Những tấm ảnh xưa

 Hôm qua, có một anh khi xưa ở Đà Lạt, gửi tặng một tấm ảnh, chưa bao giờ thấy trên đường Minh Mạng. Chụp từ hướng dưới dốc đường đi lên, ngay ngã ba Tăng Bạt Hổ và MInh Mạng, ngay tiệm sửa radio và truyền hình Công Đồng. Các tấm ảnh trên đường Minh Mạng, đa số đều từ trên chụp xuống còn ít khi thấy ai chụp từ dưới đường đi lên dốc, ngoại trừ một tấm ảnh cuộc rước xe hoa đến chùa Linh Sơn, mà mình có kể về đường Minh Mạng. 

Có lẻ leo dốc mệt nên thiên hạ thở không ra nên không chụp, nhất là phía lề đường này vì từ khúc này trở xuống không có lề đường bên phiá này, chỉ có phía bên trái, có đường Tăng Bạt Hổ, tiệm hủ tiếu Nam Vang xuống Phan Đình Phùng, còn phía bên Lữ Quán Sàigòn và bi-da Hồng Ngọc thì không có lề đường. Xin cảm ơn các anh chị gửi cho mình những hình ảnh Đà Lạt xưa. Mình đã thu thập cũng trên 2,715 tấm ảnh xưa của Đà Lạt.

Tấm ảnh chụp trước Mậu Thân. Lý do là các chiếc xe gắn máy thời đó đều dành cho đàn ông. Chỉ sau Mậu Thân mới nhập cảng xe Honda 50 phân khối mà thiên hạ gọi Honda Dame vì dể cho phụ nữ ngồi.

Hai chiếc xe gắn máy đậu trước tiệm Công Đồng, chuyên sửa radio, truyền hình. Ông chủ người bắc, quen ông cụ mình nên khi mua cái máy quay đĩa hát, ông cụ ra đây mua thay vì tiệm Việt Hoa trên khu Hoà BÌnh, quen với mẹ mình. Chỗ người đứng chụp là tiệm tàu, Lợi Xương Viên, bán lồng đèn, bánh trung thu.
Đây tấm ảnh chụp đâu năm 1965, Khuôn Bồ Đề (ấp Xuân An). Bên tay phải có một hai thang cấp xuống sẽ có một căn phố, khi xưa cho mướn đánh bóng bàn. Các tay ghiền bóng bàn như anh Tín, Lê Xuân Thảo, Nguyễn MInh Dũng hay chú Nô đến đây đánh hàng ngày. Chú Nô chết sớm sau 75, hình như có tham gia tổ chức của ông cụ mình. Bác đưa tay vào xe hoa hình như tên Bông thì phải. Mình hay lộn bác này với bác Tế, đều quen bố mẹ mình.

Nhìn bên trái, có tiệm giày Mỹ Hưng, mà mình đã kể khi đi tây, có đóng một đôi giầy mũi tròn, mang được 1 lần đi tây, qua tây thiên hạ cười quá cỡ nên hết mang. Tiệm này mướn của ông Tư, anh của Mệ Ngoại mình. Đâu năm 1973, anh Tư hỏi Mẹ mình mua không nhưng bà cụ kêu không. Không biết ai mua. Hình như bà Hai, chị vợ ông Tư, nằm vùng nên vào thời gian đó bán hết nhà cửa cho thuê. Bên cạnh phía trên là tiệm bán cà phê Meilleur Goût. Mỗi lần đi ngang đây ngửi họ rang cà phê thơm cả khu phố luôn. Nhà này có một cô tuổi bằng mình, có học chung Hội Việt mỸ. Nếu không lầm là người bắc, rất xinh, học Bùi Thị Xuân.

Bên cạnh tiệm cà phê là nhà sách THiên NHiên mà mình có kể, số 35 đường MInh Mạng, ngay góc NGuyễn Biểu và Minh Mạng. Sau đó thì có cái talus, có mấy quán phở. Mình có ăn đây một lần. Cô em bao ăn ngày tết. Phía bên phải có tiệm giặt ủi của gia đình ông Kham hàng xóm của mình. Mình có học chung cô con gái tên Thanh Tịnh, một cô em tên Tú thì phải. Có một người con trai, lớn tuổi hơn mình nhưng quên tên. Đâu đâu cách đó có quán chè của nhà may Tân Tân. Mình có đến đây ăn vài lần. Chỗ này cũng là chỗ bà bán bánh căn dưới chợ, dọn lên đây đổ bánh căn cho thiên hạ, sau mua nhà trong dốc Nhà Làng. Hình như con của bà ta kế nghiệp. Lần chót về Đà Lạt, mình ăn bánh căn bên ấp Mỹ Lộc. Đối tượng một thời có mời ăn gần viện đại học nhưng dành thì giờ đi ăn với bà cụ và mấy người em.

Có con hẻm đi xuống mà dân Đà Lạt gọi Dốc Nhà Làng, tẻ ra làm hai: 1 đi xuống phía cầu Cẩm Đô và có một con hẻm tẻ về phía đường Duy Tân, phải đi ngang dãy nhà của Chú ký dì Bơn. Chỗ con hẻm nay, đi tiếp lên có tiệm uốn tóc Bạch Cung, hình như bên cạnh cũng có một tiệm uốn tóc khác cho phụ nữ quên tên. Sau đó đến một tiệm sửa xe và bán xe đạp, xe gắn máy của em bà Cháu và tiệm sửa xe Công Thành ở đường Phan Đình Phùng, đối diện tiệm Tân Tiến. Bà con chi với bà cụ mình. Tết nhất không đến thăm gia đình nên không rõ. Mấy người này giàu nên cũng ngại nhận họ hàng. Hình như phía bên ông ngoại mình. Bên mệ ngoại mình thì gần hơn như ông bà Võ Quang Tiềm, Nguyễn Văn Phúng, Nguyễn Văn Đàng thì ngày tết đều phải vào chào.

