Showing posts with label Văn nghệ. Show all posts
Showing posts with label Văn nghệ. Show all posts

Ty Công Quản Nước Đàlạt

 Hôm trước, thấy tấm không ảnh của hồ Đội Có, khiến mình nhớ đến ông cụ. Bố mình làm việc ở ty Công Quản Nước, nhà máy lọc nước và bơm nước cho thị dân Đàlạt dùng. Ông cụ mình là công chức của ty Công Chánh Đàlạt, nhưng sau Mậu Thân, ông cụ được đổi qua ty Công Quản Nước, mình đoán cũng trực thuộc Khu Công Chánh Cao Nguyên Trung Phần. Trưởng ty là ông Nguyễn Văn Tùng, người Bắc, bố của tên Huân, học trên mình một lớp ở Yersin, nghe nói đã qua đời mấy năm rồi.

Tấm không ảnh cho thấy bên trái là đường Đinh Tiên Hoàng, từ đường Bà Huyện Thành Quan, chạy lên Giáo Hoàng Học Viện. Bên tay phải có đường Võ Tánh, từ Phan Bội Châu chạy xuống đến bùng binh ngay bờ hồ. Chỗ này là nơi bố mẹ và Thịnh, học chung với mình ở trường tiểu học Thanh Ngọc, tập lái xe, xuống dưới này rồi mẹ nó hoảng, đạp thắng không đạp, đạp ga bay xuống hồ, chết đuối cả 3. Sáng đó, mẹ mình sai người chở 5 tấn gạo vào cho bà ta ở đường Hàm Nghi, chưa kịp lấy tiền nên mất 5 tấn gạo. Chán Mớ Đời 

Thật ra khi lái xe mà có vợ ngồi bên cạnh hay gây tai nạn lưu thông vì đàn bà không muốn lái xe nhưng thích lái tài xế. Khiến tài xế nổi điên đâm vào lề.

Từ đường Bà Huyện Thanh Quan, có con đường nhỏ chạy vào bên cạnh hồ Đội Có, đến nhà máy lọc nước của Đàlạt. Mình có vào đây vài lần. Nếu nhìn kỹ thì sẽ thấy ống nước lớn từ hồ Xuân Hương, để bơm vào nhà máy nước. Nếu mình không lầm thì có ống thông nước từ hồ Xuân Hương vào hồ Đội Có, để thoát bớt nước cho hồ Xuân Hương vào mùa mưa. Ông Đội Có giàu, có dãy nhà ở khu Hoà Bình đối diện nhà sách Hoà Bình, phía sau là bến xe Tùng Nghĩa.

Tìm ra rồi, hình chụp thấy hồ Xuân Hương, và hai hồ nhỏ bên kia đường: hồ Đội Có và hồ Tống Lệ

Mình vào đây thường là buổi tối, ông cụ đi thanh tra các nhân viên gác trực nhân dân tự vệ ban đêm. Mình đi ké vào xem. Ông cụ là đoàn trưởng nhân dân tự vệ của nhà máy nước nên chỉ xem xét, phát súng trong kho, ghi tên ai có mặt và ai vắng mặt rồi về nhà ngủ. Cũng vì cái chức này mà sau 75, ông cụ đi tù 15 năm.

Số là trước khi di tản khỏi Đàlạt vào tháng 3 năm 1975, ông cụ được lệnh chôn súng của các nhân viên của đoàn nhân dân tự vệ. Sau khi Việt Cộng vào Đàlạt, ông cụ trở về Đàlạt, rủ các người bạn quen, in truyền đơn chống Việt Cộng, bị bắt với súng ống của nhân dân tự vệ đã chôn khi xưa.

Dãy phố của ông Đội Có, phía sau lưng là bến xe đò. Mình bỏ trên đây để khi mình giải thích dễ nhận ra chỗ nào.

Hồ Đội Có và Hồ Tổng Lệ nằm đối diện bên đường hồ Xuân HƯơng, để hứng nước mưa từ trên đồi cù xuống, tránh kéo theo chất dơ, rác thải từ thành phố xuống hồ Xuân Hương. Mình đoán là do người Pháp thiết kế. Ở  âu châu hay Hoa Kỳ, mỗi thành phố đều có một hay nhiều hồ chứa nước mưa, sau đó họ lọc để tưới cây cỏ lại, gọi nước tái sinh. Thứ nhất là để tránh lụt lội vào mùa mưa vì nước ở trên cao đổ xuống các thung lũng.

Đàlạt xưa khi trời mưa thì các ống cống, mưa từ trên đồi chỗ Hàm Nghi, Mình Mạng chảy xuống Phan Đình PHùng, rồi xuống suối từ Số 6 chảy về. Nước thoát không kịp nên làm ngập hết các khu vườn rau ở  xung quanh. Xe mình bị ngập nước một lần ở cầu Cẩm Đô, phải sửa tốn khá nhiều tiền bà cụ. Bao nhiêu rác rưỡi thị dân ở Phan Đình Phùng, mang ra đổ nơi con suối, làm nghẽn con suối. Vào mùa khô, rác chất cao thành núi, đi ngang mấy cái cầu là hôi thối, ruồi nhặng đầy. Mùa mưa thì nước suối chảy siết bị nghẹt, khiến ngập nước. Mình thắc mắc khi về Đàlạt là rác thải ở đâu. Ống cống, rác đủ trò. Chỉ nghe là xứ Đan Mạch có viện trợ làm chỗ phế thải rác cống ở Cam Ly.

Khi xưa, khi trời mưa, cống rãnh từ Khu Hoà Bình đỗ xuống thung lũng trồng rau, sau này người ta xây Chợ Mới. Ống cống đều chảy ra suối Cam Ly, chỗ ấp Ánh Sáng. Nước cống rãnh ở đường Mình Mạng và Dốc Nhà Làng đều chảy xuống Phan Đình Phùng, thải xuống suối nước chảy về Cam Ly.

 Mình nhớ như in, khi đi lên Dốc Nhà làng là ống cống thối không thể tả, đen xì, ruồi nhặng. Vào mùa mưa thì đỡ hơn. Rác thiên hạ đổ ngay suối sau lưng đường Phan Đình Phùng nên mùa khô, chất thành núi rác, mùa mưa thì làm nghẹt suối nên nước dâng lên làm ngập ruộng vườn của mấy người làm vườn, xung quanh đó.

Nhìn tấm ảnh này mới để ý là con đường dẫn vào Thuỷ Tạ, nằm ngay trục của con đường đi thẳng lên Hôtel du Lac. Hình như không phải đường Võ Tánh ở khúc này, chỗ Phan Bội Châu chạy xuống là đường tên khác thì phải, quẹo phải là đường Nguyễn Thái Học. Có nhiều biệt thự rất đẹp. Hình như có nhà ông luật sư nào bị giết chết. Chắc Việt Cộng.

Vấn đề của cư dân Đàlạt khi xưa là nước. Khi tây thành lập thành phố sương mù này thì họ chỉ giới hạn ít dân số nên hệ thống nước đều đưa về những nơi người Pháp sinh sống như đường Trần Hưng Đạo, Yersin, Hùng Vương,…khu người Việt sinh sống thì xài giếng nước, chỉ có khu Hoà BÌnh là có. 

Sau Mậu Thân thì người dân đổ xô vào Đàlạt sinh sống khiến hệ thống nước của pháp xây dựng không đủ cung cấp cho khắp nơi Đàlạt. Thêm hạ tầng cơ sở bị sét rỉ, nghẹt ống. Nhà mình dạo ấy, ở trên đồi nên nước chảy như thằn lằn. Một đêm chưa đầy một thùng thiết nước. Phải đi gánh nước giếng. Dạo ấy mình đi xách nước mệt thở cho em út xài. Nước mưa thì để nấu ăn còn nước giếng thì để giặt quần áo,…

Hình như phía Chi Lăng cũng có một nhà máy nước nhỏ hơn để bơm nước từ hồ Than Thở cho thị dân vùng đó và trường Võ Bị. Mình thu thập được một số hình ảnh của tường võ bị, để hôm nào mình bỏ lên cho bà con xem lại.

Ông cụ mình có kể là dinh tỉnh trưởng ở trên cao nên nước không lên được. Ông Nguyễn Hợp Đoàn, kêu ông cụ lên xử lý. Ông cụ cho làm một cái château d’eau rồi hẹn giờ, chặn ban đêm, khi khu Hoà BÌnh đi ngủ, không xài nước, áp suất mạnh dành để bơm lên cho cả gia đình ông ta xài. Ông Đoàn khoái chí lắm, kêu ông cụ ra ứng cử hội đồng thị xã , bảo đảm đắc cử 100%. Ông cụ kể đi giám sát bầu cử, khi xe nhà binh đến chở thùng phiếu tại các trường học, thấy các thùng phiếu khác đầy nhóc phiếu, họ đổi thùng phiếu cho vẻ dân chủ nên các ứng cử viên của Đảng Dân Chủ thắng to. May ông cụ mình không nghe lời ông Đoàn nếu không đi tù lâu hơn thay vì 15 năm. Chán Mớ Đời 

Nghe nói ông Đoàn sang Mỹ, mở tiệm bán đồ trang trí nội thất, khá lắm, ở vùng Đông Bắc. Ở Quận Cam cũng có một ông tướng kinh doanh ngành này, giàu có, mới qua đời thì phải. Thằng con ông ta, học chung với mình, làm luật sư, nay đã về hưu.

Sau này Tây Đức viện trợ cho hệ thống ống nước mới để giúp giải quyết vấn đề nước trong thành phố. Đường Hai Bà Trưng, Duy Tân, được gắn hệ thống nước mới nên khá hơn, thêm máy lọc nước được nâng cao năng xuất. (Còn tiếp) 

Có người hỏi mình còn tiếp đâu. Mình có kể trong bài “ngày xưa Fan thị “ hôm nào rảnh, sẽ kể thêm. Chán Mớ Đời 

Chỗ hai ống nước lớn hút vào nhà máy nước gọi là cầu đen , ngày xưa đi học xong hay ra Thuỷ tạ bơi qua cầu đen , đứa nào bơi giỏi bơi qua thì quay đầu bơi về lại luôn không cần nghỉ .


Nguyễn Hoàng Sơn 

Cuộc giải cứu Bat 21 Bravo với Biệt Hải Việt Nam

 Lâu lắm rồi, mình có xem phim giải cứu Bat 21, một trung tá phi công mỹ Hambleton tại chiến trường Việt Nam, có nói đến một ông mỹ thuộc lực lượng đặc biệt và một người biệt hải của Việt Nam Cộng Hoà, chèo xuồng đi cứu thoát ông phi công mỹ bị bắn rơi, lẫn trốn trong vùng địch tạm chiến. Cuộc giải cứu phi công mỹ này được xem là cuộc giải cứu lâu nhất và đắt giá nhất vì họ phải hy sinh 11 người mỹ chết, 5 chiếc máy bay khác bị bắn rơi, chưa kể lính Việt Nam Cộng Hoà bị chết và bị thương vì họ ra lệnh vùng cấm khai hoả (no fire zone) trong vòng 27 cây số, để họ có thể tìm kiếm để giải cứu phi công của họ trong khi quân của Hà Nội , vượt vỹ tuyến 17 với 30,000 bộ đội chính quy.

Nay tình cờ đọc được bài của một biệt hải, có mặt trong cuộc tiếp cứu này nhưng không được nhắc đến trong phim nên kể lại đây.

Trong cuộc tiếp cứu hai phi công mỹ trong phi vụ Bat 21 này, Hoa Kỳ ra lệnh không được khai hoả trong chu vi 27 cây số, để họ đi tìm 2 phi công bị bắn rơi, vẫn còn liên lạc với cấp chỉ huy khiến quân đội Việt Nam Cộng Hoà bị Việt Cộng tấn công gây tổn thất khá nhiều trong 2 tuần lễ vì không được khai hỏa, yểm trợ của không lực, chống sự xâm nhập của 30,000 bộ đội tràn sang vĩ tuyến 17 nhưng không thấy người Mỹ nói đến. Chán Mớ Đời 

Phi công Hambleton, người được cứu sống sau khi nhảy dù ra khỏi máy bay bị phòng không Việt Cộng bắn hạ, trốn trong rừng đến 11 ngày, bị săn đuổi bởi cán binh Việt Cộng. Cuộc giải cứu này được dựng thành phim do tài tử Gene Hackman đóng vai Hambleton.
Bản đồ, địa điểm của hai viên phi công mỹ được giải cứu, ông Clark thì ngay bờ sông còn ông Hambleton thì cách bờ sông Miếu giang độ gần 1 cây số. Hai người lính Biệt Hải, 1 Mỹ và 1 việt, chèo ghe lên và đi tìm ông Hambleton, bỏ lên ghe, chèo xuống lại, cải trang là nông dân Việt Nam. Điều hay là ông Norris người Mỹ rất cao mà qua mặt được Cộng quân. Lâu quá không nhớ rõ chi tiết.

Theo người Mỹ thì cuộc tìm cứu ông phi công Iceal Gene Hambleton, bị bắn rớt khi lái chiếc EB-66 trong vùng tạm chiếm của Việt Cộng dài nhất trong chiến tranh Việt Nam. 5 máy bay khác bị bắn hạ trong cuộc tìm cứu ông Hambleton, khiến gây tử thương thêm 11 người mỹ, 2 người bị bắt tù binh và một phi công khác, đi tìm cứu chiến hữu bị bắn hạ.

Máy bay EB-66, có 6 phi hành đoàn, loại này được sử dụng để phá rối hệ thống phòng không SA của Liên Xô, nhưng mãi lo phá rồi hệ thống phòng không để phòng bị các pháo đài B 52, họ không kịp tránh đạn hoả tiễn của Việt Cộng. 5 người chết khi máy bay nổ tung khi lãnh quả hoả tiễn thứ 2, ông Hambleton kịp nhấn nút ghế bung ra sau khi máy bay trúng đạn thứ 1, được giải cứu sau 11 ngày.

Ngày 2 tháng 4 năm 1972, 2 chiếc phi cơ của không lực Hoa Kỳ EB-66 do hai phi công Robert Singletary, BAT 20 và Hambleton BAT 21, hộ tống 3 chiếc B-52 bay thả bom. Hai chiếc EB-66 này có nhiệm vụ phá rối hệ thống phòng không của bắc Việt. Chiếc BAT 21 bị hỏa tiễn SA-2 bắn rơi trên vùng đóng quân của Bắc việt. Ông Hambleton là người sống sót duy nhất trong số 6 người của phi hành đoàn, nhảy dù xuống vùng địch. Sau đó một ông phi công khác, tên Mark Clark đi kiếm ông Hambleton bị bắn hạ và được giải cứu bởi toán biệt nhái người Việt và ông Norris, cố vấn lực lượng đặc biệt. Dạo ấy, quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu rút lui, chỉ còn độ 10 người cố vấn lực lượng đặc biệt mỹ.

Máy bay B 52 bay trên cao còn EB-66 bay thấp hơn để phá rối hệ thống hoả tiễn SA

Ông Hambleton, 53 tuổi sắp về hưu, chuyên gia về chống hoả tiễn SAM, và biết về hệ thống vũ khí nguyên tử của Hoa Kỳ (USAF ICBM). Nếu ông ta bị bắt, dịp may cho Liên Xô. Theo ông này, nếu bị bắt thì chắc chắn sẽ không được đưa đến Hoả Lò mà đưa thẳng sang Liên Xô. Do đó bằng mọi cách không lực Hoa Kỳ phải giải cứu ông này. Để khỏi bị bắn nhầm, họ ra lệnh không được bắn trong chu vi 27 cây số, (No Fire Zone) trong thời gian tìm kiếm hai phi công còn sống sót, chưa bị Việt Cộng bắt làm tù binh; Ông Hambleton và một phi công khác tên Mark Clark, bị bắn rơi khi thi hành nhiệm vụ tìm kiếm ông Hambleton.

Trên nguyên tắc ông này không nên tham dự phi vụ này vì biết nhiều tin tức về quốc phòng Hoa Kỳ nhưng vì thiếu người, dạo ấy quân đội Hoa Kỳ bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam nên ông ta phải tự lái. Xin nhắc lại là sau hiệp định Paris thì Việt Cộng xua quân qua vỹ tuyến 17 để đánh Việt Nam Cộng Hoà.

Đọc tài liệu mới hiểu hệ thống phòng không của Liên Xô trang bị cho bắc Việt khá chính xác nên họ mới bắn rơi rất nhiều phi cơ của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Bù lại Việt Nam Cộng Hoà bắn hạ khá nhiều chiến xa của Liên Xô nhưng máy bay đắt tiền hơn. Nếu mình không lầm thì Hà Nội cho người sang Iraq để giúp quân đội Sadam Hussein, sử dụng súng phòng không để đối phó với không lực Hoa Kỳ, khi cuộc tấn công của Hoa Kỳ.

Trong cuộc giải cứu thành công hai phi công này, ông Thomas R. Norris của Navy SEAL được nhận huy chương Medal of Honor của Hoa Kỳ và người biệt nhái Nguyễn Văn Kiệt được tặng huy chương Navy Cross, người Việt duy nhất được tặng huy chương này trong chiến tranh Việt Nam. Có nhiều người Mỹ xem phim tài liệu về cuộc giải cứu này, thắc mắc lý do nào ông Nguyễn Văn Kiệt có công ngang như ông Norris, sao không được nhận Medal ờ Honor , có người giải thích là có luật chỉ có quốc tịch mỹ mới được nhận huy chương này. Nếu mình là con cháu của ông Kiệt thì sẽ làm đơn xin, vì ông ta đã đến bờ tự do, vào quốc tịch mỹ năm 1984. Có huy chương này thì con cháu sẽ nhờ đó mà vào các trường lớn và học bổng vì có công lớn cho Hoa Kỳ.

Theo mình được biết thì thiếu tá Phong của đại đội 302 Đàlạt xưa, khi sang định cư tại Hoa Kỳ, có mấy người đồng ngủ mỹ khi xưa ở đại đội 302, làm giấy tờ lại và được cấp lại 3 huy chương của quân lực Hoa Kỳ đã trao tặng trong thời gian chiến tranh Việt Nam.

Thật ra trong cuộc giải cứu hai phi công mỹ, phim diễn lại chỉ có hai người, 1 mỹ và một Việt, không nói đến một toán biệt nhái của Việt Nam, gồm 5 người khác ngoài ông Kiệt, đi cùng toán ông Norris. Chắc để tiết kiệm tiền.

Trong cuộc Việt nam hoá chiến tranh của chính quyền Nixon, các cuộc tham chiến của quân đội Hoa Kỳ giảm rất nhiều tại Việt Nam. Bắc Việt ra lệnh tổng tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hoà vào ngày 30 tháng 3 năm 1972, khởi đầu cho chiến dịch Nguyễn Huệ của Hà Nội, Việt Nam Cộng Hoà gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, tràn qua sông Bến Hải, tiến chiếm Đông Hà với 30,000 lực lượng chính quy. Họ đem theo 2 tiểu đoàn thiết vận xa T 54 và PT-76, 75 chiến xa với hoả tiễn phòng không, 47 đại bác 130mm cộng với hoả tiễn SAM.

Khoảng thời gian này, đài Sàigòn phát thanh cứ mở những bài hùng ca như Cờ Bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu,… những địa danh lạ tai như Đông Hà, Cam lộ được người Sàigòn tiếp thu.

Thiếu phi công để tháp tùng các pháo đài B-52 nên ông Hambleton, sĩ quan cao cấp phải bay để phá rối hệ thống phòng không của Bắc Việt khi B-52 bỏ bom đèo Mụ Già. Vì lo phá rối hệ thống phòng không nên máy bay của ông Hambleton, không kịp thấy hoả tiễn SAM, bị SAM bắn hạ. Ông ta ra lệnh mọi người nhấn nút ghế thoát nhưng chỉ có mình ông ta là thoát còn 5 người kia tử nạn trên không.

Cuộc tìm kiếm ông Hambleton bắt đầu và sau 10 ngày thì không quân Hoa Kỳ bị tổn thất rất nhiều nên có một tướng quên tên, hình như Abrams ra lệnh ngưng cuộc giải cứu và một ông tá khác, đề nghị cho lực lượng đặc biệt, theo đường bộ vào khu địch chiếm đóng để giải cứu. 

Dạo ấy lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ đã rút về gần hết, còn độ 10 người cố vấn nên họ liên lạc với quân đội Việt Nam Cộng Hoà, xin giúp sức. Họ gửi 2 người: 1 thiếu tá Andy Anderson, và thiếu uý Tom Norris, Việt Nam Cộng Hoà có 5 người, ông Phong Trần, ông Tất, ông Châu, ông Nguyễn Văn Kiệt và ông Thọ, toán trưởng.

Theo ông Phong Trần, thuộc lực lượng BIệt Nhái của Việt Nam Cộng Hoà, tham gia cuộc tìm kiếm hai phi công mỹ này kể lại:

Mình đoán là hình của ông Phong Trần, tác giả bài viết kể lại sự tham gia của biệt nhái người Việt trong vụ giải cứu ông Hambleton và Clark. Ai có tin tức thì cho mình biết. Cảm ơn

Trưa ngày chủ nhật 8 tháng 4 năm 1972, ông ta đang ngồi ăn uống tại nhà người bạn tại Đà Nẵng thì một xe Jeep chạy đến và cho biết ông và ông Châu được lệnh trình diện bộ chỉ huy gấp. Khi đến bộ chỉ huy thì được biết là ngày mai, có công tác xâm nhập vào vùng địch để giải thoát hai phi công mỹ, bị bắn rơi tại vùng Quảng Trị, sông Cam Lộ. Máy bay Cessna để thả đồ tiếp tế và liên lạc với hai phi công còn sống.

Trưởng toán Thọ cho biết là tránh xa các thùng C-ration vì có gài chất nổ, chỉ có Cessna mới biết thùng nào với ám số để phòng bị khi bộ đội Hà Nội phát hiện. Trước khi đi họ nhận quần áo bộ đội, súng AK-47 để cải trang và lương khô cho 4 ngày…. Theo người Mỹ thuật lại thì họ thả bom bi, xung quanh khu vực ông Hambleton lẫn trốn. 

Ông ta liên lạc với phi cơ Cessna mỗi tiếng đồng hồ. Ông ta núp trong ruộng của người dân, ăn đậu bắp ngô của người dân để sống. Sau 11 ngày, ông ta mất 45 cân Anh.

4 giờ sáng ngày 9-4-1972, lúc 4:30 sáng có hai trực thăng do phi hành đoàn mỹ lái, bay từ đâu đến, để bốc toán Biệt Nhái người Việt , trong số người Mỹ có trung tá Andy Anderson và đại uý Tom Norris cố vấn cho nhóm Biệt Hải. Sau mấy giờ bay, trực thăng đáp xuống bộ chỉ huy tiền phương, 2 người mỹ và đại uý Thọ đi vào bộ chỉ huy, trong khi 4 biệt nhái người Việt ngồi đợi ở ngoài. Có một chuẩn tướng Việt Nam đi ngang cho biết sẽ có một chiếc M113 đến đón họ đưa đến vùng gần phi công mỹ bị bắn rơi. Trực thăng sẽ không được dùng vì phòng không của địch. Ông tướng này được lệnh giúp đỡ cuộc giải cứu nhưng không tin là hai phi công còn sống hay chưa bị bắt. Ông ta nói đang lo cả sư đoàn 3 bộ binh của ông ta, đang bị Việt Cộng đánh trong khi người Mỹ chỉ lo có 2 người của họ. Hình như ông tướng này tên Vũ Văn Giai, ông Phong chỉ nói tương chỉ huy của sư đoàn 3, nhưng người Mỹ nói tướng Vũ Văn Giai.

Không biết là hình ảnh chụp vào lúc ấy hay trong phim, thấy ông đại uý Norris., có biệt nhái người Việt bên cạnh. Chắc là phim vì dạo ấy không có phóng viên chiến trường tại đây.

 Độ 11:30 sáng; có chiếc xe thiết giáp M113 đến, họ cho lên xe tất cả ba lô, súng đạn rồi xe đưa đến điểm hẹn. Đại uý Norris muốn cho toán xuất phát vào 5 giờ chiều trong khi trưởng toán Thọ đề nghị xuất phát vào ban đêm thì tốt hơn. 7:00 tối thì toán gồm 6 người bắt đầu lên đường, di hành mỗi người cách nhau 3 mét. Ông Phong và Tất đi tiền sát, cách 15 thước thì đại uý Thọ, Norris sau đó thì đến Châu và Kiệt đi sau hậu vệ. Xem như toán chỉ có 6 người. Ông Anderson ở lại để liên lạc với máy bay Cessna và toán.

Họ lần mò đến Miếu Giang, độ 12:30 sáng thì toán đã đến mục tiêu và đợi. Được cho biết là tối nay sẽ có một trong 2 phi công sẽ thả trôi theo sông, khoảng từ 12 đêm đến 3:00 sáng. Việt Cộng nghe truyền tin của người Mỹ nên họ phải dùng ngôn ngữ để báo tin cho hai phi công bị bắn rơi. Như Shake (con rắn) là con sông, Esther Williams Go to Boston (đi về Boston là đi về hướng Đông) giúp phi công hiểu là bơi theo con sông về hướng Đông. Esther Williams là một nữ vận động viên bơi lội nổi tiếng Hoa Kỳ khi xưa, sau này có đóng phim đình đám. Các người truyền tin của Hà Nội, chắc không hiểu khi nghe họ dùng những nhân vật tại Hoa Kỳ nếu không thì họ đã cho người lục soát ven sông.

Bổng họ thấy giữa dòng sông có một chấm đen trôi nhanh đến chỗ họ núp, nghe cả tiếng thở. Ông cho Tất báo cho trưởng toán Thọ và ít lâu sau, ông Norris đeo chân nhái, bơi theo, độ 20 phút sau thì ông ta trở lại. Có lẽ dòng nước mạnh nên ông ta không bơi theo vật nổi kia nên quay lại. Lúc này ông Norris và ông Anderson nói chuyện qua điện đàm về sự việc này, trưởng toán Thọ ra lệnh rút lui.

Bổng nhiên họ thấy cách đó 8-10 thước có thân cây và mặt nước dao động nên theo dõi độ 10 phút sau đó ông Phong bò lại để xem xét tình hình thì nghe tiếng “no, no’ bằng anh ngữ. Ông thấy phi công mỹ đang ôm gốc cây và trông thấy hai người bận đồ bộ đội nên chới với. Ông ngồi đợi vì không biết anh ngữ, lại sợ ông mỹ rút súng ra bắn thì lại mệt, báo động cho bộ đội trong vùng và cho Tất về báo cho trưởng toán Thọ. Sau đó thì ông Norris và trưởng toán Thọ đến, ông ta chỉ vào bụi cây, ông Norris đi lại phía bụi cây, ông phi công và ông Norris ôm lấy nhau mừng rỡ. Sau 10 ngày bị truy lùng, ông này mừng như điên. 

7:00 sáng thì họ đưa ông phi công mỹ này đến vùng lính Việt Nam Cộng Hoà đóng, cho uống cà phê,… 10 giờ sáng thì M113 đến đón ông ta về hậu cứ. Mọi người kiếm thức ăn rồi ngủ để chuẩn bị cho đêm hôm sau đi tìm tiếp viên phi công mất tích còn lại.

Bổng nhiên Việt Cộng pháo kích thì họ thấy trung tá Anderson và đại uý Thọ từ ngoài chạy vào hầm, bị thương. Sau đó thì M113 đến chở hai người này và Châu về đơn vị. Theo các lính bộ binh cho hay, hồi chiều, thấy 2 người đứng trước hầm, xem ống nhòm, có thể đề-lô của Việt Cộng thấy nên pháo kích. Xem như toán mất đi 3 người, chỉ còn lại 4 người. Ông Phong, ông Tất, ông Kiệt và ông Norris.

Đại uý Norris thay thế đại uý Thọ làm trưởng toán khiến mấy người Việt lo ngại vì không biết tiếng anh, trong đêm khuya, không hiểu nhau, có thể bị lộn xộn khi di chuyển khiến ông Norris hiểu lầm, cho rằng họ không muốn đi giải cứu viên phi công mỹ còn lại. 4 người lên đường và theo lời Kiệt, ông Norris nói là phi công kia kiệt sức sau 11 ngày nên chắc họ phải đi lên phía trên chỗ hôm qua để tìm kiếm. Mình đoán là ông Kiệt hiểu anh ngữ hơn.

Họ đi lại con đường hôm qua nhưng cách xa độ 50 mét vì ngại địch quân theo dõi hôm qua, và gài mìn. Theo lời Kiệt thì ông Norris bảo tối này ông Hambleton sẽ thả trôi theo dòng nước như ông Clark hôm qua. Họ đến điểm đợi và chú ý hơn hôm qua.

Ngồi đợi, đến 4 giờ sáng không thấy gì cả nên đại uý Norris bảo qua lời của Kiệt, ông Phong và ông Tất trở về tiền đồn đợi lệnh, còn ông ta và Kiệt, đi tìm ghe để chèo ngược dòng sông lên tìm kiếm ông Hambleton.

Ông Phong và ông Tất về đến tiền đồn bộ binh vào lúc 7 giờ sáng. Ngày hôm sau, 13/4/72, độ 9 giờ sáng, thấy Kiệt đi vào hầm, kêu xuống đỡ ông Hambleton vào vì bị thương và kiệt sức. Ông Norris và Kiệt, kiếm được ghe, chèo ngược lên dòng Miếu Giang, cuối cùng tìm được ông Hambleton và đem về như kể trong phim. Nếu mình không lầm thì ông Hambleton bị thương, yếu lã người nên không di chuyển được, khiến hai người đi cứu phải dấu thuyền rồi đi tìm ông ta, đưa đến ghe, hình như có cộng quân đuổi theo bắn.

Theo mình hiểu thì ông Hambleton được hướng dẫn thoát khỏi sự truy lùng của cộng quân bằng cách đi theo lộ trình đánh cù trên sân Golf, được hướng dẫn qua vô tuyến. Ông này có chơi đánh cù nên hiểu được cách đi lòng vòng 18 lỗ sân golf tại quê nhà của  ông. Để tránh truyền tin của hắn nghe và biết địa điểm của ông Hambleton, họ hỏi ông này thích môn thể thao nào, ông này nói đánh cù và từ đó họ liên lạc với nhau qua ngôn ngữ chơi cù. Nhờ vậy ông ta mới thoát vòng vây của Việt Cộng.

Có điều mình không rõ là người Mỹ nêu tên Kiệt, người đi chung với ông Norris trong khi ông Phong kể, chỉ viết đến K. Không biết có phải ông Kiệt còn sống tại Việt Nam lúc ông này viết, để tránh Việt Cộng tìm kiếm ông Kiệt hay vì một lý do nào đó. Theo bài mình đọc trên trang của Nha Kỹ Thuật thì ông Phong Trần viết đăng ngày 23 tháng 6 năm 2009.  Mình lại đọc trên mạng của người Mỹ thì ông Kiệt đã đến Hoa Kỳ, vào dân mỹ năm 1984.

Đâu 1 tháng sau cuộc giải cứu này, ông Phong và toán của ông ta, trên 30 người được gửi sang Phi luật Tân, tại Subic Bay để được huấn luyện thêm mấy tháng.

Theo lời ông Phong kể khi xưa, lúc ông ta được lệnh đi giải cứu hai phi công Hoa Kỳ, chỉ đi vì nhiệm vụ được giao. Chỉ khi sang Hoa Kỳ sau bao nhiêu năm ở tù cộng sản, xem được phim Bat-21, nên kể lại những gì ông ta và người Việt chứng kiến trong vụ đi giải cứu phi công, như một chứng nhân của cuộc giải cứu tốn kiếm nhất của không lực Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà. Thường thì đại uý Thọ dẫn đường, biết anh ngữ, khi ông ta bị thương thì ông mỹ Norris làm trưởng toán nên lo ngại vì anh ngữ chớ không phải vì lo ngại mà không muốn đi tiếp cứu.

Khi Hoa Kỳ cấm không được yểm trở pháo binh cũng như không kích trong vòng 27 cây số, thì xe tăng của địch di chuyển thoải mái, và họ pháo kích các tiền đồn, cũng các đơn vị Việt Nam Cộng Hoà trong vòng 2 tuần lễ mà chúng ta không được trả đũa, khiến lính Việt Nam Cộng Hoà bị thương và chết khá nhiều để cứu hai người Mỹ. Người Mỹ chỉ quan tâm đến sinh mạng của lính họ, không để ý đến sự tổn thất của người lính Việt Nam Cộng Hoà. Làm phim họ nêu cao tinh thần của đại uý Norris, còn 7 người lính biệt nhái Việt Nam Cộng Hoà, không được nhắc đến ngoài trừ Kiệt, xem như tên chèo đò.

Ông ta chỉ viết để cho người Việt biết về cuộc giải cứu đó thành công, nhờ sự hy sinh của người lính Việt Nam Cộng Hoà. Mình đọc trên mạng là ông Nguyễn Văn Kiệt này được vào công dân mỹ năm 1984. Làm cho Boeing ở Seattle, và về hưu năm 2015.

Theo trung tá Hambleton kể lại thì khi ông Norris và Kiệt đưa ông ta lên xuồng, chèo về phía Việt Nam Cộng Hoà đóng quân thì ông cho biết Kiệt có đôi mắt nhậy bén nhất. Ông Kiệt ra lệnh ngưng vì thấy súng ông của Việt Cộng núp bên sông chờ đợi. Ông Norris mới cho máy bay mỹ thả bom và đạn khói để  che phủ cả vùng để họ chèo xuồng trốn về về phía Việt Nam Cộng Hoà. Không có ông Kiệt hôm đó thì cũng chết hết.

Cuộc giải cứu ông Hambleton, đã làm thiệt mạng 11 người mỹ khác, vài người Mỹ bị bắt làm tù binh, 1 người Mỹ bị thương ông Anderson và 1 người Việt là đại uý Thọ và Hoa Kỳ mất thêm 5 phi cơ khác trong cuộc giải cứu 1 phi công Hoa Kỳ. Còn lính Việt Nam Cộng Hoà bị hỏa lực Việt Cộng pháo kích chết vô số nhưng không được nhắc đến. Cho thấy người Mỹ bằng mọi cách để giải cứu người của họ, khi ra trận người Mỹ đều tin tưởng là nếu có vấn đề, họ biết là cấp chỉ huy sẽ không bao giờ bỏ rơi họ.

Hiện đang có một chương trình truyền hình Hawai 5-0 đang được yêu chuộng tại Hoa Kỳ, các diên viên gốc á châu tuyên bố ngừng đóng phim vì họ được trả lương thấp hơn các diễn viên da trắng. Có một anh diễn Gốc Việt, lên truyền hình kêu không muốn xem phim chiến tranh về Việt Nam. Lý do là cứ thấy cả đám người việt nằm chết la liệt, rồi chiếu mặt Tom Cruise buồn rầu.

Mình sẽ dịch ra anh ngữ để các cựu chiến binh mỹ tại Việt Nam đọc để hiểu thêm về người lính Việt Nam Cộng Hoà.

Xem link kể về vụ giải cứu này của người Mỹ

https://youtu.be/VehjTmZDUHA

Nguyễn Hoàng Sơn 


Nguyễn văn Bé là ai?

 Mình nhớ dạo trước Mậu Thân, ban ngày nhất là cuối tuần, thường hay thấy máy bay bà già bay trên trời, từ phi trường Cam Ly qua xóm mình để rãi truyền đơn, kêu gọi Việt Cộng nằm vùng ra hồi chánh trong chương trình Chiêu Hồi, Tung cánh chim tìm về tổ ấm. Nếu mình không lầm thì danh ca Bùi Thiện, trong một lần đi biểu diễn tại Lào thì phải, đã đào thoát, được Việt Nam Cộng Hoà đem về Sàigòn. Sau này ông ta hát chung với Sơn Ca, sau 75 thì di tản sang Hoa Kỳ.

Mỗi lần nghe máy bay bà già thả truyền đơn, con nít trong xóm, từ đường Thi Sách, xóm Địa Dư, xóm Công Chánh, xóm Bưu Điện, chạy đi lượm truyền đơn. Thường là rớt trong vườn cạnh nhà ông Ngọc số 49 Hai Bà Trưng. Mình với mấy đứa trong xóm chạy vào vườn, bị ông này cầm cuốc xẻng chạy đuổi vì dẫm lên mấy luống rau của ông ta. Mình và thằng Khánh có ăn cắp buồng chuối của gia đình ông ta, bị bà vợ chửi cả tháng trời, phải đem trả lại vì chuối dú trong lu gạo không chín. Trả lại bị chửi tiếp.

Dạo ấy đài phát thanh Sàigòn, cứ mỗi tiếng lại có ông thần nào tên Nguyễn Văn Bé, kêu ông ta còn sống mà Việt Cộng lại kêu ông ta đã chết, phong làm anh hùng nhân dân chi đó. Lý do mình nhớ vì ông này mỗi ngày cứ lãi nhãi kêu ông ta còn sống. Ngoài những truyền đơn, người ta có in mấy cuốn truyện nhỏ kể về mấy ông lính, anh hùng diệt cộng nào đó, do ai đó ở sở thông tin đi từng nhà phát. Mình tập đọc tiếng Việt nhờ đọc mấy truyền đơn, truyện kể anh hùng biệt Động Quân nào đó. Hình như cũng có máy bay bà già bay trên trời, với máy phóng thanh, cũng cho mở giọng ông Nguyễn Văn Bé này, nói oang oang. Lâu quá mình không nhớ rõ. Ai nhớ thì cho em xin.

Mình chỉ nhớ có lần, một ông lính nào, tự tử bằng lựu đạn, chết ngay cột đèn trước nhà ông Kham, chỗ dốc lên đường Thi Sách và Calmette. Sáng vừa thức dậy thì nghe cái ầm, thiên hạ réo nhau chạy xuống đường, thấy có ông lính, đầu bị bay đi một nữa, nằm giữa đường Hai Bà Trưng. Từ đó mỗi lần đi về nhà, ban đêm là mình sợ té đái, khi đi ngang cột đèn. Con nít hay lấy ná bắn bể bóng đền đường nên khu này lại càng tối. Cũng mất mấy năm mới quên cái đầu bị bay của ông lính, tự tử vì tình phụ. Chán Mớ Đời 

Sau này lớn lên một chút thì mới biết vụ ông Nguyễn Văn Bé, theo Việt Cộng rồi hồi chánh nhưng Việt Cộng lại ca tụng ông ta là anh hùng nhân dân, một mình đặt trái mìn phá chiến xa khiến mấy trăm tên giặc mỹ ngụy chết. Mình thuộc dạng ngu lâu dốt sớm nên không hiểu, tại sao một người cho nổ trái mìn chết mấy trăm mạng mà cứ lãi nhãi “tôi là Nguyễn văn Bé, hiện còn sống đây,…” Chán Mớ Đời 

Các anh hùng liệt sĩ được Việt Cộng tung hô như Lê Văn tám,…khiến mình thất kinh vì thấy tinh thần hy sinh của mấy người này quá cao. Về Việt Nam thấy trường học, đường mang tên Lê Văn Tám nên tò mò hỏi lý lịch mấy người này nhưng chả ai giải thích được cả. Sau này lại đọc bài ngay của ông thần tạo ra huyền thoại Lê Văn tám, kêu cần phải nói rõ cho nhân dân là chúng ta đã bựa ra trong thời chống pháp để động viên tinh thần kháng chiến diệt người Pháp.

Cái nguy hiểm của người Việt mình là cái bệnh nổ, tạm gọi là hội chứng Phù Đổng. Trong thời kỳ chiến tranh, chúng ta cứ bựa chuyện để huy động tinh thần chiến đấu của bộ đội nên đến thời bình, chúng ta cũng bựa đủ thứ chuyện nhưng chả làm được gì cả. Vì quen được huấn luyện tinh thần Phù Đổng trong thời chiến tranh từ bé, nên chúng ta cứ nổ mệt thở cả đời sau này. Rồi thêm cái bệnh tự hào quá Việt Nam ơi.

Trong chiến tranh Việt Nam, người ta tận dụng chiến tranh tình báo, ngoài ra người ta cũng sử dụng chiến tranh tâm lý để tuyên truyền, làm lũng đoạn tinh thần chiến đấu của binh sĩ đối phương.

Mình đọc bài của mấy người bộ đội hay văn nghệ sĩ vào nam trong thời chiến tranh. Họ kể là khi nghe đài Sàigòn, truyền thanh nhạc Trịnh Công Sơn hay các nhạc sĩ khác của miền nam thì họ đều tự hỏi, làm sao dân miền nam bị kềm kẹp bởi bọn đế quốc Mỹ, có thể làm được những ca khúc này. Họ được định hướng sáng tác các bản nhạc, để nuôi căm thù. Có lẻ như vậy họ mới là kẻ thắng cuộc trên chiến trường nhưng về tư duy thì họ thất bại. Ngày nay, ngay cả nhạc sĩ Trần Tiến cũng kêu gọi quên đi các bản nhạc đỏ. Ai nấy đều nghe nhạc vàng của miền nam. Có ông gì nghe nhạc vàng bị đi tù 10 năm, bạn bè ông ta có người chết, kể sau khi mãn tù, về Hà Nội thì nghe nhạc vàng hát khắp nơi. 

Tương tự khi xưa quân NGuyên chiếm đóng xứ Trung Hoa nhưng dần dần kẻ thắng cuộc lại bị nền văn hoá của kẻ thua cuộc thu phục họ. Họ thắng người Tàu về sức mạnh, quân sự nhưng về văn hoá thì họ đầu hàng vô điều kiện.

Hình vẽ tuyên truyền về sự hy sinh của anh hùng Nguyễn Văn Bé, một mình đặt mìn phá nát xe tăng giết trên một trăm tên lính mỹ.

Ông thần Nguyễn Văn Bé được đài Sàigòn thu âm rồi cứ phát thanh trên đài phát thanh mỗi ngày như quảng cáo ngày nay. Chán Mớ Đời 

Mình còn nhớ giọng Nam của ông này: “Kính thưa đồng bào cả nước, tôi là Nguyễn Văn Bé,….”. Tuổi thơ mình chỉ nhớ giọng ông Nguyễn Văn Bé này và quảng cáo kem Hynos, anh yêu kem , yêu luôn em, yêu luôn anh bảy chà da đen…. Ông này sinh tại Kiến Tường, mình chả biết là ở nơi nào, nhưng cùng quê với điệp viên X 92 của Việt Nam Cộng Hoà, cứ xem là quê hương đầy Việt Cộng.

Đi xi-nê có phần chiếu phim thời sự, cũng có màn chiếu chương trình chiêu hồi, các cán binh Việt Cộng trở về với chính nghĩa quốc gia, vối bản nhạc “tung cánh chim về miền tổ ấm,…”. Nghe nói có mấy ông lớn tham nhũng, thổi phồng số người hồi chánh để bỏ túi tiền, ngoài ra Việt Cộng lại cho người họ về đầu thú, để làm điệp báo trong thành nên cũng mệt.

Lâu lắm rồi mình có vào trang nhà của cựu lính mỹ tại Việt Nam, đọc về chiến tranh tâm lý thì khám phá ra chính người Mỹ đã thực hiện chương trình này. Mình có thấy họ tải trên mạng họ những truyền đơn,… mình có trả lời là có nhớ đến ông Nguyễn VĂn Bé này. Mấy tên mỹ có hỏi lại vài thứ nhưng lâu quá không nhớ trang nhà của họ.

Hình chụp gia đình ông Nguyễn Văn Bé đoàn tụ, không biết sau 75, cuộc đời ông ta về đâu. Ai biết cho em xin.

Họ có nói đến chiến tranh tâm lý, sử dụng một hòn đảo nào ngoài Đà Nẵng, để thành lập một chiến khu gọi là MẶT TRẬN GƯƠM THIÊNG ÁI QUỐC. Hồi nhỏ mình hay ghé sang nhà hàng xóm, có chị Gái, hơn mình đâu 5, 6 tuổi, ngồi học nghe đài Mẹ Việt Nam, và Gươm Thiêng Ái Quốc. Dạo ấy mình lại nghe lầm Hương Thiêng Ái Quốc. Cứ nghe cô phát ngôn viên kêu “ sinh Bắc tử nam với bản nhạc truy điệu, rùng mình. Mình nghe nói có đến trên 200,000 cán binh Việt Cộng hồi chánh, chứng tỏ chương trình này hữu hiệu. Chỉ tội là sau khi mỹ rút quân thì hết tiền, chương trình này được bỏ. Để mình sẽ kể rõ hơn trong một bài về mặt trận này.

Việt Cộng phát hành tem liệt sĩ Nguyễn Văn Bé khi ông ta còn sống nhăn răng, đoàn tụ với gia đình.

Cho thấy chúng ta khác với loại thú là biết tưởng tượng, tạo ra những câu chuyện, chỉ khác một điều là chúng ta phải nghe ai. Bên nào cũng tạo ra những hình ảnh để giúp mình chiến thắng. Đâu là sự thật?

Cù Lao hòn, nơi mặt trận Gươm Thiêng Ái Quốc, sử dụng làm căn cứ

Về già bổng nhiên lại nhớ đến mấy chuyện khi xưa. Có bác nào nhớ gì khác ở Đàlạt hay không. Để em viết về Mặt Trận Gươm Thiên Ái Quốc vì nhớ chị hàng xóm, nay ở cali, ngồi học bài mà nghe nhạc và đài này.

Có bài thơ tìm trong túi áo của một bộ đội miền Bắc, sinh Bắc tử nam, khá cảm động, xin ghi lại đây:” Bài thơ sau đây được nhặt từ túi áo một chiến binh miền Bắc tử trận tại chiến trường miền Nam những năm 1969. Trong hồi ký của tử sĩ nầy, người ta còn biết anh là con của bà Trần Thị Phấn ở Hải Dương. Bài thơ được đăng trên báo chí VNCH thời đó. Bài thơ không ghi tên tác giả, được một thường dân miền Nam mến thương cảnh ngộ và ghi lại.”

Từ buổi con lên đường xa mẹ
Theo anh em sang Lào, rồi dấn bước vào Trung
Non xanh núi biếc chập chùng
Sớm nắng biển, chiều mưa rừng gian khổ
Tuổi thanh xuân cuộc đời như hoa nở
Vì hòa bình đâu ngại bước gian nguy
Mấy tháng trời, ngày nghỉ đêm đi
Giày vẹt gót áo sờn vai thấm lạnh
Có những chiều Trường Sơn núi rừng cô quạnh
Mẹ hiền ơi con nhợt nhớ quê mình
Khói lam chiều, giàn mướp lá lên xanh
Con bướm nhỏ mái đình xưa, ôi nhớ quá!
Vào nơi đây tuy đất người xa lạ
Nhưng miền Nam vẫn cùng một quê hương
Vẫn hàng dừa xanh, vẫn những con đường
Vẫn hương lúa ngọt ngào
Tiếng tiêu gợi nhớ
Con trâu về chuồng
Ðã qua buổi ban đầu bỡ ngỡ
Con nhìn ra nào giải phóng gì đâu?
Buổi chợ đông vui, đồng lúa xanh màu
Mái chùa cong buông hồi chuông tín mộ
Lớp học tưng bừng những đàn trẻ nhỏ
Ðang nhịp nhàng vui hát bản đồng ca
Và sau vườn luống cải đã vàng hoa
Ðàn bướm nhỏ rủ nhau về hút mật
Xóm dưới làng trên niềm vui ngây ngất
Sao người ta bắt con phải đốt xóm phá làng
Phải gài mìn gieo tang tóc thương đau
Ðã nhiều lần tay con run rẩy
Khi gài mìn để phút sau bỗng thấy
Xác người tung và máu đổ chan hoà
Máu của ai
Máu của bà con ta
Máu của người như con như mẹ
Ðêm hôm ấy mắt con tràn lệ
Ác mộng về, con trằn trọc thâu canh.”

Trên mạng 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Con là nợ?

 Hồi nhỏ, hóng chuyện người lớn, nghe họ than con là nợ, vợ là oan gia nên không hiểu lắm. Vì sao là nợ, là oan gia. Mẹ mình có đến 11 người con, có 11 nợ còn ông cụ mình có bao nhiêu oan gia? Chán Mớ Đời

Sau này lập gia đình, đồng chí gái sản xuất được hai đứa con rồi kêu nghỉ, đủ chỉ tiêu dù mình muốn làm thêm một trự hay hai vì quen gia đình đông con từ bé. Thêm người thêm của nhưng đồng chí gái sinh hai lần, bể nước ối đến 22 tiếng mà mấy đứa con, thuộc dòng phản động, do thế lực thù địch tư sản mỹ xúi dục, không chịu bò ra, bác sĩ phải kêu lên bàn mỗ nên không dám đòi thêm.

Nuôi con mới thấm sự hy sinh của mẹ mình. Tháng trước, gia đình cô em ở Philadelphia sang thăm, hai anh em ngồi nói chuyện về mẹ thì chỉ biết phục lăn bà cụ. Bố mình đi cải tạo, mẹ mình nuôi được 11 đứa con trong khi mình chỉ có 2 đứa đã than với thở. Nhất là sau 75, ông cụ mình đi cải tạo 15 năm, hàng xóm CM30 tố lên tố xuống mà vẫn nuôi 10 đứa con. Ngày đi buôn đi bán, tối về lo cơm nước cho con rồi phải đi họp tổ khu phố, học tập cách mạng chi đó, để nuôi con thành cháu ngoan của bác, học trò giỏi của thầy rồi không được học đại học, vì lý lịch trích dọc, khuyên chồng hoc tập tốt ở tù để được cách mạng khoan hồng. Mình đoán mẹ chỉ ngủ đâu vài tiếng một đêm.

Hôm qua, nói chuyện với bà cụ qua Facebook, nay đã 89 tuổi mà đọc sách không cần kính. Mỗi ngày phải đi bộ trong sân vì Đàlạt bị phong toả. Thấy thương, cô em hỏi có nên cho mẹ tiêm chủng ngừa cô-vi thì mình nói hai mũi. Covid-19 nay lại biến hoá nên không lường được. Cô em dặn mua thêm sinh tố và chất bổ sung vì hết rồi. Hôm nay ra Bôn Sa lên đài truyền hình, nói về chương trình hỗ trợ cho người thuê nhà, được chính phủ giúp đỡ, sẽ ghé gửi chút quà cho quê hương về cho mẹ.

Mình không nghĩ có con là nợ, mà là may mắn, người Việt thường nói “cha mẹ sinh con trời sinh tánh”. Sinh con ra, thấy chúng không bị tật nguyền là một cái may mắn, mình có vài người bạn, con bị khùng khùng nhưng họ vẫn phải chăm lo. Lớn lên, chúng chịu khó học hành, không lêu lổng là đại phúc cho mình nên không đòi hỏi gì thêm.

Đồng chí gái hay kể cô bạn nào có con học ra bác sĩ, ra tiến sĩ bú xua la mua, mình thì không quan tâm lắm. Mình chỉ mong con mình làm business, khởi nghiệp, làm việc cho chúng. Mình quan niệm đi làm cho chủ để giúp họ giàu có thêm hay sạt nghiệp. Làm cho mình thì vui hơn, có ít ăn ít, có nhiều cũng ăn ít.

Chúng muốn học gì thì cứ để chúng học, nếu không có đam mê thì chúng sẽ không thích và sẽ Chán Mớ Đời. Đồng chí gái và mình có 2 đứa con, một trai một gái. Theo mình nhận xét thì cá tính con gái giống mình hơn, con trai thì giống mẹ, muốn có một cuộc sống bình an, cầu toàn. Khi đọc tiểu luận con gái viết để nộp đơn xin vào đại học, mình thất kinh vì nó muốn sống cuộc đời như bố nó. Kinh 

Nó học về môn thương mại thế giới (world business), một môn mới của đại học USC dù được nhận vào khoa kỹ sư điện tử ở UCSD. Chương trình được hai đại học nổi tiếng khác đồng hành; Bocconi, trường đại học kinh tế nổi tiếng nhất của Ý Đại Lợi, và trường đại học khoa học Hương Cảng. Chương trình gồm có 4 năm, năm đầu thì tất cả sinh viên của 3 trường đều phải học tại USC, rồi năm thứ 2, học tại Hương Cảng, năm thứ 3, học tại Milano của Ý Đại Lợi. Năm cuối thì muốn về trường mẹ hay trường nào cũng được. Tốt nghiệp thì nhận 3 bằng của 3 trường. Con gái theo tiêu chuẩn mua một tặng hai.

Trong 4 năm, nó học tại 3 nước, viếng thăm và đi thực tế rất nhiều nước, đâu 14 quốc gia, khiến mình phải trả tiền mệt thở. Năm đầu, đi thực tế ở xứ Ba-Tây, năm thứ 2 thì ở Hương Cảng, nó viếng thăm, Nam Dương, Việt Nam, Nhật Bản, Trung Cộng, Phi Luật Tân, rồi đi làm hè ở Thái Lan. Công ty ở Thái hỏi nó muốn làm ở Thái thì họ nhận luôn khi ra trường. Năm thứ 3 thì ở Ý Đại Lợi, cuối tuần đi viếng các thành phố khác như dạo mình ở Ý Đại Lợi, cuối tuần, vác ba lô đi vẽ các nơi khác.. Lâu lâu, nó nhắn tin đi BUdapest, Barcelona, Paris, Munich, Hè đi làm cho khách sạn Hilton ở Maui, Hạ Uy Di, rồi Hilton mướn nó, lương cao sau khi tốt nghiệp … năm thứ 4 thì về Hương Cảng học vì nó thích không khí ở đây nhưng được mấy tháng vì cô-vi nên phải chạy về mỹ, học qua mạng, ra trường. Hilton vì Covid nên chấm dứt hợp đồng với nó. Kinh

Nó nhảy qua kiếm được việc làm cho một công ty khởi nghiệp, làm nghề Sale. Mình không biết nó học nghề buôn bán từ đâu mà làm việc ở nhà, chỉ thấy nó gọi điện thoại ào ào cả ngày từ 6 giờ sáng. Có lẻ nó thừa hưởng được tài ăn nói của bà nội. Nó phá chỉ tiêu hàng tháng, được bonus bú xua la mua, công ty gửi nó Hoa Thịnh Đốn để nhận giải chi đó và gặp khách hàng. Có khách hàng bay từ xa đến với mục đích để gặp nó. Sau đó, nó đi một vòng lên Boston và New York 3 tuần lễ, vẫn làm việc hằng ngày. Về lại Cali, nó tuyên bố tháng 9 này sẽ dọn qua New yOrk ở khiến mẹ nó chới với. Mình đến New York năm 30 tuổi, 36 tuổi mới dừng bước giang hồ nên chắc con gái còn lâu mới lập gia đình.

Khi xưa mình làm việc ở Paris,  Ý Đại Lợi, rồi Thuỵ Sĩ, Lausanne, Zurich, Basel, Geneva, qua Anh Quốc, đến New YOrk, rồi gặp đồng chí gái nên dừng bước giang hồ tại Cali. Mỗi chiều, mình đi bộ với đồng chí gái, có thời gian để đồng chí gái giáo huấn mình, đả thông tư tưởng để học tập cách mạng làm người chồng nhân dân và người cha anh hùng. Lâu lâu, có vài con coyote, bò ra băng qua đường khiến đồng chí gái sợ. Mình thì gặp mấy con này hàng ngày trên vườn nên chả lo. Thậm chí ở ngay sau nhà mình, lâu lâu có con nhảy vào đi bắt thỏ để xơi.

Đồng chí gái hỏi” anh không sợ con nào” mình nói không sợ con nào hết ngoại trừ con vợ. Đồng chí gái kêu rứa là anh sợ vợ rồi. Thằng con mình lại giống mẹ, hay sợ người ta nói, hay dè dặt. Có lần nói hỏi mình làm sao để khỏi sợ. Mình nói có gì phải sợ. Có nhiều cô thích nó mà nó sợ không dám tiến tới, ngại bị từ chối. Nay mẹ nó phải đi tiếp thị nó cho mấy bà bạn, xem có ai để giới thiệu cho nó. Chán Mớ Đời 

Nói chung thì mình may mắn, có hai đứa con học xong đại học, không phá làng phá xóm như vài người mình quen biết. Còn tương lai thì mình không biết. Mình chỉ mong chúng có một cuộc sống tốt đẹp, vui là được.

Con là nợ, tuỳ hoàn cảnh nữa. Nếu có con bị tật nguyền, có thể xem đó là một cái nợ, mình phải trả. Con hư hỏng cũng tương tự. Nói chung ở mỹ, con cái người á châu, Do Thái ít phạm tội ác hơn các chủng tộc khác. Họ cho rằng vì văn hoá gia đình, yêu thương của cha mẹ hoàn toàn, dù chúng có sa cơ thất thế cũng vẫn yêu thương chúng.

Con trai mình, để râu cho nó già thêm một tí, mới 26 tuổi, còn độc thân vui tính.

Mình có cái may mắn, làm việc cho mình nên có thời gian với con nhiều hơn. Chúng đi học về thì mình đón, rồi nấu ăn cho chúng, chở đi học đàn, bơi lội, bóng rổ, đá banh, đủ trò. Mình đọc đâu đó, thời gian mà đả thông tư tưởng giữa cha mẹ và con cái là lúc đón chúng đi học về. Chúng hồ hởi vì có chuyện gì trong lớp để kể nên cứ hỏi chúng là chúng khai tuốt luốc. Khi chúng đi bơi thi mỗi tháng, mình phải dậy sớm, chuẩn bị thức ăn, đồ đạt để chở chúng đi bơi. Ngồi trong gió lạnh mưa nắng để xem con bơi thi hay phải chở đi xa để thi đấu với các đội ở vùng khác như Las Vegas, Los Angeles do đó mình gần với chúng hơn.

Trên mạng hay có nhiều người viết bài về con, nói là chúng không chăm sóc mình về già, đủ trò. Mình nghĩ những người này trông mong về con mình quá nhiều. Mình chỉ làm bổn phận nuôi chúng không lớn, học hành cho xong rồi xong bổn phận, còn đời mình về già thì mình tự lo. Có lẻ vì vậy, người ta hay lo cho con dù chúng đã lớn khôn, thậm chí đến mãn đời.

Mình và đồng chí gái muốn có con chớ mấy đứa con có muốn ra đời đâu. Do đó mình phải có bổn phận và trách nhiệm khi chúng ra đời, còn chúng có lo cho mình sau này thì đòi hỏi hơi quá về con mình. Chúng có đời sống của chúng, cũng sẽ phải lo chăm sóc con chúng. Nếu chúng yêu thương, chăm sóc con cái chúng tốt thì xem như mình thành công, đã truyền cho chúng tình thương cho con.

Có con là điều may mắn, mình biết nhiều người giàu có mà không con, mẹ mình chắc cũng không bao giờ kêu “con là nợ”. Bà cụ dành tình thương hết cho 11 người con nhất là mấy người em mình lớn lên không có sự hiện diện của bố mình, 15 năm ở trại cải tạo. Có lẻ nhờ sự hy sinh của mẹ mình mà sau này mình đồng hành với con từ khi chúng còn bé. Mẹ mình thích nói chuyện với mình. Lý do là mình nghe mẹ kể chuyện dù đã nghe rất nhiều lần, còn mấy cô em mình thì nghe đến là bỏ chạy mất dép. Mình hay thâu khi nói chuyện với mẹ, một ngày nào đó, mình sẽ có dịp nghe lại những câu chuyện mẹ kể. Xong om

Nguyễn Hoàng Sơn 

Những bông hồng Văn Học #4 “Tiếng Hát Học Trò”

Lên 12 B, mỗi lần học chung với lớp 12 C thì hay nghe bọn trong lớp hát “ngọ tan trường về, trường tan ngọ về,....” khiến mình như bò đội nón, ngơ ngác hỏi chúng bạn. Có thằng giải thích là chọc cô bạn học tên Ngọ, hình như Lê Thị Ngọ, đường Phan Đình Phùng, đối diện trường Tân Sanh. Đúng hơn là gần Dốc Nhà Làng. Nếu mình không lầm là em gái của anh Bôn, thủ quân đội tuyền túc cầu Đàlạt, sau này bị Việt Cộng nằm vùng gài lựu đạn ngay xe, trước nhà hàng Nam Sơn, chết chung với ông Thanh, ông bầu đội bóng Đàlạt. Sau vụ này, đội tuyển mới nhờ ông cụ mình thế ông Thanh, làm ông bầu.

Năm 11B, thầy Nguyên làm giáo sư chủ nhiệm, mình được bầu làm trưởng lớp. Khi lên lớp 12B, thầy Chử BÁ Anh, xung phong mình làm trưởng lớp 12B, không có bầu bán gì cả. Lý do là không có thầy giáo chủ nhiệm. Đa số các thầy đều là giáo sư chính của trường Trần Hưng Đạo, dạy phụ ở trường Văn Học nên không có thì giờ đảm nhận các trách nhiệm khác. Thêm lớp 12 B thì lèo tèo có độ 20 học sinh và một cô nữ sinh, khác với bạn A và C, đông con gái.

Gặp lại thầy Nguyên, người đã khuyến khích mình ráng đi du học, đừng để uổng phí cuộc đời. Nguyễn Đình Tài, và Nguyễn Đắc Hớn.

Năm đó, không có đại hội thể thao học sinh liên trường nhưng lại có màn đại hội nhạc trẻ, được tổ chức tại trường Trí Đức. Thầy Chử Bá Anh nói mình kêu gọi ban nhạc và ca sĩ của trường để tập dợt cho vụ đại hội nhạc trẻ này. Mình thì không biết gì về nhạc nhiếc gì cả nên kêu Vũ Văn Tùng, phó trưởng lớp lo vụ này. Mời các ca sĩ lớp 12C và các lớp 11. Hắn học trường này từ trung học đệ nhất cấp lên nên biết rõ ai có tố chất ca sĩ nghiệp dư. Mình chỉ có nhiệm vụ báo ngày giờ cho ban văn nghệ đi tập dợt ở nhà Thầy Chử BÁ Anh ở Nguyễn Du.

Tên Tùng này thì mê Hàng Thị Ngọc Hiền, mê như Ông Trượng mê Tiên Bửu. Quen tên này mới hiểu vật vã về con gái ra sao, khổ luỵ về tình ra sao, khiến mình cũng sợ bị vi-rút a-mua dính. Mỗi lần gặp hắn là hắn cứ rên rĩ về cô này, tường như hắn bị ám ảnh 24/24 về đối tượng. Được thể mình nói hắn mời cô này hát cho chương trình văn nghệ vì nghe nói chị cô ta là ca sĩ đài phát thanh Đàlạt. Hắn vui lắm nhưng cũng mất mấy tuần mới dám mở mồm mời người đẹp. Có dịp mình kể về tên này mê gái ra sao. Về Đàlạt hỏi thiên hạ tung tích hắn nhưng không ai nhớ cả. Ngày ca sĩ Ngân Hàng cũng ngơ ngác khi mình hỏi.

Nhà hắn ở ngay góc Cẩm Đô và Hai BÀ Trưng, ngay bên tay phải cái dốc lên nhà thương. Trước nhà có cái quán hớt tóc. Bên tay phải 3 căn là nhà của thằng Nam Esso. Ai biết tung tích hắn thì cho em hay. Cảm ơn trước.

Ban nhạc thì có hai anh em họ Chử, đánh trống thì có Hùng tiệm thuốc Con Cua và đánh bass là Trần Thiện Tân. Ca sĩ thì không có tên nào hết nên phải đi mời ca sĩ nghiệp dư ở các lớp khác. Phần văn nghệ tạm ổn. Mình nói với Tùng, nói cho các ca sĩ đừng lo gì cả, xong việc, mình sẽ chở họ về. Mấy cô này, làm khó, kêu sợ về trễ bố mẹ la nên phải nói sẽ có người đưa về. Hình như trong đám dạo ấy, chỉ có mình là có xe nên phải xung phong làm nhiệm vụ xe ôm. Mình có kêu tên Đinh Anh Quốc, đến biểu diễn đàn guitar cổ điển.

Đinh Anh Quốc một thời Hot Boy của Đàlạt , nay sinh sống tại tiểu bang Virginia, chăm sóc cháu ngoại

Mình và mấy cô ban C như chị Sui và chị Hai lo nấu chè bán khi ra chơi và buổi văn nghệ “tiếng hát học trò” kiếm tiền. 12 B chỉ có một cô nữ sinh độc nhất nên mình phải hợp tác với 12 C, vì các cô đông hơn quân Nguyên. Mình mượn chén bát, đũa muỗng của bà cụ miễn phí cho vụ nấu chè này.

Lê thị Ngọ xung phong dùng bếp của nhà để nấu, mấy cô kia thì đến phụ rồi bán khi ra chơi suốt một tuần đến chiều thứ 7 thì làm buổi văn nghệ “Tiếng Hát Học Trò”, có mời mấy thầy nhưng chỉ có thầy Nguyên, thầy Thạc và thầy Diễm đến. Kể sau.

Dạo ấy trước khi vào lớp hay trong giờ ra chơi thì nhà trường có để nhạc cho học sinh nghe. Có lần, để nhạc do chính các học sinh hát và tự thâu. Có lần lớp 12 A thâu băng nhạc, và được nhà trường mở khiến mọi người chú ý, lắng nghe trong giờ ra chơi. Mình chỉ nhớ có hai cô ca sĩ nghiệp dư; Chử Nhất Anh hát nhạc tây “c’est le temps de l’amour” và “tóc mai sợ vắn sợi dài” do chị Hường, ca sĩ đài phát thanh Đàlạt trình bày, còn mấy tên đực rựa hát thì không nhớ. Nói chung thì dạo ấy mình chỉ định hướng thị trường con gái chớ con trai thì mình ít để ý lắm.

Hôm tổ chức văn nghệ Tiếng Hát Học Trò của hai lớp 12 B và 12 C, mấy cô dọn chè bánh ra bán. Dàn nhạc thì bê từ nhà thầy Chử BÁ Anh lên. HÙng COn Cua mời mấy tên chơi nhạc với hắn như Mai Kiến LƯơng, con tiệm bánh mì Vĩnh Chấn, có dạo học chung với mình. Sau này đổi tên là Mai Kiến Hậu, thằng Trình, đánh trống. Thiên hạ lên hát hò bú xua la mua, ở dưới bán chè.

Mã Kiến Hậu hôm đó hát “How can i Tell her “ của Lobo, được nhiều cô mê lắm, tên Trình thì đánh trống được Lê Thị Ngọ để ý, hỏi mình về hắn khi mình chở cô nàng ra về. CHị Sui hát nhạc tây “La plus belle pour aller danser “. Mình lu bu quá không nhớ đối tượng của mình hát bản gì, chỉ nhớ không lầm thì hôm đó mình dẫn chương trình, giới thiệu thiên hạ lên sân khấu.

Thầy Thạc đến biểu diễn tây ban cầm cổ điển, mình nghe nói chơi ngang ngửa với Đổ Đình Phương. Dạo ấy thẩm âm của mình chưa đủ khả năng để nghe nhạc của thầy chơi. Đinh Anh Quốc chơi bản Romance thì phê và bình dân hơn. Tên này dạo ấy là hốt boy của trường. Cao ráo, đẹp trai, biết đánh đàn nên mấy cô mê lắm. Mấy cô kể cho mình nghe là khi xưa, hay đi ngang nhà hắn, cạnh tiệm giày Hồ Út, để nghe hắn đánh đàn từ lầu 2. Mình mới xem phỏng vấn ông Hồ Út, nay 99 tuổi, vẫn nói giọng quảng, kêu khi xưa ông ta đánh bài nếu không thì giàu lắm. Đó là sư thất bại trong đời của ông. Không biết cách tải về để chia sẻ với thiên hạ.

Mấy thầy được mấy cô mời chén chè chỉ có ban nhạc là mình không chào mời gì cả. Chúng xung phong hát để thoả lòng làm ca sĩ nghiệp dư và được thiên hạ ngắm. Nghĩ lại mình rất dỡ về giao tiếp, thậm chí đến ngày nay cũng bá vơ, may có đồng chí gái.

Tan chương trình văn nghệ, thì có màn đưa mấy cô về, đám bán chè, rữa chén đũa, ca sĩ nghiệp dư,... mình chạy về nhà mượn chiếc xe Jeep của ông cụ để chở chén đũa trả lại cho bà cụ. Mấy cô làm bể đâu 3 cái. Cuối cùng thì chở các ca sĩ nghiệp dư về. Hình như người cuối cùng mình đưa về là Hàng Thị Ngọc Hiền. Nhà ở đường Phạm Ngũ Lão. Trong xóm này có mấy cô khá xinh, Kim Liên couvent des oiseaux, sau này lấy Võ Hoàng Đa, học chung với mình, Nhung Bùi Thị Xuân, đối tượng của tên Đổ Quý Dân và cô Hiền họ Hàng này. Sau 75, thằng Đa và cô họ Hàng này, có đả thông tư tưởng với nhau nhưng rồi nó đi vượt biên với vợ nó ngày nay. Âu cũng là định mệnh. Mình có kể vụ này rồi.

Xe Jeep sơn màu xanh da trời của ông cụ mình. Dạo ấy mình hay mượn chở mấy cô. Ông cụ có xe công xa.

Làm văn nghệ xong thì lo phần tham dự đại hội nhạc trẻ tại trường Trí Đức. Lâu quá mình không nhớ rõ, đại khái hôm ấy bị tổ trác. Trần Thiện Tân chơi Bass, khi tập ở nhà thì dùng đàn 6 dây, lên đến nơi thì ban tổ chức đã chuẩn bị nhạc cụ hết, gặp đàn Bass 4 dây nên ông thần ngọng, quýnh quá, đánh chới với, ban nhạc đánh loạn cào cào lên, ca sỹ theo không kịp, tiếp nối dòng sông ly biệt. Mình chỉ nhớ Cái Bớt Người Xưa có hát đại diện cho trường nhưng không nhớ bản nào, chỉ nhớ ở rạp Hoà Bình thì cô nàng hát “Mamy Blue” của HUbert Giraud, chị Hường thì hát bản ruột “tóc mai sợ vắn sợi dài”.

Sân khấu thì ở lầu 2, khán giả đứng ở dưới nhìn lên những ngôi sao vừa chớm nở của làng nhạc trẻ Đàlạt. Không nhớ trường nào về nhất nhưng đứng mấy tiếng đồng hồ để nghe nhạc. Hình như trước đó 1 năm, họ có tổ chức đại hội nhạc trẻ ở Sân Cù như kiểu Woodstock nhưng mình không đi vì phải mua vé. Chỉ có lúc họ tổ chức tại Thao Trường thì có đi xem, lần đầu tiên thấy ban nhạc CBC (con bà cả đọi) hát bản ruột của họ Mây Lang Thang và Oye como va của Tito Puente mà ban nhạc Santana, chơi lại theo kiểu hiện đại, Đàlạt có ban nhạc Rolling Wheels.

Lạ ngồi viết lại thì tất cả hình ảnh từ đâu cuộn cuộn trôi về. Thôi để hôm nào rảnh thì kể tiếp. Giờ phải đi hái bơ . Chán Mớ Đời 

Nguyễn Hoàng Sơn 



Nàng! 1 sản phẩm của tình yêu


Tuần này, trên Facebook của NAM ROM, có tải 1 phim Việt, được xem là phim cuối cùng thực hiện của Việt Nam Cộng Hoà trước khi Việt Cộng vào, được quay năm 1974. Phim này do con trai ông Thái Đức Nhã làm đạo diễn, đến 45 năm sau mới được trình chiếu trên YouTube dưới tên “Tuổi Dại” ( Green Age). Xem link

https://youtu.be/dHwABXu4kuY

Có ca sĩ Thanh Mai đóng vai phụ, khuôn mặt rất dễ thương tương tự mụ vợ mình. Xin phép được ca tụng đồng chí gái 1 tí.

Xem hình xưa thì đồng chí gái giống ca sĩ Thanh Mai nhưng sau 30 năm lãnh đạo, đối chọi với mình thì như Francis Cabrel hát “Elle a dû faire toutes les gueres pour être te-tua .. »

Khi còn sống bà Thái Đức Nhã quen với bà cụ mình. Hình như có biệt thự ở đường Pasteur, cạnh nhà nghỉ mát của gia đình dì của đồng chí gái. Có lần sang Hoa Kỳ chơi, bà cụ mình nói chuyện với bà dì vợ thì được biết là hai nhà cạnh nhau. Họ biết nhau ở Sàigòn. Về Đàlạt mẹ mình có kể chuyện với bà Nhã. 

Phim này được quay bằng phim màu. Trước 75, ít khi có phim Việt được quay bằng phim màu, toàn là đen trắng. Hình như mình có xem phim Chân Trời Tím, Người Tình Không Chân Dung là phim màu. Thấy cũng vui vì được nhìn lại những hình ảnh của Sàigòn xưa, thời trang của giới trẻ, tóc dài đủ trò. Cốt truyện thì như bao nhiêu chuyện Việt Nam, con gái nhà giàu mê trai nhà nghèo, anh chàng này là dân Đàlạt. Khi xưa mình cũng nghèo nhưng chả cô nào nhà nghèo để ý cả. Chán Mớ Đời 

Người Việt mình thích Nghèo. Hạnh phúc vì nghèo. Người ta phỏng vấn ông nhạc sĩ nào đó, quên tên rồi. Lý do ông làm nhạc về nghèo. Ông ta kể mấy bản nhạc viết về nghèo, lại bán chạy nhất nên phải sản suất theo thị hiếu của thị trường.

Nếu viết về con nhà nghèo lấy con nhà nghèo hay con nhà giàu lấy con nhà giàu, không có câu khách được. Nghe kể có ông ca sĩ nào cứ hát bản nhạc Kiếp Nghèo, mua được mấy căn nhà. Xem báo chí mỹ, hay tây phương, họ cứ kể chuyện nhà giàu hay vua chúa mới bán chạy. Người tây phương thích làm giàu nên học cách làm giàu, chạy theo người giàu có để học nghề, còn người Việt thì thích nghèo, ngâm nga kiếp nghèo.

Rồi lại chửi bới người yêu phụ tình, đi lấy chồng. Anh nghèo, lười, không chịu làm việc, cứ tối ngày say sưa, lại bảo tôi về làm vợ, nuôi anh thì khốn nạn cho cuộc đời tôi. “Cứ rên rỉ, người ta lại bỏ con rồi Chúa ơi. Chán Mớ Đời “

 Có mấy cảnh quay tại Sân Cù Đàlạt và những thác nước như Pongour hay Gougat mà mình chưa bao giờ viếng khi xưa vì an ninh. Nhìn lại khi xưa không có dịp đi chơi với cô nào ở Đàlạt trên sân cù, thác nước ,... Buồn!

Cốt truyện là một cuộc tình tay ba, có anh chàng con nhà giàu, chả thấy học hành gì cả, không đi lính, cứ lái xe đi tán gái và hát hò ban nhạc. Thời đó, con trai mà không học đại học thì phải đi quân dịch, ai muốn miễn dịch thì phải học ngày chưa đủ, tranh thủ học đêm. Chỉ có con mấy ông lớn mới có tiền chạy chọt để miễn dịch. 

Còn một ông thần là sinh viên Phú Thọ, con công chức, không giàu, lại là bạn thân của con trai nhà giàu từ thời mẫu giáo, thấy có vẻ gượng gạo ra sao. Khi xưa mình đi học, mấy tên học chung thuộc giai cấp giàu, không bao giờ chơi với mình. Đến nhà thằng nào, là đứng ở ngoài chơi, đâu có cho vô nhà, sợ chôm chỉa. Đây lại nói con gái nhà giàu mê con nhà nghèo. Chán Mớ Đời 

Nói đến Chân Trời Tím, nghe kể là sau 1975, Việt Cộng để tấm ảnh của tài tử Kim Vui bận bikini trong viện bảo tàng Tội Ác Mỹ-Nguỵ. Nay cảnh nóng trong phim Việt Nam quá nhiều. Phải mất 45 năm để Hà Nội mới qua mặt Sàigòn.

Nghe nói , Việt Cộng để tấm ảnh của nữa tài tử Kim Vui trong viện bảo tàng tối ác mỹ-ngụy . Ai biết tấm ảnh nào thì cho mình hay. Mình mò tấm ảnh này trên mạng.

Phim vừa hết thì YouTube chuyển qua phim “Nàng” khiến mình thất kinh vì có xem phim này với học sinh trường Văn Học và Văn Khoa khi xưa tại rạp xi-nê Hoà BÌnh năm 11 B. Dạo ấy, cứ cuối tháng, là học sinh hai trường được xem xi-nê miễn phí tại rạp xi-nê Hoà BÌnh của ông bà chủ tiệm Chic Shanghai từ 10 giờ đến 12:00. Học tiết đầu xong, ra chơi là cả đám cuốc bộ hay đi xe gắn máy lên đường Duy Tân. Vui nức nở. Cái thú đi xi-nê miễn phí và cùng cả trường, khá vui, nhiều kỷ-niệm. Vào rạp thì la ó, chọc ghẹo mấy cô, trong khi thầy CBA cứ đi vòng vòng.

Hình này mình xem ở bên tây, khi báo chí tây chụp ảnh ngày Việt Cộng vào Sàigòn. Khiến mình thất kinh.

Thằng nào có đối tượng thì cứ chu mõ rống để đối tượng nghe giọng vịt lộn của hắn. Đâu phải chỉ có một tên, toàn là gà trống gáy như cái chuồng gà loạn cào cào lên. Chỉ đến khi tắt đèn thì mới ngưng, lẻ tẻ vài câu của mấy tên còn ghiền gáy trong rạp.

Đồng chí gái xem, kêu 50 năm về trước mà cốt truyện khá hơn xi-nê Việt Nam ngày nay. Tuần rồi đồng chí gái xem phim “Bụi Đời” của Việt Nam ngày nay thực hiện. Chán như con gián. Đồng chí gái xem còn mình thì ngủ để ngày mai lên vườn.

Phim Nàng được quay theo một cuốn tiểu thuyết, khuôn mặt của Thẩm Thuý Hằng quá đẹp nhưng không hiểu sao bà ấy vẫn muốn thăm viếng các ông bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ. Mình không nhớ cốt truyện vì đã xem lâu quá. Chỉ nhớ mặt của tài tử Thẩm Thuý Hằng quá đẹp rồi có cảnh kép độc cải lương Việt-Hùng, ôm hay hiếp dâm cô nào làm việc trong nhà ông ta. Mình chỉ định hướng những cảnh ấn tượng không à.

Hình như phim này được giải xi-nê Á Châu chi đó, cho thấy trình độ điện ảnh Việt Nam khi xưa cao hơn các nước khác trong vùng. Sau này điện-ảnh Đài Loan, có một thế hệ đạo diễn trẻ, bắt chước nhóm đạo diễn Ý Đại Lợi, làm phim loại “tân-hiện-thực” khá nổi tiếng. Mình rất mê nhóm này, xem gần như toàn tập phim của họ vì có chút gì tương tự Việt Nam.

Mỗi tháng học sinh Văn Học và Văn Khoa được xem xi-nê miễn phí nên tháng đó không tốn tiền đi coi xi-nê tại rạp Hoà Bình.


Hình này cho thấy rạp đang chiếu phim Mãnh Lực Đồng Tiền cũng do đạo diễn Lê MỘng Hoàng thực hiện sau khi quay phim Nàng. Phim Nàng được coi năm 1972, chắc Mãnh lực Đồng Tiền năm 1973 hay 1974. Ông đạo diễn này, du học bên pháp, rồi học thêm về xi-nê cùng thời với ông Hoàng Anh Tuấn, Vĩnh Noãn,... mình không có coi phim này, nghe nói có Hùng Cường và Mai Lệ Huyền đóng. Mình mê xem phim ngoại quốc hơn phim việt.

Xem phim ngoại quốc, thấy hình ảnh tuyết rơi, cảnh đẹp nên giúp cánh buồm tuổi thơ của mình bay bổng ra khơi, còn phim Việt Nam thì cứ thấy nghèo với những giấc mơ Phù Đổng. Đậu được cái bằng là có con nhà giàu đem tới gả như các tuồng cải lương hồ quảng.

Phim Việt Nam khi xưa, mình thấy phim “chúng tôi muốn sống” của ông Vĩnh Noãn quá hay, so với thời đại ấy. Ông này là anh của bà chị dâu họ của đồng chí gái nhưng mình không có dịp gặp, chỉ đi đám tang khi ông qua đời. Không hiểu sao, bộ chiêu hồi không tiếp tục làm những phim tương tự để chống cộng.

Khi họ xây xong chợ Mới thì chợ Cũ (rạp Xi-nê Hoà Bình) được làm lại. Có rạp xi-nê phía trong còn xung quanh thì các tiệm bán hàng. Mình có thấy bản vẽ của rạp xi nê và trên lầu với thương xá xung quanh rạp xi-nê nhưng cuối cùng chắc tốn kém hay không ai chịu đầu tư nên chỉ làm một tầng. Để hôm nào mình tải hình ảnh khu Hoà Bình từ thời thành lập đến nay. Bản vẽ cho thấy khu thương xá có đến 4 tầng.


Thường thường trước khi vào phim chính, họ hay chiếu mấy tấm quảng cáo các thương hiệu tại Đàlạt, rồi các phim dạo, các phim sắp sữa được chiếu trong nay mai. Mình không nhớ hôm ấy, chiếu phim gì nhưng lúc chiếu thử thì cách quảng cáo của phim Nàng rất ư là ấn tượng khiến mình nhớ đến ngày nay. 

“Nàng! Một sản phẩm của tình yêu” rồi chiếu cảnh Thẩm Thuý Hằng trong vai Vân, một cô gái mồ côi từ nhỏ,...có La Thoại tân, Trần Quang,... lâu quá không nhớ hết. Cũng tại rạp Hoà Bình, bà dì mình có dẫn đi xem phim “Chiều Kỷ-niệm” cũng do Thẩm Thuý Hằng đóng vai chính. Mình không nhớ cốt truyện, chỉ nhớ TTH lái xe décapotable chạy ngang, làm bắn bùn lên người ông hoạ sĩ Thanh Tú đang đứng vẽ bên đường. Phim Việt Nam hay có diễn viên cải lương đóng như Thanh Tú, Việt hÙng, Hùng Cường, chắc để câu khách cải lương. Bình dân hơn, dễ kiếm tiền. Phim như Người Tình Không Chân Dung của đạo diễn Hoàng Vĩnh lộc rất hay vào thời ấy thì thiên hạ không hiểu.

Mình có tật là có gì ấn tượng thì mình hay lập lại. Qua hôm sau vào lớp, trong lúc đợi thầy vào lớp thì mình kêu “nàng ! 1 sản phẩm của tình yêu” khiến đám học chung cười rồi từ từ cả đám trong lớp bắt chước, kêu “nàng! 1 sản phẩm của tình yêu”. Lâu lâu thầy đang viết trên bảng thì ở dưới có tên nào rống lên “nàng! 1 sản phẩm của tình yêu” khiến thầy quay lại ngơ ngác như bò đội nón.

Dạo về Đàlạt, gặp lại bạn học cũ thì Ca sĩ Ngân Hàng kêu hắn nhớ mình nhờ câu “Nhà nó nghèo” mà mình là tên đầu tiên phát biểu trong lớp. Hôm ấy vào giờ thầy Nguyên, dạy Hình Học. Thầy kêu Trần Thiện Tân lên bảng để khảo bài. Anh chàng này hơn mình 3 tuổi mà lại khai trụt tuổi sinh năm 1959 như tính trước anh ta sẽ thi rớt tú tài 5 lần. Nhà ở Tùng Nghĩa, ông bố có tiệm thuốc Tây, khá giàu. Khi mình mượn xe ông cụ chở cả đám xuống Tùng Nghĩa đi quyên tiền cho đồng bào bão lụt miền trung thì bị hư xe. Bố của Tân, lo hết vụ này mới lái xe về Đàlạt được. Cuối năm 12B, anh chàng này thi rớt tú-tài rồi chạy về Sàigòn, học lại. Từ đó, không gặp lại.

Thầy Nguyên hỏi anh ta gì mà anh ta trả lời không được. Thầy Nguyên hỏi “Tại sao em không hiểu?” anh chàng Tân đứng đực như bò đội nón. Mình bổng nhiên kêu “Nhà nó nghèo thầy” khiến thầy Nguyên bật cười khiến cả lớp rống theo. Từ đó trong lớp, thầy giáo hỏi, ai trả lời không được là cứ kêu tại nhà nó nghèo. Câu nhà nó nghèo đi theo mình đến nay.

Ngày nay thì mình kêu “Bơ! 1 sản phẩm của tình yêu” Chán Mớ Đời 

Anh chàng mua bơ, đến với chiếc xe cũ, làm nhớ khi xưa ông cụ mình cũng có chiếc công xa này. Hôm nay, bán được nữa tấn. Hai cha con hái mất 4 tiếng đồng hồ.

Nguyễn Hoàng Sơn 

Vì đó ta yêu em

 Nhớ cuối năm 11 B, đi cắm trại ở hồ Than Thở với trường. Trời mưa, lạnh, thấy hai tên học chung lớp cãi nhau ỏm cù tỏi về bản nhạc “ L’amour c’est pour rien” khiến mình đã ngu lại càng ngu lâu vì không hiểu tại sao 2 tên này, mới sáng sớm đã cãi nhau và cãi sai. Hai anh chàng cứ gân cổ cãi ai là tác giả bài này, bên thì kêu Phạm Duy, bên thì kêu Elvis Phương. 1 tên hiện còn ở Đàlạt và 1 tên ở Úc.

https://youtu.be/AWcx4b0qkHU

Sau này sang Pháp, mới khám phá ông Enrico Macias là tác giả, và ca sĩ bản nhạc bất hủ này theo điệu tango này. Mình thích nhất bản nhạc “Adieu mon pays “ cũng do chính ông ta sáng tác khi bị quê hương ruồng bỏ, phải lên tàu, đi định cư tại Pháp vì ông bố vợ bị người Algérie giết chết vì chủ trương Algerie của người Pháp. Trong những số người này, có ông Albert Camus, khôi nguyên Nobel về văn chương.

 https://youtu.be/UEpbFM3_l-g

14 năm trước khi mình đến xứ Pháp, ông ta cùng trên 200,000 người sinh trưởng tại Algérie, mà người ta gọi “les pieds noirs “, những bàn chân đen, ý là những người sinh tại Phi châu, bị buộc phải bỏ lại nhà cửa, đất đai của ông bà tổ tiên, ra đi nếu không sẽ bị giết như bố vợ. Kể từ đó, ông không bao giờ được phép trở về nơi chôn nhau cắt rún vì ông ta gốc Do Thái.

Tên cúng cơm của ông ta là Gaston Ghrenassia, còn tên nghệ nhân là Enrico Macias, nghe hơi Tây Ban Nha 1 tí, chớ lấy tên Do Thái, khó đọc và dạo ấy dân tây không thích người do thái hay ả rập. Khi Sàigòn rơi vào tay Hà Nội thì mình có 1 gia đình “chân đen” cưu mang, kiếm công ăn việc vào mùa hè ở Mantes La Jolie. Nay ông chồng mới qua đời cách đây hai năm, chỉ còn bà vợ mà mình hay liên lạc.

Algerie, cựu thuộc địa của người Pháp, tương tự như Đông Dương, đấu tranh dành độc lập và số người muốn duy trì nền thuộc địa của Pháp, đa số là những “người chân đen”, nên khi tổng thống De Gaulle tuyên bố trao trả lại nền độc lập cho Algérie thì có một số quân nhân không đồng ý và ám sát hụt ông này. Nhóm này được gọi OAS (organisation d’armée secrète) mà mình có quen vài ông bị De Gaulle bỏ tù, người nổi tiếng nhất là ông sĩ quan hải quân, được dựng phim “Le crabe tambour” do đạo diễn Pierre Schoendoerffer viết và thực hiện, do Jacques Périn đóng vai chính.

Mình có gặp và ăn cơm với ông này vài lần tại Paris khi ông ta lên có việc. Sau này có ghé nhà ông ta chơi vài ngày ở Nimes. Ông ta chở mình đi vẽ Pont du Gard của La-mã, và giới thiệu cháu ông ta ở Ma-roc để viếng thăm khi sang Ma-rốc. Ở Paris, mình có gặp và ăn cơm với ông tướng Bigeard, bác sĩ Grovin, 2 người có mặt tại trận Điện Biên Phủ, tướng RaoulSalan,...được họ kể về lịch sử của thời họ ở Việt Nam và Algerie. Do đó khi cuốn phim Le Crabe Tambour được trình chiếu thì mình biết các nhân vật trong phim. Vui.

Thời sinh viên, hai bản nhạc mình gối đầu giường là “Adieu mon pays “ của ông này và “Sàigòn niềm nhớ không tên” do Khánh Ly trình bày. Sau này nghe riết mình sợ vì nhớ nhà, nhất là mấy năm đầu, mất liên lạc với gia đình, chẳng muốn học hành hay làm gì cả nên ngưng, cất dấu ở đâu. 

Ông “le crabe tambour” nói với mình là nên tránh xa, đám bạn mày quen vì cứ xúm nhau lại thì cứ kể chuyện Việt Nam, buồn, không thiết học hành, cứ nhậu cho quên đời, quên buồn. Từ đó mình ít giao tiếp với người Việt đến khi tốt nghiệp. Nhìn lại thì nghe lời ông ta là điều đúng, vì các bạn mít dạo ấy, sau này gặp lại, ít ai ra trường lắm, bỏ học đi làm hết. Gặp họ là cứ nói làm kháng chiến đâu đó rồi nhậu.

Giọng ông Enrico Macias là giọng ả rập, ông ta hát rất có hồn. Nhạc ông ta được khán giả ở các xứ ả-rập ưa chuộng nhất là Algerie, quê hương của ông. Các xứ hồi giáo như Thổ-nhỉ-kỳ rất mê nhạc của ông vì có âm hưởng nhạc trung đông. Khi bỏ nước Pháp đi kiếm cơm ở các xứ khác thì mình quên ông này đến khi YouTube xuất hiện thì mò kiếm các bài hát của ông .

Sau này lấy vợ, mình thích nhất bài hát “pour toutes ces raisons, je t’aime », được sáng tác khi vợ ông ta qua đời. Các ca từ được sử dụng rất chân thành, khi kể lại cuộc đời, thời gian sống bên vợ ông ta. Trong một buổi trình diễn trên đài truyền hình, ông ta kể bà vợ bị đau hồi còn trẻ lúc mới lấy ông ta. Lâu quá mình không nhớ bệnh gì.

Mình thích quá nên có lần sinh nhật mụ vợ, mình làm cuốn video, để gửi nhắn vợ tâm trạng của mình qua những ca từ mộc mạc của bài hát nhưng đồng chí gái không hiểu tiếng tây nên Chán Mớ Đời. 

https://youtu.be/07x2_TPQch4

Bài hát nói lên tình cảm chân thành, cảm ơn người vợ, đã sinh ra 2 người con, sát cánh bên nhau trong thời gian hai người xa quê hương, cùng một lứa bên trời lận đận. Bài hát đã nói lên những gì mình cảm nhận về đồng chí gái. Bao nhiêu năm đợi chờ, để rồi đón nhận được mối tình hữu nghị của vợ. 

Paroles "Pour toutes ces raisons je t'aime"

Toi tu m'as donné ton sourire de femme
Tes larmes sucrées que je n'oublie pas
Avec toi j'ai eu des années lumière
Des châteaux de cartes et des feux de bois
Pour toutes ces raisons, je t'aime

Les nuits de l'exil, on était ensemble
Mon fils et ma fille, ils sont bien de toi
Tu es comme moi et je te ressemble
Je suis orphelin quand tu n'es pas la
Pour toutes ces raisons, je t'aime

Je n'ai pas de médaille, je suis venu comme ça
Je suis un homme un fou d'amour, un fou de toi
J'ai passé ma vie, ma vie à t'attendre
Mais j'ai gagné l'amour de toi

Les bouquets de fleurs semblent dérisoires
Je ne chante plus dès que tu t'en vas
Tu connais par cœur ma vie, mon, histoire
Mes chansons d'amour parlent encore de toi
Pour toutes ces raisons; je t'aime

Je n'ai pas de médaille, je suis venu comme ça
Je suis un homme un fou d'amour, un fou de toi
J'ai passé ma vie, ma vie à t'attendre
Mais j'ai gagné l'amour de toi
Pour toutes ces raisons, je t'aime

Hôm trước, có chị bạn gửi bài hát tây, tặng mình, mình gửi lại bài này khiến ông chồng chị ta nhảy vào kêu hay quá, nên tải về đây cho các bác nghe.



Nguyễn Hoàng Sơn