Đường Cầu Quẹo 1/15/14

Đường Phan Đình Phùng thường được dân Đà Lạt xưa gọi là đường Cầu Quẹo nhưng không hiểu nguồn gốc. Có người nói vì con đường này quẹo qua cầu La Sơn Phu Tử gần Mả Thánh, có người giải thích cho mình là vì đi xuống dốc đường Duy Tân thì quẹo gần cái cầu Hải Thượng về lò gạch trong Hoàng Diệu. Ai biết xin cho biết. Con đường này bắt đầu từ ngã ba Duy Tân và Phan Đình Phùng đến Mả Thánh, có lẻ là con đường dài thứ nhì trong thị xã Đà Lạt ngày xưa. Suốt con đường này có những hẻm nhỏ nối liền với đường Hai Bà Trưng, Minh Mạng, Hàm Nghi và ấp Mỹ Lộc.
Đi từ ngã ba Duy Tân và Phan Đình Phùng ngay góc kiosque Anh Việt, bán và dạy đánh máy chữ, phía bên phải đa số là nhà ở vì đâu lưng vào trườn dốc của đường Duy Tân và Minh Mạng nên nhiều nhà phải đi lên thang cấp nên ít có cửa hàng ngược lại bên trái, hướng đông thì phẳng bằng, có các tiệm buôn bán lầu một, còn lầu 2 thì ở. Có chỗ thấp hơn mặt đường nên phải đi xuống vài thang cấp. Có lần trời mưa, chở Hùng Con Cua đi đâu đến khúc đường này bổng có hai tên lái Honda vượt qua mặt làm bắn nước vào hai thằng nên mình rú ga chạy theo chửi thề, nói ngưng xe lại tao đánh cho vỡ đầu. Tên lái xe xin lỗi còn Hùng con cua thì cười nói; mẹ nó ngưng xe lại thì tụi mình chạy không kịp thở.