Đi lên bên cạnh là tiệm may Văn Gừng, mình có học với Phong, con trai ông Văn Gừng. Sau đó có một con hẻm đi vào phía sau, bên trái có quán nhỏ bán chè tên Mai Hường, là nơi hội tụ các cô gái Đà Lạt thích ngọt. Hình như quán này là quán chè đầu tiên vì sau này mới thấy các quán chè khác mọc lên như nấm. Bên Tăng bạt Hổ có tiệm chè Mây HỒng của gia đình bác Tám,…

Đi lên thì có tiệm Anh Võ và tiệm chụp hình rồi nhỏ quá không thấy rõ. Ai buồn thì tìm bài đường Minh Mạng, toàn là hình chụp phía đó.

Đà Lạt khi xưa mình chỉ nhớ có 3 tiệm bán radio, máy truyền hình : Việt Hoa ở cạnh tiệm ăn Mekong, tiệm Công Đồng ở đường Minh Mạng và tiệm Việt Quang ở Phan ĐÌnh Phùng, đối diện tiệm thuốc tây Lâm Viên.

Tiệm Việt Hoa, bán máy truyền hình, radio cạnh tiệm ăn Mekong

Đây là hình chụp từ trên đầu đường Minh Mạng.
Trường Võ Bị Quốc Gia trước 75
Xem hai tấm trên, không biết tấm nào chụp trước vì thấy có xóm nhà tôn từ cổng chính của trường đi vào. Biết đâu sau 75, khi Việt Cộng vào chiếm.
Chỗ quán ăn ở đường Trương Vĩnh Ký, sau lưng tiệm thuốc tây Nguyễn Văn An, đối diện khách sạn Thuỷ Tiên mà trung sĩ Phẩm, đang ngồi thấy võ sư và ông đại tá từ Cam Ranh mà mình đã kể trong chuyện tình 302. Mình nhớ có ăn chỗ này một lần khi chú Điềm, hàng xóm đánh xập xám thắng, kêu chở chú ra đây ăn.
Đây là khu Hoà BÌnh khi sinh viên biểu tình, đồi chém đầu ông Kỳ. Ông cụ mua cho mình cái dây nịt ở tiệm ông chà và ở đây. Có ông thần nào hỏi mình cô nào, con ai bán tiệm ở đây. Mình đâu có nuôi ma xó như Thầy Chiêm mà biết hết dân Đà Lạt khi xưa.
Đây là tiệm ăn và vũ trường Đào Nguyên trước 75. Thời tây gọi là “La Chaumière”, lúc đầu lợp rơm như bên tây. Sau này họ phá và xây lại làm câu lạc bộ thể thao của Đà Lạt .
Hình này có thể sau 75 vì tiệm may Văn Gừng đổi tên thành Duyên. Tiệm cạnh Công Đồng đã lên lầu. Hình như tiệm giặt ủi, không chắc lắm
Đây là không ảnh chụp thấy đầu đường Mình Mạng đến đường Nguyễn Biểu. Khi xưa có tiệm vàng Hùng Thanh của ông Bùi Duy Chước, người làng Kế Môn. Tiệm Hiệp Thạnh khi xưa, nằm bên cạnh. Sau này dọn về số 11 Duy Tân.
Tấm ảnh này ở khu Hoà BÌnh (chợ cũ) khiến mình cứ ngu ngu hoài đến tuần vừa rồi đọc được tài liệu của tây, mới biết là chụp ngày lễ “armistice” 11/11/1939. Ngày mà người Pháp làm kỷ niệm cuộc đình chiến của thế chiến thứ 1, nhớ đến các chiến sĩ trận vong. Người việt bị đưa sang tây, đánh trận, chết thế cho dân Tây khá nhiều. Mấy người sống sót, trở về Việt Nam, giết mấy tên lý trưởng đã ghi danh họ đi lính cho tây. Mình có kể rồi. Ngay người Mỹ cũng làm kỷ niệm mỗi năm. Chết mấy chục triệu người. Thấy các viên chức Việt Nam bận áo dài đứng giữa rừng tây đầm và con nít tây.
Duyệt binh ngày lễ 11/11/1939
Có anh nào dân Đà Lạt xưa gọi cho mình, nói khi xưa ở cư xá cảnh sát ở đường Yersin nên tải lên đây cho anh tìm lại chút kỷ niệm thời con nít. Bên trái là trường Lasan Kỹ Thuật. Đi chút nữa là đến Tiểu KHu mà mình có kể ông tiểu khu phó Đặng Văn An chỉ huy. Xung quanh là hàng rào chống B40 . Cuối đường có chút nhà thờ Tin Lành mà năm Mậu Thân, Việt Cộng núp trong đó bị trực thăng Mỹ bắn chạy qua bên nhà mấy bà sơ ở đường Đoàn Thị Điểm, bỏ xác đâu trên 20 mạng. Mình có viết bài với mấy tấm ảnh ngược đường lại. Nếu buồn thì mò trên bờ lốc.
Nhà hàng Đào Nguyên, chắc sau 75 thấy chữ đỏ.

Mình mới tải về một số ảnh Đà Lạt xưa do ông Thi Đà Lạt đăng trên mạng. Để hôm nào buồn đời, mình xem lại mấy tấm ảnh này để xem nhớ cái gì.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 





Cà phê Việt ngon cà phê Mỹ?

  Có người cho rằng Hoa Kỳ là một xứ tiêu thụ, nên họ bị bắt buộc phải chạy đua theo cuộc sống mỹ. Người thì khen đời Sống Pháp lại có người nhảy vào cho rằng cà phê Việt Nam là số một. Có một cô gốc việt đang bán cà phê việt đóng hộp tại Hoa Kỳ mang tên Nguyên Cà phê. Hy vọng cô ta thành công. Mình đã gặp hai người gốc Việt đang sản xuất bán cà phê Việt Nam tại Hoa Kỳ, một chị là tiến sĩ, dạy đại học Pomona, con gái tiệm cà phê ở đường Phan Bội Châu, Đà Lạt, tên gì không nhớ hình như là Thiên Hữu. Chị ta muốn dùng công thức pha cà phê của gia đình khi xưa ở Đà Lạt để bán trên thị trường Hoa Kỳ.

Có một anh chàng gốc việt rất trẻ, chủ chuỗi tiệm cà phê 7 lá (7 Leaves) khắp Hoa Kỳ, nghe nói có đến mấy ngàn nhân viên. Hình như anh ta có đến vườn bơ mình một lần với anh bạn quen, vua dạy Nail ở bôn-sa. Bác sĩ bỏ nghề y khoa đi dạy làm nail.

Không ai bắt buộc anh phải tậu cái xe xịn để đi hay mua cái áo hàng xịn. Đó là quyết định cá nhân bất cứ đang sinh sống tại quốc gia nào. Anh chạy xe Mercedes nhưng cứ phập phồng lo sợ bị sa thải, mất việc là mất tất cả. Trong khi một anh chạy xe quèn, phẩm giá của anh ta đâu có thua người chạy xe xịn. 

Chúng ta bị điều kiện hoá bởi truyền thông quảng cáo, con buôn cho rằng chạy xe xịn, ở biệt phủ là hình ảnh thành đạt. Nhiều người trước đây phải nhịn ăn để mua cái ví LV nhưng nay đồ giả tràn lan, đeo cái ví của công ty này dù mua thật tại tiệm này, người ta vẫn cho là giả. Khi mình đi kiếm vợ ở Cali, chạy chiếc xe cà tàng khiến đồng chí gái không dám leo lên, kêu đi xe tui vì mắc cỡ quá. Ngày nay cũng chạy xe lùi cùi. Anh chạy xe lùi cùi hay xế xịn vẫn chỉ được khấu trừ thuế $0.56 cho mỗi dậm. Tội gì phải chạy xế xịn.

Trong cuốn “the Millionaire next door”, giáo sư Thomas Stanley kể rằng; trong quá trình nghiên cứu về người giàu tại Hoa Kỳ, ông ta mời 1 số triệu phú ăn cơm tiệm để phỏng vấn lý do giúp họ thành công. Ông tưởng người giàu chuyên ăn ở tiệm sang trọng nên mời đến các tiệm sang trọng. Ai ngờ đa số không quen ăn ở tiệm sang trọng, không biết dùng loại nĩa nào để ăn cá, ăn cua, ăn còng như người Việt. Cuối cùng họ chọn hamburger, ăn bốc cho gọn và uống bia vì rượu vang đủ loại lại đắt nên không quen.

Cuốn sách giải thích chúng ta thường lầm tưởng người giàu là phải như vậy thế kia. Đa số người giàu không muốn ai biết đến họ. Ra đường, không ai biết họ là triệu phú. Ông rich Dad của mình, lợi tức mỗi tháng là $300,000 tiền thuê nhà, tiệm ăn, cây xăng, Mobile home Park, chạy chiếc xe lùi cùi mà ông ta mua lại với giá bèo. Người chạy xe xịn chưa chắc là giàu có. Họ chỉ mượn tiền ngân hàng để mua nhà cao xe xịn để tạo hình dáng người thành đạt, giàu có nhưng chưa chắc họ có $1,000 trong trương mục ngân hàng. Một người phụ nữ trông rất đẹp nhưng một khi gội bỏ lớp son phấn, có thể là da cóc, mụn tàn nhang đủ loại hay tóc rụng gần hết sau khi cởi bỏ đầu tóc giả.


Pháp, Hoa Kỳ, Ý Đại Lợi hay Thụy Sĩ không trồng được cà phê nhưng lại bán cà phê nhiều nhất trên thế giới. Có anh quen, mua cà phê Nestle đem về pha chế lại để bán cho người Việt, dưới danh cà phê sữa Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tin tưởng cà phê của Nestle là chất lượng tốt. Đề cà phê Việt Nam nhưng sản suất của Thụy sĩ mua ở đâu rẻ. Người Anh quốc muốn trồng cà phê ở Ấn Độ nhưng không được nên đành bắt người ấn độ trồng trà, bán cho thuộc địa. Người chê đời sống bên Mỹ nhưng có một điểm lạ là khắp nơi trên thế giới đều muốn di cư sang Hoa Kỳ lập nghiệp. Ngay cả kẻ thù của Hoa Kỳ không ai muốn sang Trung Cộng, Nga hay Cuba để sống. Trước Giáng sinh có đến 300,000 di dân lậu ở biên giới Mễ và Hoa Kỳ. Điểm lạ là các người Tàu di dân lậu, nay dùng đường biên giới Mễ. Ngay Trung Cộng giàu có như báo chí tung tin, người Tàu vẫn lặng lẽ ra đi tìm đất sống ở Hoa Kỳ.

Trong cuộc đời, nếu anh muốn giàu thì chỉ cần bớt đòi hỏi một tí là giàu có. Mình có quen một anh H. O., sang Hoa Kỳ định cư. Gia đình anh ta được housing, welfare và foods stamps. Anh cảm thấy đầy đủ, so với những năm tháng trong tù Việt Cộng. Tiền già nhận được hàng tháng, anh đem một ít tiền, gửi về Việt Nam cho chùa hay bà con. Mỗi lần họp mặt, em út của anh ta nghe anh ta nói họ hàng ở Việt Nam ra sao. Không phải những họ hàng gần mà từ làng ở Huế đâu chưa bao giờ nghe hay gặp mặt vì gia đình dọn vào Sàigòn từ lâu. Anh ta xin mấy người em đóng góp một chút để anh ta gửi về làm quà cho những người nghèo khó. Mình thấy anh ta giàu vì không đòi hỏi nhiều, không khổ sở lao đao với cuộc sống. Nhất là thương nhớ người bà con nghèo khó ở Việt Nam.

Đoán bên Thái Lan hay cambuchia

Trong cuốn the Millionaire Mind, giáo sư Stanley cho hay nhiều người ở trong những biệt thự đồ sộ, lương làm nữa triệu một năm nhưng lại tiêu xài đến trên $600,000. Vậy ai giàu ai nghèo. Tùy theo nhân sinh quan của mỗi cá nhân. Có lần xem phỏng vấn một ông tỷ phú mỹ. Ông cho rằng đâu có cần 10 cái áo đâu, chỉ cần vài cái bận. Đàn bà thì khác. Tư duy của người triệu phú rất khác người bình thường. Ai buồn đời nên đọc mấy cuốn sách do vị giáo sư đại học ở Georgia này bỏ cả đời để nghiên cứu vì sao người giàu lại giàu có, như ông Napoleon Hill khi xưa được Andrew Carnegie cho tiền để nghiên cứu cả đời về những người Mỹ giàu có. 


Mình đã từng sống ở pháp, Ý Đại Lợi, Thụy Sĩ, Anh quốc và nay Hoa Kỳ. Theo mình chúng ta định nghĩa cuộc sống mình ra sao thì ở quốc gia nào mình cũng không thay đổi. Từ khi rời Việt Nam mình đều sống như những năm đầu ở Pháp, không đòi hỏi nhiều, không hút thuốc, không uống rượu, không thích tìm tòi ăn cơm ngon, mua đồ cũ chợ trời bận. Lấy vợ, vợ mua thì bận không thì bận áo quần cũ. Mình vẫn bận mấy áo quần mua từ năm 1987 sang Hoa Kỳ. Hơi mòn một tí nhưng làm vườn đâu ai thấy mà có thấy mình cũng chả lo. Hôm trước đi Toastmasters nói chuyện về, mụ vợ la, kêu anh gài nút lộn mà đứng trước đám đông. Sáng đi tập ở Đông Phương Hội xong thì thay áo quần đi họp nên không để ý.


Ở Hoa Kỳ cũng như ở Ý Đại Lợi hay Thuỵ Sĩ. Sướng hay khổ là do mình tự quyết định. Phật có dạy; dục là khởi đầu của sự đau khổ. Ông ta từ cương vị hoàng tử, sống trong nhung lụa nhưng bỏ vợ con đi tìm Tứ Diệu Đế. Mỗi người trong chúng ta là kiến trúc sư kiêm kỹ sư của đời mình nên không thể nào đổ lỗi cho môi trường hay vợ con. Anh muốn đi xe xịn thì phải trả giá đi xe xịn, anh muốn ăn cao lâu tửu vị thì bệnh hoạn đến vì rượu và thuốc lá không tốt cho cơ thể của chúng ta. Có người thích đọc sách, người thì thích kiếm cách làm thêm tiền, người thích sưu tầm uống rượu, hay cà phê,… đó là quan niệm sống của từng người, đi tìm hạnh phúc riêng cho chính mình.


Ở Hoa Kỳ, anh có thể sống như một người Pháp bình thường, mướn nhà ở, dùng tiền lương để đi chơi, nghỉ hè như thế hệ trẻ ngày nay tại Hoa Kỳ. Đi viếng Sơn Đoòng mình có gặp mấy cô gái từ Việt Nam, thành đạt. Thay vì lo lấy chồng, mua nhà, sinh con đẻ cái, họ dùng thời gian đi du lịch, trải nghiệm cuộc sống. Đó là lối sống của họ, không có gì trái phải cả. Chúng ta sống một đời nên cứ làm theo nhân sinh quan của chúng ta.

Còn Việt Nam thì mình không nghĩ có thể sống lâu dài ở Việt Nam vì không quen. Hút thuốc khắp nơi thêm nhậu nhẹt. Có anh bạn về Việt Nam ở 6 tháng tại miền quê, tự trồng rau, nuôi gà heo để ăn, đến tháng thứ 6 thì ăn cái gì bị vật tưởng chết nên khăn gói về lại cali. Thứ nhất là ở Cali, cũng như sống ở Việt Nam, nói tiếng Việt hàng ngày, ăn thức ăn việt hàng ngày nên không có nhu cầu về Việt Nam uống cà phê. Có thể ở quê thì được vài tháng vì dù sao không khí vẫn tốt hơn các thành phố đầy tiếng còi, khói xe, bụi bặm.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 








Phê Tây cà Anh


Mình có kể về xuất xứ cà phê từ phi châu đến đế chế Ottoman. Từ đây, các nhà ngoại giao và thương buôn âu châu mới đem về xứ họ rồi từ đó được truyền khắp nơi trên thế giới. Có thể khi xưa, mua cà phê nhập cảng rất đắt tiền, người dân ra tiệm mua và từ từ các tiệm bán cà phê được mọc lên trong các thành phố. Dần dà, chủ quán bán thêm các món ăn phụ. Theo thời gian các quán cà phê kinh doanh thêm các thức ăn uống khác. Người ta có thể vào quán cà phê, thay vì uống cà phê, kêu một ly rượu hay bia, ăn thêm ổ bánh mì, croque Monsieur, croque madame … Tùy theo các loại thức ăn nên ở Pháp có nhiều tiệm lâu năm được gọi là Brasserie,…


Người Ý Đại Lợi là dân buôn bán từ Âu sang Á, du nhập cà phê vào âu châu đầu tiên vào thế kỷ 17. Từ từ các ông cố đạo uống rồi đến các thương buôn rồi đến thường dân. Vài ông cố đạo buồn đời, đề xuất kiến nghị yêu cầu đức giáo hoàng cấm loại thức uống của bọn phản chúa như mấy ông thần hồi giáo quá khích ngày nay kêu gọi thánh chiến, giết dân không theo đạo hồi. Lý do là cà phê đến từ văn hoá hồi giáo, đế chế Ottoman mà hội thánh Vatican đánh nhau suốt bao nhiêu năm để dành thánh địa Jerusalem qua các cuộc thập tự chinh. Đức giáo hoàng uống thử cà phê của đám phản chúa, thờ Allah, thấy nức nở, phấn chấn, hồ hởi, yêu thích trường kỳ, kêu cứ cho thiên hạ dùng khiến mấy ông cố dạo này buồn đời mất cơ hội lập công thánh chiến. 



Tuần này mình có đọc một nghiên cứu về toán học khi xưa vì đi Uzbekistan về nên tò mò đọc lịch sử của mấy xứ ở vùng này thì thất kinh. Théorème Pythagore đã được viết ra, sử dụng trước thời ông này ra đời, ghi trên mấy tấm đất sét mà khi xưa học hình học phải nhớ. Lịch sử bị xoá bỏ để rồi ai đó sau mấy trăm năm lại tìm ra lại. Kiểu một chế độ mới lật đổ chế độ cũ, đem xóa bỏ tất cả những dấu tích sách vỡ của chế độ cũ rồi vài trăm năm sau một chê độ mới lên, tìm ra lại.


Đạo Hồi Giáo cấm uống rượu, cho uống trà và cà phê trong khi đạo thiên chúa thì muốn cấm con chiên uống cà phê, trà vì do hồi giáo và khuyến khích uống rượu vì là máu chúa. Mình đoán là kinh tế đưa đến quyết định này. Khi xưa, mấy ông cố đạo ngoài đọc kinh cầu nguyện, phải lao động làm rượu như rượu nổi tiếng Champagne nên họ khuyến khích con chiên uống rượu trong khi đạo hồi giáo trồng trà và cà phê nên khuyến chích con chiên uống cà phê, trà. Các loại uống này đều có kích thích tố cả. Nếu muốn cấm kích thích tố thì nên bắt chước phật giáo tránh uống và ăn các loại kích thích tố.


Mấy ông thương lái hoà lan cũng mua đem về bán. Khởi đầu mấy ông đạo hồi, luộc hết các hạt để người mua không trồng làm giống.., nhưng có nhiều tên mua chuộc ra sao để có hạt giống để trồng ở các xứ thuộc địa của họ sau này.


Mình có kể là cà phê đã được đem đến đế chế Ottoman bởi bà vợ của ông Sultan. Bà này uống cà phê và ăn bánh ngọt để cho bớt vị đắng. Qua Thổ Nhĩ Kỳ uống cà phê thì họ cũng đem bánh baclava cho ăn và các quán cà phê là nơi được quân phản loạn của đế chế Ottoman, hội họp để bàn bạc đánh phá đế chế sau này. Xứ Thổ Nhĩ Kỳ làm cà phê trong cái nồi nhỏ bằng đồng, có cái quai. Người hY Lạp bị Thổ Nhĩ Kỳ đô hộ mấy trăm năm nên pha cà phê kiểu người Thổ Nhĩ Kỳ. Người ta khuyên nên nấu bằng đồ đồng tốt cho sức khoẻ vì có chất đồng.

 Tại Anh quốc tương tự, các tiệm cà phê bắt đầu được dựng lên, là nơi hội tụ của các nhà trí thức của xứ sương mù này, giới thiệu các tư tưởng phản động khiến vua Charles đệ nhị cấm nhưng bị dân chúng chống đối nên được mở lại và 50 năm sau có đến trên 2,000 quán cà phê trên lãnh thổ của xứ này.


Bây giờ nói đến cà phê tây, được du nhập vào Pháp quốc từ hải cảng Marseille. Cà phê được các tàu bè từ Ai Cập chở đến bán cho một thương lái người Pháp vào năm 1644 và đến năm 1671 thì quán cà phê đầu tiên được mở cửa tại hải cảng này. Trong cuốn sách Marius, ông Marcel Pagnol có nói rất đến tiệm cà phê ở hải cảng này. Đến năm 1669 thì ông sultan của đế chế Ottoman viếng thăm Paris, mời ông vua Louis 14 uống cà phê khiến ông ta phê như vua tây nên từ từ các hoàng cung ở âu châu bắt đầu uống cà phê và người Pháp bắt đầu cho trồng cây cà phê ở các thuộc địa của họ ở vùng nhiệt đới sau này. Có thể vài trăm năm sau, lịch sử sẽ kể người ta hút sì ke như cà phê ngày nay. Cũng trải qua sự cấm đoán, tù đầy để rồi được phép hút tự do.


Sau khi đánh quân Ottoman chạy có cờ thì quân đội Áo mới bắt đầu uống cà phê vì họ thấy mấy bao cà phê của quân Thổ để lại sau lưng. Từ từ họ đem cà phê sang Mỹ Châu, trồng tại các vùng thuộc địa của họ ở Nam Mỹ. Ngày nay các vùng này sản xuất cà phê cho thế giới như Việt Nam, nhiều quá nên giá rẻ. Chỉ có bọn thương lái mới giàu.

Người Anh quốc thì muốn trồng cà phê ở xứ Ấn Độ, hy vọng làm giàu cho đế quốc nhưng không hiểu lý do, vùng đất này trồng không được cà phê, chắc vì có nhiều cà ri cay mà lại thích hợp trồng trà nên từ đó người Anh quốc mới tạo dựng một văn hoá uống trà khiến người Ấn Độ theo, bắt chước. Người Việt mình khi xưa, bắt chước những gì tây làm là văn minh, uống cà phê mệt thở. Nói chuyện với mấy tên bạn Ấn Độ, họ chửi nền văn hoá thực dân. Nay họ có một ông gốc Ấn Độ làm thủ tướng xứ Anh quốc. Chừng nào mới có một người gốc mít làm thủ tướng Pháp hay Trung Cộng.


Khi xưa, học lịch sử Hoa Kỳ, kêu người Mỹ chống lại người cai trị Anh quốc vì họ bị đánh thuế “trà.” Nên tưởng người Mỹ thèm uống trà đến khi sang Hoa Kỳ mới thất kinh. Mấy ông dạy sử Hoa Kỳ, người Việt dịch cụm từ “T.E.A.”, viết tắc của Tax Enough Already, thành trà vì tiếng anh “Tea” có nghĩa là trà. TEA là một phong trào do người Mỹ bị đánh thuế về rượu bia mà mấy nhà cách mạng Hoa Kỳ đều có cổ phần trong việc sản xuất mấy thứ này đến ngày nay còn vài tên như Adams,… Chớ người Mỹ đâu có uống trà, toàn uống cà phê như uống nước lạnh mà mình đã kể. Cho thấy học lịch sử sai cũng hơi mệt. Mình mất 40 năm mới hiểu rõ vấn đề khi con đi học, mò đọc sách sử của con mình học. Đám dân này chối đối bị đánh thuế nên bò lên tàu chở mấy thùng trà đem quăn xuống hải cảng khiến mấy ông dạy sử Hoa Kỳ, tưởng là họ chống đánh thuế trà. Nếu trà đắt tiền thì tại sao họ lại quăn xuống biển thay vì rượu bia.


Ngày nay văn hoá nghiện uống cà phê lan sâu rộng trên thế giới. Các công ty bán cà phê, mua mấy ông thần bác sĩ, tiến sĩ viết những bài nghiên cứu sơ sơ, dùng những điểm tích cực để bán cà phê và dấu những tai hại của cà phê. Họ cho rằng uống cà phê giúp não bộ hoạt động tốt, không bị bệnh mất trí nhớ này nọ nhưng không nhắc đến những tai hại của cà phê. Ai tò mò tìm trên bờ lốc của mình. Mình có anh thợ người Guatemala, gia đình trồng cà phê nên lâu lâu anh ta cho một ít từ quê nhà xay rồi gửi sang còn nguyên chất. Thường già phê bị pha rất nhiều, nghe nói ở Việt Nam họ trộn với bắp rang.


Điểm đặc biệt là khắp thế giới thích cà phê Starbucks của Mỹ. Đi Thổ Nhĩ Kỳ thấy dân tình bu vào đây đông như quân thổ thay vì mấy tiếm cà phê của xứ họ. Mình không uống cà phê nên không hiểu lực hấp dẫn của mấy quán cà phê này, chỉ thấy tốn tiền. Vào tiệm ăn Việt Nam, thấy một ly cà phê giá 5 đô. Kinh

Phòng trà của Harrods ở Luân Đôn, mình có dẫn vợ con lên đây ăn. Khi làm việc ở Luân Đon thì có lên đây vài lần cho biết. Các phòng trà thường đa số khách là các phụ nữ, có gì đó phong cách của giới nữ hơn quán cà phê có vẻ nam tính hơn vì thường người ta uống cà phê thêm cognac. Khi nào buồn đời mình sẽ kể sự khác biệt. Khá đặc thù.

Khi mình sang Anh quốc làm việc, mình tưởng dân xứ này uống trà nhiều lắm như trong sách báo kể nhưng khi vào sở thì thấy họ pha cà phê uống mệt thở, chả thấy thằng ăng-lê nào uống trà. Họ có vài phòng dành riêng cho mấy bà để uống trà trong một vài Pub. Đó là thời xưa chớ từ khi bà Thatcher lên ngôi thì hết trò chia rẻ hai bên. Mấy người này uống trà hay cà phê đều cầm cái tách bằng 2 ngón tay còn 2 ngón tay kia cầm cái đĩa đựng cái tách, ngón tay út căng căng ra cho vẻ dân trưởng giả. Mình có dẫn đồng chí gái và mấy đứa con đến Harrods để xem tiệm mua sắm sang nhất xứ sương mù, leo lên phòng trà uống trà và ăn bánh ăng lê. Nay do một người ả rập làm chủ, có ông con trai chết với công nương Diana dưới hầm cầu Paris. Lên lầu cao uống trà và Portnum & Mason cũng có phòng trà. 


Ở Fortnum & Mason có scones nổi tiếng. Bên mỹ không thấy họ bán loại bánh này.
Mình có dẫn vợ con đến đây ăn. Lần đầu tiên đến Luân Đôn mình bò lên đây. Vào mùa giáng sinh thì mua hàng của họ, họ gói cho mình đem về Paris tặng bạn bè. Nội đứng xem họ gói quà là một nghệ thuật như người Nhật. Hồi sang Cali để ra mắt bố mẹ cô bạn, có mua quà ở đây nhưng họ không muốn mình làm rể đành hát Adieu Jolie Candy ở Healthrow.

Chạy vòng vòng mới đến việc mình muốn kể các tiệm cà phê mà mình có dịp vào uống sô-cô-la ở Paris vì nghe người Pháp nói đến. Tiệm cà phê ở pháp không chỉ bán cà phê mà họ bán thêm phần ăn uống. Điển hình quán cà phê Le Balto gần atelier của mình ở đường Mazarine. Quán nhỏ nhưng sinh viên trong trường, chạy ra đây đấu láo, ăn bánh mì, kêu jăm-bông với bơ và cornichon hay Croque mOnsieur, thêm một ballon rouge (ly rượu đỏ, loại ly bầu bầu như quả banh nên tây gọi ballon). Bà chủ quán tên Madeleine làm trong khi ông chồng pha cà phê máy. 


Hôm nay mình có hẹn một anh bạn tại quán cà phê Starbucks, nhờ anh ta chạy cái laptop cũ của mụ vợ để dùng trong vườn. Thấy người Mỹ uống cà phê đa số là một mình, nhiều người ngồi nơi bàn với cái laptop, làm việc hay lướt mạng xã hội, khác với tiệm cà phê bên Tây, ít thấy ai ngồi cà phê một mình. Nếu có thì chắc hiếm như một bài hát của Joe Dassin, aux trois colombes

Máy cà phê mình thấy bên pháp to lắm. Họ múc cà phê xay bỏ vào cái tay cầm rồi gắn vào máy nhấn nút thì một phút sau có cà phê cho khách. Nay mình thấy ở các chỗ bán xe như Toyota, Lexus, Tesla,…họ đều gắn cái máy, thấy có hột cà phê tuỳ loại rồi khi uống thì cứ nhấn nút, máy tự động xay cà phê rồi pha cho khách một ly cà phê. Nay họ chỉ dùng ly giấy nên hết gọi tách cà phê. Nay người Mỹ có thể mua về nhà vì nhỏ, rất rẻ nhưng mua mấy cái hộp cà phê thì đắt.

Họ pha cà phê bằng máy không như ở Việt Nam, với cái phễu tất hay cái nồi ngồi trên cái cốc. Họ lấy cái đồ tròn tròn, có cái quai múc cà phê bột đã xay nhét cho đầy rồi, bỏ vào máy rồi tự động lọc cà phê ra cái tách. Khi xong một ly, họ lại tháo ra rồi khỏ khỏ cái đồ lọc cà phê vào cạnh thùng rác để xác ướt cà phê đã pha vào thùng rác, không thấy họ rữa gì cả, múc thêm cà phê xay bỏ vào làm tiếp ly khác. Cà phê thêm cái ổ bánh mì mất 7 quan pháp, có thể ăn được 3 bữa cơm đại học. Dạo về Cần Thơ, mình thấy người Việt pha cà phê trong cái siêu thuốc bắc, bán trên các chiếc ghe ở chợ Cái Rằng.


Mình nhớ lần đầu tiên uống cà phê ở Paris tởn đến già. Hè đi làm hè ở ngân hàng, tối đó có tên bạn nhờ mình ghé lại atelier phụ hắn vẽ charrette đồ án cuối năm. Thức cả đêm vẽ cho hắn xong thì sáng đến phải vô ngân hàng làm việc. Sợ thằng Tây xếp bắt gặp ngủ gục nên mình xuống cafeteria kêu tách cà phê. Bà đầm hỏi cà phê nào khiến mình như bò đội nón. Kêu cái nào cũng được, bà làm cho tách expresso. Mình uống cái ực. Tối đó về nhà cũng không ngủ, xem như 48 tiếng không ngủ, qua ngày hôm sau vào làm việc gật lên gật xuống nên tởn đến giờ.



Tiệm đầu tiên mang tên “la Procope", được gọi là cổ nhất Paris nhưng không đúng hẳn. Tiệm này được mở vào năm 1688 bởi một ông di dân từ Sicily, tên Procopio Cuto nhưng đóng cửa vào năm 1872 rồi được mở lại vào những năm 1920. Lúc đầu ông ta mua lại một nhà tắm ở Paris, rồi sơn phết lại để cho thiên hạ uống bia, cà phê. Kiểu mấy quán ngày nay ở mấy làng bên Ý Đại Lợi. Ông này may mắn là vào năm 1689, nhà hát La Comedie Francaise mở cửa gần đấy nên các nhạc sĩ, kép hát, ca sĩ, trí thức, cách mạng đều kéo đến đây để truyền nhau cảm hứng, chém gió. Nói chung giới trí thức và nghệ sĩ tụ họp ở đây. 


Sau này ông chủ tây hoá tên họ của mình cho tây tây một chút là Francois Procope thay vì Cuto và tiệm cà phê của ông ta thành Le Procope. Nghe kể Jean Jacques Rousseau, Voltaire, hay đến đây để viết hay chém gió rồi mấy ông người Mỹ sau này làm cách mạng cũng đến đây. Chắc để chém gió và tư duy đột suất sao không đánh thằng vua Anh quốc để mình tự làm vua. Mấy ông tây dạy lịch sử khi xưa, mình bị nhét vô đầu như Robespierre, Danton, Léon Gambetta, Anatole France,…đều có mặt ở đây thường xuyên trước khi lên máy chém.


Bên trong cà phê Le Procope. Tuy nói là tiệm cà phê nhưng ngày nay có thể nói là tiệm ăn với nhiều món ăn độc đáo, kiếm thêm tiền nhiều chớ bán cà phê thì sao mà lời nhất là khách ngồi mấy tiếng đồng hồ. Ngày nay là kinh doanh không phải trí thức vơ vẩn.

Bên ngoài tiệm cà phê, thấy đề phòng trà (Salon de thé) khác với phòng trà ở Việt Nam có nghĩa là nơi nhảy đầm. Có thể khi xưa, các phòng trà này được khách hàng đến uống trà ăn bánh ngọt rồi họ tổ chức nhảy đầm như tây rồi Việt Nam mình chỉ dùng cho việc đến nghe ca sĩ hát, nhảy đầm. Đặc điểm là khách thích ngồi ngoài đường để ngắm thiên hạ đi qua đi lại.



 Tiệm thứ 2 là “les 2 magots” (2 ông quan tàu). Phía trong họ có tượng của 2 ông tàu này, trên trên tường. Hình như trước kia là một tiệm bán tạp hoá mang tên hai ông tàu ở đường Buci mà atelier Lemaresquier đóng đô bên cạnh rồi sau này có một nhóm chạy qua atelier của mình. Sau này chủ mới biến thành tiệm cà phê và giữ luôn tên của tiệm tạp hoá mang tên hai ông tàu. Chỗ này lúc nào cũng đông. Tiệm này được thành lập sau Le Procope, được các nhà trí thức của thế kỷ 20 thăm viếng thường xuyên như Jean Paul Sartre và bà bồ Simone de Beauvoir, Hemingway, Picasso,…kể không hết còn những người không nổi tiếng thì đông lắm như mình khi xưa, cũng mò ngồi uống sô-cô-la.


Tiệm 2 ông quan tàu bên ngoài, 

Phía trong họ còn giữ hai cái tượng quan tàu khi xưa


Tiệm thứ 3 là cafe de Flore, nằm bên kia đường đối diện Les 2 Magots. Cũng nhiều giới trí thức Paris ghé lại đây chém gió ăn uống. Hình như mấy tiệm cà phê này để tiếp thị, cũng ra giải văn chương đủ trò. Ai thắng giải chắc cho uống cà phê miễn phí cả đời quá. 


Phía ngoài cà phê Le Flore. Bác nào uống được cà phê nhiều thì một ngày có thể ghé lại 3 tiệm này gần nhau

Bên trong cà phê Le Flore


Có một cà phê mang tên Costes do ông Philippe Starck thiết kế ở Paris đâu năm 1984, nổi tiếng trong giới kiến trúc, thời trang Paris thời ấy. Nếu bác nào đến Paris nên bò lại đây để xem các dân trí thức tây tân đại ở đó. Các tiệm cà phê lâu năm xưa đều toàn là du khách. Ngồi nhìn sang bên cạnh toàn là người Mỹ, người Nhật,… hình dưới là cà phê Costes, thiết kế kiến trúc hậu hiện đại. Dạo ở Paris, mình có vào đây với mấy người bạn vài lần. Chả có gì đặc biệt.


Mình có xem danh sách mấy tiệm cà phê được người Pháp ưa chuộng tại Paris ngày nay. Nếu có viếng Paris các bác nên tìm những chỗ này mà uống cà phê để hiểu thêm về đời sống người Pháp hiện nay thay vì bò đến những tiệm cà phê nổi tiếng một thời vì toàn là du khách bò lại. Em nhớ đến thành Vienne, muốn đi ăn cái bánh sô-cô-la nổi tiếng khi xưa, chỉ thấy toàn là du khách từ Nam HÀn, Nhật Bản, Trung Cộng hay từ Hoa Kỳ. Thấy như vào một viện bảo tàng, nghe toàn là tiếng xứ nào thay vì tiếng đức.


(Còn tiếp) mấy tiệm khác ở khu Montparnasse của giới nghệ sĩ 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn