Đàlạt vườn rau của thuộc-địa

 Đàlạt vườn rau của thuộc địa #4

 

Sau bao nhiêu khó khăn, ngân quỹ cạn, cuối cùng thì người Pháp có thể thụ hưởng được không khí trong lành của cao nguyên Lâm Viên, xa những cái nóng oai bức nhiệt đới của thuộc địa ở miền đồng bằng như Sàigòn, Hà Nội.

 

Họ cho rằng muốn có sức khoẻ tại thuộc địa, họ cần được bồi dưỡng không khí tươi mát của đồi núi như ở quê nhà. Đàlạt là nơi giúp họ tìm lại không khí trong lành và tìm lại chút gì của quê mẹ. Không có bóng dáng dân địa phương nhiều như ở Sàigòn hay Hà Nội.

 

Dạo ấy, khi người Âu châu nghe nói đến Đàlạt, rừng thiêng nước độc, tạo cho họ hình ảnh rất tiêu cực. Các sách hướng dẫn, nói đến mùng, bệnh viêm, thiếu máu, sốt-rét…

 

Nhưng khi đến Đàlạt thì họ rất ngạc nhiên vì khí hậu ôn đới, không oai bức như ở Sàigòn hay các tỉnh miền nam. Nếu ai lên Đàlạt, khi xe bắt đầu lên đèo Prenn, là chúng ta cảm thấy ngay cái lạnh se-sẻ, nhe-nhẹ của núi rừng khiến người Âu châu yêu thích rồi đồn với bạn bè của họ, tạo nên một phong trào thăm viếng Đàlạt.


Mình có đọc hồi ký của ông Tây dạy mình địa lý khi xưa ở Grand Lycee, kể những ngày đầu đến Đàlạt ra sao. Ông này thuộc dân “coopérant “, nghĩa là thay vì đi nghĩa vụ quân sự 1 năm như các thanh niên pháp thì có thể xin đi làm việc ở một thuộc địa cũ của pháp trong ngành hành chánh hay giáo dục 2 năm. Điều kiện là tốt nghiệp đại học. Tương tự chương trình Peace Corps của tổng thống Kennedy.


Sinh viên mới ra trường biết gì, như sinh viên Tây đầm sang Việt Nam ngày nay, dạy tiếng anh tiếng Tây, kiếm tiền đi chơi. Ông vua Hassan II của xứ mA-rốc , viết thư cho ông bộ trưởng giáo dục pháp, than phiền; Pháp quốc gửi các giáo sư sang xứ ông ta, viết tiếng tây không chuẩn, lại đi dạy dân ông ta.


Dạo mình ở Tây, lúc gần ra trường, cũng có xin đi phi châu thay vì quân dịch 1 năm nhưng khi đi khám sức khoẻ ở trại lính. Mình rên với thằng Tây, phỏng vấn mình, kêu sinh trưởng tại Việt Nam, chán ghét chiến tranh, nghĩ là nó sẽ chấp thuận cho mình đi phi châu 2 năm, ai ngờ nó ghi là miễn quân dịch khiến mình phải lang thang các xứ khác kiếm việc sau khi ra trường.

 

Đàlạt bổng nhiên trở thành địa danh mà các người Âu châu sống trên các thuộc địa tại Đông Nam Á, muốn đến thăm vì có thể ăn thức ăn như ở quê nhà, ăn trái cây như dâu, hay khoai Tây, artichaux,.. như ngày nay chúng ta đến Tiểu Sàigòn ở miền nam Cali.

 


Quảng cáo cho khách sạn LangBiang (tiền thân thân của Palace). Chỉ thấy hình ảnh người thượng Sơn cước.


Đàlạt đã giúp các người Pháp sống tại thuộc địa, tìm được chút gì của quê hương họ. Quan trọng hơn là giúp phổ biến thức ăn nổi tiếng của pháp khắp Đông Dương. Muốn nấu thức ăn pháp thì người ta cần các loại trái cây, rau cải của pháp như khoai Tây, Xà lách, poireaux,… các loại này không thể nào trồng ở nam kỳ.


Hôm qua đi chợ, con gái nói mình phải nấu món 

“Raclette” của Tây. Nó mới đi chơi bên pháp về, ăn món này nhưng tìm đâu ra món phô-mát loại này để làm. Đó là tại Hoa Kỳ ngày nay, còn 100 năm về trước ở Việt Nam thì tìm đâu ra. Chán Mớ Đời 

 

Khi ông Doumer phái ông Jacquet, lo về canh nông ở Đông Dương tìm cách trồng trọt rau cải pháp thì kết quả rất khả quan. Tướng Pennequin nhận xét rằng nếu chúng ta có thể trồng rau cải ở Đàlạt, sẽ giúp cho người Pháp ở lâu bền hơn tại thuộc địa này. Lý do là người Pháp rất chán đồ ăn Việt Nam, họ thèm thức ăn pháp mà các loại rau cải dùng để nấu cơm Tây không có. Bò ở miền nam, nóng quá chúng ốm như bò ma. Đọc trên mạng, có ông nông dân nào cấy được giống bò húc, to lớn, cán bộ kêu để cán bộ quản lý rốt cuộc bò ốm như ma đói. Chán Mớ Đời 

 

Mình đi đâu chơi ở ngoại quốc hay Hoa Kỳ nhưng độ 15 ngày sau là bắt đầu thèm ăn cơm Việt Nam. Mình có ông anh vợ, đi chơi bên Mễ, ông ta đem theo thức ăn Việt Nam đông lạnh cho 5 ngày. Qua đó hâm lên ăn vì không thích ăn đồ Mễ hay đồ Tây. Huống chi người Pháp tự xưng là món ăn của xứ họ là số một, phải nhai cơm mắm bò hốc hay mì chợ lớn hàng ngày.

 

Nghe kể, các người Tây phương sinh sống tại Nam kỳ, đứng xếp hàng và mua với giá cao khi tàu cập bến từ Pháp quốc, bán các thứ như artichaux, táo, dưa Tây,… họ thèm ăn thịt cừu. Họ có tìm cách nuôi ở đảo Phú Quốc nhưng chỉ làm mồi cho cọp và đỉa. Họ có cho nuôi thử cừu ở Đàlạt nhưng bị ký sinh trùng hay cọp xơi hết. Mình không nhớ là có thấy cừu tại Đàlạt. Gà tây thì có ngay góc đường Lê quý Đôn và Hùng Vương, có hai nhà tây, nuôi mấy con này để thịt vào đêm Noel.

 

Ông Doumer có nhờ ông Jacquet, giám đốc canh nông ở vùng Annam, tìm cách gieo giống trồng rau cải tại Đàlạt nhờ vậy mà ngày nay ở Đàlạt mới có cà phê, mận, dâu tây, artichaux, poireau, xà lách,..

 

Trồng rau cải thành công nên người ta đem bán cho tây đầm ở các tỉnh lỵ miền nam như Sàigòn. Vấn đề là chuyên chở rất đắt mà các người làm nông Tây phương rất ít nên không thể sản xuất nhiều để cung ứng cho thị trường Đông Dương. 

 


Đây là hình ảnh mà mình đoán của người Âu châu lập nghiệp trông rau cải tại Đàlạt. Hình ảnh những nhà như nông tại bên Tây. Sau trận bão lụt năm 1932, khu này bị giải toả và biến thành cái hồ lớn. Mình đoán là của vợ chồng ông O’neil vì sau đó không thấy làm lại ở đâu khác. Có hình mộ chôn ông ta nên có lẻ bà vợ về Âu châu.


Do đó, người Pháp mới có kế hoạch cho người việt lên Đàlạt sinh sống, trồng rau để cung cấp cho thực dân ở Đông Dương. Mình nghe anh bạn học cũ, kể ông bố làm cho công ty canh nông nào ở Hà Nội, quên tên rồi, được đưa vào Đàlạt để thử trồng các giống rau cải của Tây. Sau khi Tây về nước thì ông bố anh ta làm vườn ở ấp Hà Đông, cũng cấy các giống rau khác sau này thì đổi qua trồng hoa như Pensée, ...bán.

 

Sau đó, họ mới tuyển các người ở Hà Đông, Nghệ Tỉnh vào để trồng rau cho Tây ăn. Từ đó họ thành lập ra các ấp Nghệ Tỉnh, Hà Đông ở Đàlạt.

