Quê hương của ký ức



Tuần vừa rồi đi tập võ, thấy một anh tập chung, cạo râu tỉa ria, cắt tóc thì hỏi đi ăn cưới hay sao mà tổng vệ sinh thế. Anh trả lời là sắp đến ngày lễ tưởng niệm 30/ 4, phải bận quân phục để chào quốc kỳ. Câu trả lời của anh ta làm mình kính phục vì sau 40 năm, những người lính VNCH cũ vẫn còn tưởng nhớ đến những ngày tháng hành quân bên đồng đội, chiến đấu cho Lý tưởng Tự Do trong khi đại đa số dường như đã quên Tháng Tư Đen.

Có ai từng nói: " Mình là những gì mình nhớ." Những gì mình nhớ tạo nên ý nghĩa cho những gì mình đã làm hoặc chứng kiến trong quá khứ hay hiện tại. Nếu những quân nhân cán chính của VNCH không nhớ đến ngày 30/4 thì cuộc chiến đấu khi xưa của VNCH do họ đại diện không có ý nghĩa, họ sẽ không có quá khứ, ký ức của họ chỉ là hư không. 

Hà Nội có thể xoá những dấu tích của chế độ VNCH như nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, các tượng lính VNCH khi xưa, cấm nhạc vàng, sách báo miền Nam ...nhưng họ không thể xoá được ký ức của mỗi người đã từng sống tại miền nam trước 1975.

Bà nhạc của mình năm nay đã trên 94 tuổi, không còn nhớ đến ai nữa. Vài năm trước, khi bắt đầu lẫn, bà ta hay nói với con cháu đưa bà về thăm Ao Hồ, quê quán của bà ở Huế nhưng nay thì ít nói, cả ngày cứ ngồi nhìn về một chốn xa xăm, trả nhớ về không như không còn quá khứ. Đồng chí gái mỗi chủ nhật đến thăm, đưa mẹ đi ăn phở. Ngồi nhìn vợ mình đút cho mẹ ăn như ngắm một bức tranh hiện thực rất đẹp. Trời sinh rất hay, từ từ con người bị lão hoá, lú lẫn khiến con cháu cũng từ từ quen dần sự mất mát trong tâm khảm để rồi một ngày nào đó bà sẽ vĩnh viễn ra đi, giúp con cháu bớt đau khổ vì mồ côi.

Khi bà cụ nhớ đến Ao Hồ, hình ảnh của căn nhà khi xưa ở Huế, nơi cụ đã sinh trưởng là nguyên liệu đầu tiên giúp tạo ra chính hình ảnh của cụ, bản thể của cụ; một phụ nữ miền Trung nên khi cụ lẫn, không còn nhớ đến hình ảnh xưa thì không còn nhận ra chính mình là ai, mất đi cái căn cước của chính cụ. Nhiều khi nghe cụ hỏi "tui tên chi?" làm mình cũng không biết cụ nói tên cụ là Chi hay hỏi con cháu tên cụ là gì vì tên cúng cơm của cụ là Tôn Nữ Cẩm Chi,...

Sau biến cố 30/4/75, nhiều triệu người VN bỏ xứ ra đi tìm chỗ dung thân trên khắp thế giới. Mình có gặp một anh tỵ nạn đạp xe đạp, bán chả giò ở Dakar, thủ đô của nước Sénégal, Phi Châu. Các lưu dân bỏ nước ra đi, định cư tại một quốc gia khác nhưng vẫn bị các ký ức, kỷ niệm của thời lớn lên tại VN níu kéo, so sánh. Có người hoà đồng nhanh chóng vào nền văn hoá địa phương, có người vẫn bị những ký ức của VN lôi kéo họ về dĩ vãng khiến họ lơ lững ở hai vùng ranh giới của văn hoá của nước sở tại và văn hoá của nơi họ vừa từ bỏ. 

Những thập niên đầu ở hải ngoại, người gốc Việt hay tụ tập với nhau dưới danh nghĩa quân nhân cán chính, các đảng phái dưới thời VNCH nhưng dần dần các hội thân hữu ra đời, mang tên hội Thừa Thiên, Huế, hội Quảng Nam Đà Nẳng, hội thân hữu Đà Lạt, hội Sóc Trăng,.....hình như con người càng lớn tuổi thì họ trở về ký ức của nơi họ sinh trưởng hay đúng hơn tìm về Quê Hương của Ký Ức, của những kỷ niệm thời xưa. 

Mình hay ăn sáng mỗi thứ 6 với vài tên bạn Mỹ già, trên mình 20 tuổi thì có tên kể; hắn đi dự hội ngộ 40 năm của trường trung học của hắn thì không nhận ra ai. Có một tên ngồi kể chuyện ngày xưa hắn và tên bạn hay phá phách ra sao, hắn cố moi óc vận não nhưng vẫn không nhớ đến tên kể chuyện. Hắn chỉ nhớ thời đó, mỗi sáng phải dậy sớm đi bỏ báo, kiếm tiền để bảo trì chiếc xe hơi của hắn vì trong trường dạo đó ít học sinh có xe hơi. Hắn nhớ đến những cô gái mà hắn có dịp chở đi chơi thôi. Tương tự khi nói về ký ức Đà Lạt mình nhớ nhiều nhất về hai năm học Văn Học còn Yersin thì nhớ về thời học tiểu học .

Bức ảnh của sinh viên Trần đình Thục chục cuộc diễn hành sinh viên Việt Nam Cộng Hoà ngày 27/4/75 tại Paris, Pháp quốc 
Mình nhớ dạo mới sang Văn học thì cũng tụm 3 tụm 4 lại với mấy tên khi xưa học ở Yersin, tuy không cùng lớp nhưng biết mặt nhau như Võ Hoàng Đa, Hùng Con Cua, Nguyễn Đình Tài,.. Mấy cô thì có Mai Anh, Ngọc Chân, Anh Đào, Thu Thuỷ, Nguyệt Thu,... Có lẻ vì nhóm này có chung một ký ức tập thể của Yersin? Ký ức cộng đồng của trường Tây? Dần dần cũng bắt đầu quen một số học sinh chương trình Việt nhưng dù sao vẫn cảm thấy thoải mái hơn với đám từ Yersin sang. Sau này gặp lại Võ hoàng Đa ở Cali, ngồi nói chuyện thì có nói khi học Yersin thì mình cảm thấy không thoải mái lắm thì anh chàng giải thích đa số là con nhà khá giả của Đàlạt mới học trường Tây nên tụi mình không thoải mái với đám này nên khi sang Văn học thì Châu về hiệp phố. 

Mình thì nghĩ khác. Mình nhớ khi còn học vườn trẻ Ấu Việt, nghe kể về nhà mình nói tiếng Tây như con của mình ngày nay xổ tiếng Mỹ. Sau này, sang Yersin thì nói tiếng Việt hơi ngọng tương tự con mình khi nói chuyện với bà Nội, bà ngoại. Dần dần bắt đầu suy nghĩ, nghe kể những chuyện kháng chiến chống Tây, thực dân đô hộ dân mình nên có thể bị khủng hoảng bản thể, không hiểu tại sao phải học trường Tây. Dạo đó, tây về nước nên có rất nhiều thầy cô người Việt nhưng lại nói tiếng Tây trong lớp nên mình đâm hoang mang. Khi sang học chương trình Việt thì mình cảm thấy thoải mái hơn vì thầy giáo nói tiếng Việt khiến đầu óc mình bớt lộn xộn.

Năm vừa rồi khi tìm lại một số bạn học xưa ở Đà Lạt thì mình có nhu cầu viết về những ký ức của thời gian sinh sống tại Đà Lạt. Cả đời mình chẳng bao giờ viết nên Thiên Hạ đọc kêu sai lỗi chính tả, dấu hỏi, dấu ngã bỏ sai loạn xà ngầu nhưng mình cứ vô tư vì chỉ muốn viết cho chính mình, cho con cháu sau này đọc tương tự như mình thích nghe Ông cụ kể chuyện thời xưa ở quê. 

Mình viết như sợ nguồn suối của ký ức sẽ ngưng, như sợ những kỷ niệm kia sẽ chìm biến trong dĩ vãng. Càng viết thì mình càng thấy rõ hình ảnh của Đà Lạt khi xưa, những tên học chung, những cô gái mà mình thích nhìn trộm, những bản nhạc của bang nhạc Phượng Hoàng,.. mà mấy chục năm qua không để ý, nay nghe lại thì phảng phất đâu đây những tình cảm dào dạt khi xưa, như giúp mình sống lại thời trước 75. Bao nhiêu ký ức được cuộn về như dòng suối được cha con Jean De Florette, khai thông  sau khi đã dập tắc để mua đất rẻ từ cha của cô gái tên Manon trong truyện "Manon des Sources" của Marcel Pagnol. 

Có cái gì lôi cuốn mình tìm hiểu nơi nào xuất phát ra gia đình, dòng họ, nên đọc hối hả, đọc gia phả rồi nhờ người ta dịch ra việt ngữ, nhờ tiệm in cho ông cụ đem về làng tặng trong họ. Về quê Nội, mình có thăm viếng cái đình làng, chùa Thầy, nhà thờ họ,.. tuy nhỏ bé nhưng mình vẫn thấy có cái gì thiêng liêng buộc mình vào không gian ấy. Mình tìm hiểu lí do ông tổ từ Nghệ An lại trôi dạt về vùng sông Đà núi Tản, lập nghiệp bên dòng sông Đuống,... 

Mình hiểu ông thần Nhị Anh khi dùng phần mềm, sưu tầm tài liệu để vẽ lại cái chợ Đà Lạt khi xưa trong không gian ba chiều như Marcel Proust đi tìm lại những dấu chân xưa vì ký ức của anh chàng cũng lấp lánh những tia sáng của ký ức của chính mình. Có một Chị ở bên Đức, tìm kiếm những dư âm, hình ảnh xưa để làm những video như tạo dựng lại một vùng ký ức của thời mang guốc đến trường.
Anh bạn học thân ngày xưa, tuy bận công việc, bỏ công ra, sửa lỗi chính tả,…gom 100 bài viết của mình về ký ức và quê hương, đặt tên Mực Tím Sơn đen.

Khi nói đến một kỷ niệm dù riêng tư nhưng vẫn liên đới đến một người bạn hay một nhóm nào khi xưa, quyện theo thời gian và không gian cho nên ký ức của mình vẫn dính dấp đến ký ức của tập thể. Khi ngồi kể chuyện thời xưa, như ban nhạc của Văn Học trình diễn ở trường Trí Đức thì Hùng Con Cua có những kỷ niệm của hắn, Nguyễn đình Tài có kỷ niệm riêng tư của hắn ngay chính mình lúc đó là trưởng lớp cũng có vài kỷ niệm như Trần Thiện Tân chơi guita Bass nhưng không quen đàn 4 giây của ban tổ chức nên đánh loạn cào cào khiến Tài, Hùng hoảng cả lên nên khi ngồi chung kể lại kỷ niệm xưa thì những kỷ niệm xưa ấy được hiện tại hoá, được kể lại sau 40 năm, khi mỗi người trong chúng ta đã trưởng thành và quan sát hay đón nhận những ký ức với một lối nhìn, cảm nhận khác.

Mình ít thấy mấy người bạn học xưa còn sinh sống tại VN, lên tiếng trên diễn đàn Văn Học. Có lẻ họ vẫn sinh sống tại Đà Lạt nên ký ức của họ rất khác với mình. Họ nhìn thấy sự thay đổi của Đà Lạt trong đời sống hàng ngày trong suốt 40 năm qua cho nên ít lưu luyến đến quá khứ trước 75. Việt Nam, Đà Lạt là cả cuộc đời của họ trong khi đối với người sinh sống tại hải ngoại, Đà Lạt là một đoạn phim ngắn của cuộc đời họ thuộc về quá khứ. Lâu lâu có người tải hình con cháu lên diễn đàn còn ngoài ra thì họ i meo riêng cho mình. Có thể đó là đặc tính của người Việt, không muốn tiết lộ tình cảm hay ý tưởng cá nhân cho mọi người? Có thể vì sống trong môi trường chính trị không cho phép họ tự bạch? Nói chung thì trên diễn đàn, đa số là dân hải ngoại chia sẻ cho nhau bài thơ, video, giúp các bà trị bệnh không nghe lời của chồng,... Cãi nhăn, cãi cuội,  chọc phá nhau như thời còn ngồi ghế nhà trường như Kim Dung nói cải lão hoàn đồng, càng già càng trở nên con nít.

Cho thấy sống tại hai nơi, hải ngoại và trong nước, mọi người đều có những ký ức chung của thời niên thiếu nhưng khó định nghĩa được sự trân trọng về một thời chung bước đi chung một quảng đường đời. Ở Việt Nam, nhiều người bạn học cũ nay đã là đảng viên nên ngại tham gia diễn đàn, sợ diễn biến hoà bình, sợ bị đảng khai trừ nên khi gặp lại ở Việt Nam, ai nấy cũng dè dặt từng câu nói, như có một cái màn vô hình ngăn chia giữa mình và các người bạn đảng viên. Hỏi thăm nhau về gia đình nhưng không dám hỏi về đời sống tinh thần,…

Sau biến cố 30/4, mấy triệu người Việt chạy tản mác ra hải ngoại, đa số chưa thể chối bỏ được nền văn hoá, ký ức của VN, Đà Lạt nên tình cảm của chúng ta vẫn lãng vãng ở làn ranh văn hoá địa phương và VN. Có lẻ vì chúng ta còn nhiều ký ức, kỷ niệm vì đó là quê Hương của chúng ta. Về VN, thăm viếng Đà Lạt nhưng chúng ta thất vọng, không tìm lại được những hình ảnh, kỷ niệm của thời thơ ấu, những chén chè Mây Hồng, những ly sữa đậu nành nóng vừa uống vừa thổi về đêm ở đường Minh mạng, những lần chen lấn mua vé đi xem xi nê ,...chúng ta như Từ Thức trở lại quê, không còn nhận ra những dấu tích xưa nên tiếc nuối thời kỳ mới lớn, thời kỳ tập tành yêu đương, mỗi người ấp ủ một hay nhiều hình bóng hình Hoàng thị Ngọ của Phạm Thiên Thư để rồi nhớ đến vô không.

Trên diễn đàn Văn Học, có lẻ mình cảm nhận được tình cảm hay ký ức của các diễn đàn viên khác. Tuy chưa bao giờ gặp mặt nhưng vẫn cảm thấy gần gũi vì diễn đàn tạo nên một không gian để trao đổi những lấp lánh của ký ức của bạn học xưa, tạo nên một ký ức tập thể để giúp chúng ta, những người mất quê tìm lại chút gì của quê hương bỏ lại hay nói cách khác là tìm lại quê hương của ký ức. 

Anh bạn tập chung cũng như những người còn nhớ đến ngày 30/4, hàng năm gặp nhau để chào cờ, làm lễ truy điệu các người đã nằm xuống trong cuộc chiến như tìm lại ký ức, nhớ về cội nguồn vì chúng ta là những gì chúng ta nhớ, tìm lại ký ức của cộng đồng, của tập thể người Việt hải ngoại như tìm về Quê Hương của Ký Ức.

Sơn đen
30/4/14

30/4/2020 đến, mình sẽ ra thư viện Việt Nam, thắp hương cho mấy sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà đã tuẫn tiết ngày 30/4/1975 để ký ức mình sẽ không quen theo năm tháng.

Những ngày cuối cùng tại Việt Nam

Bài này viết lâu rồi nhưng để nhớ ngày Quốc Hận nên đăng lại.

Mình không rành chính trị, chỉ nhận thấy chính phủ Obama sắp sửa bán vũ khí cho Việt Nam nên gần đây nhận được rất nhiều điện thưvideo,.. nói về Việt Nam, nhất là giai đoạn Sàigòn đầu hàng vô điều kiện vào cuối tháng tư năm 1975. Không biết chính phủ Obama đang giải độc công chúng Mỹ về chiến tanh Việt Nam, trước khi bán súng ống cho kẻ thù cũ hay chỉ là một chuyện tình cờ.

Tuần vừa rồi, mình và đồng chí gái đi xem suất tối, cuốn phim tài liệu về những ngày cuối cùng của VNCH (last days in Vietnam) do đài truyền hình PBS thực hiện, đạo diễn là Rory Kennedy, con gái của bộ trưởng Robert Kennedy, em trai của JFK, bị ám sát khi tranh cử tổng thống. Một điểm lạ là bố và bác của bà Kennedy là những người chính thức can thiệp vào chiến tranh Việt Nam rồi đến phiên người con làm cuốn phim kết thúc cuộc chiến mà đến ngày nay vết thương để lại sau cuộc chiến vẫn chưa được nguôi ngơi giữa hai dân tộc. Có một điểm tương đồng là hai anh em nhà họ Kennedy và hai anh em nhà họ Ngô đều cầm quyền vào dạo đó rồi cả 4 đều là người công giáo, bị thảm sát.

Hình như rạp chiếu bóng biết hai vợ chồng mình đi xem nên họ không bán vé cho ai hết nên tụi này coi phim chỉ có mình với ta tuy hai là một. Trong tuần nên ít ai coi xi nê, xa khu người Việt, nhất là phim tài liệu Về đề tài mà người Mỹ rất muốn quên nhưng vì ngày chót chiếu ở rạp gần nhà nên phải đi. Gần khu người Việt thì sẽ chiếu đến cuối tuần.

Như mình đã từng nói, mình chỉ có nhận thức được chiến tranh Việt Nam trong cuộc tổng công kích Mậu Thân còn ngoài ra mình như một kẻ ngoại cuộc, đứng bên lề nhìn cuộc chiến xảy ra. Đậu tú tài xong thì đi du học. Ngày Sàigòn thất thủ, mình không biết, đến khi ông tài xế taxi nói thì mới biết. Vợ mình thì kinh qua những hệ lụy của chiến cuộc, những bắn phá của du kích tại Hội An, lang thang chợ trời để tìm cách sống sót trong thời cộng sản chiếm, rồi vượt biển cho nên hai vợ chồng kinh qua lịch sử cận đại Việt Nam hơi khác nhau.

Vợ mình thì đã trải qua cuộc bể dâu của thời bao cấp nên không muốn nghe hay nói đến Việt Nam, chỉ muốn chôn nó vào quá khứ, không muốn trở lại Việt Nam dù để thăm viếng bà con. Trong khi mình thì còn gia đình tại Việt Nam nên vẫn đau đáu, ngóng nghĩ về nơi chôn nhau cắt rún. Gia đình bên vợ thì vượt biển và nay đã đoàn tụ hết bên Mỹ nên đồng chí gái nhất quyết không về Việt Nam đến một hôm nhận được cú điện thoại từ Việt Nam, một người bạn học khi xưa ở Hội An, tiếp theo những điện thư của những người bạn khác, mất tăm tích từ 75 mới đổi ý.

Thật ra mọi người Việt đều làm chứng nhân trong cuộc chiến nhưng khác nhau từ góc độ, không gian và thời gian. Đồng chí gái nói là lần đầu tiên xem được những hình ảnh của những ngày tháng cuối cùng của VNCH. Dạo đó, cô nàng mới 15 tuổi cho nên cũng không biết nhiều, gia đình mới từ Hội An, dọn về ở Sàigòn được 1 năm thì mất nước. Mình có một tên bạn hàng xóm, gia đình dọn về Sàigòn năm 73, bị VC pháo kích chết ngoài đường phố Sàigòn khi đi xem cuộc di tản.

Trên diễn đàn Yersin, có vài người đã coi cuốn phim kể trên và ghi lại cảm tưởng của họ trong thời gian đó, người thì hiểu thêm về Việt Nam. Có người chỉ muốn quên, chôn những hình ảnh đau thương ấy vào quá khứ. Có người cám ơn lòng tốt của nhân dân Hoa Kỳ, đã cưu mang gia đình họ trong thời gian đầu rời khỏi Việt Nam. Bài học đầu tiên khi xa Việt Nam là học đứng xếp hàng, đợi đến phiên mình để lấy thức ăn, khác với chen lấn, xô đẫy như ở Việt Nam.

 Mình có cô bạn học cũ, kể khi đi di tản thì cả nhà chia làm 2 để đi ; cô ta và bà mẹ, chị em gái đến Mỹ còn ông bố và anh em trai đi riêng thì mất tích luôn. Vợ mình có cô bạn học ở Trưng Vương kể; ông bố làm nhà ngoại giao từ Úc đưa gia đình về Sàigòn ở tạm trong khi ông bố được chính phủ VNCH bổ nhiệm đi Pháp nên đi trước, chuẩn bị đón mấy mẹ con sang Tây. Lúc di tản, bà mẹ đem mấy đứa con ra phi trường thì chỉ còn 2 chỗ trên máy bay nên quyết định cho người anh đi với bà, còn để hai cô con gái ở lại với bà vú, sẽ tìm cách đưa đi sau. Hai chị em ở lại, không rành tiếng Việt vì ở ngoại quốc lâu năm. Sau 75, bà vú bỏ trốn về quê với tiền bạc của bà mẹ để lại. Hai chị em ra chợ trời buôn bán đến mấy năm sau mới được đi Pháp vì có sổ thông hành của Pháp. Ngày nay, cô ta vẫn còn căm bà mẹ đã bỏ rơi lại để đưa người con trai đi, nhất là ông anh ngày nay là chuyên gia nghiện sì ke, ăn bám mấy chị em.

Nhân vật trong cuốn phim gây ấn tượng nhất cho mình là ông Richard Armitage, thuộc lực lượng đặc biệt của hải quân Hoa Kỳ, được bộ quốc phòng Mỹ gửi đến Việt Nam 6 ngày trước khi Saigon đầu hàng. Chỉ huy trưởng của chiến hạm Kirk kể rằng; ông ta nhận chỉ thị của tư lệnh Hải quân là phải tuân theo chỉ thị của ông Armitage khi trực thăng chở ông ta đáp xuống chiến hạm. 

Trong mấy ngày cuối cùng ở Việt Nam ông ta đã "ra lệnh" cho một sĩ quan hải quân VNCH (Kiem Do)  giúp ông ta đưa các chiến thuyền của VNCH ra bến tàu Bạch Đằng để di tản hoặc phá hủy thì khám phá mấy con tàu được điều động  với 30,000 người dân di tản và ông đã lấy quyền chỉ huy trên chiến hạm Kirk, để tiếp tế lương thực và kéo hết các Tàu chiến VNCH, chở người di tản vào quân cảng Subic, Phi Luật Tân. Vị sĩ quan VNCH kể; ông ta đã làm việc hơn khả năng của mình vì các vị chỉ huy của ông ta đã ôm gói bỏ chạy. Mình đoán là bộ quốc phòng Hoa Kỳ đã cho các toán lực lượng đặc biệt về không quân và thiết giáp..., sang Việt Nam để tìm cách phá hủy máy bay, xe tăng, súng ống.... nhưng không nghe nói đến.

Ông Armitage, sau làm cố vấn cho tổng thống Bush và làm thứ trưởng ngoại giao cho ông tướng Collin Powell, có tạo nên một xì căn đan lớn khiến ông Scooter Libbi phải đi tù vì không khai ra tên người đã nêu tên bà Valerie Palme, vợ của đại sứ Mỹ tại Nigeria là nhân viên của CIA để kiếm cớ đổ bộ vào Ỉaq, để lật đổ Sadam Hussein. Ông ta nói thông thạo tiếng Việt. Có người nói ông ta có chân trong chiến dịch Phụng Hoàng.

Cuối cùng có cảnh các thuyền chở người Việt di tản sang Phi Luật Tân nhưng không được vào lãnh thổ của xứ này vì chính phủ Marcos, mới công nhận chính quyền mới ở Việt Nam nên tất cả làm lễ hạ kỳ VNCH và dương cờ Hoa Kỳ lên để được vào vịnh Subic.

Trong chuyến di tản này, có hai con tàu nổi tiếng nhất là Trường Xuân và Việt Nam Thương Tín. Chủ nhân tàu Trường Xuân là ông Trần Văn Trường, cho phép tàu chở 4,000 người di tản nhưng tàu bị đặc công của VC phá hoại, may có chiếc tàu Song An kéo ra biển, chạy vật vờ, đói khát, sau được một tàubuôn Đan Mạch cứu nhưng tàu không chìm nên được kéo vào Hong Kông để sửa chữa nhờ vậy mà chủ tàu mới bán được sau này nhờ có vốn mở các khách sạn ở thành phố New York. Năm 2001, sau vụ khủng bố 9/11, ông ta có đóng góp 2 triệu đô cho nạn nhân, nghe nói ông ta mới qua đời vài năm trước đây.

Tàu Việt Nam Thương Tín thì đã chở 600 người sang Guam nhưng lại có 1,600 người đã di tản đến đảo nhưng đòi trở về Việt Nam. Người Mỹ tôn trọng Ý nguyện của họ nên cho chiếc tàu này chở những người muốn hồi hương. Nghe nói bị bắt hết không hiểu số phận của họ ra sao.

Khi coi một cuốn phim Tài liệu về lịch sử, chúng ta thường đặt những "Nếu"như nếu ông Nixon không từ chức thì cuộc diện của chiến tranh Việt Nam có tiếp diễn. Nếu đại sứ Martin nhận thức vấn đề thì có thể số người được di tản có lẻ nhiều hơn. Gần đây, mình đọc được Tài liệu; ông Nixon trước cuộc bầu cử năm 1968, đã phái người của ông ta sang Việt Nam, yêu cầu ông Thiệu, không đồng ý Hoà đàm về ngưng bắn vì dạo đó, ông tổng  thống Lyndon Johnson đang mật đàm với Hà Nội để ngưng bắn. Hà nội bị tổn thất rất nặng sau 2 vụ tổng công kích miền nam bị thất bại nên muốn ngưng bắn để cũng cố lại lực lượng. Ông Nixon hứa với ông Thiệu là khi Đảng Cộng Hoà lên nắm quyền sẽ giúp vũ khí nhiều để đánh bại Hà nội. Nay mình mới hiểu tại sao thủ tướng NCK, dạo đó tuyên bố: Bắc Tiến.

Có một vấn đề mà ít ai nói đến là giá dầu lửa thời đó. Năm 72, có cuộc khủng hoảng dầu lửa. Dân chúng Mỹ xếp hàng dài nhiều cây số để đổ xăng, giá xăng lên nên số tiền viện trợ cho VNCH không đủ cung ứng cho cuộc chiến tranh. Mình nhớ ông cụ mình làm công chức, có công xa nhưng phiếu xăng bị hạn chế. Lạm phát gia tăng, gạo đường,... , lên giá trong khi chính phủ kêu gọi thắt lưng buột bụng trong thời kiệm ước. 

Ngược lại khối Liên Xô sản xuất dầu hỏa và giá một thùng dầu thô dạo đó lên trên $100 nên tiền bạc của phía Cộng sản thặng dư nên họ cung cấp nhiên liệu và vũ khí cho Hà Nội rất nhiều. Binh lính VNCH được ra lệnh phải tiết kiệm súng đạn,..., nên khó mà tiêu thổ đánh lại các sư đoàn chính quy của Hà Nội gửi vào. Đọc "nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh thì được kể là nhiều đại đội VC, chết rất nhiều, chỉ còn vài người. 

Ông Võ Nguyên Giáp kể trong cuộc tổng công kích Mậu Thân đợt 2, Bộ chỉ huy trung ương ra lệnh cho ông ta phải chiếm thành Quảng Trị bằng mọi giá dù ông ta không đồng ý, kể mỗi đêm chèo xuồng qua sông Thạch Hãn, lính Hà Nội chết tối thiểu trên 100 người. Có trên 200,000 hồi chánh viên, cho nên theo mình vấn đề dầu hỏa lúc đó rất quan trọng, là nguyên nhân đưa đến sự đầu hàng của VNCH chớ không phải lính VNCH không có khả năng chiến đấu như đã được tuyên truyền. Sau này mình có đọc nhiều tài liệu hay hồi ký của người miền Bắc, nói về cuộc chiến.

Mùa hè đỏ lửa với Bình Long anh dũng, bị bao vây nhưng lính VNCH vẫn tử thủ rồi được giải vây nhưng vào năm 75, mất Phước Long vì không có tiếp tế đạn được, nhiên liệu,... Rồi đến Cao Nguyên, Đà Nẵng,...

Ngược lại, vào cuối thập niên 80, Liên xô và Đông Âu xụp đổ vì giá dầu hỏa dạo đó xuống đâu $30/ thùng dầu thô nên họ phải rút quân ra khỏi Á Phu Hản rồi không tiếp tế nhiên liệu cho các nước chư hầu nên đế quốc của họ bị tan rã. Lí do đó khiến Hà Nội bỏ Liên Xô để quay lại với Tầu.

Mấy tuần nay, giá xăng xuống nên ông Putin đã cho rút trên 10,000 binh lính ra khỏi Ukraine. Các kinh tế gia ước tính là nước Ba Tư mà muốn quân bìnhngân sách quốc gia thì họ cần giá dầu thô lên $180/ thùng, nước Saudi Arabia thì cần $120.00/ thùng còn Nga Sô của ông Putin cần $110.00/ thùng hay $30.00 hơn giá thị trường hôm nay. Người ta nói chính phủ Obama đang lũng đoạn thị trường dầu thô để ép Putin vì với kỹ thuật Fracking, Hoa Kỳ ngày nay đã không cần nhập cảng dầu hỏa và có thể xuất cảng dầu thô nên sẽ giúp phục hồi kinh tế Hoa Kỳ. Nước Maroc, đang có chương trình thu hoạch năng lượng mặt trời trong sa mạc Sahara, có tiềm năng sẽ bán cho Âu Châu.

Dạo đi làm ở New York, mình hay được các đại học miền Đông Bắc, mời tham gia và trả tiền các hội thảo về chiến tranh Việt Nam, như MIT, NYU, Princeton, Yale, Brown Univ.,.. Thường thường là gặp nhóm phản chiến của Mỹ cũ nhưng khá vui vì họ nói về cách mạng xã hội...., còn mình thì cứ đem kinh tế dầu hỏa ra mà nói thêm vụ Liên Xô bị tan rã, dẫn chứng bởi những kinh tế gia của Liên Xô. Ở miền Đông Bắc, có vài tên Việt kiều yêu nước mà sau này đọc những tài liệu thì mới ghê tởm đám thiên tả, dân chủ như TerryMcAucliffe sau này có thời làm chủ tịch Đảng dân chủ Hoa Kỳ,.... Họ cho học bổng những người con của thành viên mặt trận giải phóng miền Nam hay nhà đối lập như con bà Ngô Bá Thành, chủ tịch hội phụ nữ đòi quyền sống,..., sau đó dùng những sinh viên này để định hướng dư luận Hoa Kỳ như NBL ở Boston, NTN ở New York,...

Thay vì làm con chim Đà điễu, núp đầu dưới cát, không nhận mình là người Việt, mình tìm sách, tài liệu để đọc về chiến tranh Việt Nam để giải mã cho VNCH, cho bao nhiêu người đã nằm xuống cho miền Nam tự do. Sự ra đi của trên 2 triệu người Việt vào những năm 70-90 đã làm thế giới kinh động, về sự nhầm lẫn của họ khi xuống đường chống chiến tranh Việt Nam. Chúng ta có bổn phận lên tiếng để định hướng lại lịch sử của cuộc chiến tranh để sau này con cháu không trách móc.
27/4/1975, 300 sinh viên Việt Nam  đi tuần hành, để tan cho Việt Nam Cộng Hoà 

NHS



30/04/1975 tại Paris

Hôm trước, có chị quen hỏi tâm trạng mình khi đang ở Pháp vào ngày 30/4/75 thì mình ấp úng, không nhớ rõ cảm xúc hôm đó, chỉ nhớ ngày đó đi làm. Mình biết tin Sàigòn đầu hàng khi bà chủ nhờ đi giao hàng cho khách hàng bằng Taxi. Người tài xế hỏi mình người gì rồi ông ta kể hồi sáng, thấy đám người Việt Nam và Pháp, đến đập phá toà đai sứ VNCH vì Việt Cộng đã vào và làm chủ Sàigòn. Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà, không được dân bầu, đã kêu gọi đầu hàng.

Dạo đó Hà Nội chưa có toà đại sứ ở Pháp. Sau 1954, Hà Nội lấy hết nhà cửa, tài sản của người Pháp nên Pháp không công nhận Hà Nội, chỉ công nhận chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, đại diện cho người Việt. Khi Sàigòn đầu hàng thì Hà Nội chiếm toàn đại sứ của Việt Nam Cộng Hoà. Mặt trận giải phóng chả lấy được cái gì. Chán Mớ Đời 

Cuộc đời mình lúc nào cũng đi bên lề lịch sử của quê hương. Ngày trọng đại nhất của Việt Nam, mình cũng không biết rõ hay theo dõi.

Chị ấy gửi cho bài báo của RFA, nói về ngày 27/4/75 ở Paris với bức hình của ông Trần Đình Thục, sinh viên kiến trúc, chụp cuộc tuần hành của 300 sinh viên Việt Nam, chít khăn tang cho những người nằm xuống, chiến đấu cho tự do của quê hương. Hình như ông Trần Đình Thục sau này di cư sang Hoa Kỳ, làm nhiếp ảnh viên, nghe nói ông ta có học kiến trúc ở Pháp.

Dạo đó có 2 nhóm sinh viên và kiều bào sinh sống ở Pháp: chống và ủng hộ Việt Nam Cộng Hoà. Có những người sinh đẻ tại Pháp vì cha mẹ hay ông bà của họ, di cư hay bị Tây mộ phu sang tây để làm trong các lò sản xuất súng đạn trong thời đệ nhất, đệ nhị thế chiến vì công nhân Tây bị động viên hoặc đi du học rồi ở lại. Gần đây chính phủ Pháp đã lên tiếng xin lỗi đã đối xử không tốt đẹp với các người được mộ phu từ các thuộc địa cũ trong thời gian chiến tranh chống Đức Quốc. Các người gốc Việt Nam được chính phủ Pháp tuyển, đem qua Tây làm nhân công lao động, sản xuất súng ống, đạn dược  cho ăn ở trong những chỗ tồi tàn, lạnh lẻo mùa đông không có sưởi, thiếu phòng vệ sinh, nước,....

Dạo ấy có một số đông sinh viên du học được học bổng của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà hay gia đình có khả năng tài chánh. Có thời một đồng bạc Việt Nam tương đương 10 phật lăng Pháp nên những gia đình khá giả cho con du học ở Pháp. Học xong thì đa số không muốn về Việt Nam vì sợ đi lính nên phải xin ở lại nước sở tại vì lý do chính trị. Kêu về sẽ bị chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cho vô tù vì chống phá họ. 

Xin nhắc lại là khi mình đi học tại Pháp thì có đến 25% người Pháp bầu cho đảng Cộng Sản, chưa kể đảng Xã Hội, có thể nói đa số người Pháp thân cộng sản và chống Hoa Kỳ, dù ngàn lính mỹ bỏ xác tại Pháp quốc rất đông khi đổ bộ ở bờ biển Normandie để giải phóng họ khỏi sự cai trị của Hitler.

Dạo đó kinh tế Âu châu còn phát triển nên các chính phủ sở tại thu nhận, cho họ ở lại. Đa số không am tường tình hình ở Việt Nam nên bị Hà Nội tuyên truyền nên chống chiến tranh, chống lại chính quyền VNCH mà Hà Nội gọi thành phần này là Việt Kiều Yêu Nước. Cũng có thể họ chống chiến tranh vì mang mặc cảm của con dân thuộc địa nên rất hãnh diện khi thấy Hà Nội xâm chiếm miền nam, đánh mỹ cứu nước tương tự chiến thắng Điện Biên Phủ đã khởi nguồn các cuộc nổi dậy đấu tranh dành độc lập, đòi tự trị từ các thuộc địa của người tây phương, khắp nơi trên thế giới.

Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà không cho gia đình mấy sinh viên chống Việt Nam Cộng Hoà, chuyển tiền cho con họ để tránh ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản. Mình có đọc bài của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, kêu là được học bổng của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, ăn tiêu không hết nên buồn đời ông ta đi theo Việt Cộng, chống phá lại Việt Nam Cộng Hoà. Chán Mớ Đời 

Mình biết vài người trong trường hợp này, bỏ học đi làm vì kinh tế Việt Nam trong thời chiến tranh khá bi đát, lạm phát nên chính quyền VNCH không cho chuyễn ngân làm họ càng căm thù chế độ Sàigòn. Sau 75 thì họ ân hận về những việc mà họ đã làm khi xưa, thay vì đưa quê hương lên thành một cường quốc như Tân Gia Ba thì xô đẫy cả triệu người bỏ xác trên biển đông hay các trại tập trung hay họ không được trưng dụng, trao chức quyền như trong thời kỳ chiến tranh nên quay lại chỉ trích chính quyền mới. 

Đọc nhiều blog của các cựu giáo sư đại học Paris, Louvain,.. ,thấy thương cho họ. Có người ngày nay về hưu ở Việt Nam vì tiền hưu không đủ sống ở Pháp nhưng cuộc sống ở Việt Nam tương đối khá nhờ tiền hưu trí của Pháp nhưng vẫn bị công an khu vực hành lên hành xuống, kiếm chác hay đe doạ không được viết xấu về chế độ sẽ bị trục xuất. Cứ 6 tháng phải chạy ra khỏi Việt Nam rồi trở lại với chiếu khán nhập cảnh mới.

Mình chỉ nhớ sau giáng sinh 1974, mình đi Tây. Mấy tuần sau nhận được thư đầu tiên của ông cụ, báo tin là bà cụ sinh non cô em út, có lẻ vì lo sợ cho mình nơi xứ lạ quê người. Năm ấy là năm nhuận nên tuy mới sinh nhưng bà cụ phải ra chợ bán chợ Tết vì sợ mất khách thay vì ở cử một tháng như mọi lần. Đọc thư nhà lần đầu trên xứ người, mình khóc như mưa, tương tự nhạc sĩ Đức Huy khóc một giòng sông Seine.

Khi ra đi tưởng như tuyệt vời nhưng khi đụng chạm thực tế, với những khó khăn ở xứ người, mình chỉ muốn về lại mái nhà xưa ở Đà Lạt. 6 tuần sau thì mình nhận lá thứ cuối cùng của ông cụ mà đến gần 20 năm sau, mới được đọc lại những dòng chữ viết của ông cụ. Ông cụ kể là Đà Lạt bắt đầu di tản nên chắc ông cụ sẽ chở gia đình xuống Phan Rang rồi theo đường Bình Tuy để về Sàigòn vì đường Sàigòn - Đà Lạt bị cắt. Nghe nhà kể; khi xe chạy theo đoàn người di tản về Bình Tuy thì có một chiếc xe Lam, bóp còi in ỏi để vượt qua mặt thì 5 phút sau thấy chiếc xe này bị Việt Cộng pháo kích nổ banh xác cả gia đình. Hú vía!

Sau cuộc khủng hoảng kinh tế vì giá dầu lửa tăng năm 1972, Tây không cho sinh viên ngoại quốc đi làm thêm, muốn đi làm thì phải có giấy tờ gọi là permis de travail. Mình cần phải làm giấy tờ cư trú gọi là permis de séjour nhưng muốn có giấy tờ thì phải trình thẻ sinh viên mà trường đại học mình đã ghi danh ở thành phố Lille đã nhập học nên ghi tên học ở Alliance  Française  một tháng để có thẻ sinh viên, đổi bằng lái xe VNCH qua bằng lái xe tây. Nhớ đi đổi bằng lái thì gặp một tên gốc Việt ngồi văn phòng làm thủ tục cho mình, hắn nhìn mình như khinh bỉ trong khi mình rất vui khi gặp Mít, sau này mới hiểu là gặp Việt kiều Yêu Nước.

Không được phép đi làm nên mình đi làm chui, lương ít hơn cho một nhà in ở Issy Les Moulineaux, ngoại ô phía tây của Paris, trưa thì rữa chén cho tiệm ăn của bạn của bà chủ, mình mướn cái phòng nhỏ ở Pantin, ngoại ô phía đông của Paris, coi như phải lấy xe Métro, đi xuyên qua Paris mỗi ngày để đi làm. Sáng dậy khoảng 6:00 rồi lấy xe điện ngầm đi làm mất cả tiếng đồng hồ, làm 10-12 tiếng mỗi ngày nên tối về tới nhà coi như 11:00 giờ đêm, nhiều khi ngủ quên trong xe điện ngầm. Về đến nhà, lăn ra ngủ mai đi cày tiếp nên chuyện thế sự mình cũng không biết gì cả. Không có radio, truyền hình gì cả. Mỗi lần lấy xe điện ngầm thì đứng lại đọc tin tức ở mấy sập báo, không có tiền mua. Báo chí bên tây đắt gấp 4-5 lần bên mỹ. Dạo mới sang cứ tính tiền Tây ra tiền Việt Nam là choáng mặt, không dám mua sắm hay ăn uống.

Mình có ông cậu bà con đi du học bên Tây năm 1955, đảng viên của đảng cộng sản Tây nhưng vẫn được VNCH cấp chiếu khán về thăm Việt Nam năm 1973 trong chương trình Dân Vận Chiêu Hồi. Ông cậu hồ hởi, kể là người đầu tiên xông vào toà đại sứ VNCH ngày 30/4 nên từ dạo ấy mình ít liên lạc. Năm 1976, ông cậu là một trong những người Việt kiều yêu nước đầu tiên được Hà Nội cho về thăm Việt Nam. Ông từng thấy Sàigòn và Đà Lạt năm 1973 nên chưng hửng khi trở lại sau 3 năm, kêu nhà cậu mà công an hàng ngày tới khám, khác hẳn với năm 1973 thì được đón tiếp như ông Hoàng, không bị làm khó dễ nên mất lập trường với cách mạng rồi qua đời khi mình đang ở Ý. Nhờ vậy mà mình mới biết gia đình còn sống sót sau cuộc di tản tháng 3/ 74 và ông cụ mình bị bắt và bị lên án 18 năm tù nhưng cũng mất thêm mấy năm sau mới nhận được thư nhà.

Nói cho cùng thì mình ở Tây, không có truyền hình hay radio nên mù tịt về tình hình đang xẩy ra tại Việt Nam. Cuối tuần mình đi tập Thái Cực Đạo với mấy tên Tây đen và một tên Việt Nam cũng mới sang trước mình đâu mấy tuần. Tên này lớn hơn mình 4-5 tuổi nhưng trên giấy tờ lại bằng tuổi mình nên có vẽ hiểu biết nhiều hơn. Hắn kêu bọn mình bây giờ là "người vô tổ quốc" như dân Do Thái từ 2000 năm nay. Sau này mình không có dịp gặp lại hắn khi đi thành phố Mantes La Jolie làm việc 2 tháng hè.

Có lẻ giây phút mà mình cảm nhận được sự mất mát quê hương là đêm hội Tết năm 1976, do tổng hội sinh viên Việt Nam, phe chống cộng được tổ chức tại rạp Maubert De Mutualité với chủ đề "Ta còn sống đây". Lần đầu tiên thấy lại lá cờ vàng 3 sọc đỏ rồi cả rạp đồng hát bản quốc ca. Sức mạnh tổng hợp của mấy ngàn người cùng hoàn cảnh, vô tổ quốc đã khiến mọi người khóc ngây ngất, những bài ca được sáng tác sau 30/4/75 đem lại cho mọi người một niềm tin cho tương lai của mình và quê hương, đã giúp mình phấn đấu trong cuộc sống mới, một thân một mình nơi xứ lạ quê người.

Những mặt trời trên cao, soi sáng lối anh đi
Mặt trời như Tự Do, mặt trời như Tự Do
Tự Do như con đường, soi sáng lối anh đi, 
Tự Do như hy vọng, Tự do như niềm tin....

Có lẻ vì vậy mà dạo sinh sống ở Âu châu, cứ mỗi lần Tết đến, dù đi làm xứ nào mình cũng phải về Paris đi dự hội Tết do tổng hội sinh viên tổ chức như tìm lại niềm tin cho một ngày mai tươi sáng trên quê hương.

Chân trời trước mặt của quê hương ta sẽ nở hoa...
Những đôi mắt này còn nhìn nhau còn hẹn ngày về...

Cũng trong đêm này mình gặp lại NVT, con hãng cưa Xu Tiếng ở đường Phan Đình Phùng, học Yersin chung khi xưa, đang theo học ở đại học Orsay, miền nam Paris. Hắn viết thư rủ mình xuống chơi với nhóm sinh viên Việt Nam ở đại học Orsay. Tới nơi thấy đám sinh viên này đang nhảy đầm, có một tên và hai ả học chung Yersin hồi nhỏ nhưng mình đang buồn lo cho cuộc sống, gia đình ở VN nên đi về, đến 6-7 năm sau mới gặp lại hắn, cũng ở hội chợ Tết. Dạo đó, mình đang đi dạy ở đại học Bách Khoa Lausanne, Thuỵ Sĩ. 

Khác với những người như vợ mình, vượt biển sau này hay những người di tản tháng 4/75, những người đi du học trước ngày Sàigòn đầu hàng, có nhiều mộng mơ về quê hương cho nên có một số như bị khủng hoảng tinh thần sau ngày 30/4. Những người chưa học xong, không còn nhận được tiền học bổng của VNCH hay tiền của gia đình nên một số đông đành bỏ học, đi làm trong đầu vẫn ôm hoài bảo, giấc mơ của mình từ ngày rời khỏi nước. Người di tản hay vượt biển thì đã dứt khoát với Việt Nam nên đa số quyết tâm làm lại cuộc đời ở xứ người nên nói chung họ thành công hơn số sinh viên du học trước 30/04/75.

Khi rời Việt Nam mình dự tính 10 năm sau là trở về Việt Nam, ai ngờ gần 20 năm sau mới trở lại Việt Nam. Thấy quê hương tàn tạ hơn ngày mình rời Đà Lạt 20 năm trước. Hồi nhỏ nghe hai ông họ Lưu và Nguyễn lạc vào Thiên Thai, khi họ trở về quê thì không còn nhận ra cảnh cũ người xưa, không ngờ ngày nay mình cũng cảm thấy lạc lõng nơi mình sinh ra và lớn lên, lúc đó mới hiểu câu nói của tên tập chung Thái cực đạo 40 năm về trước; "mình là người vô tổ quốc"

Bốn mươi năm...
Đàn tr thơ nay đã ln
Và chàng trai nay đã già
Nhng người xưđã nm xung
Và rng núi đã héo nhòa !

Bốn mươi năm... 
Người ct chân trên hè ph
K quyn uy trong căn nhà
Người nm rên trong h xá
Là ngưi sáng hay đã lòa ?

Người b thây nơi trùng dương
Mng nh neo trên sóng gm
Nhng hn ma sau hàng km, nhng con mt sâu trng trng !
Người nm chết trên núi sông
Ngườđào sắn trên rung đồng
Người ln li vđi tìm bao con đưng du quê hương !

Mais aujourd'hui, qui se souvient de la souffrance ceux des miens
Qui se souvient de toi mon peuple
Où mon peuple, dans le silence et la douleur, tu écoutes tes pleurs... tomber... 
sur le noir de tes nuits (Phan Văn Hưng)


Mình không biết hình này chụp năm nào, hình như năm 1991. Nghe nói nhiếp ảnh viên Doi Kuro mình theo dõi trên Facebook, có viếng Việt Nam. Khi mình về lại Đàlạt lần đầu tiên năm 1992, cảnh tượng Đàlạt như vậy, nghèo nàn, sau 20 năm, thiên hạ đi xe đạp nhiều , ít xe hơi.
Đây hình ảnh khu bánh mì VĨnh Chấn trước 75. Ai về Đà Lạt ngày nay thì không nhận ra chỗ này.

Nhs


PB-858, con thuyền đưa vợ mình đi tìm tự do


PB 858 (Pulau Bidong 858) là tên số chiếc tàu định mệnh "Exodus", đã đưa vợ mình ra khỏi Việt Nam trên đường tìm Tự Do vào tháng 4 năm 1983, 8 năm sau khi vị tổng thống cuối cùng của VNCH đầu hàng để tránh cuộc biển máu tại miền Nam mà đồng bào ở Huế đã kinh qua trong cuộc tổng công kích Mậu Thân 1968. 

Cuộc hành trình đã được chuẩn bị từ 6-3-1982, đến bờ tự do ngày 26-4-1983, đúng 13 tháng 20 ngày. Cuộc hải trình rời Việt Nam, bắt đầu từ chiều thứ 6, 16-4-1983 và cặp bờ đảo Tioman, Mã Lai ngày 21-4-1983 sau 6 ngày, 5 đêm lênh đênh trên biển Đông. Tàu này là chiếc thứ 858 đến đảo Pulau Bidong nên đã được đổi tên từ SG 1034TS thành PB 858.

Tuần trước, sau khi coi cuốn phim tài liệu "những ngày cuối cùng tại Việt Nam" (Last days in Vietnam),  mình có hỏi đồng chí gái về những ngày cuối cùng ở Việt Nam, trước khi vượt biển thì cô nàng bảo không nhớ vì đã trên 31 năm, thêm không dự tính đi. Có người rũ đi, họ cho mượn vàng sang đây trả nên đi theo với người anh kế. Người dẫn đường, dẫn đi đâu thì đi theo đó vì trong thâm tâm, không nghĩ sẽ đi thoát nhất là mệt, rồi xuống tàu đến khi lên bờ tại Mã Lai.

Mình gọi anh Quý, người trong ban tổ chức của chuyến đi, anh của chị dâu của đồng chí gái thì khám phá ra anh này có ghi lại chi tiết của chuyến đi; ngày nào đóng tàu, hải trình ngày giờ ra đi và đến bờ nên mình hẹn ghé lại nhà để xin thêm chi tiết để ghi lại, để cho con cháu sau này tìm về nguồn, cả tiếng Anh và tiếng Việt.

Anh Quý gia nhập quân đội VNCH, binh chủng hải quân năm 1971  khi bị tổng động viên. Dạo đó chương trình Việt Nam hoá của chiến tranh Việt Nam bắt đầu nên quân đội VNCH đưa nhiều sĩ quan thuộc nhiều binh chủng, sang tu nghiệp tại Hoa Kỳ. Anh Quý kể có 800 sĩ quan Hải quân VNCH được gửi sang Hoa Kỳ, theo học các khoá huấn luyện một năm tại trường hàng hải ở Rhodes Island, chuẩn bị tiếp nhận tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ, giao lại trước khi triệt thoái khỏi Việt Nam. Anh bảo may mắn vì sau 75, những người có kinh nghiệm về hàng hải như anh, rất được các nhóm chuẩn bị vượt biên tìm kiếm, để giúp họ về hoa tiêu hay tài công.

Anh kể là có chân trong tổ chức vượt biên mấy lần nhưng bị bể hoài. Lần chót bị bể; chủ ghe tổ chức một cuộc du lịch cho một công ty quốc doanh, đưa các công nhân xuất sắc, tiên tiến, anh hùng lao động của công ty, đi dã ngoại ở Vũng Tàu. Em gái của anh Quý không tính đi nhưng độ đâu 1 tuần trước ngày đi thì cô em mới sinh được một tháng, nhờ anh lo, giúp cho gia đình cô ta thêm cô em út đi chung. Cận ngày đi, chủ tàu và chủ bãi đã nhận hết người nên anh hỏi mấy người lo phần tiếp liệu, dầu, đồ ăn thì mấy người này nhận mỗi người một cây, canh me cho gia đình cô em ( chị dâu của đồng chí gái); 2 vợ chồng, 3 đứa con, đứa út mới sinh được mấy tuần và cô em út.  (6 cây vàng).

Theo mình hiểu thì dạo đó đi vượt biên; các chủ tàu ghe đã mua công an biên phòng, khu vực,.., hết. Ai có tiền muốn đi thì hùn nhau đóng tàu đánh cá để gia nhập hợp tác xã đánh cá quốc doanh, ghi tên chủ ghe, thuỷ thủ, tài công...., rồi đi đánh cá vài lần, nộp cá cho hợp tác xã cho lấy niềm tin, rồi đến ngày thì đi đáng cá rồi vượt biển luôn. Thường thì chủ tàu và chủ bãi (người lo liệu hậu cần, cho người vượt biên núp trong nhà dân đến ngày ra khơi, mua dầu, thức ăn , nước) là đầu nậu, thu tiền những gia đình nào muốn đi để trả tiền các chi phí cho chuyến đi. Mấy người khác như tài công, lo hậu cần...., tuy không trả chi phí vì người có công người có của nhưng nhờ biết chỗ đáp, ngày giờ nên cũng thu tiền của người muốn vượt biển, thường được gọi là "canh me"

Chủ tàu hay chủ bãi tuy biết được nhưng sợ bị lộ thì công an tóm vô tù nên đành cho đám canh me lên tàu, nếu không họ làm ồn, bị lộ. Trong trường hợp bị bể thì chủ Tàu mất ghe, mất vốn, không có tiền trả lại cho những ai đã chung tiền. Những người đi không được, gọi oan chủ tàu giựt vàng của họ. Thật ra cũng có người tổ chức ma để lấy tiền của thiên hạ. Trong cuốn phim "Boat People" của đạo diễn Ang Lee, người Đài Loan có quay cảnh vượt biên và lí do khá trung thực. 

Anh Quý kể như dự định thì các người đóng vàng đi vượt biên, hẹn nhau ở sở thú, bận đồ đàng hoàng, chớ không phải hoá trang thành dân làm ruộng như vợ VHĐ, gái Đà Lạt, da trắng, má hồng về Rạch Giá, Long Xuyên, quê nội của hắn, phải che mặt.... Xe buýt chở đám người dự định vượt biên xuống Vũng Tàu để đến điểm hẹn nhưng giờ chót bị bể nên anh phải cầm dép Dotochay, bỏ chạy về Sàigòn với ông anh kế của đồng chí gái. Trong khi đó gia đình cô em, chị dâu của đồng chí gái thì theo nhóm canh me lại lên được tàu. 

Chủ Tàu hỏi thuộc nhánh nào vì không có trong danh sách nhưng rồi cũng cho lên tàu vì sợ bị lộ. Bà chị dâu, lưng đeo cái đẫy, cột cô con gái mới sinh, khi nhảy lên tàu thì bị té xuống biển. Đám canh me chở tới nhưng không tiếp cứu, may nhờ chủ tàu, tuy biết là dân canh me, ông vẫn cho người xuống vớt lên. Cuối cùng chủ tàu thấy đông người  quá, cũng có thể nhánh của chủ tàu chưa đến hết nên chấp nhận mất tàu, cho tàu đi còn chủ tàu nhảy lên bờ, ở lại đợi chuyến sau.

Bà chị dâu của đồng chí gái nhủ thầm là nhánh ông anh bị bể, đi hụt nhưng lại sống còn mình lên tàu được, lại chết vì tàu ra khơi một ngày thì bị chết máy, lênh đênh trên biển đến 12 ngày sau mới có tàu Nam Dương, dùng dây buột lại, kéo đi khiến mọi người mừng nhưng không ngờ Tàu này kéo lại ra biển rồi cắt dây. Dạo đó chính quyền Nam Dương hay Mã Lai đều không có khả năng tiếp nhận làng sóng vượt biển từ Việt Nam nên họ làm mọi cách để dân vượt biển không chạy vào đất của họ. 

Sau đó thuyền tấp vào một hòn đảo, gặp 3 cha con, người Nam Dương  gốc Hoa, trong thuyền có một người biết tiếng Hoa nên nhờ cứu giúp. Mọi người trên Tàu, đem tiền vàng ra trả nên được cứu sống, kéo vào đảo. Trong người có đem theo một chỉ vàng, lên đảo đi buôn quần áo còn ông chồng, anh ruột của đồng chí gái thì đi chụp hình kiếm sống đến khi rời đảo, đi định cư thì dư được ba cây vàng. Sau này, sang Mỹ, bán quần áo ở chợ trời rồi từ từ mở tiệm bán đồ trang trí nội thất, tiệm vàng rất thành công, sản xuất thêm 3 đứa con, tổng cộng 6 đứa, theo lời Chúa cho bao nhiêu đẻ bấy nhiêu.


           (Nhật ký của anh Quý)

Hụt chuyến đó nhưng anh Quý và chủ tàu nhất quyết đi, lần này là Banco, tố hết, nhất quyết ra đi. Họ quyên tiền trong gia đình, dòng họ để đóng hai chiếc tàu giống nhau, đề phòng trường hợp nhỡ một chiếc tàu bị hư thì dùng bảng số tàu chính, gắn vào tàu thứ 2 (sơ cua) để tiếp tục cuộc hành trình tìm Tự Do.

Tàu số 1: mang biển số  SG 1034 TS, có tên Thuỷ Ngư
6- 3-1982: dựng lô để đóng tàu số 1, có trọng tải 10 tấn
11-4-1982: làm lễ Hạ Thuỷ có biển số Tàu là SG 1034 TS, qua Mã Lai được đổi lại PB858. Chủ Tàu là Nguyễn thị Tuyết Mai. Ông Ngô Văn Thọ trông coi suốt thời gian đóng tàu.
Theo kết quả của cuộc kiểm tra tàu do anh Quý thực hiện trong thời gian chuẩn bị:
Tàu dài 12.8 m (42 feet), chiều ngang 3 m (9.8 feet) và thân hậu 1.6 m (5.2 feet), phòng lái dài 3m (9.8 feet) x 2.8 m (9.1 feet), vỏ tàu dày 3 cm (1.2 inch), mũi tàu bọc sắt dày 7 cm, có máy GM# 371, vòng quay tối đa 2,500 vòng/ phút (RPM),  thêm một cái máy đuôi tôm Kohler để phòng hờ chết máy. Máy đuôi tôm dùng cho các ghe nhỏ, còn đẫy chiếc tàu 10 tấn thì chắc khó.
Chứa được 900 lít nước thêm 2 cái phuy đựng nước trên boong tàu. Trên nguyên tắc hầm chứa dầu của tàu chứa 1,400 lít nhưng thực tế độ 1,000 lít.
Không biết máy tàu có hiệu suất  mấy lốc, máy số 371 nên chắc 3 lốc vì có người kể một anh gốc Triều Châu đi vượt biên, bị bể, vô tù. Công an hỏi cung: "động cơ" nào khiến anh phản quốc, không lao động, xây dựng xã hội chủ nghĩa , lại bỏ nước đi vượt biên thì anh chàng này trả lời : 2 lốc nên bị công an đánh tơi bời, hoa lá.
Điện: có 2 bình accu Bungari mới 12 volt


Hình Tàu SG 1034 TS (1982-1983), mang tên Thuỷ Ngư (Cá Biển), đậu ở Cảng Cá Phước Tỉnh, ngay cửa sông Cỏ Mây, đối diện Vũng Tàu. Đến Mã Lai được đổi tên PB 858. Có 2 cửa thông hơi cho hầm ở dưới, đưa 183 người rời Việt Nam, 182 người đến Mã Lai.

Tàu số 2: SG 1051
26-5-82: dựng lô để đóng theo họa đồ của Tàu số 1.
6-1982: Hạ thuỷ
dài 13 m, mang số SG 1051  . Được trang bị như Tàu số 1.

Tháng 8-1982: Tàu đi đánh cá lần đầu tiên, trở về tháng 12-1982
Tàu được gia nhập hợp tác xã đánh cá và đậu bến tại cảng cá Phước Tỉnh, đầu nguồn của sông Cỏ May. Lần đầu tiên ra biển đánh cá tại Vũng Tàu, huyện Chân Thành, Bà Rịa, Đồng Nai. Thuỷ thủ đoàn gồm Thọ, Phúc, Minh Đạt, Kim, Lẹ. Dạo đó là thời bao cấp nên tàu của mọi người  phải vào hợp tác xã, đi đánh cá về nộp cho quốc doanh rồi sẽ được chia lại nhưng thuỷ thủ đoàn toàn là con cháu trong gia đình, học sinh được đưa vào danh sách thuỷ thủ đoàn để chuẩn bị vượt biên nên không biết nghề chài lưới nên ra khơi, mất lưới cả dàn cào. Phải mua cá của những tàu đánh cá khác để nộp cho tổ hợp quốc doanh và lưới đánh cá mới để khỏi bị nghi ngờ.

Chú vợ của anh Quý, đứng ra trực tiếp mua bãi còn anh Quý thì lo vấn đề tài công và tiếp liệu.
1,400 lít nước, 600 lít dầu còn trên tàu, thêm 40 can gánh ra bãi (30 lít/ can) = 1,200 lít đầu, tổng cộng 1,800 lít dầu và lương thực sẽ được gánh lên bãi trước khi đi,.... Châu Đình An có làm bài hát "đêm nay anh gánh dầu ra biển anh chôn, anh chôn mối tình,.." Ngày xưa nghe bản này nhưng không hiểu hoàn cảnh, nay viết lại hành trình của vợ mới thấm.
Lương thực sẽ được các Taxi mang lên tàu khi đến bãi đáp khoảng 100 kí gạo còn trên tàu, 12 kí lô thịt chà bông, 75 hộp sữa, 10 kí lô đường cát trắng, 10 kí đường thẻ, 70 bịch gạo sấy, 2 tạ gạo.
 Thuốc men thì mọi người tự túc.
Số người cần phải đón ở Sàigòn:  60 người lớn + 20 trẻ em, 10 ở bãi, tổng cộng 120 người kiêm cả thuỷ thủ đoàn.

Thứ 4; 13-4-1983: Đổ quân
Cho người đi đón ở điểm hẹn ở Sàigòn:
6:30 -7:00: Dòng Chúa Cứu Thế, 
7:30 : nhà thờ Tân Định, chắc là sau khi đi lễ cho tiện cầu nguyện bề trên.
8:00:  Sở Thú rồi đưa về Hải Sơn, gần Phú Mỹ, cạnh dòng sông Thị Vải, cách Vũng Tàu 15 km, bằng xe ôm, xe đò. 
Trên xe thì cả nhóm giả bộ không biết nhau, người dẫn đường xuống xe, đi đâu thì khách vượt biên cứ đi theo để lở bị bể thì không bị liên lụy. Đến Hải Sơn thì chủ bãi đã mua trước nên cho người vào nhà dân địa phương tá túc, đợi ngày đi, được gọi là chỗ nén. Các nhóm này được chia nhỏ độ 4 hay 5 người để khỏi bị lộ. Đồng chí gái bảo là thời gian rất mệt vì giờ giấc, chỗ lạ....


Thứ 5, 14-4-1983:
Bốc toàn bộ khách và gia đình, chủ tàu ở Sở Thú và vườn Tao Đàn, gửi vào các nhà nén, đợi ngày giờ đi.

Lộ trình: từ Sàigòn, khách vượt biển được đón tại các điểm hẹn trước, sẽ đi xe đò, xe ôm xuống Hải Sơn, trốn trong các nhà nén, đợi lệnh, ngày giờ khởi hành. Từ đó, đi ghe và Taxi lớn ra điểm hẹn: đảo Tắc Cá Hồng. Tàu PB858, đậu bến ở Phươc Tỉnh cách đó 15 cây số vào đón rồi đi ra vịnh Gành Rái, trực chỉ hướng Phi Luật Tân.


Thứ 6, 15-4-1983: Ngày khởi hành (D Day, le jour le plus long)
19:00: bắt đầu chuyển người đi
19:30: lệnh khởi hành ban bố. Có ghe nhỏ chở người đi theo mấy con lạch, đổ ra dòng sông Thị Vải, đổi sang Tàu lớn hơn (taxi) chạy trên sông Thị Vải, đưa đến điểm hẹn Tắc Cá Hồng.
21:00: đến địa điểm chờ taxi. 
Một nhóm khác mướn một ông Võ sĩ (Đinh Thọ) đi theo để bảo vệ, đánh gãy răng một tên canh me, muốn cướp dầu nên tên này chạy đi báo cáo với công an, du kích. Mọi người sợ quá, tính bỏ chạy nhưng ban tổ chức kêu gọi đừng chạy vì chạy là bể. Có lẻ nhờ nhóm người đi, đều là trong gia đình nên mọi người đều nghe lời ban tổ chức, chớ người lạ thì chắc hồn ai nấy giữ. Công an xuống bao vây, chỉa súng và thương lượng lấy thêm vàng dù đã mua trước nên thoát. 
22:00 : taxi vào, đưa lương thực lên trước rồi đến khách, đầy 3 taxi lớn.
22:00: bố vợ anh Quý, người đứng mũi chịu sào của chuyến đi, rời Sàigònbằng xe Vespa.

Tối đó thì các người như đồng chí gái, núp ở các chổ nén , nhà của dân địa phương được điều động, hướng dẫn đến chổ hẹn để ghe nhỏ (taxi nhỏ hay cá nhỏ) đưa ra ghe lớn hay taxi lớn theo con sông Thị Vải đi ra cửa biển, để đưa đến điểm hẹn, đảo Tắc Cá Hồng . Tàu lớn sẽ bốc đi. Vợ mình chỉ nhớ là đã có ngủ trên cái sạp ngoài chợ vì mệt quá nhưng không nhớ đi chỗ nào. Nhìn lại như một giấc chiêm bao.

Trong khi di chuyển ra khỏi nhà dân địa phương,  đi băng qua con đường Quốc lộ thì bổng thấy ánh sáng của đèn pin rọi lên trời nên mọi người tưởng bị lộ nên bỏ chạy khắp nơi, tưởng bị bể nhưng nhờ đã mua trước nên gần sáng 16-4-83 thì ban tổ chức tập họp lại được nhóm người bỏ chạy.

Thứ bảy 16-4-83: (ngày đầu tiên trên biển)
5:00: Đặt chân lên Tắc Cá Hồng, không có phương tiện liên lạc nên có 1 chiếc taxi lớn , 2 chiếc taxi nhỏ chưa đến kịp, trong đó có con trai đầu của anh Quý nên mọi người bảo nhau đợi. 

7:30:  Tìm được số ghe thất lạc. Có hai người cháu của ông bố vợ, sợ bị lộ nên bỏ về vì thường Tàu ra khơi ban đêm hay sáng sớm khi mặt trời chưa lên để tránh bị công an Duyên Hải phát giác.

10:30: Cuối cùng thì các chiếc taxi lớn chở mọi người đến điểm hẹn Tắc Cá Hồng. Mọi người chưa kịp vui mừng thì nghe tin Tàu lớn bị hỏng máy, đang sửa chửa nên chưa vào điểm hẹn được.  Sau này mới biết là tên Tàicông phá hỏng máy vì ban tổ chức rất kín đáo không cho biết điểm hẹn nên hắn không "canh me"  được, đưa người của hắn đến được nên cố tình pháhỏng máy để dời lại chuyến đi.

11:15: Tàu đậu ở Cảng Cá Phước Tỉnh. Cuối cùng thì thợ máy sửa được máy, đem Tàu lớn vào điểm hẹn, chạy bọc Vũng Tàu,  vào vịnh Gành Rái đến đảo Tắc Cá Hồng, điểm hẹn gần Phước Hoà. Trong lúc chờ đợi,  mọi người bắt đầu ỏi rồi vì nắng. Anh N, chồng chị H, người cho vợ mình mượn vàng để đi, phải lấy nước tiểu cho con uống. Bắt đầu đổ quân, cho người lên tàu trong khi các Tàu đánh cá khác chạy ngang, có người bơi lại lấy đồ của người vượt biển bỏ lại.
Tàu đậu ở Phước Tỉnh nhưng ban tổ chức không dám đón người ở trên sông Cỏ May dù tiện và gần đở mất thì giờ. Lí do công an bắt chận ở cầu Cỏ May. Trong khi vịnh Gành Rái khá rộng nên có thể tránh tàu tuần tiểu của công an Duyên Hải.

14:00: Mọi người lên Tàu hết, tổng cộng là 183 người. Ban tổ chức dự định và đã nhận tiền của 120 người, coi như dân canh me chiếm 1/3 số người ra đi. Mọi người trừ nhóm tài công đều được đưa xuống hầm tàu để tránh công an đi tuần. Vợ mình kể lúc xuống hầm tàu thì bị chị P, chị của anh Quý, nôn lên đầu nên trong cuộc hải trình phải ngửi mùi nôn. Trong đám canh me, có nhiều người quen đi tàu biển nên cũng đở vì họ giúp phần lái tàu, nấu cháo..., trong khi mọi người đều bị say sóng.

16:00: Thay 3 cái mỏ dầu, thấy vãi vụng, cờ domino..., do tài công bỏ vào để làm hư máy, sau này khi tàu vào điểm hẹn thì hắn xuống bờ, đi về vì sợ bị phát giác. Chuẩn bị đưa Tàu ra khỏi Vịnh Gành Rái, rồi trực chỉ 120 độ chạy về hướng Phi Luật Tân, để tránh đảo Côn Sơn, nằm phía Tây Nam, có tàu tuần dương của công an VC. Gần 20 tiếng, từ khi rời nhà dân, chiều hôm trước. Mất thì giờ để chuyển vận lương thực, dầu, nước uống lên ghe nhỏ rồi ghe lớn, phần ghe bị lạc thêm mọi người bỏ chạy nên mất mấy tiếng mới gom lại.


Điểm Hẹn: Tàu lớn đậu ở Cảng Cá Phước Tỉnh. Tàu sẽ vào Vịnh Gành Rái, đến đảo Tắc Cá Hồng để đón khách vượt biển. Khách và lương thực, dầu, nước,.. từ các nhà nén ở Hải Sơn, được di chuyển bằng ghe nhỏ trên các con lạch đến sông Thị Vải. Từ đó sẽ lên Taxi lớn (Tàu lớn), đi theo sông Thị Vải ra Vịnh Gành Rái đến đảo Tắc Cá Hồng. Tàu vào đón mọi người (183 người), ra khơi trực chỉ hướng Philippines.

Chủ Nhật: 17-4-1983 (ngày thứ 2 trên biển)
Sau 1 ngày 1 đêm, tàu ra đến hải phận quốc tế thì đổi hướng 220 độ để chạy về hướng Đông Nam, Nam Dương. Thường người ta đi về hướng Nam Dương để tránh Vịnh Thái Lan, có rất nhiều tàu cướp biển, hải tặc, thuỷ khấu Thái Lan. Anh Quý kể là không có hải bàn của hải quân để chấm tọa độ nên chỉ dùng cái La bàn bộ binh.
Lúc này mới cho kiểm điểm lại dầu, nước và thức ăn. Tàu có 1,200 lít dầu. Đám canh me, chuyển dầu và lương thực lên nên biết gói nào là lương thực nên dấu, dành riêng cho họ nhưng lúc này ban tổ chức kiểm soát được tình hình nên tịch thâu lại hết và quyết định phát cho mọi người trên tàu: Nước: 3 lần /ngày và Cháo: 2 lần /ngày.
20:00:  Tàu bị chết máy, thay bộ bơm dầu mới, trương buồm lên nhưng không chạy. Bắn 4 phát signal SOS (save our Soul) nhưng không có Tàunào đến cả. Dạo đó, các tàu buôn được lệnh của chủ, không được dừng lại để tiếp cứu theo luật hàng hải quốc tế vì chính phủ họ không muốn nhận người tị nạn. Có một chiến hạm của Ý, ngưng lại cứu mấy chiếc tàu vượt biên, chở về hải cảng của hải quân Ý nên ngày nay, có khá đông người Việt tị nạn sống ở vùng Veneto. Tên hạm trưởng của tàu chiến Ý bị cấp trên dũa mệt thở. Dạo ở Ý nghe mấy người bạn sinh sống ở vùng này kể về chuyến đi của họ.

Thứ hai, 18-4-1983: (ngày thứ 3 trên biển)
10:00: Một bà cụ trên 64 tuổi () đi theo con cháu chết và được làm Thuỷ táng lúc 15:00, có ông linh mục đi theo tàu, làm lễ. Còn lại 182 người. Có thể thở không nổi vì ở dưới hầm, có đến 183 người, ngồi sát nhau, không cựa quậy được, thêm chỉ có 2 cái cửa số thông hơi.
18:00:  bắt đầu thấy các tàu buôn, đem đàn bà con nít lên tàu kêu gọi nhưng không tàu nào ngừng để tiếp cứu. 
Ống bơm nước của tàu bị hư, nước vô khá nhiều nên phải dùng máy bơm trực tiếp ra khỏi Tàu lúc đó mới biết là bị Tài công phá hoại vì thấy giấy vụng, rác, cờ domino,...trong máy.

Thứ 3, 19-4-1983: (ngày thứ 4 trên biển)
Máy chạy lại bình thường , đổi hướng 270 độ chạy vào Mã Lai thay vì đi Nam Dương như dự định. Lí do là tàu còn có 200 lít dầu và 100 lít nước. Nhắm đảo Tioman của Mã lai mà chạy. Thật ra vùng đó có nhiều quần đảo khác nhưng chỉ có đảo Tioman được ghi trên bản đồ.

Thứ 4, 20-4-1983 (ngày thứ 5 trên biển)
Hệ thống điện bị hư lại thêm ông bố vợ, đi trên tàu trợt chân, rơi xuống biển nên phải ngưng để kéo lên tàu.

Thứ 5, 21-4-1983 (ngày thứ 6 trên biển)
1:00:  thấy ánh đèn tàu buôn
1:15:  tất cả mất hút
 9:00: bắt đầu thấy chim Hải Âu xuất hiện. Mọi người mừng rỡ vì biết đang gần đất liền.
Dầu còn 200 lít, nước 100 lít, Tàu bi quan. Tính trung bình, tàu tiêu thụ độ 200 lít dầu mỗi ngày và 160 lít nước/ ngày.

Gặp một chiếc Tàu đánh cá ghé lại, tự xưng là người Nam Dương. Hỏi thăm thì họ bảo từ đây vào đất liền mất 4 tiếng đồng hồ. Họ đề nghị là cứ neo tàu ở đây, đợi họ đi lưới cá, rồi chiều sẽ ghé lại, hướng dẫn vào bờ. Có một người trên ghe, nói được tiếng tầu với Thuỷ thủ của tàu Nam Dương nên ông ta đề nghị, nhảy qua Tàu kia đi để tối chiều họ ghé lại dẫn tàu mình vào bờ. Cũng có thể ông ta biết được tình trạng nhiên liệu, nước và lương thực nên qua tàu Nam Dương tìm đương sống. Hồn ai nấy giữ.

Anh Quý định lại tọa độ thì nghĩ không thể chỉ cách có 4 giờ nên nghi ngờ, nghĩ nếu đợi thì chiều chúng trở lại cướp nên quyết định đi tiếp. Sau này gặp lại ông nhảy qua tàu Nam Dương, trên đảo Bidong (Pulau Bidong) thì nghe ông ta kể là bọn Nam Dương bựa, vì tàu của chúng lớn hơn, chạy nhanh hơn mà đi gần một ngày mới đến bờ. Chúng bắt ông ta nhảy xuống tàu, bơi vào bờ. Lên đảo Bidong thì ông ta được liệt tên hành khách của Tàu PB 858 (chắc số thứ tự tàu đã đến đảo), coi như người sống sót của chiếc tàu nên nhà thờ trên đảo bắt đầu làm lễ cầu an cho đoàn người vượt biển còn lại. Không biết dạo đó, Việt Dũng đã sáng tác bài hát "lời kinh đêm" chưa. Ban đêm đi trên tàu mà nghe bản nhạc này chắc tinh thần người vượt biển như các cán binh VC nghe "sinh Bắc tử Nam" của đài Gươm Thiêng Ái Quốc khi xưa.

10:00: thấy phao trôi, lưới của các Tàu đánh cá
12:00: thấy núi xa xa nhưng 7 tiếng sau mới vào đến bờ.
19:00: đến cầu tàu của đảo Tioman.

Anh Quý lên bờ, nói chuyện với cảnh sát Mã Lai. Họ không cho lên, nói sẽ cho người xuống sửa máy tàu rồi chỉ chỗ đảo Bidong cho chạy nhưng nhóm tài công, thợ máy đã phá máy rồi nên thợ của Mã Lai xuống tàu, lắc đầu. Họ đành cho 182 người lưu vong gốc Việt lên cầu tàu. Sau bao ngày ngồi bó gối, bị say sóng nên khi lên bờ thì mọi người bị say đất, đi như người say rượu, té, vài ngày sau mới quen. 

Tối đó cả tàu nằm la liệt trên cầu tàu ngủ, không mền, không chiếu gì cả ngoài sương đêm. Đêm đó có vài tên Mã Lai, đi mò mấy bà trên cầu tàu nhưng phe ta vô sự. Nghe đồng chí gái kể là khi đi khám sức khỏe ở Terengganu, tên y tá người Mã lai bắt tất cả phụ nữ cởi trần hết để cho hắn khám, thật ra để xem có dấu vàng bạc, tài liệu,... Mã Lai, có Quốc giáo làđạo Hồi mà hắn bắt phụ nữ làm vậy là phản lời thánh Allah dạy nhưng hắn được rữa mắt, chắc bà vợ, tối đó vui lắm.

Thứ sáu, 22-4-1983: (ngày thứ 7)
7:00 : Cảnh sát Mã Lai cho tập họp mọi người của tàu, gần một cái suối, lập danh sách đếm người và cho ăn mì gói. Đời lên hương, huy hoàng vì có mì gói để ăn. Hình như tại đây, ông anh vợ của mình, đi chung với đồng chí gái, đeo một chiếc nhẩn một chỉ vàng do bà mẹ đưa, nói sang đảo, bán mà tiêu xài. Mấy ngày trên biển, đói gầy nên khi anh vợ nhảy xuống tắm thì chiếc nhẩn rớt khỏi ngón tay đói dơ xương mất. Vợ mình thì còn sợi dây chuyền, kể lại tiếc vì không dám bán để ăn vì những tháng trên trại, chỉ ăn lương thực của Cao Uỷ Tị Nạn phát chẩn, sau này cũng mất luôn.
Tối đó thì mọi người ngủ bên bờ suối như Văn Cao thủa nào “người hẹn cùng ta đến bên bờ suối…”

Thứ 7, 23-4-1983: (ngày thứ 8)
Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc báo cáo nhận 182 người này. 

10:00: Cảnh sát Mã Lai bắt đốt tàu và giết con chó đi theo tàu để phòng trộm, có lẻ sợ chó đem bệnh lây đến nước họ. Nước Mã Lai không ăn thịt cầy. Họ chỉ giữ lại cái bánh lái cho họ, chắc để làm chứng cho cao ủy tị nạn để lãnh tiền.

Chủ Nhật, 24-4-1983; (ngày thứ 9)
Có ghe chở ra trạm Terengganu. Cả tàu bị lục soát, cởi trần hết, máy ảnh, phim, radio,...bị tịch thâu hết, sau đó có ghe chở ra đảo Bidong.
Cuộc đời tị nạn bắt đầu.


Hải trình: khởi hành từ Đảo Tắc Cá Hồng, ra vịnh Gành Rái, chạy về hướng Phi Luật Tân để tránh Tàu tuần dương của VC, khi ra hải phận Quốc tế thì chạy hướng 220 độ hướng Nam Dương, khi Tàu cạn lương thực, nước và dầu thì quay hướng 270 độ, hướng đảo Tioman. Sau đó được đưa qua Terengganu rồi Pulau Bidong.

 ***Chiếc Tàu thứ 2:
Một tháng sau cũng đến đảo Bidong, mặc dù chủ Tàu đã bỏ đi chung với ghe thứ nhất. Công an tính lấy nên người ở lại, họ tổ chức vượt biên luôn. 

Tháng 8-1983: 
Hoa Kỳ chấp nhận đơn xin định cư của gia đình anh Quý do cô em đi năm trước, bị té xuống biển bảo trợ. Đồng chí gái được vợ chồng bà chị đi năm 1979, bảo trợ sang Massachussetts.

Tháng 12-1983:
Gia đình anh Quý được đi trực tiếp đến Mỹ vì anh ta đã đi học một năm ở Mỹ nên đã biết đời sống, sinh hoạt bên Mỹ còn những người khác như đồng chí gáithì được đưa qua trại Palawan ở Phi Luật Tân để học chuyển tiếp đời sống tại Hoa Kỳ  trước khi định cư tại Boston năm 1984. 1991 phát hiện ra mối tình hữu nghị NHS tại MIT.

Vợ mình chỉ nhớ dạo ấy, vừa tốt nghiệp đại học tổng hợp Sàigòn, khoa Anh Văn nhưng không có việc làm nên đi theo chị H, em dâu của anh Quý, bán thuốc tẩm (học hành sau 5 năm, kiếm được một mảnh bằng , ngờ đâu đó là bằng "thừa") . Một hôm, chị H hỏi sao không đi vượt biên thì cô nàng nói không có tiền. Chị nói sẽ cho mượn nhưng cô nàng bảo người anh cần đi hơn vì ông này sợ đi nghĩa vụ quốc tế qua Kampuchia nên trốn trong nhà. Chị H bảo vậy cho ông anh mượn vàng luôn để đi chung. Ông anh này cùng tuổi với mình, đi vượt biên nhiều lần với anh Quý nhưng cứ bị bể hoài. Bà cụ vợ phải đi thăm nuôi trong tù, bao nhiêu đồ đạt trong nhà đem cầm bán và tiền bạc của mấy anh chị đã đến Mỹ gửi về đều cúng cho cô hồn vượt biển để lo cho ông anh này đi.

Ai mách có chuyến đi bán chính thức và đòi đưa trước 2 cây, hoá ra tổ chức giả nên mất 2 cây vàng. Sau này, nhóm anh Quý tổ chức đi nên nợ chị H, tổng cộng 8 cây vàng và đã trả khi sang Mỹ. Năm 1979, khi Đặng Tiểu Bình xua quân qua biên giới, nói để dạy cho Việt Nam một bài học thì có phong trào vượt biển "Bán chính thức", tống khứ các người Việt gốc Hoa ra khỏi Việt Nam để tránh lộn xộn. Các người gốc Hoa cúng vàng cho VC để được đi nên gọi là bán chính thức. Dạo đó người gốc Hoa rất có giá vì ai muốn đi là cứ kiếm họ, làm vợ chồng, con cái,...để ra đi, không sợ bị bắt. VHĐ, NTT,..., đi đợt này, làm giấy tờ giả với tên A Muối, A Sáng,....đi hà rầm. Sau này hết đợt này thì ai nói có tổ chức bán chính thức là bựa.

Ra đi chấp nhận sống chết để tìm tự do nhưng vợ mình vẫn khắc khỏi là trước khi đi, không chào hay ôm bà mẹ lần cuối vì trong đầu nghĩ là chắc không đi lọt vì phong trào vượt biên khá đông nhưng số người thoát rất ít. Phần bà mẹ vợ thì trong lòng cũng xót xa vì con đều đi vượt biển hết ngoại trừ một ông anh đầu còn ở lại, tuyên bố không ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc, ở lại quê hương là chùm khế ngọt để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, ông ta sang Mỹ theo diện đoàn tụ, ăn trợ cấp mệt thở từ 23 năm nay. Bà nhạc, hàng đêm tụng kinh cầu nguyện cho con cháu đi đường bình an, lo sợ đến nổi tai bị ù vì stress quá. 8 năm sau, gia đình mới đoàn tụ lại hết ở tiểu bang Cali. Để đóng dấu gia đình đoàn tụ, xum họp lại như xưa nên bố mẹ vợ mới chấp nhận cho đồng chí gái đăng kí quản lí đời NHS.

Mình có hai đứa em vượt biển năm 80-81, đến Nam Dương ở đảo Galang, sau đó sang Pháp. Một em rể thì đi từ Phan Rang, đến Hong Kông. Trên tàu có mấy đứa em con bà dì cùng đi, hình như bà dì mình cũng thuộc loại dân đóngtàu cho người vượt biển. Mấy người em bà con định cư ở Hoa Kỳ, trong khi mấy đứa em mình xin đi Pháp để đoàn tụ với mình nhưng chỉ gặp nhau vài năm ở Pháp rồi mình lại lang thang sang Thuỵ Sĩ, Anh Quốc rồi Mỹ, lập gia đình và định cư luôn ở đây.

Anh Quý tiếc cái máy hình và hai cuộn phim do anh chụp từ lúc đổ quân, mọi người lên Tàu.... Nghe người đi trước nói là đem theo cái máy chụp ảnh để kiếm ăn khi sang đảo. Khi rời trại, ai cũng muốn chụp vài tấm hình làm kỷ niệm của những cuộc tình tị nạn,...nên có máy ảnh là làm ra tiền nhưng bọn Mã Lai tịch thu hết radio, máy ảnh.... 

Theo tài liệu của tình báo Mỹ cho biết thì Việt Cộng cử người đi vượt biên, nằm vùng cho họ nên cảnh sát Mã Lai rất lo sợ nhóm được gài đi, liên lạc với nhóm phản loạn Cộng sản ở Mã Lai, đóng quân gần biên giới Thái Lan nên họ rất nghiêm ngặt và tìm cách chặn đứng làn sóng tị nạn từ Việt Nam. Năm 1989, nhóm quân du kích Cộng sản do Chín Peng lãnh đạo, được hậu ứng bởi Tầu Cộng, hạ súng, chấm dứt cuộc chiến từ 1949 nhằm lật đổ chính quyền dân sự Mã Lai. Người Anh, họ áp dụng chương trình thành lập các ấp chiến lược, để tiêu diệt các Đảng viên Cộng sản Mã Lai rất thành công nhưng khi áp dụng vào miền Nam Việt Nam thì thất bại vì các gia đình miền Nam có nhiều người tập kết ra Bắc. Năm 1991, đảo Bidong đóng cửa, chấm dứt một chặn đường của người Việt bỏ nước ra đi. Sau này, như đã hứa chính phủ Mỹ nhận thêm người Việt, qua các chương trình H.O., O.D.P, đoàn tụ gia đình rồi Việt Kiều làm công hàm ngoại giao về nước cưới vợ, đem vợ sang rồi thân nhân....

Dạo đó truyền hình lúc nào cũng chiếu cảnh mấy chiếc tàu bé nhỏ, đầy người được các Y sĩ không biên giới (médecins sans frontières), dẫn đầu bởi Bác sĩ Bernard Kouchner của Pháp, đưa con Tàu "đảo ánh sáng" (île de lumière), đi vớt người vượt biển trên biển đông. Hình như Đinh Quốc Anh Tuấn, Bác sĩ , thành viên tổng hội sinh viên Paris, đã đi theo đoàn này. Anh chàng này có làm nhiều bài hát khá cảm động. Sau này nghe nói anh ta sang Mỹ làm việc.

Theo thông cáo của Cao Uỷ Tị Nạn của Liên Hiệp Quốc: độ chừng 50% số người vượt biển đã bỏ mình trên đại dương vì hải tặc, bảo tố, chết máy.... Có những trường hợp, những người sống sót đã phải ăn thịt người chết,... Mình có cô hàng xóm, cựu học sinh Văn Học, nhà đối diện nhà của Phạm Ngọc Liên, cư xá địa dư, đi vượt biển mà trên 30 năm nay, gia đình không nhận được tin tức.

Theo CUTN của LHQ thì có trên 1 triệu người tị nạn được đi định cư tại nước thứ 3, vị chị có tối thiểu 1 triệu người đã bỏ mình trên đường tìm Tự Do. Họ tính theo lời khai của những người sống sót kể lại tương tự con Tàu PB858, ông biết nói tiếng Hoa, nhảy lên tàu đánh cá của người Nam Dương. Khi ông này vào đến bờ thì họ ghi hồ sơ ông ta, đi theo con Tàu mang số PB 858, có một người sống sót, đến bờ nên sau này khi 181 người kia lên đến đảo Bidong thì họ cho sát nhập vào Tàu PB 858, nâng tổng số người của con Tàu này lên 182 sống sót, 1 được thuỷ táng.

Đảo tạm cư Bidong được đóng cửa vào ngày 30-10-1991 sau 16 năm hoạt động, có trên 250,000 người tị nạn, sống sót khi vượt biển, đã tạm trú tại đây từ tháng 5-1975. Sau đó, các người vượt biển, không được các nước thứ 3 nhận cho định cư bị cưỡng bách hồi hương, nhất là tại các trại tị nạn ở Hong Kong, đa số đi từ miền Bắc, không được xem là tị nạn chính trị vì họ sinh ra tại miền Bắc trước 1975. Mình có mấy người bạn, thiện nguyện viên trong các trại ở Hong Kông, có người được học bổng Fullbright để làm việc tại đây. Những vụ tự tử, mỗ bụng xảy ra hàng ngày tại các trại Whitehead,... Vài năm sau khi sống sót qua các hải trình, các người vượt biển đã quên hết quá khứ, trở về Việt Nam làm ăn, buôn bán..., kêu gọi quê hương là chùm khế ngọt. Chán Mớ Đời.

Mình có tên bạn học khi xưa và một tên hàng xóm, nộp vàng cho Việt Cộng để đi vượt biển. Vài năm sau ở Mỹ, để dành tiền mua xe cũ ở Cali, đem về bán cho Việt Nam làm giàu. Việt Cộng cho họ làm ăn vài chuyến rồi đòi đóng thuế 200%, không có tiền đóng nên bị tịch thâu hết. Vài năm sau lại về VN, tìm cách làm ăn. Như câu chuyện con ếch và con bò cạp. Một hôm con bò cạp nhờ con ếch đưa qua suối. Con ếch bảo sợ bị con bò cạp cắn. Bò cạp nhà ta hứa là sẽ không cắn vì đã cứu giúp hắn khiến con ếch xiêu lòng, chấp nhận cõng bò cạp lội qua suối. Gần đến bờ thì bò cạp nhà ta, cắn con ếch rồi nhảy lên bờ. Ếch nhà mình, hấp hối hỏi con bò cạp tại sao đã hứa không cắn mà nay lại cắn. Bò cạp nhà ta bảo: "bò cạp vẫn mãi mãi là bò cạp". 

Xét về mặt kinh tế, mỗi người đi trung bình đóng tối thiểu một cây vàng cho chủ ghe, để trả tiền đóng tàu, mua bãi, mua công an, nhiên liệu,.... Tính bìnhquân, có trên 2 triệu người nộp vàng để ra đi, coi như tối thiểu là có trên 2 triệu cây vàng (lượng) được đóng góp vào những cuộc vượt biển từ 1975 đến 1991(16 năm). Đó là chưa kể những người đóng tiền đi nhưng bị bể nên ở lại, nhiều khi đi rất nhiều lần. Mình biết có người tìm cách vượt biên gần 10 năm nhưng không thành, nhà hết tiền nên đành ở lại. Tính giá 1 lượng vàng là $1,500.00, $1,500.00 x 2,000,000 người = $300,000,000.00 (ít nhất). Công an lấy 1/3 hay 10 tỉ đô la. Ngày nay, mỗi năm số người Việt lưu vong gửi về cho gia đình hàng năm trên 10 tỉ đô la. Việt Cộng quá lời.

Vợ mình có mấy người bạn học xưa, tìm cách vượt biển hoài, đi không được. Anh chị đi được gửi tiền về làm vốn, xây dựng sự nghiệp, có vài khách sạn, tàubè. Ngày nay sống như vua trong khi mấy người ra đi thì lại te tua, lao động vinh quang ở Hoa Kỳ. Gia đình chị H, người cho mượn thiền nay sinh sống tại Denver, làm nghề nail, có nhà cửa cho thuê. Anh Quý thì về hưu, có nhà và tiệm cho thuê nên cuộc sống cũng thỏi mái. Lâu lâu họp mặt gia đình, mấy người hay hồi tưởng lại những ngày lênh đênh trên biển. Có người nói cám ơn Bác và Đảng nên ngày nay mình mới có cuộc sống thoải mái ở Hoa Kỳ, con cháu được sống trong một môi trường đẹp hơn Việt Nam.

Có nhiều người bỏ nước ra đi, trải qua nhiều nguy hiểm, bị cướp, có người thân chết. Có nhiều người mất thân nhân hoặc không có tin tức gì cả nhưng họ vẫn không mất niềm tin, sẽ tìm lại được người thân, mất tích trên đường tìm Tự Do. Tom Wilson, cựu sinh viên của đại học UCI có thành lập một lớp để nói về hiện trạng các người tị nạn ở Đông Nam Á, gọi "Project Ngọc" sau này các sinh viên đã gây quỹ, gửi thiện nguyện viên đi qua các trại tị nạn, có  TTV, Đức Âu ( con trai của cựu Bộ trưởng kinh tế Âu Trường Thanh) điều hành lúc đầu. Có lẻ bài hát mà mình rất cảm động nhất là "Em Bé và Viên Sỏi", mỗi làm nghe là thương cho thân phận người Việt.


NHS