kháng chiến chống Pháp tuyên truyền, ông Tiềm không chịu tản cư, ở lại Đà Lạt và mua nhà của dân chạy loạn với giá rẻ như bèo nên sau này được coi là người giàu nhất Đà Lạt. Khi hồi cư thì có một số người bị chiếm đoạt nhà cửa, tiệm buôn tương tự sau 75 nhưng không dám hó hé vì sợ bị chụp mũ theo Việt Minh. Sau 75 thì nhà nước tịch thu hết cả 100 căn nhà cho thuê, khách sạn và tài sản trong thời kỳ đánh tư sản, nay hình như chỉ còn một căn nhà do một người cháu ở thì phải. Lần đầu tiên về thăm Đà Lạt thì có đi thăm mộ ông bà ở Mã Thánh do người con rể KTS Ngô Viết Thụ phát hoạ nhưng nay nghe nói khu này bị giải tỏa nên không biết con cháu dời đi đâu vì mấy người con còn sống đều ở bên Pháp.Chợ Cũ Đà Lạt xưa, còn được gọi là Chợ Cây. Lúc này dãy tiệm chụp hình Hồng Châu được xây cất. Dãy phố của rông Võ Đình Dung đã được xấy cất.
Hình này cho thấy dãy phố bên phải đã được xây, sau này ông Ngô Viết Thụ thiết kế lại, phá bỏ, đền cho mấy người chủ dãy nhà dưới chợ Mới
Nhìn từ đầu đường Duy Tân chỗ tiệm thuốc bắc Hai COn Cua
Mình có nhiều tấm ảnh thời Tây, để hôm nào buồn đời mình tải lên và chú thích. Mình tính làm chuyện này lâu rồi mấy năm tước nhưng lười. Phải tìm động lực
Nghe nói khu Hoà Bình là do ông Võ Đình Dung, thầu khoán xây cất, ông ta làm chủ mấy căn ở dãy phố này. Thời Tây, ông Võ đình Dung, bà con chi bên vợ mình đi thầu xây cất rồi tụi Tây giao tiền giả nhưng tối nên không kiểm lại. Về nhà tối ngủ bà vợ thấy ai về mách nên đêm khuya thức dậy, xét lại mới khám phá ra tiền giả nên đem đốt hết. Vừa đốt xong là bảo an kéo lại lục soát nhà nhưng không thấy nên sau đó ông bà mới cúng tiền xây chùa Linh Sơn, được xem là nhà hảo tâm nổi tiếng của Đà Lạt rồi hưu trí, không làm ăn thầu xây cất nữa. Nghe kể cách làm ăn hại nhau khi xưa và ngày nay nên mình không dám nghĩ đến làm ăn hay về sinh sống tại VN.
Cạnh tiệm ông Võ Quang Tiềm thì có một ngân hàng hình như Đông Phương, Văn phòng Hàng Không Việt Nam, đến tiệm ăn Nam Sơn trước bãi xe taxi mà anh Bôn và Thanh của đội banh Đà Lạt bị VC gài lựu đạn nơi xe bị nổ chết, cuối cùng là phòng nha sĩ Trình, bố tên Hy học Yersin với mình có lần nhổ mình mấy cái răng và mấy thang cấp nối đường Thành Thái qua Trương Vĩnh Ký chỗ trường Đoàn Thị Điểm mà mình từng học Hội Việt Mỹ ở đây.
Phía sau dãy phố này là đường Trương Vĩnh Ký, có mấy quán ăn mà nổi tiếng nhất là quán bánh xèo của hai ông bà người Huế. Xa Đà Lạt 40 năm nhưng mình vẫn nhớ rau xà lách couronne mà ngày xưa ăn phở thường có rau này. Bên Tây thì mình có ăn loại rau này có vị hơi đắng đắng, dòn dòn, lá có răng tua tua nhưng bên Mỹ thì không thấy bán. Về Đà Lạt tuy thèm nhưng không dám ăn vì lần đầu về mình bị Tào Tháo rượt ói mật xanh luôn vì ăn rau. (còn tiếp)
Sơn đen
11/29/13
Kẻ đào hoa
Nguyễn Hoàng Sơn
Tòng là người gốc Quảng Nam, làng Kỳ Là. Nghe đâu gia đình hắn gốc Minh Hương, khi nhà Thanh giữa thế kỷ 19 để dẹp cuộc khởi nghĩa ly khai của Hồng Tú Toàn nhà Thanh đã tàn sát 70% dân chúng các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và 90% dân chúng tỉnh Quý Châu.
Ông tổ hắn chạy thoát xuống miền nam, ghé lại Taifo, rồi định cư tại vùng này từ đó.
Gia đình hắn làm rẫy trong làng từ mấy đời nay nhưng sau Mậu Thân thì hắn gặp phải nạn học ngày chưa đủ tranh thủ học đêm. Số là ban ngày hắn đi học trường do chính quyền VNCH điều hành rồi chiều đến khi địa phương quân và Xây Dựng Nông Thôn của VNCH rút về thành phố thì lực lượng nằm vùng ra, lùa dân trong làng ra đình, đốt đuốc học tập cách mạng, chống Mỹ cứu nước.
Tòng là người gốc Quảng Nam, làng Kỳ Là. Nghe đâu gia đình hắn gốc Minh Hương, khi nhà Thanh giữa thế kỷ 19 để dẹp cuộc khởi nghĩa ly khai của Hồng Tú Toàn nhà Thanh đã tàn sát 70% dân chúng các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và 90% dân chúng tỉnh Quý Châu.
Ông tổ hắn chạy thoát xuống miền nam, ghé lại Taifo, rồi định cư tại vùng này từ đó.
Gia đình hắn làm rẫy trong làng từ mấy đời nay nhưng sau Mậu Thân thì hắn gặp phải nạn học ngày chưa đủ tranh thủ học đêm. Số là ban ngày hắn đi học trường do chính quyền VNCH điều hành rồi chiều đến khi địa phương quân và Xây Dựng Nông Thôn của VNCH rút về thành phố thì lực lượng nằm vùng ra, lùa dân trong làng ra đình, đốt đuốc học tập cách mạng, chống Mỹ cứu nước.
Just phở it!
Nguyễn Hoàng Sơn
Tuần trước, rảnh nên gọi PDĐ, rủ đi ăn trưa. Hắn hỏi muốn ăn gì thì nói ăn cơm chay cho có rau quả. Hắn bảo là lấy vợ 8X nên chưa ăn chay được và đề nghị ăn phở gà Song Hải. Tiệm này mình có ăn một lần với thằng con khi tiệm phở gà Bolsa đóng cửa nên chạy tới thì thấy một đám thực khách, ghi tên, đứng, ngồi đợi. Chừng đâu 30 phút sau thì chị chạy bàn ra bảo là muốn ăn phở gà thì phải đợi thêm 30 phút nữa nên hai thằng rủ nhau đi ăn tiệm mỳ Tân Định bên cạnh, vì hai thằng phải đón con gái tan trường vào lúc 1:45 pm.
Cách nhau có vài thước mà tiệm mỳ này, dù khuyến mãi, tặng không thêm xíu mại mà nhà hàng vắng như chùa Bà Đanh. Xíu mại chả có gì hấp dẫn cả. Hai thằng đấu láo đến khi xong tô mỳ thì phải chạy đi đón con. Hôm sau, mình dẫn cô con gái ra tiệm Song Hải ghi tên rồi đợi.
30 phút sau thì chị chạy bàn, ra bảo mọi người đợi, chỉ còn 6 tô phở gà mà hai cha con lại nằm số thứ 8 nên bỏ đi ăn phở Vĩnh Ký, ngay góc bên đường.
Tuần trước, rảnh nên gọi PDĐ, rủ đi ăn trưa. Hắn hỏi muốn ăn gì thì nói ăn cơm chay cho có rau quả. Hắn bảo là lấy vợ 8X nên chưa ăn chay được và đề nghị ăn phở gà Song Hải. Tiệm này mình có ăn một lần với thằng con khi tiệm phở gà Bolsa đóng cửa nên chạy tới thì thấy một đám thực khách, ghi tên, đứng, ngồi đợi. Chừng đâu 30 phút sau thì chị chạy bàn ra bảo là muốn ăn phở gà thì phải đợi thêm 30 phút nữa nên hai thằng rủ nhau đi ăn tiệm mỳ Tân Định bên cạnh, vì hai thằng phải đón con gái tan trường vào lúc 1:45 pm.
Cách nhau có vài thước mà tiệm mỳ này, dù khuyến mãi, tặng không thêm xíu mại mà nhà hàng vắng như chùa Bà Đanh. Xíu mại chả có gì hấp dẫn cả. Hai thằng đấu láo đến khi xong tô mỳ thì phải chạy đi đón con. Hôm sau, mình dẫn cô con gái ra tiệm Song Hải ghi tên rồi đợi.
30 phút sau thì chị chạy bàn, ra bảo mọi người đợi, chỉ còn 6 tô phở gà mà hai cha con lại nằm số thứ 8 nên bỏ đi ăn phở Vĩnh Ký, ngay góc bên đường.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)