 
























Năm 10 ème, mình có học với ông Tây tên Didier, nhà ở đâu gần đèo Prenn. Mình đoán ông ta là một trong những người đến Đàlạt để sinh sống vì nghe nói ông ta có đồn điền trồng cà phê. Nhớ có lần đến nhà ông ta với cả lớp thì được cho uống cho chocolat  Tây lần đầu tiên trong đời. Sau này, có người gửi tấm ảnh của thập tự giá trên đồi. Mình gởi cho một anh lính Mỹ khi xưa thì anh ta cho biết tọa độ của thập tự giá dựa trên bản đồ của mỹ, làm trong thời chiến tranh và nói do một người Tây, có đồn điền làm. Có thể là ông Didier.


Nói chung thì thầy cô tây đầm dạy ở Việt Nam là muốn kiếm thêm lợi nhuận chớ ít ai xuất thân từ trường sư-phạm ở pháp cả. Mình nhớ khi cô HUệ đi du học bên Tây thì trường kêu bà vợ ông Proviseur của Grand Lycee dạy thế. Còn lên trung học thì càng te tua. Có lẻ vì vậy tây có loại bằng thuộc địa và bằng mẫu quốc. Bằng thuộc địa thì dễ hơn nhưng cũn ghét ra lửa với dân ngu khu đen như mình. Nhớ khi xưa, đi học, có mấy cuốn annales luyện thi, đề đề thi thuộc địa và mẫu quốc.

 

Mình không biết mấy người nhà vườn ở ấp Nghệ Tỉnh hay Hà Đông, trồng rau bán cho Tây ra sao. Mình chỉ nhớ là bà vợ của ông Marcel, hay đi mua rau cải trước mùa của nhà vườn. Nhà vườn thì cần tiền để chuẩn bị cho mùa sau nên phải bán rẻ nên bà ta giàu là nhờ vậy.

 

Có lẻ, người Việt trồng rau rồi Tây mua sĩ với giá bèo để bán lại cho Tây thuộc địa ở các tỉnh khác với giá khủng. Hồi nhỏ mình có thấy vài ông Tây làm vườn ở Đàlạt nhưng sau khi ông Kỳ lên làm thủ tướng, ông ta đuổi Tây về hết nên ai có tiền dạo ấy mua lại đất của họ rẻ như bèo nhưng rồi 75 đến thì cũng bay hết. Điển hình là căn nhà của ông Sohier, cạnh hồ Xuân Hương, bán rẻ cho nhà dòng nào quên tên.

 

Hôm trước, nói chuyện với anh bạn học cũ, cháu nội bác sĩ Lương ở đường Phan ĐÌnh Phùng. Mình nhớ khi xưa có ghé nhà anh ta chơi vài lần khi còn học Grand Lycee, nhà số 5 Quang Trung. Anh ta kể khi Việt Cộng vào thì có người ngoài Bắc nói cần nhà nên xin ở căn phía sau dành cho người giúp việc. Dần dần họ xin vào trong nhà nên cuối cùng hiến nhà cho họ, rồi về Sàigòn.

 

Cái hay là nay họ vẫn giữ hình ảnh gia đình anh ta, bàn ghế như xưa. Tự kêu là con cháu của bác sĩ Lương, nhờ ở đây để giữ nhà thờ từ đường. Người này khôn, cứ kêu như vậy thì không bị đuổi như ông thầy Bất, chiếm nhà thầy Chử BÁ Anh, cách đó vài căn sau 75. Anh ta kể là về Đàlạt vào thăm nhà được hết. Họ giữ kỷ lắm như viện bảo tàng cua gia đình.

 

Nếu không có Đàlạt chưa chắc người Việt chúng ta có món pHở nổi tiếng hoàn vũ. Nếu không có rau cải từ mẫu quốc đem qua Đàlạt trồng thì không có món ăn Tây, không có món Pot-au-feu thì sẽ không có món phở ngày nay. Hay cà phê sữa đá, bánh croissant, bánh mì baguette,..

 

Ngày nay, về Đàlạt các nhà làm vườn, thành lập các nhà bằng plastic đầy nơi, để trồng rau, làm mất vẻ mỹ quan của Đàlạt. Xứ này lại sống về du lịch nên có thể trong tương lai, Đàlạt sẽ mất đi phong thái của Tây phương do người Pháp muốn lập một tiểu vương quốc của xứ họ.

 


Không hiểu sao mình thấy bà hoàng hậu Nam Phương này đẹp cực kỳ. Ông Bảo Đại theo mấy bà kia, ra răng. 

(Còn tiếp)

 

Nguyễn Hoàng Sơn 

 

 

Những năm tháng đầu tiên của Đàlạt

 Những năm tháng đầu tiên của Đàlạt #3

 

Nhiều khi nhìn những tấm ảnh Đàlạt xưa, khiến mình tưởng tượng về Đàlạt thời mới khái phá, hoang vu. Không có người kinh, chỉ có các bộ lạc người thượng sống bình yên tại đây lâu năm. Như châu mỹ trước khi bị người Tây phương xâm chiếm.


Cứ tưởng tượng người thượng khi gặp mấy đoàn người Âu châu lên đây săn voi hay cọp với những tiếng nổ chát chúa từ nhưng khẩu súng trường, so sánh với những mũi tên của họ như người xứ Inca, khi mới gặp mặt lần đầu các binh sĩ của triều đình Tây BAn Nha và dần dần dân tộc của họ bị tiêu diệt.


Dạo mình ở Đàlạt, thấy người thượng, đem ngo và lan rừng ra bán ở chợ cho người Việt. Có dạo bà cụ mình mướn họ để làm rẩy khi mua 2 mẫu đất trong Suối Tía để làm vườn. Tuyệt nhiên mình không có bạn là người thượng vì dạo ấy rất ít. Nghe nói trường Văn Học có vài người thượng, được khuyến khích đi học. Mình chỉ nhớ 2 anh chàng người thương to lớn đá banh cho đội Văn Khoa.


Có lẻ họ bị tuyệt giống khi người Pháp bắt họ phá rừng, phá núi để thành lập khu nghỉ dưỡng cho công chức, binh sĩ của họ với giấc mơ xây dựng một chính quyền trung ương Đông Dương tại Đàlạt. La grandeur de France.


Trong thời gian ông cụ mình ở trại cải tạo Đại Ninh, đi thăm nuôi, xe bị hư nên được mấy người Chu-Ru mời bà cụ và mấy bà đi thăm nuôi chồng con vào buông của họ để ngủ qua đêm. Sau này, nhớ ơn họ mình giúp đỡ, tặng xe đạp cho con cháu của họ. Khi xưa, ở Đàlạt mình chỉ nghe nói đến người Mọi, sau về Đàlạt lại mới nghe đến người Chu-Ru. Có anh bạn đi dạy 5 năm trời ở trong Buông Chu-Ru, kể chuyện xôm trò. Khi xưa học địa lý với thầy Hứa Hoành, nghe nói có nhiều bộ lạc người thượng ở Việt Nam như Ra-đê, Mọi,... nhưng chả bao giờ nhớ.


 Năm 1904, ông Pierre Dru, một địa-phương-quân (Garde indigène), mình đoán là lính Tây, kiểm soát người thượng và người kinh tại Đàlạt, để bảo vệ người Pháp ở cao nguyên kể: Đàlạt có nhiều đồi cỏ thấp; mỗi đồi có một căn nhà bằng gỗ, tiện nghi hơn căn nhà ông ta được bố trí.


Dạo ở Đàlạt đồi cù ít cây lắm, trơ trọi vài cây thông. Có lẻ khi xưa, các đồi vùng này cũng tương tự, chỉ người pháp đến mới trồng thêm. Nay thì Việt Cộng chặt hết cây như thể muốn xoá tan hết dấu tích của thực dân tại Đàlạt. Mình không hiểu sao, họ không đặt tên hồ Xuân hương thành hồ Lê Văn Tám, hồ Than Thở thành hồ Võ Thị Sáu,...

 




Trên một ngọn đồi, căn nhà của ông thanh tra địa phương quân, Joseph-Jules Canivey, có vợ là một người phụ nữ âu châu. Một căn nhà của một ông độc thân, làm cho bưu điện. Không biết có phải ngọn đồi nơi ty bưu điện được xây cất sau này, cạnh Hotel Du Parc.