Mỗi lần trời mưa bảo, phía sau đường Phan Đình Phùng có con suối chảy về Cam Ly hay bị ngập lụt vì dân sống gần con suối, lười đem rác ra ngoài đường để xe hốt rác mang đi, đem đổ xuống dưới suối nên nghẹt vào mùa nắng nên khi mùa mưa đến là ngập ống cống, mương rãnh. Nước cống và rác rưởi chảy về thác Cam Ly nên khu vực xung quanh thác này rất thối.
Nếu mình không lầm thì dạo đó ngay ngã ba này có một vạt đất trống bên trái. Căn nhà đầu tiên là phòng mạch của bác sĩ Lương, hình như là số 1 hay 3, ở trên lầu còn dưới thì có nhà bảo sanh của cô Mụ Trương thị Mỹ Lộc mà có lần bà cụ mình sinh một cô em tại đây. Phía sau hẻm có nhà của ông giáo Kim, dạy tư học trò tiểu học ở đường Phan Đình Phùng, góc khách sạn Mimosa.
Gần văn phòng bác sĩ Lương có tiệm đồ gỗ của ông bà Nguyễn Đình Thừa, số 29, bố mẹ của Nguyễn Minh Dũng tuyển thủ bóng bàn của Lasan với Lê Xuân Thảo, nay định cư ở Quận Cam. Hai ông bà này có rễ là ca sĩ Anh Dũng, có lần học hè với mình ở trường Việt Anh, năm mình chuẩn bị sang chương trình Việt. Ngày cuối liên hoan thì anh chàng hát bản Mal bằng tiếng Việt còn có cô nào học Couvent des oiseaux hát tiếng Tây, sau này thấy anh ta hát ở đám cưới ông anh vợ mới nhớ lại. Bên cạnh là số 23, nhà của ông bà Lê Xuân Đằng, trưởng hướng đạo Lâm Viên, người Huế, cùng làng Dưỡng Mong với ông ngoại mình, nghe nói có bà con chi đó nhưng không nhớ ra răng, hay chạy chiếc xe Lambretta. Đi lại một tí thì có tiệm bán than mà họ hay giao cho nhà mình, sau này dân chúng dùng lò dầu hôi thì không biết họ còn buôn bán than hay không. Kế đến có tiệm thuốc bắc của Ông Huỳnh Ôn, số 43, rồi đến trường Tân Sanh dạy chương trình chữ Hán cho người gốc Hoa.
Khúc đường này có nhiều hẻm của người gốc Triều Châu ở như Chú Lình bán hủ tiếu, bà Cẩu bán tương ớt ở chợ dưới cạnh hàng của bà cụ mình. Mình nghe kể thời đệ nhất cộng hoà, các người gốc Hoa đều bị buộc vào quốc tịch VN, thậm chí có người phải đổi họ Việt. Các chương trình giáo dục bằng tiếng Quan Thoại bị cấm đến sau khi ông Diệm bị lật đổ (1/11/63) thì được mở cửa lại. Các tiệm bị cấm đề tiếng Hoa tương tự thời chính phủ Nguyễn Cao Kỳ cấm tiếng Tây, nhảy đầm nên mấy ca sĩ như Elvis Phương phải bỏ tên Elvis đến khi ra hải ngoại thì lấy tên cũ lại.
Chính phủ ra lệnh đóng cửa trường Tây, vì tổng thống De Gaulle muốn Đông Dương trung lập, không cho sinh viên du học ở Pháp nên đa số xin đi Ý, Đức, Bỉ rồi chuồn qua Pháp. Dạo ông Diệm về nước làm thủ tướng trong khi công dân Vĩnh Thụy còn ngao du bên Hongkong, Macau thì 7 Viễn, 3 Cụt và các trùm thương gia ở Chợ Lớn nộp tiền cho cụ Hoàng ăn chơi để được hưởng các quyền lợi thương mại sau này. Trong chương trình củng cố quyền bính ở miền Nam, chính phủ của ông Diệm thương lượng với Pháp cho 7 Viễn sang Pháp sinh sống và dàn cảnh cho lính miền Nam do ông Dương Văn Minh dẫn đầu đánh vào mật khu của tướng 7 Viễn để gây thanh thế cho quân đội miền Nam mới thành lập, không ngờ sau này người hùng Rừng Sát lại lật đổ và giết chết hai anh em ông Diệm.
Để kiểm soát các thương gia và các nhà đại địa chủ miền Nam nên mua đất rẻ để bán lại cho nông dân để lấy lòng dân thay vì để họ theo VC. Dạo đó có chương trình Ấp Chiến Lược được áp dụng khá thành công ở Mã Lai nên được thiết lập ở miền Nam nhưng khi quân đội Mỹ sang thì bị bải bỏ để thay thế chương trình phá hủy và đưa nông dân vào tỉnh, khiến nông dân thấy nhà cửa của ông cha để lại bị thiêu huỷ nên theo VC. Mình có đọc hồi kí của ông Trần Văn Đôn, gia đình giàu có và mang quốc tịch Pháp, kể ruộng vườn của gia đình bị thu mua. Có lẻ vậy mà trong thời chiến tranh, các địa chủ giúp VC rất nhiều.
Cạnh trường Tân Sanh có một vạt đất trống hình như chứa gổ thì phải rồi đến khách sạn Cẩm Đô ngay góc Phan Đình Phùng và con đường nhỏ băng qua cầu Cửu Huần tới đường Hai Bà Trưng, có thang cấp đi lên bệnh viện Đà Lạt. Nghe nói ngày xưa gia đình ông bà Cửu Huần ở chổ này, có thể họ có làm cái cầu nhỏ nên gọi là cầu Cửu Huần. Đà Lạt có nhiều cầu mang tên người xây cất như cầu Bá Hộ Chúc vì ông này bỏ tiền xây cái cầu đường Bà Triệu, góc Phạm Ngũ Lão hay cầu Ông Đạo, có nhà ngay trên đồi đường Trần Quốc Toản, đối diện Ấp Ánh Sáng.
Khúc chỗ này có nhà hàng và khách sạn Cẩm Đô và dãy hàng bán đồ ăn bên hông gần cầu mà nổi tiếng nhất là xe mì Cẩm Đô. Mỗi lần đau, mình hay chạy xuống mua hai vắt mì Cẩm Đô ăn vào là khỏi ngay. Buổi sáng có cái chợ nhỏ ở hai bên đường. Đối diện khách sạn Cẩm Đô là dốc Nhà Làng đi xéo xéo lên Nguyễn Biểu. Chẳng hiểu lí do gì người ta gọi Nhà Làng, ai biết xin chỉ cho. Dốc này làm bằng đá ong, có cái mương chảy xuống đường Phan Đình Phùng đen ngòm và hôi rình rồi trôi xuống con suối chảy dưới cầu Cửu Huần ra Cam Ly. Nhà thủ môn Lực của đội banh Đà Lạt và chú thím Lình ở khúc này. Có bãi đất trống ngay đường Phan Đình Phùng sau này ông Đoàn, vua đốn cây rừng Đà Lạt với tiệm chụp hình Mỹ Dung, mua và xây mấy căn nhà ở đây.
Ngay dốc Nhà Làng này bên cạnh phòng mạch của bác sĩ Đào Huy Hách có mấy thang cấp đi lên đường Minh Mạng ngay ngã ba Tăng Bạt Hổ, chè Vọng Nguyệt Lầu . Đối diện phòng mạch là một dãy nhà gổ 4 căn, lợp tôn, hai tầng buôn bán lặt vặt mà căn cuối là nhà của Đinh Anh Quốc, Bắc kỳ, học Yersin với mình rồi sang Văn Học cùng thời. Hình như nhà hắn là tiệm cắt tóc thì phải vì hắn thường đánh cờ tướng ở tiệm này.
Chỗ nhà tên này đi về phía rạp Ngọc Hiệp thì có tiệm giày Hồ Út, tiệm của ông thầy mằng, có người con trai chết đuối năm 73 trong thung lũng tình yêu. Hôm đó trời mưa, Dương Quang Trí quên đem cái phao cấp cứu của phi công. Mình đi tập bơi với Phạm Thành Nguyên, Trần Thiện Tân và Dương Quang Trí thì thấy ba tên Tàu nhảy xuống bơi ra giữa Hồ rồi hai tên bơi vô còn một tên thì cứ bơi vòng vòng. Mình nói Nguyên bơi ra xem thử vì hắn bơi khá nhất trong đám. 10 phút sau, ông thần bơi vô bảo tên đó bị uống nước, thở ột ột, mệt nên bơi ngửa vòng vòng, rồi cả đám đứng nhìn tên này từ từ chìm, ba ngày sau mới nổi lên.
Từ khúc tiệm ông thầy mằng đến rạp Ngọc Hiệp thì đa số là các tiệm tạp hoá của người tàu. Cạnh rạp Ngọc Hiệp có một tiệm sinh tố của bà Tàu mà mình hay ghé lại uống sinh tố pha với sửa tươi Hoà Lan, thêm cái bánh chou kem là thấy đời hạnh phúc. Ngay bên cạnh có một cái hẻm vô sâu phía sau rạp Ngọc Hiệp nhưng mình không bao giờ có cơ hội vào. Ngay chỗ này có cái quán mà mình tốn khá nhiều tiền hồi nhỏ. Mình hay mua mấy cuốn sổ nhỏ dày in đầy hình khác nhau rồi để mấy trang lật nhanh như cuốn phim, mua cái hộp có cái gương nhìn qua ánh sáng thì thấy nhìn 7 màu đến lớp 11B học Quang Học với thầy Lê Mạnh Hùng mới hiểu lí do có 7 mầu. Mình đốt bao nhiêu tiền lì xì để mua pháo và mấy bộ hình rồi cắt từng tấm để chơi dích hình với tụi bạn trong xóm hay ở trường trong giờ ra chơi.
Rạp Ngọc Hiệp chuyên chiếu phim ấn độ, sau này thì toàn phim chưởng và lâu lâu có gánh cải lương lên Đà Lạt, đóng đô ở đây một tuần rồi chạy. Mình nhớ hồi nhỏ đi xem đại nhạc hội ở đây, có màn vũ nữ Thu Thuỷ múa sexy. Khi trống nhạc trỗi lên thì cô này uốn éo run run bộ ngực ra sân khấu thì mấy ông đứng dậy hết như đứng chào cờ Ngô Tổng Thống trước đó khi mới khai mạc chương trình làm mình chả thấy gì nữa vì còn bé. Dạo đó đi coi xi nê, phần mở đầu là chào cờ, thấy hình Ngô tổng thống, có nhạc toàn dân VN nhớ ơn Ngô tổng thống muôn năm,.. phía sau là lá cờ ba sọc đỏ, phim trắng đen rồi đến hình ảnh đi kinh lý,... Mình có coi tuồng Song Long Thần Chưởng ở đây có Út Bạch Lan đóng với Thanh Sang thì phải.
Trong rạp, khi đi vô cửa thì hai bên có mấy dãy ghế cá kèo, đóng kiểu cầu thang bằng gổ, thường là con nít mua vé trẻ em nên ngồi như mắm cá cơm ở đây. Ngồi coi nhưng hai tay cầm đôi dép vì lở rớt xuống thì coi như mất vì khó bò vào mấy cái khe dưới dàn ghế. Mình nhớ coi Độc Thủ Đại Hiệp với Trần Trọng Ân ở rạp này có Vương Vũ đóng chung với Phan Nghinh Tử và Tiêu Giao. Mình nhớ Phan Nghinh Tử chém Vương Vũ đứt tay khiến mình sợ đàn bà con gái từ dạo ấy. Mình thích nhất là phim Bambi coi ở đây, sau này có con, mướn về coi lại vẫn thấy hay, vẫn khóc như dạo nào. Rạp có lầu hai, cầu thang lên lầu nằm hai bên. Vé trên lầu đắt hơn nên các cặp hay lên trên đó để tránh người quen gặp mặt. Sau này lớn lên mình không coi ở rạp này nữa, không hiểu vì sao, có lẻ phim dỡ hay vì nhà vệ sinh rất khai đến ngoài rạp còn ngửi được. Rạp Hoà Bình thì sau Mậu Thân, có lẻ chủ là gốc Tàu nên chiếu toàn phim chưởng như Tân Độc Thủ Đại Hiệp có Khương Đại Vệ, Địch Long đóng, chỉ có rạp Ngọc Lan còn chiếu phim Tây.
Bên hông của rạp Ngọc Hiệp, có dãy hàng ăn uống, sinh tố, hai ông Tàu bán xắp xắp và thịt bò viên. Có bãi đậu xe hàng vận tải và chỗ vá bánh xe. Có hai tiệm ăn Tàu mà mình có lần được ăn tả pí lù ở tiệm Như Ý còn tiệm kia tên Kim Linh. Cạnh bên là cây xăng Ngọc Hiệp hình như của hảng Esso, có cái hẻm băng qua đường Hai Bà Trưng có tiệm bán mì Quảng trứ danh. Trong hẻm này có nhà Nguyễn Đình Tài, Nguyễn Hùng, Lê Hùng Sơn, Nguyễn Nam Sơn. Đối diện hai tiệm ăn này mình nhớ có tiệm hàn, chuyên làm cổng sắt,... Hồi nhỏ hay đứng xem ông thợ hàn, đeo cái mặt nạ có kiếng che mặt để hàn khiến lửa bay tung toé.
Ngay góc Minh Mạng đổ xuống có phòng mạch của Bác sĩ Soyer, cạnh bên có nhà thuốc tây Việt Quang thì phải, tiệm uốn tóc Ba Lê đến văn phòng bảo hiểm rồng vàng của ông Võ đình Hoè, người Huế, cựu vô địch bóng bàn Đà Lạt. Bác Hoè này ngày xưa chơi mandolin cho ban nhạc đài phát thanh Huế. Tại đây có con hẻm nhỏ đi lên đường Hàm Nghi góc Phở Tùng. Cạnh đó có tiệm bán nước đá, tiệm độc nhất bán kem eskimo vì tiệm Việt Hưng chỗ Thành Thái, rồi đến tiệm chụp hình Anh Việt. Đối diện rạp Ngọc Hiệp là dãy tiệm hớt tóc, tắm nước nóng Minh Tâm, cạnh đó có tiệm bi da mà người lớn hay tụ lại cá độ có tên Trung Ba Tai đánh ngầu nhất. Tên này có miếng thịt dư bên cạnh tai trái nên được dân chơi bi da gọi Trung 3 tai. Mình hay ra đây ngồi xem hắn đánh để học nghề. Không biết mấy người này dạo đó làm nghề gì mà tối ngày thấy họ đóng đô ở tiệm bi da.
Bố TTA bị bắn chết trước tiệm này. Nghe kể hôm đó ông ta xỉn, ghé lại xem thiên hạ cá độ bi da. Có tên sắp sửa đánh cái giò gà thì ông bố đi vào, đụng cây cơ khiến tên kia đánh hụt và thua độ. Tức giận, tên này rút súng bắn ông bố của TTA chết tại chỗ. Sau này mình hay thấy Võ Lộc Sơn, tên dạy mình đánh bi da, hay đánh cá độ ở đây, nghe nói hắn cũng qua đời sau 75. Cạnh tiệm tắm nước nóng Minh Tâm là tiệm hớt tóc Đồng Tiến hay Đồng Tâm của ông Nghĩa và bà vợ tên Mùi. Có dạo tiệm này sang ban nhạc lậu của Phạm Mạnh Cương, Phượng Hoàng,..có cô con gái đồng lứa với mình, không xinh nhưng hay bận đồ bộ bó người cho thấy đồ phụ tùng đầy đủ khiến nhiều tên tốn tiền cắt tóc tại đây. Sau 75 thì Đà Lạt khám phá ông Nghĩa nằm vùng, có lần được cử làm tỉnh uỷ hay gì đó rồi cũng bị thay thế.
Chổ tiệm Minh Tâm đi lại thì có khách sạn Cao Nguyên của ông Lộc, làm ty Thuế Vụ hay ở toà Thị Chính, đến bà Ký bán bánh xèo rồi có cái hẻm đi vào nhà của Sĩ nhảy dù, có thời học Trần Hưng Đạo, có học luyện thi ở Văn Học, tập Võ với mình ở hẻm ông Xu Huệ. Khúc này nếu mình không lầm thì cao hơn mặt đường nên có mấy thang cấp đi xuống đường. Mai Thế Lương kể khi đưa đám ma của Sĩ thì hắn được lãnh trách nhiệm, khiên hòm. Hắn bảo tên này sao to con, nặng thế. Mai thế Lương có một thời học Yersin, lớn hơn mình một hai tuổi sau ông bố tử trận, nhận bảo quốc huân chương rồi gia đình sa sút, nên qua trường Việt, có hai cô em gái Mai Thế Lan và Hằng thì phải. Cô chị cùng tuổi với mình, nghe nói sau này đẹp lắm vì từ dạo gia đình này dọn đi khỏi xóm Thi Sách thì không gặp lại. Hè năm ngoái tình cờ gặp lại đồng chí giai của Như Hoa, mới khám phá ra bố mẹ ông thần này là chủ nhà mướn của Mai Thế Lương ngày xưa. Có dạo đi bơi ở Thung Lũng Tình Yêu, gặp anh chàng họ Mai lại. Anh chàng này cũng thóang lắm, cởi trần trùng trục, nhảy xuống tắm tiên khiến mấy tên chở đào lại đây, bỏ chạy hết. Hôm đó có Nguyễn Mai Phương đi với mình mà tên Phương này lại là chú họ của tên Lương, khi gặp lại hắn kêu mình bằng chú xưng cháu.
Con trai của bà Đức Tín bán sắt cạnh hẻm cây xăng Ngọc Hiệp, nay là hàng xóm với mình. Nói đến Đức Tín, mình nhớ đến thầy Hà Mai Phương dạy Trần Hưng Đạo và có dạy mình mấy tháng, thế thầy Hồ Thanh Tâm khi các thầy biệt phái về Võ Bị bị cấm dạy Văn Học. Ông thầy này ghét người Tàu, vào lớp tuyên bố thà mua của bọn con buôn người Việt, tuy bán đắt hơn bọn Tàu nên ông ta chuyên ra tiệm Đức Tín mua đinh ốc thay vì tiệm Trung Tín của người tàu đối diện. Ông thầy chửi dân Annam không biết buôn bán, ăn nói mất dậy với khách hàng nhưng phải mua còn hơn để bọn Tàu làm giàu.
Cạnh tiệm Trung Tín có tiệm giò chả An Lộc, bên cạnh là tiệm làm nệm của gia đình tên Lộc hay Hậu, có thời học Yersin, sau này cũng sang Văn Học, học thua mình một lớp rồi đến tiệm Tân Tiến, bán sửa chửa xe đạp và Honda, lâu lâu chửi lộn với gia đình Công Thành đối diện bên cạnh tiệm hàn đồ sắt Luồng Điện. Nghe nói sau này hai tiệm làm thông gia với nhau. Chỗ này có cái hẻm nhỏ mà mình hay sang đây bắn bi với đám trong xóm này, có nhà bà Tàu chuyên bán mì vịt tiềm vào buổi chiều ở ngoài đường Phan Đình Phùng. Cái xe của bà có vẽ truyện Tây Du Ký nên mỗi lần ăn mì ở đây mình cố gắng coi tranh Tôn Ngộ Không dưới cái đèn Huê Kỳ, kêu xè xè nhưng không biết đọc chữ Tàu. Tết năm nào, có tiền lì xì là mình đều ăn ở đây, món đu đủ chua của bà này đến nay mình vẫn còn thấy ngon. Ở Bolsa có mấy tiệm mì, bán vịt tiềm nhưng không dám ăn vì thấy mỡ.
Cạnh đó có tiệm sách Minh Thu, chuyên cho thuê truyện. Có lẻ mình mượn và đọc hết sách của tiệm này trong mấy mùa hè. Mình mướn mấy bộ Đông Chu Liệt Quốc và Tam Quốc Chí về đọc cho ông ngoại còn Tây Du Ký cho bà ngoại. Tối nào cũng đọc một chương cho ông ngoại rồi một chương cho bà ngoại. Sau này có con lại kể mấy chuyện tàu này cho con nghe rồi mua Tam Quốc Chí bằng tiếng Anh cho thằng con đọc, rồi cha con ngồi luận xem ai là anh hùng như xưa với ông ngoại. Thằng con đọc Thuỷ Hử, kêu sao đám Tàu cứ gặp nhau là cứ chém giết lại vổ ngực xưng Anh hùng Hảo Hớn khiến mình câm như hến. Thất học nên thằng nào mạnh là thằng đó là anh hùng. Mình vẫn thích nhân vật Tào Tháo, vẫn thấy tên này vẫy vùng làm nên sự nghiệp. Đọc sử của TQ thì hắn cũng ba lần đến mời Khổng Minh nhưng không gặp. Khổng Minh trốn hoài nhưng vẫn phải theo Lưu Bị nếu không thì lính ông này sẽ giết. Ngày xưa bên tàu, nếu được ai mời làm việc cho họ mà không theo thì sẽ bị giết vì họ không muốn người tài giúp đối thủ của mình. Tội ông bà mình không biết chữ dù có bình dân học vụ thời ông Diệm. Nghe kể thời bình dân học vụ, đi đường qua đò hay trạm kiểm soát thì có cái bảng để bắt ai muốn sang thì phải đọc cho thông mấy câu trên bảng. Bà ngoại mình không biết chữ nhưng làm tính nhẩm nhanh hơn mình.
Từ tiệm Công Thành đi tới thì có tiệm Viên Quang của ông thợ may tên Ba Hoà, chuyên may liễng đám ma. Dạo đó lính chết nhiều mà Đà Lạt chỉ có mình ông này may liễng cờ đám ma nên khá giàu. Bên cạnh có nhà của Liên Thái Cực Đạo bán gạo. Có lần cô này chở hai vợ chồng Nhị Anh và mình đi xem nhà. Nguyên gia đình họ Chử đều nhờ cô này làm thầy địa lí kiêm thầy địa ốc đi mua nhà dùm. Cô này học Bùi Thị Xuân thì phải, học Thái cực đạo ở thao trường, hay đi chơi với nhóm Ngọc đai đen, gần xóm mình thường được gọi băng Thái Cực Đạo vì cả đám tập TCĐ. Chổ này có cái hẻm đi băng qua đường Hai Bà Trưng, qua hai con suối mà khi mưa thì lụt ngập hết mấy cái vườn nằm giữa Hai Bà Trưng và Phan đình Phùng.
Con suối gần Đường Phan Đình Phùng thì chỉ có 3 miếng gổ đóng chung làm cầu bắt ngang con suối, dân xóm này đổ rác đầy nghẹt nên mùa khô rất hôi còn con suối gần đường Hai Bà Trưng thì ngay cư xá Địa Dư, nhà của Phạm Ngọc Liên thì mình nhớ có lần anh Ngữ, con ông bà Ấm Thảo, là hướng đạo sinh, hướng dẫn đoàn Lam Sơn xây cái cầu bằng gổ có lang cang để đi qua vì trước đó thời mình còn học lớp 11 ème thì chỉ có 3 tấm ván được đóng chung lại bởi mấy miếng gổ nhỏ nằm ngang. Lâu lâu có người đi qua vì trời mưa nên trợt ngã xuống suối. Thấy đoàn hứong đạo làm việc thiện , làm cầu nên khi lớn lên mình có đi hướng đạo nhưng 2 tháng sau thì nghỉ vì mấy tên trưởng bắt mình hít đất ná thở. Hẻm này mổi ngày đều họp chợ thường được gọi Chợ Nhỏ. Cạnh tiệm Viên Quang là tiệm thuốc Tây Lâm Viên rồi đến nhà ông bà Phú, hàng xóm khi xưa. Sau này họ dọn sang đây bán gạo. Sau này rễ của ông bà, tên Trương Văn Đức, cháu của ông bà Trương Văn Tước, hàng xóm mình khi xưa, di tản sang Mỹ nên hay nhờ mình chuyễn thư, từ Pháp về VN lúc chưa có liên lạc thư từ thẳng từ Mỹ về VN.
Đi tới một chút thì có viện bảo sanh Hiền Chi của bà Tôn Thất Chí, làm bằng gỗ, sơn màu đỏ gụ, sau này về hưu thì hai cô Mụ Tuý và Thanh, mẹ của Võ Hoàng Đa nối nghiệp. Đối diện là khách sạn Thanh Thế của ông bà Võ Quang Tiềm, có tiệm Việt Doanh thì phải. Cạnh nhà Võ Hoàng Đa có phòng mạch bác sĩ Phán nơi bà cụ sinh mình ra. Văn phòng được xây theo kiểu biệt thự Tây. Tới một chút nữa thì có cái giếng cạnh nhà Lê Công Thành học 11 A, ông bố làm cảnh sát, đá banh cho đội lão tướng Đà Lạt. Tên này cao ráo học 11A, hiền lành, má hồng như con gái chỉ tội là đá dỡ nên bị chửi hoài nên hắn hay đem áo maillot đá banh của ông bố cho bạn bè để được đá. Mình được một cái sau này Nguyễn Mơ xin. Có một hai tiệm gì đó rồi đến trường Trinh Vương, hình như của mấy sơ dạy con nít tiểu học. Đến nhà Nguyễn Đức Thuận, nay ở Gia Nã Đại, có tiệm bán bún cơm gì đó và tiệm hớt tóc của chú Hai. Ông này người bắc, năm 54 chạy sao lạc gia đình qua Thái Lan, lấy vợ Thái rồi liên lạc được với gia đình nên đem 4 người con lai Thái về Đà Lạt bỏ bà vợ Thái lại. Đối diện là tiệm bán gạo Sơn Hà, người Huế. Bà Sơn Hà là một trong những người đàn bà giỏi nhất của thập niên 70, buôn bán gạo, có xe hàng chạy các tỉnh khác.
Cạnh bên là khách sạn Mimosa, có cây mít nơi cái hẻm đi lên đường Hàm Nghi, chổ nhà thờ Tin Lành. Mình nhớ dạo học hè ông giáo Kim, thì khách sạn có một con bé hay chửi lộn với đám học chung với mình nhưng sau này lớn lên thì cô Bé này bổng lột xác trở nên xinh lắm. Cô nàng biết mình xinh nên mổi lần gặp ở Hội Việt Mỹ là mặt cứ vênh lên trời khiến mấy tên tới cây mít trồng cây si.
Đi tới gần ngã ba chùa thì có hảng cưa của ông bà Xu Huệ. Ông Xu Huệ có dạo dạy mình vô thất. Ông này mặt mày đẹp lão, hồng hào dạy mọi người vô thất, nhịn đói uống nước chanh đường. Dạo đó mình chỉ nhịn đói được 3 ngày. Sau này hàng năm mình nhịn được 12 ngày, tập Nội công và uống nước chanh với mật ong. Hảng cưa của ông này làm Võ đường Thái cực đạo của ông Nguyễn Bình, có lần bị 302 chỉa súng đánh bò ra khỏi tiệm Mekong. Buổi sáng có anh Trần Văn Minh, đai đen karate dạy nhóm mình quen, học chung đến khi bị đổi về Saigon. Chỗ này có cái hẻm đi ngang vườn ông Ba Đà, mướn đất của gia đình ôgn Võ Đình Dung, để tới đường Hai Bà Trưng góc nhà ông Lào, cư xá Địa Dư.
Đối diện khu nhà ông Xu Huệ thì có tiệm cơm tháng của mẹ Nguyễn Lương Đô 12A, tên này có gặp lại một lần ở Pháp. Hắn được một tên tây làm ở toà đại sứ Pháp, nhận làm con nuôi bảo lãnh sang Pháp, nghe người em trai mình kể có gặp hắn, nói đã lấy vợ nhưng mình không có cơ hội gặp lại. Tên Đô này có người anh đầu tên Vinh, học rất giỏi và thương em lắm. Mổi lần ở Saigon về, dẫn 8 đứa em đi phố chả biết ngại ngùng gì cả. Hôm trước vào mạng Văn Học thì thấy hình hắn nhưng không nhận ra. Tên này có dạo hay đi chơi với Nguyễn Văn Thuận, Châu, Nguyễn Đắc Hớn,..phía sau có một dãy nhà cho thuê, có thời Trần Thiện Tân, từ Tùng Nghĩa lên, mướn ở cạnh nhà Cao Minh Đức 12A.
Chổ này có con đường lên dốc, nối đường Phan Đình Phùng với Hàm Nghi và Võ tánh nhưng không biết tên đường gì, nghe nói là Hàm Nghi nối dài. Thiên Hạ hay gọi đường ngã ba chùa vì gần chùa Linh Sơn. Ngay ngã ba có cây xăng nằm ngay vùng tam giác vì đi lên thì xe chạy bên phải còn đi xuống thì xe phải chạy bên trái cây xăng. Bên phải thì có tiệm thuốc Tây, kế đến hợp tác xả rau Đà Lạt, có thời dùng làm đồn nhân dân tự vệ của Phan đình Phùng, cạnh đó có chổ dạy khiêu vũ. Mình nhớ có lần đang lang thang ở đây thì có một tên hỏi đường, nói tới đó để dạy mấy tên nhà quê Đà Lạt cách nhảy đầm. Chắc là dân Saigon. Nhìn xéo qua thì có tiệm bán bánh cốm, xu xê cho đám cưới. Hình như nhà Phan thị Thu Thuỷ ở đâu chổ này số 214 và tên Nguyễn Văn Khoa hay đánh lộn với Nguyễn Tuấn Trung ở Petit lycée từ số 4 dọn về đây sau Mậu Thân.
Chổ này cũng là cổng và thang cấp lên chùa Linh Sơn, làm bằng đá ong, hai bên thang cấp trạm khắc hình mấy con rồng làm bằng xi măng. Có dạo trước Mậu Thân, chùa này đi quyên tiền để đúc cái chuông to, đặt bên phải của chùa, bên trái có cái trống. Nhà mình cúng mấy cái vỏ đạn đại bác thường được dùng làm bình cắm bông. Lúc đúc chuông mấy ngày mấy đêm. Mình không nhớ rõ cách họ đúc chuông vì còn nhỏ, chỉ nhớ củi đốt ngập trời, các Phật tử xúm lại tụng kinh mệt thở trong lúc đúc chuông. Trong khi đúc chuông thì gia đình Phật tử chiếu phim Charlot, Laurel & Hardy ngoài trời khiến cuộc đúc chuông khá nhộn nhịp. Hồi nhỏ, ngày rằm mình đi chùa với bà ngoại rồi ghé lại nhà trai ăn cơm chay. Đêm giao thừa, sau khi lễ Phật, cả chùa ùa ra bẻ cây, bẻ cành gọi hái lộc đầu xuân nên hôm sau lên thì cây lá biến mất hết. Xung quanh chùa, hai bên con đường thang cấp hình như là trồng trà thì phải.
Chùa này do ông bà Võ đình Dung tặng đất và khởi đầu xây cất. Nghe bà cụ mình kể là ngày xưa ông bà giàu lắm, làm nghề thầu khoán. Ông là người xây dựng nhà ga xe lữa. Khu phố xung quanh hội trường Hoà Bình, góc Vĩnh Chấn là của ông ta xây cất, sau này về hưu nên bán lại cho mấy người mướn nhà. Có lần bị người ta lừa, trả tiền Đông Dương giã nhưng vì tối không để ý nên đem về. Đêm đó bà Võ đình Dung nằm mộng thấy Phật về báo nên đang đêm thức dậy xem tiền thì khám phá tiền giã nên đem đốt. Sáng ra thì mật thám đến xét nhà nên không có tang chứng. Dạo đó, muốn hại nhau chỉ cần chôn vài hủ rượu lậu trong vườn người ta rồi báo mật thám. Tiền Đông Dương trị giá gấp 10 tiền quan của Pháp, Việt Minh in tiền giã nên phải cẩn thận vì ai họ ghét mình thì chỉ cần báo cho mật thám là ăn đòn ná thở. Sau đó thì ông bà tu nên làm việc thiện, xây chùa,...rồi về hưu.
Đi tới một chút là nhà Nguyễn Đắc Hớn, chuyên bán phân bón và máy bơm nước Kubota cho các vườn trong vùng. Tới nhà tên này là nghe mùi phân, ruồi bay vèo vèo, bên cạnh là nhà của Nguyễn Thanh Hải từ trường Trần Hưng Đạo qua Văn Học. Đối diện là ngõ vào ấp Mỹ Lộc, bên cạnh hảng cưa Thuận Thành của bà Phú. Đi tới một tí thì có cái hẻm đi vào nhà thầy Hồ Thanh Tâm, rồi đến dãy nhà 343 của ông Marcel, bố của Dương Quang Trí, Dương Quang Hạnh, Dương Quang Phước,.. Ông này có mấy vợ, mười mấy đứa con, lai tây, không biết sau này có xin đi tây không. Ông Marcel có một bà vợ mà mình nghĩ là một trong những người đàn bà rất giỏi của Đà Lạt. Dạo ấy mình thấy bà ta lái xe hàng đi buôn rau, thầu rau cải,... mua trước của các nhà vườn rồi đến ngày hái thì cho xe lại chở đem về bán ở Sàigon,..
Rồi có một trạm cảnh sát, chắc để khám xét các xe chở rau cải từ ấp Hà Đông, mình hay tránh đi tới khúc này để tránh bị hỏi giấy tờ. Hình như khi giới nghiêm thì họ kéo rào dây kẻm lại thì phải. Kế đến là hãng cưa Xu Tiến, của gia đình Nguyễn Văn Thảo rồi thì ít nhà cửa, toàn là vườn trồng rau đến Mã thánh thì có dãy nhà của Trần Văn Tiến 11A, có xe hàng hình như hắn hồi nhỏ có học trường Ấu Việt rồi học lasan kỹ thuật với Phạm Thành Nguyên rồi cùng rũ nhau qua Văn Học. Chổ Mả Thánh thì có cái am mà mổi khi có xe tang đến đây thì phải ngừng lại chổ này, cúng vái như xin phép được vào Mả Thánh. Góc ngã ba này thì quẹo trái là đường La Sơn Phu Tử qua đường Hai Bà Trưng, nơi khu thường được gọi là Số 4, toàn dân Huế nên ít ai dám lang thang vào xóm này tương tự đường Hoàng diệu khi xưa, còn quẹo phải thì đường Tôn Thất Thuyết đi về trường Trần Hưng Đạo.
Mình chỉ nhớ đến đây, nếu Bác nào có nhớ cái gì thì cho em hay để bổ túc thêm.
Sơn đen
Đường Phan Đình Phùng, chắc chụp trên đốc đi lên nhà thờ Tin Lành, chỗ khách sạn Mimosa. Thấy nhà bảo sanh Hiền Chi, 1 tầng sơn màu đỏ, cửa sổ xanh, bên cạnh là phòng mạch bác sĩ Phán mà bà cụ sinh mình ra tại đây. Thấy có trường học Minh Trí.
Phía sau, trên đồi là đường Hai Bà Trưng, chỗ cứ xá Địa Dư, bên phải còn khu đất mà mình chơi ăn banh với tụi ở cứ xá Địa Dư trước khi thương phế binh cắm dùi









Thuỷ Tạ

Hồi nhỏ nghe nói nhà hàng Thuỷ Tạ có cái tên La Grenouillère nên mình thấy hơi lạ lạ, không hiểu sao họ kêu cái đầm, ao ếch nhái nên đoán người Tây hay ăn chân thịt ếch nên đặt tên như vậy rồi lại thắc mắc tại sao người Việt lại gọi Thuỷ Tạ. Một ông giỏi chữ Hán giải thích là Thuỷ Tạo, là xây trên nước nhưng người Việt đọc thành Thuỷ Tạ.
Sau này sang Tây, đi xem mấy tranh của Claude Monet và Pierre-Auguste Renoir thì mới khám phá ra trên dòng sông Seine, vùng Bougival có một cái khu thể thao, nhảy đầm nổi tiếng một thời mang tên “La Grenouillère”, đến nổi hoàng đế Napoleon đệ tam, phải đem vợ con ra đây nghỉ mát và cũng là nơi phát sinh trường phái, chủ nghĩa Ấn Tượng (Impressionism).
 Dân Paris thích đến đây, dạo chơi vào cuối tuần nên hai hoạ sĩ dạo ấy chưa tên tuổi, nghèo đói Claude Monet và Pierre-Auguste Renoir đến đây vẽ. Đặc điểm là hai ông này đứng vẽ song song nhau mà có hai bức hoạ khác nhau. Sau này trên dòng sông Seine, gần Tháp Eiffel, có một cái hồ tắm trên sông trong cái xà lan, cũng thiết kế tương tự do chú của con Sophie, bạn học làm chủ, sau này đi ăn đám cưới nó lấy tên bạn Việt Nam Lê Văn Lợi, được tổ chức tại đây. Nghe nói nay họ dẹp rồi vì vào mùa hè, dân pháp ra đây tắm đầy, hốt bạc. Mình có quen một tên kiến trúc sư, có một con tàu nhỏ đậu trên sông Seine rồi hắn ở trong đó.
Theo tài liệu thì vào năm 1837, người ta khởi công xây dựng đường sắt từ Paris (ga xe lửa St Lazare) đến thành phố St Germain-en-Laye, cạnh Điện Versailles. Dạo ấy thủ đô Paris phát triển kỹ nghệ về phía đông cho nên nhà cửa mấy vùng này như Pantin, nơi mình ở khi mới qua Tây, bị gió từ hướng tây thổi ống khói khiến nhà cửa đen xạm. Dân giàu có thì lại ở vùng phía tây vì ngược với hướng gió thổi.
Khoảng đâu 1855 thì họ làm nhà ga Chatou và năm 1858, ông François Seruin thành lập một tửu quán mang tên là "La Grenouillère" gồm 2 cái xà-lan đâu lại, trên đó có quán ăn, nhảy đầm và chổ thay đồ để người tắm sông hay đi ca-nô, thuyền, thời trang được du nhập từ Anh Quốc. Năm 1889, hoả hoạn thiêu rụi nhà hàng này.
Bức tranh la grenouillere của Claude Monet, có ốc đảo tròn mà người Pháp gọi Camembert vì hình tròn như hộp đựng phô mát tên Camembert 
Trong tấm tranh thì thấy một cái ốc đảo nhỏ, còn được gọi là Camembert, có mấy tấm ván, kiểu cầu khỉ để người ta đi từ bờ hay con thuyền nổi, tiệm ăn ra nơi ấy đợi tàu. Người Pháp xem thời ấy là "La Belle Époque", thời vàng son, đến đây để chèo thuyền, tắm sông Seine. Có lẻ vì vậy khi người Pháp ở Đàlạt, xây nhà Thuỷ Tạ, họ muốn lấy cái tên của quán ăn này để đặt tên, để nhớ về quê hương xứ sở của họ như ở Bolsa, người ta gọi Phở Pasteur,… vì dạo ấy được xem là một câu lạc bộ về các môn chơi trên nước.
Mình nhớ mài mại là từ bùng binh gần cây xăng Esso, đi vào phải qua một cái cầu nhỏ rồi đến cái bùng binh hình tròn, chắc để đậu xe hơi rồi có cầu thang leo lên nhà hàng. Phía ngoài có lang cang để leo lên sân thượng mà khi xưa mấy tên bơi giỏi như PTN, và TVT hay nhảy xuống nước bơi từ cái plongeoir.
Nhớ sau Mậu Thân, có một lần 1 lính mỹ nào đi trượt nước ở đây rồi chết đuối, người nhái lặn mệt thở và một lần trực thăng không lực VNCH rớt. Mấy ông không quân đậu ở bãi đáp ngay khu Thuỷ Tạ, để đi thăm người yêu rồi mấy người đẹp ra tiễn chào thì mấy anh fi công lượn chào em gái hậu phương rớt xuống hồ. Nếu không lầm là chiếc Chinook. Thường thường mấy loại này đậu tại sân vận động còn loại nhỏ thì đậu nơi bãi đậu xe của Thuỷ Tạ.
Trời tối, mấy ông fi công bay lượn chào em gái hậu phương nên quên cái cột cờ trên sân thượng của Thuỷ Tạ nên chong chóng vướn vào nên lộn cổ xuống hồ may mà không trúng nhà hàng. Sau đó quân đội Mỹ đem người nhái, cần trục đến để câu lên. Đi học về là chạy đến xem vui như ngày hội. Bơi thì mình không dám bơi ở Hồ vì sợ chết đuối, khúc Thuỷ Tạ nhiều tên bị chết đuối.

Có người bạn chuyển email của một cựu học sinh Trần Hưng Đạo, kể về vụ trực thăng rớt ở Thuỷ Tạ. Mình xin bổ túc nơi đây: (Trích)
 b/Sự kiện chiếc trực thăng đụng "cột cờ" nhà Thuỷ Tạ rớt xuống hồ Xuân Hương. Hôm đó là một ngaỳ gần cuối tháng Sáu năm 71, ngay hôm sau cuộc thi Tú Taì II chấm dứt. Rất nhiều học sinh Trần Hưng Đạo, Buì Thị Xuân và vaì người từ trường khác đến giaỉ khát, hóng mát, ngắm cảnh hồ, bàn chuyện học hành tương lai, xả xú báp ở Thủy Tạ, họ ngồi chật bên trong lan ra bên ngoaì̀ terrace. Bọn anh gần chục đưá ngồi bên ngoaì, ngay dưới bậc thang mà cać người nhái - grenouilles leo lên để "nhảy cầu" - plongeon, xuống hồ ( cái nhà Thuỷ Tạ do người Pháp xây dựng, trên bức vách trang trí bên ngoaì trên nóc có khắc chữ "Les Grenouilles" - người nhái) Do đó nó không hẳn là nơi ngồi giả khát, uống rượu mà còn phục vụ cho việc tập luyện, bơi lặn cuả hội người nhái Pháp. Trên chót cái cầu nhảy đó có hai cái trụ bê tông cao. Anh vưà vô quầy goị thêm nước và thuốc lá, quay ra đến cưả ra terrace  thì chứng kiến rõ ràng chiếc trực thăng Huey UH 1 - loại nhỏ, dùng đổ quân hoặc võ trang, cất cánh từ bãi đáp phía trước bên tay trái Thuỷ Tạ bay ra hồ rồi vòng vô thật là gắt, khiến nó nghiêng hẳn qua bên trái khi lướt qua mái Thuỷ Tạ bay về hướng Cây Xăng Kim Cúc. Ngay vưà ở trên nóc Thuỷ Tạ thì một cánh quạt đánh trúng cây cột bê tông nhỏ trên cái cầu nhaỳ, cã₫̉ hai gãy lià, trụ bô tông nhỏ rớt thẳng xuống hồ, cánh quạt theo đà quay rớt xuống sàn trerrace, trước mặt anh chì hơn một thước và ngay cạnh bàn các bạn anh đang ngồi. Chiếc trực thăng ngược dội qua bên phaỉ và rớt nhào xuống hồ. Trong tíc tắc anh còn thấy cảnh người xạ thù đại liên vùng vẫy rồi ngẹo đầu qua một bên khi máy bay chạm nước. Nó không chìm ngay; moị người chạy tuá xuống bở hồ bu lại nhìn nhưng tất cả đều shocked, không ai biết phaỉ làm gì. Có người baỏ phaỉ dang ra xa vì nó chở đầy đạn có thể nổ. Tại bãi đáp đang có một chiếc UH 1 cuả Hoa Kỳ, mấy ông lính Mỹ chay băng đến, một ông nhaỷ lên cái pedal l'eau cuả Thuỷ Tạ đạp ra, ông đạp quá mạnh mà nó thì chậm nên tròng trành chúi đầu xuống, nghiêng qua một bên sắp lật. Ông ta đành bỏ, nhaỳ lên bờ, vì lúc đó chiếc UH I cũng chìm lỉm. Không một ai trôi lên. Nhiều cô BTX ôm mặt khóc. Bọn anh bàng hoàng mãi không nỡ về. Hơn nưã tiếng đồng hồ sau thì quân cảnh và công binh Võ Bị, và các ông bên Tiểu Khu đến xua moị người ra khoỉ chổ đó. Suốt đêm máy bay thả hoả châu cho công binh và trực thăng Chinook đến câu chiếc máy bay đó lên. Cảnh đó thì anh không chứng kiến, sáng ra mới nghe nói. 

Như thế Thuỳ Tạ không có cộ̣t cờ, bãi đáp trực thăng trước Thủy Tạ là cuả trực thăng nhỏ, không phaỉ riêng cho Chinook như Sơn Đen nghe; và chiếc máy bay lăm nạn không phaỉ là chinnok chở các cô, các em gái, cũng không phaỉ bay lạng để chaò từ giả cô em gái; mà lỗi lầm cuả phi công là bay quá thấp, vòng quá gắt làm trực thăng nghiêng khi qua mái nhà Thuỷ Tạ mà cánh quạt đánh chéo xuống trúng cột cầu nhaỷ, có thể anh ấy thấy nhiều bóng hồng trên Thuỷ Tạ nên hứng chí làm như thế. 

Tháng sau đó anh về SG, đến thăm cô bạn gái học Gia Long mà sau naỳ là bà xã trước cuả anh (bà ấy qua đời năm 1979 vì không chịu tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghiã xã hội.) Bà ấy hoỉ anh có biết vụ rớt máy bay trực thăng mấy tuần trước ở Hồ Xuân Hương hay không? rồi nói cô bạn Gia Long cuả bả tên Loan đang khóc sướt mướt vì ông phi công tử nạn là chồng sắp cưới cuả cô ta. Anh không dám phê bình về chuyện anh chứng kiến. Các ông Pilot thì bay bướm vì đời vaò sinh ra tử, quá ngắn nguỉ, họ hưởng giây phút naò hay giây phút đó. Năm sau em ruột cuả anh tử trận ở Phan Thiết, nghĩ lại những người lính chiến trong thời gian đó anh thấy mình có lỗi, rất ân hận vì họ chết cho mình được sống, ăn học.  

Đây là những gì anh trực tiếp chứng kiến là liên quan, còn những chi tiết khác không đúng lắm thì anh không góp chuyện làm gì vì anh cũng chỉ nghe qua. Dù sao Mưc̣ Tím Sơn Đen viết công khai thì thế hệ sau đọc cứ tưởng chuyện xảy ra thiệt là như vậy.”
(Hết trích)
Tấm ảnh này mình đoán là chụp sau này, khi được sơn phết và trùng tu lại. Mình nghĩ họ để tấm bảng bằng tiếng tây. Mình chỉ đến tiệm này một lần khi còn ở Đà Lạt, vào dịp tết với tên hàng xóm, em hắn và cô bạn học chung lớp của hắn ở Văn Học. Quán này thuộc thị xã Đà Lạt, tương tự nhà hàng Đào Nguyên, được thu dụng sau khi người Pháp về tây, và cho mướn để lấy tiền cho thị xã.

Mình có hỏi anh này vài điểm nhưng anh ta trả lời không xác đáng lắm. Anh ta kể thấy tấm bảng đề chữ “Les Grenouilles” (những con ếch nhái) nhưng thật ra là ”la grenouillère” trên hình. Mình lại nhận được nguồn tin là máy bay của ICCS bị rơi. Dạo đó, nếu anh ta là học sinh mà ra Thủy Tạ ngồi uống cà phê thì thuộc dân giàu.

Mình chỉ nghe kể khi chạy ra Thuỷ Tạ xem lính Mỹ lặn vớt phi công và trực thăng lên nhưng không thấy lúc họ vớt máy bay lên nên không quả quyết được loại trực thăng nào. Mặc khác mình nghe kể một chuyện khác là sau khi máy bay rớt thì an ninh quân đội, lên phòng ngủ của khách sạn Palace, niêm phong phòng của họ lại, người Mỹ đến đem hết đồ của nhóm đi trên máy bay rớt. 
Tin này thì khả tín hơn vụ ông thần kể là đang ngồi uống cà phê tại Thuỷ Tạ lúc giờ học sinh ở trong lớp, tương tự vụ trực thăng Mỹ rớt ngay ngã ba Lê Đại Hành, anh ta cũng nói là có mặt nơi đó, thấy xác chết đầy trong khi đọc tài liệu Mỹ thì cho biết không ai chết, chỉ có bị thương. Thiếu tá Phong, đại đội 302 cho biết chiếc máy bay này mới đón anh đi hành quân về. Có người đến đón nhóm anh về căn cứ. Phi công bay lượn trên đầu khách sạn Mộng Đẹp, chào mấy cô gái điếm đụng phải cột đèn hay dây điện nên rớt. Mình có kể vụ này rồi sau khi đọc tài liệu của người Mỹ.
Nếu xét tấm ảnh này thì mấy cột cờ của Thuỷ Tạ nằm phía hồ, chỗ để thiên hạ leo lên để nhảy xuống hồ, plongeoir. Nếu lái máy bay thì khó bay sát Thuỷ Tạ. Do đó mình không tin vụ trực thăng, đụng cột cờ Thuỷ Tạ ban ngày khi anh ta và bạn bè, mấy nữ sinh Bùi Thị Xuân ra đây uống nước. Có lẻ nguồn tin mình nghe về an ninh quân đội lên khách sạn Palace, niêm phong phong rồi người Mỹ đến dọn đồ đạt của mấy người trên trực thăng đi nhưng không hiểu lý do.
Có một ly kỳ khác là một chiếc trực thăng bị mất cắp tại Thuỷ Tạ. Tối ngày 7 tháng 11 năm 1973, đài BBC loan tin có một chiếc trực thăng UH-1 của phi đoàn 219, bị không tặc. Được biết vào 9 giờ sáng có chiếc máy bay đi từ Quảng Đức vào Nha Trang nhưng thời tiết xấu nên bay lên Đà Lạt. Lúc đầu họ muốn gửi máy bay ở tiểu khu nhưng không gặp vị chỉ huy nên tính bay vào fi trường Cam Ly nhưng lại không có phương tiện di chuyễn ra thành phố nên họ bay đến đậu trước Thuỷ Tạ.
Nghe báo chí đăng cho hay một tên phi công được cho sang Hoa Kỳ thụ huấn về phi cơ. Bị sưu tra có liên hệ với Việt Cộng nên không được bay. Ông ta trốn lên Đà Lạt, ăn cắp chiếc trực thăng, bay vào mật khu rồi họ đưa chiếc máy bay này ra bắc. Sau 75, ông ta cũng không được Cách Mạng trọng dụng gì cả, nghe nói nay làm cho công ty du lịch ở Quận 11.
Thiếu tá Phong của đại đội 302 cho biết là cố vấn tình báo mỹ của đại đội cho biết là chiếc máy bay đó đã đem về Cam Ranh, để dạy cho phi công Việt Nam một bài học. Lý do là dạo ấy, Hoa Kỳ ngưng viện trọ cho Việt Nam Cộng Hoà nên xăng dầu, súng đạn thiếu hụt nên phải tiết kiệm mà ông Nghĩa lại bay lên Đà Lạt chơi, thăm người yêu, bồ nhí chi đó. Sau 75, ông Nghĩa đi tù  cải tạo và chết trong tù.
Nếu tin này chính xác thì Việt Cộng dựa vào đó để tuyên truyền cho dân quân của họ lên tinh thần. Không thấy ông phi công giác ngộ cách mạng kể là được nhà nước tặng huy hiệu anh hùng gì cả.
Nói đến chết đuối, mình nhớ có lần thấy một thằng bé chết đuối khúc lữ quán hướng đạo. Mình thấy người ta gọi ông Phác, làm ty công chánh, sau này hay trù trì ở am Soyer. Ông này lấy chai nước mắm, tu một tràn như uống bia, cho ấm người rồi nhảy xuống hồ, lặn, lâu lâu ông trồi lên, vài lần như vậy thì thấy ông kéo một đứa bé lên bờ, xong rồi kẹp hai cái chân thằng bé qua vai, còn đầu để trút xuống đường sau lưng ông, rồi ông chạy tới chạy lui đến khi thiên hạ kêu ra rồi, nước từ trong bụng hay phổi phèo chảy ra nhưng thằng bé chết từ lâu. Chỗ này cũng có thằng Thịnh, học chung với mình ở trường Thanh Ngọc, gần Couvent Des Oiseaux và ba má nó lái xe đâm xuống hồ chết đuối. Ba má nó có tiệm bán gạo thì phải ở đường Hàm Nghi, đối diện phở Bằng. Mẹ nó tập lái xe, nên bố dạy rồi chở nó theo rồi từ đường Nguyễn Thái Học, bà mẹ thay vì cua thắng ra sao đó, lao xuống hồ luôn.
Năm mình học 11B, đang giờ chơi độ 10;00 giờ sáng, mình đang đứng với Trần Thiện Tân, ngoài sân trường Văn Học, bổng thấy một chiếc máy bay F5 lượn èo èo từ hướng Cam Ly bay xà xuống khu đường Cường Để rồi không thấy máy bay lên lại rồi một tiếng nổ ẦM, khói lên mịt mù. Tối đó đài BBC loan tin ở ấp Ánh Sáng có một tên fi công bảo con nít trong xóm là khi thấy F5 lượn xuống là hắn.
Xui cho anh fi công này là lúc xuống quá thấp nên lên gấp quá để tránh cầu Ông Đạo nên lộn cù lèo rớt xuống hồ, máy móc gì nổ banh, bay lên đồi cù làm mấy người đi ngang qua cầu ông Đạo hay bán hàng xung quanh đó chết oan. Thiên hạ tới nhà ông fi công chửi bọ mạ hắn mệt thở. Người Việt kỵ đem người chết ngoài đường về nhà nên họ đặt bàn thờ và hòm cúng ngay khúc cầu Ông Đạo, có độ 6 ,7 đám ma dạo ấy, chạy xe ngang thấy ớn ớn nên sau này mỗi lần chạy xe sang khúc đó là mình dỡ mũ hay khấn lâm râm. Nghe nói gia đình fi công Lý Tống khi xưa ở ấp Ánh Sáng nhưng không biết có thật không.
Bổ túc về vụ phản lực cơ rớt gần cầu ông Đạo: phi công là em trai ông dượng chồng bà dì ruột của HNA. Ông ý lượn sát để nhìn nhà mẹ là mụ Toàn ở ấp Ánh sáng. Còn máy bay là F5.
18 năm sống tại Đà Lạt, có lẻ mình ra Thuỷ Tạ một lần, Tết năm 1972, mình, Lá Diêu Bông #2, thằng B và cô bạn học Văn Học của Lá Diêu Bông, đối tượng của tên B, ra Thuỷ Tạ uống nước. Mình chỉ nhớ là kêu Coca Cola, thằng B kêu ly cà phê và điếu Captan, đốt lửa, hít một hơi rồi nhả khói vòng tròn như James Dean rồi đối tượng thằng B, kêu mình bỏ muối vào Coca Cola để bớt gas carbonique. Hai thằng đi chơi với gái mà chỉ có đủ tiền uống nước coca của đế quốc thôi nên chả gọi món gì ăn. Chỉ có thằng B và đối tượng của nó nói năng hùng hổ còn mình và Lá Diêu Bông chỉ ngồi nghe. Sau 75, thằng B lấy được đối tượng của hắn nhưng ăn bo bo quá độ hay sao đó vợ nó chết.
Lạ hè, sao dạo này hay nhớ đến Lá Diêu Bông? Trên đường về thì thằng B đi bên cạnh đối tượng hắn, xì lô xì la gì đó, mình thì lặng câm, bên cạnh Lá Diêu Bông, lâu lâu chị hỏi cái gì thì trả lời hay nhiều lúc có người đi ngược chiều thì đứng lại tránh vô tình đụng chạm Lá Diêu Bông sướng rêm mé đìu hiu. Xong Om
Sơn Đen

Khi xưa, con nít hay ra đây tắm hồ. Mình chỉ tắm ở đập Đa Thiện




Đường Hai Bà Trưng *

Gia đình mình dọn từ ấp Ánh Sáng về đường Hai Bà Trưng năm mình vào học Petit lycée và vẫn còn trù trì tại đây đến ngày nay. Con đường này được xem là dài nhất của thị xã Đà Lạt. Nó bắt đầu ngay ngã ba Hải Thượng, ngay góc Hoàng Diệu và chạy lên số 4 và chấm dứt ở số 6. Đường này có mấy con hẻm nối với đường Thi Sách, Phan Đình Phùng, Ngô Quyền và bệnh viện. Đặt biệt đường này có rất nhiều cư xá công chức làm cho các ty, cơ quan hành chính của thị xã như nha Địa Dư, viện Pasteur, ty công chánh, ty bưu điện, ty kiến thiết..., được xây dựng dưới thời chính quyền Pháp, cho nên ít có hàng quán chẳng bù lại ngày nay là đường có nhiều quán ăn nhậu nhất Đà Lạt
Khi xưa người ta thích làm công chức vì được chính phủ cấp nhà cho ở, sáng đi làm có xe đưa rước, trưa có xe đưa về nhà ăn cơm, nghỉ trưa đến 2 giờ thì có xe đến đón đi làm lại. Thêm lương rất hậu hỉ. Mình nhớ có ông thầy dạy Pháp Văn ở trường THĐ và dạy thêm ở Văn Học, không nhớ tên, hình như Thầy Tín, kể khi đổ Tú tài, thi đậu vào trường Phú Thọ và Văn Khoa. Dạo đó lương bổng giáo sư rất khá lại được cấp nhà ở nên theo học Văn Khoa nhưng sau này trong thời kỳ chiến tranh đến cao độ thì bị lạm phát nên lương công chức không khá nên phải đi dạy thêm ở Văn Học. Mình nhớ có quen em của giáo sư trường THĐ, ở trong mấy căn biệt thự rất đẹp trên đường Nguyễn Hoàng, gần Hồ Vạn Kiếp. Loại nhà của cité Decoux xưa.
Hình này chụp từ đường Hàm Nghi, ngay chỗ nhà thờ Tin Lành, rất xưa. Thấy đường Phan Đình Phùng, ngay góc khách sạn Mimosa, đối diện có cái giếng mà thiên hạ hay đến gánh nước. Hôm nào đi chơi về sẽ kể thêm. Xa xa là đường Hai Bà TRưng, góc cư xá Bưu Điện. Hình này chụp trước khi trường Đa Nghĩa được xây cất. Kinh
Nếu đi từ đường Hải Thượng thì bên trái, dạo đó có bãi đất trống, có hai chiếc xe cũ bị bỏ hoang tại đó. Dần dần thì thấy mất bánh xe, kính,.. sau chỉ còn cái dàn xe rét rĩ. Chỗ này đất và nhà của ông bà Võ Đình Dung cho gia đình một chị bạn thuê. Bên phải là khu đất của trường Việt Anh của gai đình Võ Đình Dung cho thầy Lê Phỉ thuê, người Huế, có sân bóng chuyền ngay sát đường. Đi tới một tí thì 1 ga-ra, không nhớ tên, sau đó có dãy nhà đầu tiên hai tầng, sơn vôi trắng, cửa màu xanh mà dạo mới dọn về Hai Bà Trưng thì mình có đi đón ông cụ học đêm ở trường Hiếu Học, sau này đổi tên Thăng Long trên lầu của dãy nhà này. Sau khi giải ngủ thì ông cụ mình thi tuyển vào làm công chức cho ty công chánh và muốn lên ngạch lương nên phải đi học thêm để thi bằng tiểu học.
Nghe kể khi ông cụ học đánh máy ở quán Anh Việt, góc Phan Đình Phùng và Duy Tân để thi vào làm công chức. Ông Võ Quang Tiềm, kêu ông cụ mình vào nhà, ăn ở ngủ lại nhà ông ta để tập đánh máy và ôn bài thi, bắt bà cụ mình hát bài anh chưa thi đổ thì chưa động phòng. Sau này mình không thấy trường học ở đây nữa. Gần đây mới biết là trường này ngày xưa do thầy CBA đảm nhiệm sau dọn về số 4 Hoàng Diệu, mở trường Văn Học. Căn nhà đầu tiên số 2 là của gia đình Nguyễn thị Hoàng Lan, học sinh Bùi thị Xuân, có học hè với mình ở Việt Anh, năm mình chuẩn bị sang trường Việt. Lý do mình nhớ tên cô này vì cô nàng rất xinh và hát hay. Mình có một tên hàng xóm, kết cô này nên hắn hay bắt mình chở hắn đến khúc này để hi vọng thấy bóng dáng cô nàng. Mỗi lần đi học Văn Học là phải đi ngang đây.
Đây là hình ảnh gần như đầu đường Hai Bà Trưng. Ga ra là căn số 2 đường Hai Bà Trưng. Đối diện là nhà của một chị học Yersin dưới mình một lớp. Vợ của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang từ Sàigòn lên ở trọ đây để học đại học Đà Lạt. Trường Thăng Long (Hiếu Học) rồi đến dãy nhà 2 tầng của gia đình Vy Nhật Tảo, ngay ngã 3 Hai Bà Trưng và dường cầu Cẩm Đô. Khúc này có một con suối, mùa mưa là hay bị nghẹt vì rác, khiến lụt lội khu vực này. Phía bên phải, trên mấy cây thông, thấy phòng mạch của bác sĩ Lương và nhà bảo xanh Trương Thị lập.
Đối diện là số 5 có căn nhà một tầng, có chiếc xe Simca trắng, có vườn trồng xú không nhớ tên, quen với ông bà cụ mình rồi có vài biệt thự trên đồi thông. Từ trường Thăng Long cũ đi đến góc đường Cẩm Đô thì có một vài căn nhà thấp lè tè làm bằng gỗ và lợp tôn rồi đến nhà của gia đình Vy Nhật Tảo, có dạo học Yersin chung với mình. Nghe nói sau này trở thành nhạc sĩ. Sau đó bố mẹ hắn xây một dãy nhà ngay góc này rồi không hiểu sao mình lại không chơi với hắn nữa. Nghe Phi Nga kể hắn có học Văn Học cùng thời với mình nhưng ban C. Nhiều người mình quen đi chung một đoạn đường đời rồi xa nhau dù vẫn sống trong cùng thành phố, ra đường cũng chả hỏi han như hết nợ nần với nhau dù không giận hờn.
Dãy nhà của gia đình Vy Nhật Tảo nằm ngay con suối, ngay cầu Cẩm Đô mà ngày xưa thường được gọi cầu Cửu Huần, có mấy tấm ván bắt qua con suối, sau này thì ty Công Chánh nới đường rộng ra và làm cầu đúc bê tông cốt sắt. Trước đó xe muốn chạy ra chợ thường phải đi qua cầu Hải Thượng, có thể vì vậy ngày xưa người ta gọi đường Phan Đình Phùng là đường Cầu Quẹo. Theo mình hiểu thì khi xưa đường HÀm Nghi chạy xuống ngã ba Chùa, rồi quẹo về hướng rạp Ngọc Hiệp. Phía ấp Mỹ Lộc có một chiếc cầu có mấy ống xi-măng ở dưới. Có lẻ vì vậy mà người ta kêu đường Phan Đình Phùng là đường Cầu Quẹo. Có bác nào hiểu thêm thì cho em xin.
Mình nhìn tấm bản đồ của CNA gửi thì thấy con đường Duy Tân (Marechal Foch) chỉ chạy tới đường Thủ Khoa Huân rồi chạy lòng vòng qua Trương Vĩnh Ký, Cường Để. Chỗ cầu Cẩm Đô này thì rác của những phiên chợ buổi sáng và các nhà ở ven bờ suối, đổ rác nghẹt. Mùa khô đi ngang thấy rác cao tới cầu, ruồi nhặng bay veo veo thêm ống cống từ dốc Nhà Làng, Phan Đình Phùng chảy thoát ra đây. Mình nhớ ngồi ăn mì Cẩm Đô, ông bán mì và mấy hàng quán nơi đó cứ đổ nước dơ ở ngay đường, sang sang thì lấy cái chổi chà quét tới cái lỗ cống.
Đối diện dãy nhà của gia đình VNT, có một căn nhà gỗ sơn màu nâu, lợp tôn nằm gần con suối. Nhà này mình có vô một hai lần theo chân tên Trương Việt Tài, hàng xóm, học Văn Học trên mình hai năm. Hắn mê cô con gái đầu tên Hảo của gia đình này cùng học Văn Học ban A với hắn. Cô này có cô em trạt tuổi mình học Bùi Thị Xuân. Anh chàng này rủ mình vào nhà này, nói để dạy mình cách tán gái nhưng mình thấy hắn năn nỉ, xin xỏ cô Ả mấy tiếng đồng hồ, chán quá thêm cô em thì không có gì lôi cuốn mình nên đi về. Cô này mất mẹ sớm, có 4 đứa em gái nên khá vất vã. Nghe kể sau 75, tên Tài này cũng đăng ký lên xe bông với cô này nhưng cô vợ mất sớm vì ăn bo bo sao đó không tiêu rồi mất. Kỳ về Sàigòn vừa rồi, mình có gặp lại hai cô em của anh chàng này.
Leo lên núi Yosemite, bổng nhiên thấy một cô mỹ, đứng trên mõm đá nên mình đột xuất chụp xeo phì. Ai ngờ xui vì sau đó bị ngã trên đỉnh núi , nức xương chân nên không đi đâu được trong suốt 6 tháng. Từ nay vì sau không chụp hình phụ nữ nữa. Chán Mớ Đời 
Đối diện nhà này, bên cạnh mấy thang cấp lên bệnh viện Đà Lạt thì có cái quán hớt tóc ngay đường, phía sau là nhà của Vũ Văn Tùng, Bắc kỳ hay bận áo sơ mi màu xôi gất, học Văn Học 11B với mình, hơn mình đâu hai tuổi. Gần đây, có người nói là em dâu của Tùng, cho biết vẫn còn sống, hiện ở Sàigòn, đường Lê VĂn Sĩ. Kế bên là nhà của tên Nam, học Adran, con của ông bà cây xăng Esso ở bờ Hồ gần bùng binh Thuỷ Tạ.
Đi tới một chút thì toàn là vườn rau cải hai bên. Gần chân dốc lên trường nữ công gia chánh bên tay trái thì có mấy cái nhà và một cái hẻm đi sâu vào thì có con đường hẻm lên Nhà xác, trước cổng vào bệnh viện Đà Lạt, đường Calmette. Nhà của thầy Thành Bắp Sú ở khúc này với nhà cậu Hồng, quen ông bà cụ mình, có thời mở sân trượt thiết hài (patin). Em cậu Hồng thua mình một tuổi, học Văn Học quên tên nhưng lần đầu về Đà Lạt thì gặp lại anh chàng này chạy xe thồ, đậu bãi ngay cư xá Công Chánh thấy thương cho người ở lại.
Chỗ này có cái Trang nhỏ gần đường nên mỗi lần chạy xe ngang là mình phải chạy chậm lại, nghe nói Linh lắm. Đối diện là 3 căn nhà gỗ, có nhà ông Tàu bán xắp xắp ở bên hông rạp Ngọc Hiệp và có chiếc xe đò Chi Lăng hay đậu ở đây ban đêm. Sau Mậu Thân thì bãi xình bên cạnh mà ngày xưa xe hàng hay đậu được xây ba căn nhà lầu, một căn để hai cái bàn bi da mà mình hay lại đánh ở đây. Cô chủ có chồng đi lính, rất là xinh, nhiều tên đến trồng cây si ở đây. Nói đến đàn bà đánh bi da mình nhớ trên đường Hàm Nghi có một tiệm bi da gần Nhà thờ Tin Lành, cô chủ rất đẹp lại biết đánh bi da nên nhiều tên trồng cây si tốn tiền ở tiệm này. Mình có thấy cô này đánh bi da với ông chồng về phép rồi có lần mình chạy ngang thì thấy đám tang ông chồng, cô nàng đeo khăn tang như Jennifer O'Neil trong phim Mùa hè 42. Thấy mấy cảnh này, chỉ muốn trốn khỏi Việt Nam, tránh chiến tranh.
Đi lên dốc đầu tiên của đường này thì bên phải có hai căn nhà hai tầng, có xe hàng chạy Saigon Đà Lạt. Mình có chơi với một tên Bắc kỳ ở đây nhưng không nhớ tên, Tuấn thì phải. Mẹ hắn chuyên coi bói nghe nói hay lắm nên bà cụ mình dẫn mình vào xin thánh thần một quẻ. Bà nói đường học vấn của mình không tốt mà đi lính thì cũng không khá, làm bà cụ mình buồn mấy tháng liền đến khi mình đậu Tú Tài rồi đi Tây.
Đối diện hai căn nhà này là trường Nữ Công Gia Chánh được thành lập thời ông Diệm, dạy nấu ăn, may vá , thêu nhưng sau này thì con gái đi học chữ nhiều hơn xưa nên trường này không có học sinh thì phải, sau làm chỗ tập Vovinam mà mình có dạo tập ở đây một năm với ông thầy Nghĩa thì phải. Ông này đọ sức với mấy tay Võ khác nên cái mặt bị đánh bầm tím đen. Bên cạnh thì có cái hẻm đi vô sâu lên đường Calmette và Thi Sách. Trong xóm có một gia đình khá nổi tiếng một thời. Hai anh em Lai và Thái, một thời trùm du Đảng ở Đà Lạt, sau này mình thấy anh Lai đi cảnh sát dã chiến, làm Tuần Cảnh hay đậu xe trước rạp Ngọc Hiệp, bắt quân dịch. Ông Lai này có mấy người em trai cũng có máu thích đánh lộn.
Mình có quen Huỳnh Kim Sang ở xóm này nên cũng nói chuyện trời đất khi gặp mấy tên này, kiểu dựa hơi để khỏi bị đánh hội đồng. Tháng vừa rồi, mình có gặp lại Sang sau 50 năm. Dạo đó có một tên đào ngủ, tên Hoà Rổ ở xóm này hay được học sinh trường Việt Anh kêu đập lộn dùm. Hắn có cho mình xem cái bửu bối của hắn, một cái ống nước bằng gan, nhét trong blouson Jean tím của hắn mà dạo ấy con trai Đàlạt hay bận. Cứ mỗi lần đập lộn hắn rút ống nước ra phang vài cái vào người thì còn đánh đấm gì nửa. Hắn hay đứng ở dốc này xem thiên hạ đi qua đi lại, thằng nào trông kênh kênh là hắn kêu lại bợt tai vài cái nhưng thấy xe tuần cảnh là trốn. Sau này đánh lộn ở Việt Anh hắn bị bắt rồi không gặp lại nữa.
Đi hết cái dốc này thì bên tay trái là dãy nhà dành cho công chức của viện Pasteur, có Ngọc đai đen Thái cực đạo ở đây. Xóm này, có anh Huỳnh Kim Sang, quên tên, đi học võ đầu tiên rồi kéo cả xóm đi học thêm ông thầy Thiếu lâm trên Số 4. Sau này, Đà Lạt hay kêu xóm này là xóm Thái Cực Đạo.
Có anh Hành lớn hơn mình 5-6 tuổi gì đó, trốn lính hay đánh bóng bàn trong xóm với mình nhưng rồi cũng bị bắt đi quân dịch rồi chết trận. Đối diện là một bãi đất được ủi cày bằng phẳng nên dạo đó con nít như mình và xóm địa dư hay tới đây đá banh. Có chương trình xây nhà gì đó thì mấy ông thương phế binh kéo nhau lại đây cắm dùi, cất mấy tấm ván, lợp tôn ở nên mất cả thẩm mỹ của con đường này. Có nhiều người cũng dựa hơi thương phế binh đến đây, cắm dùi xây nhà. Hình như gia đình Lê Nam Sơn, ông cụ làm thợ may cũng cắm dùi được một căn ở đây. Nghe nói anh chàng này nay bán mì hoành thánh ở Bảo Lộc. Khúc này có cái hẻm đi qua cây xăng Ngọc Hiệp, chỗ quán mì Quảng của ông Bắc kỳ.
Đi tới bên phải là cư xá công chức của nha địa dư ở đường Thống Nhất, cạnh Grand Lycee. Nếu mình không lầm thì có 3 dãy nhà hai tầng. Tầng nhất, đâu mặt về đường Hai Bà Trưng, có cái cầu treo làm bằng gổ đi vào, còn tầng dưới thì có cửa vào đối diện con suối và mấy cái vườn. Giữa dãy nhà thứ 2 và 3 thì có cầu xí chung cho cư xá, có bể nước giặt đồ, có cái sân khá rộng để con nít chơi bắn bi, tạt lon,...còn người lớn thì hay chơi pétanque. Dãy thứ 2 thì có nhà Phạm Ngọc Liên, nay ở Gia Nã Đại, có ông anh đầu đi du học năm 72, 73 thì phải theo chương trình Colombo. Trước mặt dãy này, hàng ngày có người bán bắp nướng, trái cây,... cô con gái hứa với mình là khi nào mình về Đà Lạt, sẽ đổ bánh căn cho ăn để tìm lại hương vị của mẹ cô ta làm khi xưa. Khi mình về cô ta trốn mất tiêu. Khúc này có con hẻm băng qua đường Phan Đình Phùng góc nhà thuốc tây Lâm Viên. Dãy thứ 3 thì có nhà của ông Lào, người Huế, anh của ông Mai, bố thằng Banh. Gia đình này có nhiều hoạt động nhất ở cư xá này.
Tết Trung Thu thì mấy người con, đánh trống múa lân, làm ông Địa, đi trước dẫn theo một đoàn con nít trong xóm, đi rước đèn giúp vui cho cả xóm xem. Dạo ấy, mình ngưỡng mộ mấy tên này, thấy chúng giỏi cực đỉnh. Có dạo ông Lào thầu đóng thùng gỗ cho nhà thầu rau cải bán cho quân đội Mỹ. Ông gia công cho hàng xóm đóng thùng nên cả xóm cứ nghe tiếng búa ngày đêm. Mình có dạo hè, xuống nhà ông ta đóng thùng kiếm tiền ăn đậu đỏ của bà Tân hay bánh bột chiên của bà Hoà.
Có lần ông ta nói với bà cụ mình là nhà ông ta không có Mả học nhưng đám con của ông sau này nghe nói làm ăn khá lắm. Ông ta mới qua đời năm nay, bà Lào bằng tuổi mẹ mình vẫn còn ở đấy. Bên cạnh là nhà Hùng, hơn mình 1, 2 tuổi gì đó. Tên này hồi nhỏ hay đá banh với mình lớn lên thì hết chơi nhưng hắn có cô em học Quang Trung, khiến Huỳnh Kim Sang 11B mê tít thò lò. Bên cạnh là nhà chú Be, quen với ông cụ mình trong quân đội sau này giải ngủ, chú làm về hàng hải, chở hàng cho các nước Đông Nam Á, lâu lâu chú về phép hay cho tiền mình đi coi xi nê.
Theo tấm hình này thì đường đầu tiên là đường Phan Đình Phùng, đoạn đối diện ấp Mỹ Lộc. Sau đến khu vực làm vườn, có con suối. Tiếp theo là đường Hai Bà Trưng, đoạn cư xá Bưu Điện, thấy nhà của chú Kỳ, bác Nghĩ, bên kia đường là nhà của anh chàng Hiếu, học Yersin với mình. Thấy xóm CÒ Đào, bác Lê Công Oai, đến cái vườn của ông bà Bắc kỳ. Rồi đến xóm mình. Thấy con dốc nối liền Hai BÀ Trưng, Thi Sách và Calmette, đến con dường Thì Sách ngoằn nghẽo có nhà trung tá Tốn, đến đường Calmette tiếp theo là NGô Quyền, phái kia là Trần Bình Trọng. Dường Hai BÀ Trưng thấy khúc nhà thương 
Tấm này rõ hơn. Cận cảnh là dãy cư xá Bưu Điện, bên phải là trường tiểu học Đa Nghĩa, sau đến đường Thi Sách, có dãy nhà của Domaine de Marie, vườn của bà HÀnh, mẹ của chị Xuân, học BÙi Thị Xuân, có anh là Nhân, học Văn Học, đi lính chết ở Cai Lậy. Thấy nhà trung tá Tốn, chết ở trong đập Đa Thiện, khi đi tuần buổi sáng. Bên trái là xóm mình nhưng không thấy. Trên dường Thi Sách là Ngô Quyền, thấy Domaine de Marie, có một phần đường Calmette.
Giữa cư xá địa dư và công chánh có một con đường đất băng qua vườn ông Ba Đà và hai con suối để đến ngã ba chùa, góc hãng cưa ông Xu Huệ. Người ta kêu hãng cưa Xu Huệ vì ông ta ở trong xóm này, trên thực tế thì hãng cưa của ông bà Xu Tiếng, bố của Nguyễn Văn Thảo học chung với mình. Sau cư xá Địa Dư là đến cư xá Công Chánh. Khác với cư xá Địa Dư, cư xá Công Chánh gồm 8 nhà đôi xây kiểu biệt thự, bên Mỹ gọi là Duplex, nhà xây hai tầng, lợp ngói đỏ, quét vôi, có nhà vệ sinh, phòng tắm trong nhà riêng biệt không phải chia sẻ với hàng xóm như ở cư xá Địa Dư, phía trên đồi gần đường Thi Sách có một dãy nhà gồm 7 căn mà gia đình mình ở căn đầu và một căn nhà riêng số 50 dành cho trưởng ty ở dạo đó là gia đình ông Sâm, mình có chơi với người con út tên Chiến học THĐ.
Bên cạnh nhà ông Lào là nhà của Bác Nhị làm ty công chánh, có hãng làm gạch ở Cầu Đất. Con đầu tên là Bảo, học Yersin, nghe nói nay ở Vũng Tàu, hai người em Toàn, Miều. Bên cạnh nhà Bác Nhị là số 44 bis, nhà của ông Điện, bố của thầy Trịnh Minh Đức, dạy Pháp Văn, mình có gặp thầy trong lần đầu về, có một người con trai học kiến trúc, còn cô con gái đầu tên Thảo thì không biết tin tức. Hình như thầy có một người con trai đi lao động bên Đông Đức rồi trốn qua Tây Đức nay không biết sống chết ra sao. Có lần thầy nhờ mình gửi thư cho người con bên ấy. Lần thứ nhì về thì thầy có mở trường dạy máy vi tính ở đường Duy Tân, ngay tiệm của gia đình Tôn Thất Thạch khi xưa. Nay con dâu bán bún bò rất ngon ở nhà thầy.
Bên cạnh số 46 là nhà Dì Tân, bà con với bà cụ mình, con bà Dụ, chị bà Võ Quang Tiềm. Bị tai biến, lần cuối về mình có ghé thăm, thấy dì nằm một chỗ, nói không được nhưng có lẻ nhận ra mình. Mới qua đời. Bên cạnh là số 46 bis là nhà của ông Võ Văn Địch, bố của Võ Việt Điểu, học Yersin một thời với mình. Có người anh tên Thắng, học y khoa saigon, có mấy bà chị học Ỷersin sau này, có thời làm cho sở Mỹ. Hồi 75 nghe nói cả gia đình chạy di tản sang Pháp, mình có viết thư nhưng không có ai hồi âm. Nay ở vùng Maryland. Mình có liên lạc lại được. Đối diện nhà Bác Nhị là nhà của ông Tân Ù, bố của Hoàng Giang, học Văn Học đến nhà ông Kham có tiệm giặt ủi ở đường Minh Mạng cạnh hẻm dốc Nguyễn Biểu. Có dạo ông ta biển thủ lương của công chức khu Công Chánh rồi biến mất, kế bên là nhà ông Châu, Phó trưởng ty công chánh. Ông Châu đã qua đời, nay còn bà vợ là cô giáo Thanh, hay đi chơi với mẹ mình.
Chỗ này có cái hẻm đi lên đường Thi Sách và Calmette mà nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, có làm bản nhạc “tình tôi con dốc nhỏ” để nói về con dốc mà anh ta đi về hàng ngày, nhà ở đường Calmette. Nhà mình nằm ngay con hẻm dốc này. Trước nhà ông Kham và ông Châu thì có một trụ điện có đèn. Khoảng năm mình học 10 ème thì có một tên lính mê gái, rồi mối tình Trương Chi kết thúc bằng cuộc tự tử bằng lựu đạn và ông lính mất nữa cái đầu nằm ngay đường cả ngày mới được xe chở về Nhà xác. Mấy ông công chức chả có việc gì làm nên rủ nhau đánh bài nên có lần 302 biết nên ập vào nhà ông Ngần, cướp tiền khiến mấy ông sợ.
Hết dãy cư xá Công Chánh thì đến cái dốc thứ hai là cư xá Bưu Điện và ty Kiến Thiết. Dưới chân dốc thì có con suối mà nhà vườn dùng để tưới rau. Bên trái là của ông làm vườn Bắc kỳ còn bên phải là gia đình tên Trần Ngọc Hải, hay vác súng Colt của ông bố làm cảnh sát, đi dọa bắn thiên hạ. Mình nhớ nhà anh chàng này có mấy cây tre to và cao, trồng bắp cải, có con chó lớn khá dữ. Chỗ này có đường hẻm nối lên đường Thi Sách có nhà của hai anh chàng thợ may Sơn và Tánh. Trước khi đi Tây mình có nhờ hai ông thần này may cho bộ đồ vía đi Tây, bận được một lần rồi không dám bận lần thứ hai vì Tây đầm nhìn tưởng mình từ Phi Châu qua. Hình như đối diện có một căn nhà số 49C, làm bằng gỗ sau Mậu Thân.
Trong xóm này có một ông không nhớ tên, làm cho viện Pasteur, đi chích dạo nên con rơi vợ rớt đầy nơi ở Đà Lạt, hay chạy chiếc xe vespa. Chiều chiều, mình thấy ông ta chạy một vòng đường Thi Sách và Hai Bà Trưng. Trên đầu dốc bên trái có 2 căn nhà xây kiểu cư xá công chánh sơn vôi màu rượu đỏ, nhà của tên Hiếu, có dạo học Yersin với mình, sau này hắn qua Việt Anh, không biết sống chết ra sao. Đối diện nhà tên này là nhà của một anh người Huế, tên Thống thì phải học Trần Hưng Đạo. Lúc nào mình ghé qua cái quán trước nhà, mua kẹo là thấy anh ta học, sau này đi Võ bị, ra trường đậu thủ khoa rồi mấy tháng sau mình ghé lại nhà đưa đám tang. Cái chết của anh Thống này khiến mình suy nghĩ về tương lai của mình. Học dỡ đi lính, chết. Học giỏi đi lính cũng chết nên Chán Mớ Đời. May sao có con đường đi du học, tránh đi lính.
Qua hết cái dốc này thì bên trái là cư xá bưu điện còn bên phải mấy nhà của cư xá ty kiến thiết. Mình không nhớ ai ở cư xá bưu điện ngoài ông đưa thư cho đường Hai Bà Trưng còn cư xá kiến thiết thì có Bác Chi. Bác này bị bắt cùng lần với ông cụ mình vì cùng nằm trong tổ chức. Ông cụ mình bị tuyên án 18 năm cải tạo còn Bác Chi thì nghe nói chung thân hay 20 năm. Sau này Bác ra tù thì vợ đã đi lấy chồng khác, nghe nói đã lập gia đình lại nhưng mình không có cơ hội gặp lại. Bác này có người em trai làm cho hãng cưa hay chạy chiếc xe cần cẩu, chở cây rừng về cho các hãng cưa. Dạo đó ông Tôn Thất Trai, dạy toán ở Trần Hưng Đạo mướn nhà của Bác Chi, ăn cơm tháng nhà bà em vợ sau này lấy cháu vợ của Bác, tên Hương, con bà Hân. Nghe nói định cư ở San Diego. Chưa bao giờ gặp lại. Có thấy tên trong danh sách của hội ái hữu Đà Lạt, mình có gửi thư nhưng chắc không nhớ mình nên không thấy hồi âm.
Các dãy cư xá công chức thì không thấy hàng quán gì cả nhưng sau này thì có một vài cái quán được dựng lên bán bánh kẹo cho con nít. Chỗ nhà Bác Chi đi đến một tí thì có nhà chú Kỳ, mà hồi nhỏ có lần mình học hè. Nhà có hai cây mận Trại Hầm, ruột đỏ ăn nức nở, sau này chú đi du học bên Pháp, có cho mình mấy cuốn sách Tintin Milou.
Hết mấy cư xá này thì đến một cái dốc mà bên trái là trường tiểu học Đa Nghĩa, nằm ở giữa hai đường Hai Bà Trưng và Thi Sách. Mấy tên trong xóm mình học ở đây. Mình nhớ thằng Hùng con ông Cai trường Đa Nghĩa hay bị mình xúi đánh lộn. Tên này hay hăng tiết vịt nên ai xúi đánh lộn là đánh dù không có cớ. Khúc chỗ này mình nhớ có một cô Bé học Văn Học buổi chiều, lớp 8 thì phải, rất xinh khiến Võ Hoàng Đa mê mẫn, ở đâu khúc này. Bên phải có một con đường đất dẫn qua Phan Đình Phùng, chỗ hãng cưa Xu Tiếng và ga ra Phan Xứng.
Từ khúc này trở lên số 4 thì mình không rành lắm, chỉ nhớ có nhà bà Cáp, bán đồ khô cạnh hàng bà cụ mình, Bác Thành, chạy xe Lam, người cùng làng với ông ngoại mình nên mỗi năm mấy người trong làng hay rủ nhau đi Chạp Mộ trước Tết rồi về nhà Bác Thành ăn bún bò. Sau này, con trai bác lấy một cô em mình ở Đà Lạt.
Đối diện thì có nhà Phạm Đình Kháng, học Yersin với mình, phía sau là nhà hai anh em Chương và Trình, con của ông Đoàn. Chương đi du học bên Mỹ năm 74, sau này nghe nói lấy con gái ông Phấn, tiệm thuốc Tây Minh Tâm ở đường Duy Tân đối diện tiệm Con Cua. Dạo gia đình bác Phấn sang Tây, mình có ghé lại thăm, nay ở San Jose, bạn tù với bà cụ mình khi theo kháng chiến chống Pháp. Mình có gặp lại gia đình chú Phấn ở San Jose và hai cô con gái học Yersin, dưới mình.
Sau đó thì gặp đường La Sơn Phú Tử rồi đến khu số 4 toàn dân gốc Huế như ấp Ánh Sáng. Đi lên chút nữa thì chùa Linh Quang. Có lẻ mình thích chùa này hơn chùa Linh Sơn, nhỏ và tỉnh mịch hơn. Hồi nhỏ mình hay đi chùa này với bà ngoại vào ngày rằm và mồng một nên mọi lần về Đà Lạt mình đều lên đây như hồi hướng. Hai chùa này đều được ông bà Võ Đình Dung tặng đất để lập chùa.
Mình có hai kỷ niệm khó quên ở đường HBT; năm học 11 ème thì có một hôm, bà giáo dẫn nguyên lớp ra đường Hùng Vương, ngay góc Lê Quí Đôn, cạnh Petit Lycée . Mỗi đứa được cầm một lá cờ ba sọc, có cảnh sát kiểm soát. Đứng đâu mấy tiếng thì có một đoàn mô tô dẫn đầu từ hướng phi trường Cam Ly chạy về, theo sau là một chiếc xe màu đen, có Ngô tổng thống quơ tay chào mình, nên hãnh diện lắm, ngồi bên cạnh là một ông Tây mũi lỏ. Đầu xe có cắm cờ ba sọc và bên trái cờ máu đỏ xanh chi đó. Con nít thì phất cờ còn mấy người bận áo xanh thanh niên Cộng Hoà thì hô to Ngô tổng thống muôn năm.
Trưa về thì mình kể có đi đón Ngô tổng thống thì bị bà ngoại bảo câm rồi thấy bà kêu chị giúp việc, đem bàn thờ xuống đường HBT. Mình thấy nhiều bàn thờ đặt rãi rát suốt con đường này. Sau này lớn lên mới hiểu là hôm đó Ngô tổng thống đi kinh lý với đại sứ Mỹ, nên bắt học sinh và quân công cán chính đứng đầy đường để đón chào Ngô tổng thống để đại sứ Mỹ tin là toàn dân VN nhớ ơn Ngô tổng thống, theo khẩu hiệu nhất chúa nhì cha thứ ba Ngô tổng thống. Trong khi bên Phật giáo thì bị Việt Cộng nằm vùng, giật dây kêu gọi Phật tử đem bàn thờ ra đường để cho đại sứ Mỹ biết là Pháp nạn,…
Kỷ niệm thứ hai là ty lục lộ làm đường HBT lại. Trước Mậu Thân, ty công chánh có chương trình làm lại con đường HBT vì có nhiều ổ gà. Trời mưa thì nhiều xe máy bị lọt ổ gà té mệt nghỉ, còn mùa khô thì bụi bay mịt mù. Nghe kể khi làm đường thì trưởng ty ăn một mớ cát, đá, rồi đến người cai công trường ăn bén một ít nữa. Năm đó, mình thấy các xe chở đá và sõi lại đỗ từng ụ bên đường để chuẩn bị làm đường không ngờ tối đến thì dân cư hai bên đường sai con ra hốt cát và sỏi đem về nhà rãi nơi sân hay chuẩn bị đổ nền xi măng nên công trình bị đình trệ, đợi xin ngân sách khác.
Dạo đó cách làm đường của VN rất thô sơ. Mình nhớ có chiếc xe ủi lô chạy bằng củi và nước. Mình có tấm ảnh này nhưng lười đi lục quá. Cái dáng tương tự đầu xe lửa, phía sau có hai bánh bằng sắt to đùng, đường kính cỡ 1.2 m, còn phía trước thì một cái bánh dài để cán đường cho dẹp xuống. Họ ngồi dưới đất để ăn, đầu đội nóng lá, nhiều khi mưa thì thấy họ che tấm bạt bằng mấy khúc cây để trú mưa. Trưa mình thấy họ đốt lửa bên đường rồi bỏ gà mèn bên cạnh để hâm cơm nóng để ăn. 
Dạo đó đàn ông bị động viên nên đa số công nhân là phụ nữ, gốc Quảng rất nhiều. Chiến tranh, nhà cửa ở quê bị đốt hết theo chương trình của quân đội mỹ nên người Quảng chạy giặc vào Đà Lạt ở với bà con khá nhiều. Dạo đó nhà mình có người làm gốc Quảng và mấy người làm vườn cũng từ Quảng Nam vào. Một hôm, chị ta biến mất, hỏi ra là Việt Cộng nằm vùng, sợ bị phát hiện nên trốn.
Đường Hải Thượng chỗ cổng vào trường Việt ANh. Đi một chút là gặp đầu đường Hai BÀ Trưng bên tay phải.
Lúc đầu thì họ cào đất, cho xe ủi lô cán một lần rồi đổ đá sỏi hơi to to lên rồi cào cho đều, cho xe ủi lô cán thêm một lần. Sau đó họ lấy máy thùng phi tương tự thùng xăng nhưng nhỏ hơn, chứa dầu hắc, bỏ lên mấy cục đá ong rồi chêm củi đốt cho dầu hắc chảy lỏng ta. Họ đem cái xe bò ệch đến rồi lấy cái gáo làm bằng lon dầu ăn, đóng cái thanh cây tròn làm cái quai. Họ đục lổ cái đáy lon rồi múc dầu hắc lỏng để cho dầu hắc lỏng chảy qua các lổ, nhiễu xuống đường, rưới lên đá sõi để chảy vào mấy cái khe hở. Sau đó họ đổ thêm sỏi nhỏ hơn rồi cho xe ủi lô đến cán thêm một lần rồi rưới dầu hắc, tạt thêm cát và xe ủi lô đến cán thêm là xong. Mình có mấy tấm ảnh này mà lười đi lục ra. Hôm nào buồn đời, sẽ mò ra để kể tiếp.
Đường mương thì nằm bên trái, số lẻ vì cao hơn nên nước mương, mưa chảy xuống đều được hứng vào đường cống bán lộ thiên vì có chỗ được đậy bằng những tấm dalle xi măng còn có nhiều chỗ thì không thấy, có thể trưởng ty ăn bớt. Mùa khô thì cống đen xì, hôi thối rồi chảy qua các ống cống chôn dưới đường, chảy xuống con suối chảy về hướng Cam Ly. Dân cư cũng đem rác đến mấy cái suối để đổ. Chỗ cư xá địa dư của nhà Phạm Ngọc Liên, dân ở cư xá này đem rác đổ nơi cầu băng qua con suối nên mùa khô đi ngang là ruồi nhặng bay vo ve, mùa mưa thì nghẹt nên gây lụt ngập mấy miếng vườn trồng rau xung quanh.
Em chỉ nhớ đến đây, Bác nào có nhớ gì thì xin bổ túc hay sửa các chi tiếc mà em nhớ không đúng.
Sơn đen

Nạp đơn đại học Mỹ

Lâu rồi, mình có đọc vài cuốn sách để chuẩn bị cho mấy đứa con vào đại học mỹ, hy vọng các trường nổi tiếng. Có cuốn “The Price of Admission: How America’s Ruling Class Buys Its Way into Elite Colleges — and Who Gets Left Outside the Gates,” khiến mình chán đời.
Trong cuốn này, tác giả nói đến các tài phiệt mỹ, cho tiền các đại học theo kiểu quỹ từ thiện (endowment) để con cháu họ được nhận vào còn chính trị gia nhất là da đen, can thiệp để con cháu họ nhận học bổng. Sinh viên được nhận vào đại học danh tiếng, một số là con nhà giàu, da trắng, có thế lực về kinh tế, chính trị chớ chẳng phải vì học giỏi, tài cao. Có người cho 2.5 triệu đô la thời xưa để con trai được nhận vào đại học Harvard, sau này khám phá ra là con rễ của ông Trump, hay con gái của Clinton, Obama... Chán Mớ Đời
Đến Hoa Kỳ định cư, nhận làm quê hương thứ 2 hay 3, 4, 5 vì mình đinh ninh là chịu khó làm ăn thì sẽ hoàn thành được giấc mơ Hoa Kỳ của mọi người. Mình nói chuyện với đám mỹ có con học chung với con mình thì họ nói là cho con chơi thể thao cho giỏi, học khá thì sẽ được nhận vào trường tốt, danh tiếng và có học bổng. Cứ nghĩ đến đi học đại học tốn $30,000 đến $50,000/ năm là thất kinh.
Mình bắt thằng con học chết bỏ rồi lại đi bơi ngày 2 tiếng vì thấy nó cứ phá kỷ lục đội bơi hoài rồi về đầu hay thứ 2 khi bơi cho đội tuyển Junior Olympic. Xem hạng trên toàn nước mỹ thì nó đứng hạng thứ 15 nên cũng hy vọng. Bơi một thời gian, có lẻ bị xì trét quá nên thằng con xin nghỉ nên mình nhất trí và 3 cha con đi tập võ cuối tuần. Bỏ mộng vào đại học danh tiếng.

Hoa vàng xa lộ

Hôm qua, mình chạy xe xuống Fallsbrook, thủ phủ của bơ Cali, nơi 80% bơ cali được trồng. Mình đi học lớp bón phân do bà giáo sư đại học UCR giảng dạy. Hoá ra bón phân không phải dễ dàng. Bón phân năm nay là để cho năm tới. Tỉa cành để cho có trái cho hai mùa tới, hoá ra làm nghề nông cũng nhiêu khê. Chán Mớ Đời
Lái xe trên xa lộ vùng Lake Elsinore thấy hoa vàng mấy độ, rộ nở ra sau những ngày mưa dầm mưa dề tại miền nam cali. Tuần vừa qua, đọc báo địa phương thấy thiên hạ chửi mấy bà lên vùng này để chụp hình, xeo phi. Hoa dại đẹp mà mấy bà, đường đi thì không chịu đi theo chỉ dẫn, lại chạy vào trong vùng hoa, cứ đạp lên hoa để xeo phi như thể ganh tị sắc đẹp của hoa, nên tìm cách đạp cho hoa dại te tua, tan nát đời hoa dưới những bàn chân ác ôn của họ. Hình ảnh phụ nữ vùi hoa dập liễu quá dã man trong các xeo phi. Chán Mớ Đời
Mình buồn cười là mấy bà nội, bà ngoại, thậm chí có người đến chức bà cố trên 80 tuổi mà cứ làm như xì tin, ỏng ẻo, chụp lia chia rồi bỏ lên mạng. Vấn đề là theo phương trình bậc niên lão; nếu đã béo, già, xấu xí mà đứng trong trong đám hoa thì lại gia tăng, củng cố bình phương cả chục lần cái xấu của mình như ông thầy toán ngày xưa hay kêu: si et seulement si”. Cứ để ý mấy bà chụp hình với hoa thì thấy sự tương phản thì chỉ có hoa mới nổi bật. Tương tự khi đồng chí gái kêu mình chụp hình chung là để mình làm đám rong rêu, lá xanh để nổi bật tầm nhắm của vợ.