 

Ngọn đồi thứ 3 là của ông Résident supérieur d’AnnamJean Auvergne, nhà cửa sổ, đàn Dương cầm và một bàn đánh bi-da. Ngọn đồi thứ 4, là ông Paul Champoudry, thị trưởng đầu tiên của Đàlạt. Nói chung các người này chả làm gì ngoài đi săn bắn cọp trong vùng, trong khi các người khác phải lo cung cấp thực phẩm cho họ. Mình có thấy mấy tấm ảnh xưa, cho thấy mấy căn nhà này.



 Đây là những nhà nghỉ đầu tiên được xây cất cho người Pháp lên đây sống tạm


Năm 1902, Paul Doumer muốn thành lập khu nghỉ dưỡng Đàlạt, với ý định trở thành một trung tâm quyền lực của Đông Dương. Lý do để chữa bệnh sốt-rét thì không đúng hẳn vì dân địa phương bị đau ốm mệt thở. Đọc tài liệu do các người pháp được chỉ định đi khảo sát cho ông Doumer thì Đàlạt không đủ tiêu chuẩn để xây một trung tâm nghỉ dưỡng, tốn tiền và sinh mạng do người Âu châu ước đoán là trên 20,000 người Việt. Khiến các bộ lạc người thượng dời đi, chạy trốn sang Lào, vì bị bắt đi phá núi, phá rừng để thành lập con đường lộ và dường sắt dẫn đến Đàlạt. 


Mình đoán con số này còn cao hơn nữa vì mỗi ngày có đến trên 6,000-7,000 làm việc công tác phá rừng, phá núi với những điều kiện không như ngày nay. Ông Trần Tiến có làm bài hát “giấc mơ Chapi” khiến mình nhớ đến các người của mấy bộ lạc ở vùng này bị sát hại khi bị bắt lao động, phá núi phá rừng.

 

Ông ta nghĩ thành lập Đàlạt, để giúp các công chức hành chánh của chính quyền bảo hộ, có thể lên đây nghỉ dưỡng, đem gia đình và con cháu họ học hành tại đây. Do đó trong bản phát hoạ thiết kế đô thị Đàlạt mới có các trường học tiểu học và trung học (Petit và Grand Lycee). Các trường Bảo Long (Trần Hưng Đạo) và (Phương Mai?) Bùi Thị Xuân được thành lập sau này cho con cháu các người Việt làm việc cho chính quyền thực dân, được lấy tên của ông Bảo Đại để đặt tên trường.

 


Bản vẽ tổng quan của thành phố Đàlạt. Ta nhận thấy có 2 hồ mà người Pháp gọi là Petit Lac và Grand Lac được ngăn chia bởi con đường vừa là cái đập nước. Cấu trúc phân chia rõ ràng, khu người Việt ở phía dưới gần mấy con suối như Phan Đình Phùng (Cầu Quẹo) khác hẳn khu người da trắng (trên đồi núi)


 Có lẻ vì vậy mà ông Bảo Đại ra chỉ dụ, biến Đàlạt thành “Hoàng Triều Cương Thổ”, không cho người Việt định cư ở đây, dù vùng này thuộc về Annam, dưới quyền kiểm soát của triều đình nhà Nguyễn. Chỉ có người âu châu mới được phép sinh sống, và người Tàu làm ăn tại đây. Mẹ mình kể là khi vào Đàlạt năm 1948, cần phải có giấy bảo chứng của người cậu bà con.

 

Nhìn bản đồ các con lộ dẫn đến Đàlạt từ Phan Thiết khiến mình hình dung đến cảnh một cô gái Huế, 15 tuổi, đi vào Tourane, ở nhờ nhà bà con, đợi ngày có tàu thủy để vào Phan Thiết rồi từ đó, đi xe lên Đàlạt, mà sau này về Đàlạt, mình có đi lại con đường này với gia đình. Thấy mẹ mình miên man nhìn phong cảnh xung quanh, đoán là mẹ nhớ lại thời vào Đàlạt định cư. Bố mình thì chỉ phía trại cải tạo Đại Ninh, nơi bị Việt Cộng giam giữ 15 năm của đời người.

 


Bản đồ này gợi nhớ đến hành trình của mẹ mình, 15 tuổi đi từ Huế vào Đà Nẳng (Tourane). Lấy tàu thuỷ đến Phan Thiết rồi từ đó mới lên Djiring rồi đến Đàlạt năm 1948.


Một khi Đàlạt được nối liền với Sàigòn bằng đường xe chạy và đường xe hoả thì thành phố này có thể giúp người Pháp bình định lâu dài tại Đông Dương. Nếu rau cải được trồng tại đây, sẽ tạo dựng cuộc sống tương tự mẫu quốc cho các người Pháp định cư tại á châu.

 

Đầu năm 1898, Paul Doumer cử một phái đoàn lên nghiên cứu cao nguyên, do đại uý Thouard và thiếu uý H. Wolf hướng dẫn. Hai người này được lệnh vẽ trắc địa của hai vùng cao nguyên và các đường khả dĩ thực hiện để kết nối với đồng bằng.   

 

Louis Jacquet, giám đốc canh nông của Đông Dương, được lệnh phải thử nghiệm trồng trọt rau cải tại vùng này với ý định, khu nghỉ dưỡng sẽ trở thành nơi cung cấp rau cải cho người Âu châu tại thuộc địa.

 

Kết quả, ông Jacquet cho thấy sự thực hiện trồng trọt tại đây rất tốt. Ngược lại hai ông chuyên gia trắc địa bày tỏ sự lo ngại của kế hoạch xây dựng thành phố núi này. Ngày 29 tháng 1898, ông Thouard than phiền với bác sĩ Yersin là ông ta đã hết tiền để trả lương các cu-li. Ngoài ra cao độ không làm giảm thiểu các bệnh sốt rét. Tất cả các người âu châu trong đoàn đều bị bệnh. Người việt đi theo đoàn, làm cu-li đều bị bệnh. Ông ta kể nếu làm lại cuộc hành trình này thì ông ta phải suy nghĩ thật kỷ thay vì nhận 12 quan pháp mỗi ngày. (365 x 15 = 4,380 quan pháp/ năm).

 

Người Âu châu vào thế kỷ 19, sau cuộc cách mạng long trời lở đất tại Pháp, các nước Âu châu đi tìm tài nguyên để cung ứng cho cuộc cách mạng kỹ nghệ của họ. Họ cần người của họ để cai quản ở bản xứ. Do đó có nhiều người bần cố nông, muốn thoát nghèo nên tình nguyện đi, lập nghiệp rất đông. Hy vọng kiếm một số tiền làm vốn, trở về quê như mấy người Việt Nam đi lao động ở Hàn quốc, Mã-lai, Tàu hay nhiều khi phải chết để sang tới Anh Quốc.

 


Xe hủ-lô kiểu dã chiến khi xưa, thấy dân công người Việt đội nón lá vì người thượng không đội. Làm đường lên Đàlạt . Ông Võ Quang Tiềm và ông Phúng gánh 3 ngày 3 đêm đem đồ bán cho mấy người nhân công này.


 Thay vì xây dựng đường nối kết Langbian với Nha Trang, họ đề nghị xây dựng con đường xe lửa trong tương lai từ Phan Rang, Songkra (Song-Pha), ngắn hơn là từ Nha Trang như ông Yersin đề nghị. Nếu mình không lầm, ngày nay họ có xây một đường cao tốc Đàlạt -Nha Trang. Kết quả họ lấy trắc địa được vùng cao nguyên này. Mình rất ngạc nhiên khi xem bản vẽ xưa về đồ hình của Dankia và Đàlạt. Không ngờ chính là đoàn thám hiểm này.

 

Khi ông Doumer hỏi tỉnh trưởng Biên Hoà, Alphonse Chesne, về sự thành lập đường rày xe lửa Sàigòn và Đàlạt. Ông này giới thiệu một tay săn cọp và voi ở Đông Dương, người ý, tên Oddera.

 

Ông này có liên lạc các bộ lạc sống ở vùng này, và có vẽ các người này như người Cho-Ma, Chu-Ru,… người Việt hay chửi nhau “đồ Chó Má”. Mình không biết có phải từ bộ-lạc này hay không. Tây làm việc với người Mọi, Chu-Ru, Cho-MA nên có lẻ hay dùng Cho-MA để chửi thề rồi người Việt bắt chước. Tương tự “Mẹc xà lù” (merde salaud). Ông ta cho biết về phong tục, tập quán các bộ lạc sống ở vùng, giúp người Pháp cai quản các bộ lạc sau này.

 

Mặc dù nghe phái đoàn này đưa ra những kinh nghiệm của hành trình nhưng ông Yersin, vẫn nhất quyết muốn tiếp tục kế hoạch này, và viết thư mời ông Doumer lên viếng để xem cho tận mắt trước khi lấy quyết định huỷ bỏ. Ông toàn quyền nhận lời và lên thăm viếng Dankia vào năm 1900.  

 


Đại uý Léon Garnier tốt nghiệp trường võ bị Saint-Cyr của Pháp trước khi được bổ nhiệm làm việc tại biên giới Việt-Hoa. Ông ta ngã bệnh và được hồi hương năm 1894. Sau đó ông được gửi trở lại Đông Dương 1898-1899. Ông ta được bổ nhiệm tìm cách xây dựng một con đường nối liền Sàigòn và Langbian.

 

Người từng có kinh nghiệm về nghỉ dưỡng khi bị bệnh tại Đông Dương, ông ta hiểu rõ tầm quan trọng sự thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng trên cao nguyên. Sau này ông trở thành tổng đốc của vùng này. Mình tưởng bà con hay con cháu gì với ông đại uý Garnier, nổi tiếng chết, để pháp kiếm cớ xâm chiếm Việt Nam mà thầy dạy trong giờ lịch sử Việt Nam.

 


Đây là hình ảnh (1930) nhà thương được xây cất và các dãy nhà phía sau,mình đoán là các bệnh xá để binh sĩ và công chức pháp nghỉ dưỡng. Xa xa thấy nhà thờ Domaine de Marie. Cư xá Công Chánh chưa được xây cất.

 

Ngoài ra còn có đại úy Paul Guynet đã kể khi đi khảo xét thành lập con đường giao thông từ Phan Rang lên Langbian. Ông ta kể là sống ở Đàlạt quá sướng, với khí hậu mát mẻ so với khí hậu Sàigòn. Chúng tôi đi săn cả ngày mà không mệt so với khí hậu ở Pháp vào mùa này. 

 

Mình sống tại 5 quốc gia, đi du lịch trên 35 nước thì thấy không khí Đàlạt vẫn tốt hơn hết nhất là vào mùa khô. Đến khi mình lập nghiệp tại Cali thì không khí ở miền nam Cali tuyệt vời. Mình ở cách biển 20 phút, 60 phút lên núi trượt tuyết. Có lần, sáng mình đi với vợ con lên núi trượt tuyết, chiều về ghé ra biển, đốt lửa ăn cơm với bàn bè. Tuyệt vời.

 

Ông đại uý này là người đã gây ảnh hưởng, giúp Doumer quyết định xây thành phố Đàlạt thay vì Dankia, làm ông Yersin buồn lòng. Chỉ vì 50 mét cao hơn Dankia, càng cao thì càng tốt. Mình nhớ khi xưa, đi Tùng Nghĩa là thấy nóng, cứ xuống đèo Prenn là thấy nóng.


Từ tháng 3 năm 1900, con đường từ Phan Rang lên đến Daban đã được hoàn tất. Và từ đó lên Đàlạt hay Dankia thì có đường mòn cho người đi bộ và lừa đã được dọn xong. Chỉ cần hoàn tất cầu ở Balach (Ba-lạch?) là xong.

 

Xây dựng con đường này đã làm mồ chôn rất nhiều người địa phương. Chết chóc, bỏ trốn, bị bắt lại, bị đánh đập tàn nhẫn. Chúng ta không biết con số chính xác nhưng chắc phải trên mấy chục ngàn người. Mình xem hình ảnh cái hủ-lô họ dùng khi xưa, khi chưa có chiếc hủ-lô, chạy bằng nước như hồi bé mình có thấy tại Đàlạt. Năm 1908, theo tài liệu của thuộc địa thì có trên 20 ngàn người cu-li (Tây gọi là coolies), đã chết khi thực dân khai phá con đường lên đèo Ngoạn Mục.

 


Theo báo cáo của thuộc địa Đồng Nai thì mỗi ngày, họ đoán là có từ 6,000-7,000 người làm việc tại công trường, đa số là bị ép buộc lao động. Một năm sau, họ muốn thêm người thượng, khiến nhiều nhóm đã bỏ trốn qua Lào. Người ta có ghi lại những câu thơ của người thượng bị ép buộc lao động không lương.

 


Theo tài liệu của người da trắng, kể là khi họ lên Đàlạt, các người thượng, khoẻ mạnh được sử dụng để gánh họ và lương thực, quần áo, dạ hội đủ trò. Nội ông thần gì ở trên Đàlạt, có cái đàn dương cầm, và bàn đánh bi-da, để giải sầu, được người thượng gánh đem lên tới nhà. Theo tài liệu kể thì người ta gánh mấy ông Tây bà đầm lên tới đèo Ngoạn Mục và từ đó xe hơi sẽ rước họ lên Đàlạt. Mấy tù nhân bị bắt buộc, gánh mấy ông tây bà đầm lên núi để trị bệnh.

 

Ngoài ra còn có thợ người Kinh, do các người Tàu tuyển mộ từ các nơi nghèo khổ như Huế, Qui-Nhơn, BÌnh Định vào làm, được trả tiền nhưng cũng châm vì họ bị bắt làm cực nhọc nên có lúc phải đình công. Mình có đọc bài của ông Lê Đức Anh, cai đồn điền cao su cho Tây, kể lại những xâm nhập của Đảng viên cộng sản vào các đoàn thể nhân công, kêu gọi họ đình công. Mình đoán trong nhóm thợ làm việc để xây con đường nối liền với Đàlạt, cũng có những Đảng viên cộng sản mò vào để khuấy động phong trào chống lao động áp bức.

 

Mình đoán thôi là các ông xu (surveillant) mà người Đàlạt hay gọi, có thể là họ khởi đầu làm việc tại mấy công trường này, rồi nhờ thông minh, học nghề nhanh nên được bổ nhiệm làm Surveillant mà người việt gọi là Xu. Sau này ở lại Đàlạt, xây cất nhà cửa cho Tây, về quê cưới vợ chân dài, đem vào Đàlạt, làm việc xây cất cho Tây rồi khi Tây về nước thì họ biết cưa gỗ bán cho Đàlạt, Sàigòn, giàu to.

 

Mình nghe kể ông Võ Quang Tiềm, vào Đàlạt lập nghiệp bằng nghề thợ may, sau đó về quê, cưới vợ đem vào Đàlạt. Bà Tiềm là chị em cô cậu hay chú bác, không nhớ rõ, với mệ ngoại mình. Sau đó, bà Tiềm đem mấy người em vào như ông Phúng, (tiệm Hiệp Thạnh), ông Đàng (tiệm Long Hưng), như dì Tân, mới qua đời năm ngoái. Cậu Liễu giúp cho ông Tiềm bán thuốc Cẩm Lệ, sau đó ra chợ mở quán bán thuốc Cẩm Lệ bên cạnh hàng của bà Bỉnh, mẹ của Phú Nguyễn, nay ở Gia Nã Đại, rể rượu Lafaro Đàlạt xưa, ở xóm trên đường Thi Sách. Gian hàng guốc dép, giày dép.

 

Sau này ông Phúng làm ăn khá giả cần người tin cẩn nên về làng đem bà cụ mình vào lúc ấy mới 15 tuổi. Sau này cho ra riêng, gả chồng. Rồi sơn đen ra đời.

 

Trong báo cáo năm 1898, ông Fernandez Bernard tường trình bên Ấn Độ, người anh đã sử dụng đường rày răng cưa để chạy lên đỉnh Darjeeling tương tự ở Lebanon.

 

Cuộc xây dựng đường rày xe lửa khiến thuốc địa hao tốn. Lúc đầu họ dự trù 200 triệu đồng Đông Dương . Mình không nhớ vào thời gian nào, hối đoái dạo ấy một đồng bạc Đông Dương ăn 10 quan pháp. Mấy người giàu có tại Đàlạt đều cho con đi du học vì quá rẻ. 200 triệu đồng Đông Dương là 2 tỷ Phật-lăng pháp. Cho thấy thuộc địa đem lại lợi tức cho mẫu quốc khá nhiều.

 


Đoán là cầu Balach vì có nhiều người chết ở đây khiến nhân công người Việt đình công.


Tuyến đường này bắt đầu năm 1898 đến năm 1910 thì ngưng vì hết ngân quỹ. Hai năm sau, mới tiếp tục lại nhưng chỉ đến Xomgon (xóm Gòn?) cách Đàlạt 83 cây số. Ai biết thì cho em hay để bổ túc. Đến năm 1926 thì đến Sông Pha (cách Đàlạt 40 cây số) và đèo Ngoạn Mục năm 1927. Cuối cùng đến Đàlạt năm 1932. Mất 34 năm mới hoàn thành con đường Ngoạn Mục này với bao xương máu của người Việt đổ và chết tại đây.

 

Tuyến đường này được sử dụng đến năm 1968 thì mấy ông Việt Cộng đặt mìn phá hoại rồi sau 75, gở ra bán ve chai cho Thuỵ Sĩ. Xem như 20 mấy ngàn người Việt chết thảm khi bị ép buộc xây dựng con đường này và gần tỷ đồng Đông Dương do người Việt đóng thuế cho Tây, biến thành mây khói. Chán Mớ Đời 

 

Các người Âu châu định cư tại Đàlạt thử nuôi bò, trồng rau, lúa,…như trường hợp vợ chồng ông Jean O’Neil. Không biết người xứ nào vì tên thì có vẻ Ái Nhỉ Lan. Ai có tin tức gì thì cho mình xin. Cảm ơn trước. Đọc lại thì ông ta là người được phái lên Đàlạt để thiết kế kiến thiết đô thị Đàlạt.

 

Có lẻ không thành công lắm vì khi xưa mình thấy bò có vài con được nuôi trên đường Trần Bình Trọng , gần Thánh Địa Đức Bà. Nghe kể là sau vụ đập hồ Xuân Hương bị vỡ năm 1932 thì bà O’Neil không làm lại, có lẻ chồng qua đời.





 

Đọc lịch sử về Đàlạt thì khám phá có nhiều cá nhân khá đặc biệt, giúp hoàn thành thành phố không tưởng Đàlạt ngày nay.

 

Có một ông cựu hội đồng thủ đô Paris, tên Paul Champoudry, thuộc Đảng xã hội từng là giám sát công trường xây dựng Métro của Paris cho hội chợ thế giới năm 1900. Về già, con cái đông nên ông sang Việt Nam và giám sát các công trình xây dựng các cơ quan hành Chánh của chính quyền thuộc địa và người thị trưởng đầu tiên của Đàlạt. ông này là thị trưởng đâu tiên của Đàlạt, người có ảnh hưởng về địa hình, kiến trúc của Đàlạt sau này. Ông ta xin phép được thuyên chuyển năm 1901, vì điều kiện sức khoẻ, viêm phổi. Còn nếu không thì phải cho thêm ngân sách để thành lập Đàlạt với hệ thống ống cống, nước, điện,… các người đến Đàlạt thời đó kể lại là thành phố tiêu điều vì chưa có gì đã xây dựng khi chính phủ hết tiền.

 

Năm 1898, hành chánh mượn 200 triệu quan pháp, đến năm 1910 thì hết ngân quỹ. May thay trong thời gian đệ nhất thế chiến, người Âu châu không về nước nghỉ hè thường niên được nên họ kéo nhau lên Đàlạt, giúp thành phố này sống lại với ngành du-lịch nhưng năm 1913, Đàlạt vẫn chỉ hơn 1 chục nhà nghỉ. Họ yêu thích khí hậu ở đây và khuyến khích chính quyền thực dân tiếp tục cải tiến Đàlạt.

 

Nhìn lại, nếu không có đệ nhất thế chiến thì có lẻ Đàlạt, đã trở thành thành phố ma, mà người Pháp bỏ biết bao nhiêu tiền của của người Việt, bao nhiêu người Việt đã chết để xây dựng một trung tâm nghỉ dưỡng với tầm xa là thủ đô của Đông Dương.

 

Trên 20 ngàn người thượng du chết trên đường từ Phan Rang lên đèo Ngoạn Mục. Có lẻ vì vậy dạo mình còn bé, ít thấy người thượng vì cha ông của họ bị giết khi xây dựng công trường này.


Nếu người pháp không đốt tiền cho thành phố nghỉ dưỡng thì có thể, cao trào kháng chiến chống pháp không lên cao. Với những tin tức chết người, thêm hình ảnh của Tây đá đít phu xe kéo người Việt trên các tờ báo Tây, đổ thêm dầu vào cuộc kháng chiến chống pháp.

 


 Những nhà nghỉ đầu tiên được làm bằng gỗ tại Đàlạt.

Khác với Việt Nam, khi người Tây phương đánh chiếm các vùng Nam Mỹ hay Bắc Mỹ thì khí hậu ở đó tương tự ở Âu châu nên họ không có vấn đề hội nhập thời tiết tại địa phương. Ngược lại khi họ qua Phi CHâu hay Đông Dương thì khó chịu đừng thời tiết vùng nhiệt đới với muỗi, bệnh số trét nên công cuộc đánh chiêm của họ lâu dài có vấn đề, cần phải giải quyết nêu họ muốn chiếm ngự Vĩnh viễn như tai Mỹ Châu.


Khi chúng ta đi thăm viếng các đền đài như Angkor Vat, Kim tự Tháp,… chúng ta chiêm ngưỡng cái đẹp của đền đài nhưng không ai nhắc chúng ta, nhớ đến những người lao động đã nằm xuống để thực hiện các điểm nhấn du lịch này. Có lẻ nên khấn thầm cho vong hồn họ siêu thoát.

 

(Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn

 

 

 

 

Tại sao người Pháp xây dựng Đàlạt thay vì Dankia

 Lý do Đàlạt ra đời #2

 Chế độ thực dân Pháp đã bỏ công và tiền bạc ra rất nhiều để xây dựng một vùng đồi núi thô sơ trở thành một trung tâm du lịch quốc tế. Việt Nam Cộng Hoà đã tiếp xây dựng thị xã Đà Lạt trở thành một nơi văn hoá cao nhất Việt Nam với các trường học và đại học danh tiếng để rồi ngày nay du khách đến đây chới với. Một thành phố trên đồi núi mà vẫn bị lụt, ngập hồ Xuân Hương, xây cất bừa bãi.


Tương lai Đà Lạt có thể bị du khách tẩy chay như đảo Phú Quốc. Nghe nói đã bớt du khách và kinh tế cũng đang xuống. Mình xem mấy video của một anh nào , đoán là cò địa ốc, cứ quay video Đà Lạt bỏ lên youtube khiến mình lo sợ cho thành phố, nơi mình sinh ra và có nhiều kỷ niệm.  


Đọc tài liệu của pháp để hiểu lý do khiến họ thành lập thành phố này để hiểu lịch sử và lo sợ cho tương lai của Đà Lạt. Mình kể từ từ.


Tại sao người Pháp xây thành phố nghỉ dưỡng tại Đàlạt thay vì Dan-Kia (Lang-Sa)

Đà Lạt nay mưa ngập luôn hồ Xuân Hương

 

Tháng 7 năm 1897, ông Doumer nhận báo cáo của các cố vấn y tế về các tiêu chuẩn căn bản để thiết lập trung tâm điều dưỡng lý tưởng cho binh sĩ và công chức pháp tại Đông Dương: cao độ tối thiểu 1,200 mét, có nhiều nước sạch, đất tốt, khả năng xây dựng một hệ thống truyền thông nhờ ở độ cao.

 

Dựa trên những yếu tố trên thì cao-nguyên Lang-bian hội đủ hết các tiêu chuẩn. Ông Yersin giải thích vùng này có nhiệt-độ trung bình như vùng Địa Trung Hải vào mùa xuân. Hy vọng chính phủ thuộc địa, có thể thực hiện chương trình của ông Doumer, thành lập một khu điều dưỡng trên cao nguyên, gần Sàigòn, và có thể di chuyển vài tiếng với không khí gần như ở Pháp, nhất là gần thành phố Nha Trang, nơi ông ta sinh sống và làm việc.

Các nhà khí tượng pháp đo đạt trong suốt hơn 1 năm trời (1899-1901) để so sánh với khu nghỉ dưỡng Raj, của người Anh Quốc bên Ấn Độ. Một thủ đô mùa hè của người anh tại thuộc địa. Kết quả cho thấy Lang-Bian là địa điểm lý tưởng cho đế quốc pháp tại Đông Dương.

 

Đầu thế kỷ 20, chỉ huy trưởng quân đội pháp tại Đông Dương, tướng Théophile Pennequin tìm cách lobby Paris ngân sách để xây dựng khu nghỉ dưỡng tại cao nguyên Lâm Viên. Ông này sinh năm 1849, từng tham dự chiến tranh Pháp-Phổ, tham gia chiến dịch bình-định tại Madagascar, và tham gia các cuộc bình định tại Việt Nam vào những năm 1882, 1888, 1889.

 

Ông tướng này cho biết binh sĩ mẫu quốc không hợp với phong thổ địa phương, mỗi ngày sức khoẻ sẽ giảm đi và nghĩ đáp án cuối cùng là thành lập một trung tâm điều dưỡng trên cao nguyên lâm-viên. Giúp phục hồi sức khoẻ và tinh thần binh sĩ và công chức nhanh chóng.

 

Năm 1902, trong một báo cáo, ông ta có nói đến thành lập một đơn vị quân sự tại cao nguyên Lâm Viên. Ông cho biết “ người Pháp chúng ta khó lập nghiệp và làm giàu lâu dài tại Đông Dương vì khí hậu quá cay nghiệt. Nếu một số người Pháp có thể thụ hưởng được khí hậu giống như ở mẫu quốc thì họ có thể làm việc hăng say, giàu có và ở lại đây mãi mãi.” 


Kiểu dân đi làm ở Alaska ở Hoa Kỳ, làm ăn một thời gian, như mì ăn liền, kiếm đủ vốn trở về mẫu quốc. Chính sách của ông ta là khuyến khích người Pháp sang đây lập nghiệp, ở lâu dài thì mới giúp cho đế quốc hùng mạnh. Tương tự người pháp sang Bắc phi lập nghiệp, sinh con đẻ cái mấy đời, mà người ta gọi là “Pied Noir” dân ở phi châu.


Cuộc cách mạng kỹ nghệ khiến Pháp quốc phải tìm tài nguyên trên các thuộc địa, để cung ứng cho các nhà máy kỹ thuật, để chạy đua với Anh Quốc.

 

Có lẻ vì vậy, trong thời chiến tranh, quân đội Mỹ hay lên Đàlạt để nghỉ dưỡng cũng như được bay qua Okinawa, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, những quốc gia sống và phát triển nhờ chiến tranh Việt Nam …để nghỉ dưỡng trước khi trở lại chiến trường.

 

Trên cương vị một vị tướng với chiến lược lâu dài, ông ta quan tâm đến sự sống còn lâu dài của người Pháp tại Đông Dương, một điều tiên quyết để giữ gìn lâu dài đế quốc Pháp. Nếu chính phủ có thể xây dựng một vùng nghỉ dưỡng với khí hậu ôn hoà như Âu châu, sẽ giúp người Pháp sinh sống tại đây, phát triển mạnh, sẽ giúp duy trì chính quyền thực dân tại Đông Dương. Do đó các bác sĩ pháp đã nghiên cứu ngay từ đầu về y tế cộng đồng nhằm giúp thành lập một trung tâm điều dưỡng và một vùng toàn là người Pháp ở để cai trị toàn cỏi Đông Dương.

 

Hình như có một cặp vợ chồng da trắng tên O’Neil (tên này thường là người Anh Quốc) sinh sống tại Đàlạt, mở nông trại, nuôi bò để cung cấp sữa tươi cho người Âu-chau tại Việt Nam. Mình có tấm ảnh chụp mộ bia của ông này nhưng nghe nói là sau vụ cái đập đầu tiên cạnh Thuỷ Tạ bị vỡ thì nhà cửa của nông trại tiêu tan và không bao giờ được làm lại.


Mình lại đọc đâu đó, ông O’neil được gửi sang làm việc cho chính quyền pháp, để giúp xây dựng Đàlạt. Cũng có thể sau đó ở lại Đàlạt luôn đến khi chết. Hoá ra ông Jean Oneil là một kiến trúc sư, được phái sang Việt Nam, phát hoạ phát triển thành phố Đàlạt.

 














Mình có thấy mấy tấm ảnh của nông trại của gia đình, gần cầu Ông Đạo ngày nay, không hiểu người Pháp họ làm cái gì. Sau này đọc thêm tài liệu thì mới khám phá ra vụ này. Hình mộ ông Oneil.

 

Các trường học như Petit Lycée Yersin, Grand Lycée Yersin, Couvent des Oiseaux,..được thành lập để giảng dạy cho con em người Pháp làm cho chính quyền thuộc địa hay con những tư nhân, công chức làm trong chính quyền thực dân tại Đông Dương. Thấy mấy tấm ảnh xưa ở Petit Lycee cho thấy toàn là con của người Pháp. 

 















Hình này chụp trường tiểu học Petit Lycee Yersin, vào năm 1948. Thấy đa số là Tây đầm con, lơ ngơ 1 tên mít con đứng một mình. Chỗ này là nơi mình ra chơi năm 8ème và 9 ème buổi chiều, gần 16 năm sau tấm ảnh được chụp.. Dạo ấy tây về nước nên không thấy đầm tây trong lớp nhiều.


Trên thực tế thì cũng có những ý-kiến đối nghịch, chống đối sự thành lập khu nghỉ dưỡng Lâm-Viên. Một chuyên gia trắc địa tên Bernard Lazare lên tiếng phản đối chương trình này vì năm 1898, được cử lên đây xem xét khả năng để xây tuyến đường xe-hoả đến Lang-Bian.

 

Vào tháng 11 năm 1898, khi ông ta đến Lang-Bian, có viết thư cho bố mẹ: thất vọng về dự án xây dựng một trung tâm nghỉ dưỡng tại đây. Ông ta kể ngay người Việt còn bị bệnh tại đây, chỉ có đâu 8, 9 người Pháp, toàn là những nhà đi khảo sát, đặt chân đến thiên đàng trên quả đất này. Năm 1901, ông ta có viết một bài đăng trên Revue de Paris, nói về các dự tính xây dựng Lang -Bian.

 

Ông ta cảnh báo người Việt sẽ đuổi người Pháp ra khỏi xứ họ như đã từng làm với người Tàu, người Mông Cổ. Ông ta cho rằng tuyến đường xe hoả của Paul Doumer là một sự thất thoát, phí tiền đóng thuế của người Việt. Ông ta tiên đoán xe hoả sẽ chạy với ít hành khách vì chỉ có độ 68 đồn điền trên toàn cỏi Bắc kỳ và Nam Kỳ. Xét về kinh tế thì xây dựng tuyến đường này là thất sách. Lịch sử đã chứng minh là ông này đúng.


Cái này thì đúng vì mình nhớ khi xưa, còn bé đi Thái Phiên hay đâu đó với ông cụ. Sau này xe hoả dùng để chở rau cải bán cho người Mỹ. Anh bỏ tiền ra xây dựng một tuyến đường xe hoả chỉ kéo được bài toa xe lửa, chạy chậm như rì. Xây đường quốc lộ chạy lên rẻ và nhanh chóng hơn. Mình đoán là ông Yersin là nhân viên của một công ty hàng hải Pháp, mướn ôn gia đi thám hiểm xem có hầm mỏ gì để báo cáo lại, nên mới đề suất chương trình để công ty cua rông ta làm việc được thầu để thức hiện. Chán Mớ Đời 


Gần đây, mình đọc báo chí Việt Nam, cho biết Hà Nội đang dự tính làm lại tuyến đường này để triển khai du-lịch Đàlạt sau khi bán nữa triệu đô la cho Thuỵ-sĩ. Đi xe xuống hay lên đèo Ngoạn Mục là đã buồn ngủ huống chi xe chạy răng cưa, 10 cây số một giờ trong thời đại 5 Gờ. Kinh




 



















Ông ta chỉ trích bác sĩ Yersin, bằng cách đưa ra các khám phá mới của Laveran (khôi nguyên Nobel) và Blanchard của người Pháp, Grassi và Celli của Ý Đại Lợi, Ross của Anh Quốc và Koch của Đức quốc có thể giúp chúng ta có cái nhìn rõ hơn về bệnh sốt-rét và muỗi lây bệnh khi chích một bệnh nhân và lây Lan qua người khác. Sự chống đối chỉ trích của ông này đã làm ngừng trệ sự thành lập Đàlạt đến 20 năm sau.

 

Có lần về Đàlạt, mình có đi Song-Pha thăm một trại mồ côi mà Bút Nhóm Lửa Việt bảo trợ. Tài xế chạy con đường qua đèo Ngoạn Mục. Dạo ấy, Việt Cộng họ đang làm nữa chừng rồi ăn hết tiền nên thấy xe máy cày bỏ bên đường mọc rong rêu, đường xá thì ổ gà, xình lầy không như khi xưa mình có đi qua đây, Tết năm 12 B, 1973.

 

Xe xuống đèo khiến mình mường tượng đến những người việt đã chết khi xây tuyến đường này và xe hoả. Khởi đầu con đường từ Phan Rang lên Lâm Viên, gây ra nhiều cái chết cho người da trắng. Nội tháng 4 năm 1900, có 20 người Âu châu và 100 người Việt tháp Tùng, làm cu-li khiêng đồ như du khách đi viếng Machu-Pichu ở Peru, có người dân địa phương, gánh đồ, nấu cơm, dựng lều,.. mấy người da trắng đi thám hiểm, đều có phu khiêng kiệu như bên tàu, lên vạn lý trường thành.

 























3 tháng sau, có 4 ông Tây chết và 8 người nằm nhà thương, còn 80 người Việt mất tích hay chết. Cọp vồ ban đêm. Kinh

 

Trong một chuyến đi khác, bác sĩ Sebastien Tardif cho hay nếu uống Quinine thì đỡ hơn nhưng cũng có 4 người Tây bị chết và nằm dưỡng sức 4 ngày vì bị lên cơn sốt. Điều ông ta lo ngại nhất là ngay các cu-li Việt Nam cũng bị bệnh lên cơn sốt.

 

Ảo tưởng về xây dựng một thành phố trên cao nguyên Lâm Viên bắt đầu ít được người tán thành.

 

Vào đầu thế kỷ 20, bệnh sốt-rét là vấn nạn lớn cho các đế quốc Tây phương khi họ chiếm đóng các lãnh thổ ở vùng nhiệt đới, đầy tài nguyên. Lý do là phải trả giá rất đắt về nhân sự, chết vì cơn bệnh này. Anh Quốc đã tìm ra Simla, Raj mà chúng ta hay thấy trong các phim Ấn Độ.

 

Ông chuyên gia về bệnh sốt rét ở viện Pasteur Sàigòn, Joseph Emile Borel, tiếp tục dẫn chứng là khi lên cao độ của Lâm-Viên thì các hiệu chứng của bệnh này ngừng ngay. Họ cho biết muỗi gây bệnh Sốt rét dừng ở 800 mét cao độ. Cái này thì mình không tin vì ông cụ mình ở Đàlạt, hay bị lên cơn sốt rét, rên hừ hừ, kêu mình lấy thuốc Quinine để bố uống mới từ từ đỡ lại.

 

Đó là sự tranh chấp giữa hai trường phái y-khoa. Cuối cùng thì chính phủ pháp nghiên về nhóm của bác sĩ Yersin, ý định quân sự, Lâm-viên có thể giúp người Pháp chiếm đóng Đông Dương lâu dài, nếu không bệnh tật, và có thể thành lập thủ đô Đông Dương ở đây để cai quản vùng này.


Đàlạt thuộc vùng Annam, xem như tự trị của triều đình Huế. Tham vọng của tham mưu trưởng quân đội viễn chinh pháp là thành lập một địa điểm, thành phố có thể giúp người da trắng cai trị Đông Dương lâu dài.


Có lẻ vì vậy mà khi họ đem ông BẢo Đại về nước làm vua, ký sắc lệnh biến khu vực Đàlạt thành Hoàng Triều Cương Thổ, để người Pháp có thể cai quản.


Tục lệ từ xưa đến nay là đưa thái tử qua nước họ để nuôi nấng luôn tiện làm con tin như Attila. Attila thì thông minh, nghiên cứu hành chính quân sự của La-mã để sau này về nước, ông ta đánh quân đội viễn chinh la-mã tời bời. Do đó sau này, người ta chỉ lựa thái tử ngu ngu một tí, đem qua Tây cho ăn chơi mệt thở. Sau này về nước cứ nghe lời Tây. Còn mấy ông vua như Duy Tân, HÀm Nghi, còn nhỏ đã được lên ngôi thì cũng là bù nhìn cho mấy quan trong triều cho nên không thể nào nói họ này nọ.


Mình có anh bạn học cũ dòng Nguyễn Phúc, kể là ông nội, lúc còn bé chơi với ông Bảo Đại. Sau vua Khải ĐỊnh, vô sinh, mình nghe nói là đồng tính nên triều đình nhận Bảo Đại làm con nuôi của Khải Định, thay vì ông nội của anh ta. Bố anh ta là dòng Ưng, còn anh ta là dòng Bửu, trong khi ông Bảo Đại là Vĩnh. Vai vế trong dòng họ thấp hơn anh ta vì Vĩnh sau Bửu dựa theo bài thơ đế hệ thi của vua Mênh Mạng.


MIÊN HƯỜNG ƯNG BỬU VĨNH

BẢO QUÝ ĐỊNH LONG TRƯỜNG

HIỀN NĂNG KHAM KẾ THUẬT

THẾ THOẠI QUỐC GIA XƯƠNG

 

Lúc đầu, họ tính thành lập khu nghỉ dưỡng tại Dankia nơi ông Yersin đề nghị nhưng sau này họ lại thành lập tại Đàlạt ngày nay. Mình thắc mắc lý do nhưng không ai thuyết phục được mình cả vì họ chỉ nói khơi khơi không bằng chứng. Mình đoán là các người này ăn lương cua mấy công ty Pháp về xây cất nên muốn lobby để thắng các chương tình xây cất. Có ông tây dạy pháp văn tại Đà Lạt, viết một bài để giải toả vấn đề; người ta nghi ông Yersin là ấu dâm. Có nhiều người việt nói to nhỏ về vấn đề này thậm chí người Pháp. Cuối cùng ông ta đọc bà nào làm việc với ông Yersin khi xưa, kêu ông này không lấy vợ vì thích đọc thân và không ấu dâm. Chấm hết.

 

Paul Doumer nghe lời Yersin thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng cho người Tây phương, tạo thành một tiểu Pháp quốc, mang tên Lang-Sa. Người việt gọi nước pháp France là Phú-lãng-Sa, tầu gọi là Pháp Lan, nên sau này người Việt gọi tắt là Pháp. Có bài ca dao về nước pháp như sau:

 

Từ ngày có Phú Lãng Sa

Văn minh thì ít, trăng hoa thì nhiều

Văn minh khắp cả Tây, Tàu

Ông sư cũng húi cái đầu năm xu

Văn minh khắp cả gần xa

Sư ông xe đạp, sư bà xe tay

 

Lang-Bian là một cao nguyên rộng lớn, dự tính là địa điểm thành lập trung tâm điều dưỡng như ông Yersin đề nghị. Một tiểu Pháp quốc như Doumer khởi xướng với tên là Lang-Sa (Pháp). Khởi đầu năm 1897 là một nông trại mẩu, một đài khí tượng và một đồn lính được thành lập gần làng thượng Dankia.

 


Khu vực Dankia thời Tây mới đến


Cách địa điểm này 13 cây-số về phía Tây-Nam, có một vùng đông dân cư hơn. Một căn nhà được xây cất cùng năm tại địa điểm được gọi là Đà-LẠt, ngọn suối của người Lạt, bộ lạc người thượng sinh sống tại đây.

 

Ngoài con suối thì khu vực này có những lùm cây thông mà đại uý Guynet, người dẫn đầu cuộc xây dựng con đường vào năm 1899, xin thêm tiền để thành lập con đường nối liền Dankia và Dalat, để khi toàn quyền đến thăm sẽ di chuyển dễ hơn. Ông Doumer ra lệnh xây dựng một căn nhà dài 50 mét để gia đình ông ta lên đó viếng thăm để lấy quyết định xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng (LangBiang Hotel). Ta thấy toàn đến chơi vài ngày mà xây khách to lớn, với tiền thuế của người Việt. Có lẻ ông Guynet này thích vẽ đẹp của khu vực Đàlạt hơn Dankia.

 

Bác sĩ Tardif , một thành viên của nhóm ông Guynet cho rằng khu vực Đàlạt cao hơn Dankia đến 50 mét, gió thoáng và sạch sẻ hơn. Làm như vậy là chống chọi lại nhóm ông Yersin, của viện Pasteur. Ông Yersin nổi tiếng khiến toàn quyền phải nghe lời viếng thăm Dankia theo lời đề nghị. Cuối cùng đồng ý về địa điểm Đàlạt ngày nay thay vì Dankia.

 

Cùng năm ấy, Guillaume Capus giám đốc canh nông và thương mại Đông Dương, nghe lời đề nghị của Guynet và Tardif, chọn địa điểm Đàlạt thay vì Dankia. Ông ta cho rằng càng cao độ càng tốt cho sức khoẻ (50mét) và các rừng thông khiến ông ta nhớ về quê mình.

 

Ngày 24 tháng 1, năm 1901 tòan quyền Doumer viết cho bộ trưởng thuộc địa, ông ta muốn đem gia đình lên cao nguyên Lâm viên chơi một thời gian, yêu cầu xây dựng một dãy nhà để cho gia đình và đoàn tuỳ tùng ông ta ở, sau đó sẽ biến thành khách sạn. Khách sạn Langbian sau này đổi tên Palace.

 

Cuối cùng thì hai bác sĩ Haueur và Tardif tin rằng khu vực Đàlạt hiện nay cao hơn, có thể dùng để thành lập căn cứ quân đội tốt hơn Dankia. Ông ta cho biết có mấy người nông dân Pháp đã định cư tại vùng này từ 4 năm nay và rất khoẻ mạnh. Má hồng lại thấy tráng kiện. Không thấy muỗi Anopheles tại vùng này và căn cứ đóng quân không thấy bệnh sốt rét lây Lan. Không vợ chồng O’Neil có trong số này hay không.

 

Mình phục người Tây phương là khi họ thực hiện chương trình gì thì đều điều nghiên kỷ càng, không bộp chộp như người Việt. Họa đồ tái phát triển Đàlạt, họ cứ làm đại, kêu thằng thợ vẽ Tây nào ra đứng lớ quớ, làm như Tây là giỏi hơn kiến trúc sư việt. Họ để cho người Tàu làm cái cầu kính, không giấy phép khơi khơi ỏ đập Đa Thiện, rồi hợp thức hoá.

  












Phối cảnh do kiến trúc sư phát họa về Đàlạt với khách sạn xung quanh hồ trước khi cái đập bị phá vỡ vì lụt năm 1932.


 Ông Doumer cử bác sĩ Yersin qua Nam Dương để tham quan các khu nghỉ dưỡng trên núi đồi do người Hoà Lan thực hiện. Nam dương là thuộc địa của người Hoà Lan.

 

Ngoài ra có những địa danh như Simla ở Ấn Độ thành lập năm 1831, Baguio ở phi Luật Tân vào cuối thế kỷ 19. Fernand Bertrand được toàn quyền Đông Dương gửi đi xem xét các chương trình điều dưỡng của NAm-Dương do người Hoà Lan chiếm đóng. Ông ta viết trong Revue de Paris, cho rằng người Hoà Lan, kêu họ không muốn tốn tiền để xây dựng thêm các trung tâm điều dưỡng ở cao nguyên vì kết quả không rõ rệt lại phải chi tiêu hơn 6 triệu francs. 

 

Ông Doumer mê giấc mộng xây một thành phố để đời đã nướng 20 triệu quan pháp hơn 3-4 lần người Hoà LAn ở NAm Dương. Ông Bertrand tìm cách loại bỏ chương trình xây dựng khu điều dưỡng trên cao nguyên thì phái chuộng như ông Vassal, lấy địa điểm Baguio của Phi lUật Tân được người Mỹ xây dựng vào cuối thế kỷ 19.

 

Năm 1916, toàn quyền Đông Dương Ernest Roume, gửi một phái đoàn đến thăm viếng nghiên cứu Banguio. Bản báo cáo cho thấy người Mỹ chịu khó thành lập khu nghỉ mát. Họ nhận thấy các người da trắng được gửi lên đây tịnh dưỡng, lấy lại sức khoẻ để làm việc tốt hơn.

 

Họ kể Baguio, có những biệt thự đầy hoa Hồng, hình ảnh của quê mẹ. Năm 1923, lãnh sự pháp tại Tân Gia Ba báo cáo là khu nghỉ dưỡng của người Hoà Lan ở  Brastagi, vùng Sumatra, khiến các đại diện thuộc địa Anh Quốc từ MÃ-Lai, và Tân Gia ba kéo nhau đến đó nghỉ dưỡng khiến tòan quyền nức nở, lại càng mong muốn xây dựng Đàlạt.

 

Cuộc tranh luận giữ hai nhóm chống đối và thuận cho công trình xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng quốc tế tại cao nguyên chưa ngã ngủ thì năm 1913, một bác sĩ quân y tên Dourne, đặt câu hỏi về các phương thức của bác sĩ Vassal, cho rằng chỉ có vài người Tây phương trông rất khoẻ mạnh, má đỏ môi Hồng. Ông ta ghi là về mặt y-tế không có gì lạ, ngoài trừ các thắng lợi cá nhân. Nếu xây cất thì những người này vớt khá nhiều tiền vì sẽ được ban cấp đất hay tham dự các chương trình xây cất.  

 

Vào những năm 1920, các nghiên cứu tại các thuộc địa Anh Quốc cho thấy muỗi Anopheles không lên tới cao độ 1,500 mét là sai. Thậm chí ở Quito, Ecuador, cao 2,742 mét vẫn bị sốt rét. Shillong gia tăng sốt rét. Chán Mớ Đời

 

Chỗ hồ Xuân Hương, được xây khách sạn Lang-Bian, sau đổi thành Palace, có những chỗ đọng muỗi và các khu phố người Việt chỗ cầu Ông Đạo, gây thêm muỗi giúp bệnh sốt rét gia tăng. Nhưng họ lại khám phá ra khu người Tây phương có nhiều muỗi hơn là khu người Việt. Khu đất trũng cạnh hồ, nơi phố người Việt khởi đầu, đã được dời lên khu phố Hoà BÌnh ngày nay, khiến bệnh sốt rét giảm rất nhiều.



 













Nhà thương được người Pháp xây cho việc điều trị và tịnh dưỡng. Vùng của người da trắng còn người dân sở tại thì ở các vùng thấp như khu Phan Đình Phùng. Có dịp mình sẽ bỏ lên bản đồ thiết kế của người Pháp, chia các khu vực indigènes chớ không đề huề như họ kêu gào.


Họ cho biết là các trâu bò của người thượng là nơi giúp người Lạt không bị bệnh vì muỗi hút máu trâu bò no hơn. Nhưng khám phá khoa học này chứng minh các ghi chép của ông Yersin hay những người tiền vệ, rất sai khi nói là khu vực này sạch sẽ, không bị ô nhiễm, muỗi,… 

 

Năm 1937, vụ dịch sốt rét xảy ra tại Djiring và Dran (Đơn Dương) khiến trưởng cơ quan y tế khám phá ra muỗi Anopheles. Ông ta phán là vô lý đưa các bệnh nhân này lên Đàlạt, rồi muỗi chích, đem vi trùng đó lây Lan. Tốt nhất là để họ về Nhà Trang, Phan Thiết.

 

Dạo ấy, hải quân pháp mới chế ra chiếc tàu ngầm đầu tiên nên Hải quân của Pháp quốc muốn có một trung tâm nghỉ dưỡng cho họ nên đề nghị xây một trung tâm nghỉ dưỡng tại Đàlạt. Xem hình cũ thì mình đoán trên đồi, cạnh bờ hồ mà sau này người ta gọi là Nhà Lao, trung tâm cải huấn. Thấy dãy nhà dài trên đồi. Mẹ mình bị mật thám Tây bắt và nhốt tại đây mấy tháng, bị trấn nước mệt thở. May được thả ra trước khi Tây đem bắn 20 người tại Cam Ly.




(Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn