Từ Quy Nhơn đến Lực Lượng Đặc Biệt

 Mò mò thêm về ông Mỹ Tony này, thì khám phá ra ông ta lấy vợ người Việt. Có hai thằng con trai lai việt. Rồi vợ ông Cư quen với bà ta. Ông Cư và ông Tony từng đánh giặc ở Việt Nam nên đồng cảm và buồn đời, lâu lâu ngồi nói chuyện với ông Cư, kể về thời đánh giặc ở Việt Nam trong lực lượng đặc biệt nên ông này kể lại cho người Mỹ đọc cho quên nổi buồn chiến tranh.


Ông ta cho biết lâu lâu hay gặp bạn cùng quân ngủ, tham chiến tại Việt Nam từ 1969 đến 1973 thì ông bạn gốc việt nói về các cuộc hành quân thám sát của đơn vị lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng Hoà cùng thời gian.

  

 This is Nguyen Cu’ van’s BIO.

 

    "The Life and Times of a Vietnamese Special Forces Trooper"  

                   with his friend, Tony Con Cop       


Ông Cư kể là lớn lên gần Nha Trang. Nhà nghèo nhưng ông ta không biết nghèo vì mọi người ông ta biết đều sống như gia đình ông ta. Ông ta sinh ra tại một làng ở gần Quy Nhơn, và sống tại đó được 12 năm. Gia đình có độ 2.5 mẩu đất để trồng trọt. Nhà được làm bằng gỗ, lợp mái bằng lá dừa. Nói chung gia cảnh có đủ cơm ăn áo mặc.


Năm 1962, tôi thấy lần đầu tiên người Mỹ. Một hôm độ 4:30 hay 5 giờ, chúng tôi nghe  "Whoomp-whoomp-whoomp" trên đầu. Cả làng đều nghe tiếng trực thăng và nhìn lên trời và thấy một chiếc trực thăng Chinook, hơi cũ có hình dáng như trái chuối. Máy bay xuất hiện từ trên núi đáp xuống khu vực làng chúng tôi. Bay xà qua quốc lộ số 1, rồi đậu xuống và tắt máy.


Lính Mỹ Nhảy ra với súng của họ, khởi đầu họ dàn canh gác xung quanh máy bay, sau đó bắt đầu xem xét máy móc. Hình như máy móc lộn xộn với chiếc máy bay. Việc này xẩy ra rất lạ khiến con nít như tụi tôi trong làng, tò mò rủ nhau chạy lại xem chiếc máy bay cận cảnh lần đầu tiên. Con nít trong làng chạy ra xem. Lúc đầu chúng tôi đứng xa xa sau tiến lại gần. Vụ này mình có thấy khi ra sân vận động, cạnh Thao Trường, thấy họ đáp Chinook hay trước Thuỷ Tạ, thấy lạ nên hay đứng xem. Rồi sau này quen nên chả buồn ngó.


Trong làng có độ 150 người sinh sống, độ 25 đến 30 gia đình. Mọi người đều chạy ra xem người Mỹ và chiếc trực thăng. Người Mỹ to cao, tóc vàng, da trắng bệt như người Việt bị bệnh. Chúng tôi chưa bao giờ thấy người tóc vàng, mắt xanh. Có người da đen tóc đen. Chúng tôi đứng xung quanh xem xét, như con Nai ngơ ngác không dám lại gần.


Sau đó mấy người lớn như cha tôi đến gần. Mấy người lính Mỹ đưa cho họ thuốc lá Mỹ. Mấy người lớn chưa bao giờ thấy thuốc lá Mỹ có đầu lọc. Không ai biết nói tiếng anh cả. Cứ như ông nói gà bà nói vịt. Nhưng người lớn hiểu là thuốc lá. Vì họ hút thuốc lá do chính họ trồng ở ruộng mà người ta hay gọi là thuốc Cẩm lệ. Thuốc lá được trồng rồi mấy người như bà Cẩm lệ từ Huế đi xe ra mua, đem về tẩm thuốc rồi bán. Thuốc vấn danh tiếng một thời nên người Đà Lạt hay gọi thuốc Cẩm Lệ. Mình có ông cậu bà con bán thuốc Cẩm Lệ ở chợ Đà Lạt khi xưa, ngay gian hàng guốc. Người dân không biết gì ngoại trừ làng của họ. Chưa bao giờ thấy radio, máy truyền hình trong đời. Chúng tôi đứng xem đến chiều chạng vạng thì mọi người về nhà. Lính Mỹ ở lại đó cả đêm. Đến sáng hôm sau độ 6 giờ sáng có thêm mấy chiếc trực thăng bay đến đậu bên cạnh. Có lẻ họ đem theo đồ phụ tùng. Độ 2 giờ chiều thì mọi người Mỹ và trực thăng cất cánh bay đi luôn. Ngày hôm ấy rất đặc biệt trong thời thơ ấu khiến chúng tôi không bao giờ quên.



Chúng tôi sống tại làng đến năm 1964 hay 1965, khi tôi độ 11 hay 12 tuổi đầu. Trong vùng chúng tôi, quân đội cộng hoà và cộng sản đánh nhau qua lại và cuối cùng quân đội quốc gia bỏ cuộc và Việt Cộng chiếm đóng. Gia đình chúng tôi phải di tản về phiá nam. Bố tôi vào Khánh Hoà mua đất gần Nha Trang, xây căn nhà tạm trú.


Nhà tôi có 4 chị em, một chị lớn, đến tôi và hai người em. Khi Việt Cộng xâm chiếm vùng làng chúng tôi thì gia đình chúng tôi rời bỏ đi vào phía nam. Nhưng bố tôi còn ở lại để lấy thêm đồ mang đi và xếp dấu cất các vật dụng trong nhà rồi sẽ đi sau. Bổng nhiên chị tôi nói chạy về nhà để lấy đồ gì bỏ quên thì bị Việt Cộng bắt, xung vào làm dân quân, đi tải đạn, nhu liệu. Họ bắt chị tôi làm việc như súc vật. Chúng tôi không bao giờ gặp lại chị tôi. Sau này nghe những người già (nghe nói nằm vùng) ở lại kể là chị bị bom thả chết trong rừng. Bố tôi cũng bị kẹt ở lại.


Tôi kể đây vì có rất nhiều người Mỹ không hiểu. Họ xem phim tuyên truyền, thấy phụ nữ và trẻ em làm chông, cắm vào dưới nước để lính Mỹ đi tuần đạp lên. Những người này tham gia kháng chiến này nọ nhưng chỉ là tuyên truyền. Trên thực tế họ bị bắt buộc làm nếu không họ sẽ bị xử tử. Chị tôi chết với Việt Cộng nhưng là người tù của họ, bắt buộc theo họ.


Nơi làng xưa tôi sinh ra và lớn lên, tôi rất yêu mến cuộc sống ngày đó. Tôi đã về thăm Việt Nam hai lần, nơi gia đình tôi sinh sống gần Nha Trang, nhưng tôi cũng có trở lại quê làng tôi khi xưa ở gần Quy Nhơn. Tôi nay đã 45 tuổi đời và có tất cả tại Hoa Kỳ nhưng tôi có thể từ bỏ tất cả để sống lại những ngày xưa thơ ấu trong làng. Khi xưa, chơi với bạn bè, khi đói thì xuống ao bắt cá, bắt còng, hái rau cải trong vườn để nấu . Lúc nào cũng có cơm ăn đến khi Việt Cộng đến là phải bỏ chạy ra sống gần thành phố. Tôi biết tên mọi người trong xóm trong làng, không như ở Hoa Kỳ, tôi không biết tên người hàng xóm vì không gặp nhau hay làm quen. Căn nhà mà bố tôi xây dựng nhờ các người trong làng phụ giúp vẫn còn đứng vững.


Dạo ấy bố tôi muốn làm căn nhà. Ông ta phải chuẩn bị cả 2 năm trời. Ông ta chặt cây rồi kéo xuống dưới đầm. Ngâm với muối biển và nước. Bố tôi lấy đá chận trên các thân cây để khỏi trồi lên mặt nước khá lâu. Sau đó mới đem lên để cho khô trước khi làm nhà. Không bao giờ bị hư mọt.


Sau khi bố tôi mua tất cả các vật liệu cần dùng để xây nhà. Bố mẹ tôi kêu gọi mọi trong làng đến phụ xây nhà. Phụ nữ đến để nấu cơm cho đàn ông ăn. Cứ như picnic ở Hoa Kỳ. Cả con nít cũng tham gia. Trong làng có ông thợ mộc có tay nghề, giúp đỡ, cắt cưa, chỉ các người đàn ông khác phụ làm để đưa đà, dựng cột,.. chúng tôi không bao giờ nói đến tiền bạc, dân trong làng xóm đến phụ giúp nhau. Khi nào nhà nào muốn xây căn nhà thì cả xóm lại đến phụ giúp. Tình người khi xưa rất tốt. Chỉ có Việt Cộng đến là phá vỡ mọi thứ. Mỗi khi Tết đến, bố mẹ tôi đều đem quà đến biếu nhà ông thợ mộc, như để cảm ơn, bỏ công giúp xây dựng căn nhà. Ông ta chỉ lấy một buồng chuối, là những gì đình chúng tôi có. Ông ta cũng có nhiều cây chuối.


Bố tôi trồng mấy cây dừa xung quanh nhà để che nắng. Từ quốc lộ 1, chỉ thấy toàn dừa. Mùa nắng đi đồng về, lấy dừa ra chặt, bỏ tí muối vào uống ngon cực. Mùa đông thì cẩn thận vì gió thổi cá lá dừa khô xuống có thể cắt tay cắt chân.


Khi tôi đi học trường tiểu học. Tôi phải đi bộ vì không có xe buýt như ở Hoa Kỳ. Tôi phải băng qua sông, đi vòng núi đến làng bên cạnh, mất 45 phút mới đến trường. Khi nước dâng cao, thì phải cởi trần lội qua sông. Bố mẹ tôi chưa bao giờ được đi học nên tôi cố gắng đi học. Mẹ tôi được bình dân học vụ nên biết đọc chút đỉnh. Cha mẹ tôi hy sinh đời mình để mong đời con cháu khá hơn. Chúng tôi trồng lúa nên nhà luôn luôn có cơm. Dư gạo thì bán để mua áo quần cho mọi người. Bố mẹ tôi mướn con trâu để cày. Có nuôi vài con vịt, và có vườn rau để ăn. Vườn chúng tôi có trồng các loại rau để chữa bệnh như xả, ngải cứu. Chúng tôi không bao giờ có bác sĩ trong làng nên phải tự chửa. Đất trên núi để cho mọi người sử dụng miễn phí. Bố tôi và tôi phát rẩy được 1 mẫu đất. Rồi đốt rẩy. Sau đó trồng mấy cây chuối non, bắp và đậu và sắn. 


Trên đường đi từ Đà Lạt đến Nha Trang mình thấy họ làm rẫy kiểu này. Chúng tôi nuôi heo và vịt. Heo không phải để chúng tôi ăn mà để bán, mua thực phẩm và áo quần.


Từ bé tôi chưa bao giờ ăn thịt bò hay thịt trâu vì mấy con thú này được dùng để cầy cấy. Tôi chưa bao giờ thấy 1 đồng vì nhà nghèo. Chỉ khi vào sống gần thành phố mới thấy tiền bạc. Nói chung chúng tôi nghèo nhưng không bao giờ đói khát.


Khi chúng tôi di tản về Nha Trang thì mọi việc cũng tương tự ngoại trừ chị tôi bị bắt buộc ở lại với Việt Cộng và cha tôi ở lại vùng Việt Cộng chiếm. Mẹ tôi lúc nào cũng đổ lỗi sự việc chị tôi bị bom thả chết vì cha tôi. Mẹ tôi nói chị tôi trở lại căn nhà để phụ cho tôi thì mấy ông kẹ ập vào, gia đình tan nát. Mẹ tôi không sống với cha tôi từ dạo ấy, hai chiến tuyến. Cuộc sống gia đình vẫn vậy, vẫn trồng lúa như ở làng cũ.


Trong làng mới thì tôi cũng phải đi học. Trường trung học khá xa. May có người bạn có chiếc xe đạp nên tôi phải đạp và làm bài tập cho hắn.


Năm 1969, sau Mậu thân tôi đăng lính đi lực lượng đặc biệt. Tôi có thể gia nhập các binh chủng khác như bộ binh, Hải quân, không quân. Tôi chỉ mới 17 tuổi, nếu đợi đến 18 tuổi thì chính phủ gọi nhập ngủ sẽ được bổ đi các binh chủng khác. Tôi muốn gia nhập binh chủng danh tiếng nhất. Lý do là được trả lương nhiều hơn. Gia đình tôi cần thêm tiền, và tôi sẽ không ở nhà để phụ giúp. Thế thôi. Ngoài ra lực lượng đặc biệt huấn luyện dạy tôi nhiều việc như cứu thương,….


Mẹ tôi không muốn tôi đi lính như bao nhiêu người mẹ Việt Nam khác. Không muốn con mình chết.


Khi tôi được gửi đi học khóa đầu tiên của lực lượng đặc biệt, ở Lam Sơn, 30 cây số cách Nha Trang. Chúng tôi học các căn bản, đánh cận chiến, sáp lá cà,.. tương tư như các trại huấn luyện khác nhưng ở đây học tập nhiều hơn. Sau đó về căn cứ Long Thành, phía nam Long Bình để học nhảy dù. Sau đó đến trại Động Ba Thìn gần Cam Ranh. Chúng tôi được huấn luyện sử dụng các loại mìn, chất nổ, lựu đạn, và cấu trúc đặt mìn. Cũng được huấn luyện sử dụng TNT và C-4. Họ dạy chúng tôi về truyền tin và Morse. Có một bệnh xá nhỏ ở đó, để huấn luyện chúng tôi về cứu thương và cách tự cứu chửa khi bị thương. Sau đó được gửi đến trại huấn luyện cạnh Lam Sơn để huấn luyện thêm cho các đơn vị lực lượng đặc biệt. Tôi chăm chú nghe các huấn luyện viên người Việt cũng như người Mỹ. Họ dạy chúng tôi làm sao thoát chết. Cuối cùng thì tôi đã trải qua được các đợt huấn luyện và được tuyển vào LLĐB. Nhất là tuân lệnh như một huấn luyện viên kêu chúng tôi vào một căn phòng bắt cho được 10 con kiến trong vòng 10 phút. Chúng tôi biết là không có kiến trong phòng này nhưng phải vâng lệnh. Sau ông ta đi vào hỏi kiến đâu, bắt hít đất 100 cái.


Lâu lâu họ dừng lại và tát đá đấm chúng tôi. Chúng tôi phải ngồi yên và cười như hoa hàm tiếu. Chúng tôi phải học tự chủ không được tức giận. Vì khi đi nhảy toán thám sát mà nổi giận, có thể bị giết hay nhiệm vụ không được hoàn thành. Trong các khóa huấn luyện cao cấp, môn cận chiến, tôi được phép huấn luyện các bạn đồng ngủ. Lý do khi còn nhỏ tôi có học võ BÌnh Định với ông chú, thầy võ trong làng. Nên khi học võ thuật, cận chiến thì trình độ của tôi cao hơn huấn luyện viên nên ông ta để tôi hướng dẫn các bạn đồng ngủ về cận chiến. 


Lớp của tôi có nhiều người không tốt nghiệp. Vì rớt nhiều các khoá huấn luyện,.. nhưng không sao họ vẫn được phục vụ trong các binh chủng khác. Như địa phương quân. Họ nghĩ là may mắn. Vấn đề là không được huấn luyện nhiều nên họ không để ý, lơ là và bị giết như chơi. Có lần tôi về phép, em tôi hỏi nhớ anh Trai không. Hỏi sao thì được biết anh ta gia nhập nghĩa quân. Một hôm họ gửi 2 toán đi tuần. Rồi trong đêm tối lộn xộn ra sao không nhận ra nhau nên bắn nhau. Sáng ra 14 người chết do phe ta bắn phe ta. Thấy cũng lạ, Việt Cộng thường là bắn AK còn địa phương quân chắc thời đó chỉ có Carbin M1, hay M2. Nghe tiếng súng là phải nhận ra ngay.


Mình đang chuẩn bị đi bộ Via Francigena bên Ý Đại Lợi. Có liên lạc với một anh chàng trẻ hơn mình đã đi hồi đầu năm. Anh ta dễ thương chỉ dẫn tận tình. Buồn đời mình xem profile của anh ta thì thất kinh. Cựu người nhái của hải quân Mỹ. Kinh. Mình làm vườn mà cũng đòi đi bộ mấy trăm cây số.


Kể đến đây mình nhớ vụ ông lính gốc quảng, nói không ai hiểu nên gây hiểu lầm. Tối đó ông ta được lệnh canh gác và mật hiệu hỏi tối đó là “Bạch Đằng”. Người muốn vào đồn phải trả lời là “Quang Trung”. Tối đó ông đồn trưởng vào đồn ngủ. Ở cổng ông thần gốc quảng kêu: “bẹt đèn” thì ông đồn trưởng bật đèn xe Jeep lên, ông kia cứ kêu bẹt đèn mà đồn trưởng cứ bật đèn xe nên móc súng bắn khiến ông ta la hét om xòm. chuyện tếu.


Tôi tốt nghiệp, mãn khoá huấn luyện lực lượng đặc biệt năm 1971 sau 2 năm trời huấn luyện. Được lên lon 3 cánh gà, hình như là thượng sĩ. Sĩ quan của lực lượng đặc biệt đều lên chức qua chiến công. Không có ai sĩ quan được vào thẳng LLĐB. Ngoại trừ có tài gì rất quan trọng.


Khi về phép, tôi chỉ bận đồ dân sự, trong làng chỉ có vài người biết tôi thuộc LLĐB. Có lần sau bao nhiêu lần tham gia các đặc vụ thám sát, tôi được nghỉ phép. Cả nhà vui mừng gặp lại tôi. Sau 1 ngày tôi có cảm giác có gì khác lạ. Mẹ tôi không nói nên tôi hỏi người em trai. Được biết là ấp trưởng và cảnh sát trưởng của làng làm phiền gia đình tôi. Lý do là họ lãnh lương ít nên tham nhũng. Họ muốn mọi người trong làng đóng góp nếu không đóng thì sẽ gặp phiền hà. Tôi nổi điên. Tôi xa nhà để đánh Việt Cộng trong khi ở nhà gia đình tôi bị xách nhiễu bởi đám quan chức địa phương. 


Tôi lấy bộ đồ LLĐB, ra chùi giầy láng cóng rồi lên đồ, sau đó ghé lại ty cảnh sát. Tôi cho họ biết tôi là ai, và em tôi đã kể những gì. Họ biết LLĐB, lạng quạng thì cả toán LLĐB sẽ xử họ. Nhớ sau Mậu thân có nhóm LLĐB ở Đà Lạt, lùng kiếm mấy ông cảnh sát dã chiến. Lý do là có ông thần nào gốc tàu đi LLĐB về, ngồi nói chuyện với ông gác cửa rạp xi-nê Hoà Bình. Rạp này chủ nhân là ông tàu, chủ nhà hàng Chic Shanghai. Có 5 ông thần cảnh sát dã chiến muốn vô không mua vé rồi đánh ông thần LLĐB. Ông này chạy về căn cứ, kéo cả đơn vị đi lùng bắn cảnh sát dã chiến. Nghe nói sau đó tỉnh trưởng phải giải hoà hai bên và từ đó ít thấy cảnh sát dã chiến ở Trại Mát lộn xộn ở Đà Lạt. Từ đó gia đình tôi không bị làm phiền nữa.


Đà Lạt khi xưa có vụ thiên hạ chơi đánh đáo với bạc cắc ở cầu thang chợ. Có ông cảnh sát ghé lại kêu không được chơi vì đỏ đen. Lệnh cấm. Có ông thần 302 tên Lực thì phải. Hôm đó bận đồ dân sự, nói chơi có mấy đồng mà đỏ đen gì. Ông muốn bắt đỏ đen tôi dẫn ông đến sòng bài cả triệu bạc tha hồ bắt. Số ông cảnh sát chết ngày đó. Kêu không đi đâu hết dẹp chỗ này không tôi bắt. Nói qua nói lại sao ông thần Lực rút súng bắn ông cảnh sát chết tươi rồi đi bộ về đường Phạm phú Quốc, tay cầm súng. Cò Giao, cò Mạnh và một số đông cảnh sát bao vây nhà. Bà chủ nhà ra nói là đợi ông xã tui về rồi tính. Chớ mấy ông xông vô, ông kia chơi trái lựu đạn là khổ nữa. Cuối cùng chủ nhà về hỏi bây giờ làm sao. Muốn thì trốn đi, kiếm giấy tờ giả đăng lính rồi khi xong huấn luyện quân trường sẽ kéo về lại 302. Ngồi suy nghĩ sao ông thần Lực kêu thôi để em đi tù. 


Ai biết tin tức ông thần tên Lực thì cho mình biết. Xin cảm ơn trước. Ngoài ra có người nhờ mình kiếm chuẩn uý Phúc của đại đội Trinh Sát 302 khi xưa. Ở tù vì đánh quân cảnh ở trường Võ Bị. Bị lên án 7 năm tù nhưng đến năm 1975 tan hàng nên không biết giờ ở đâu. Ai biết tin thì cho mình xin. Cảm ơn trước. 


Lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng Hoà 


Chúng tôi có hai loại lực lượng đặc biệt. Một; chúng tôi đi hành quân như người Mỹ làm, mà người Mỹ gọi là đi vào “indian country”, để thu lượm tin tức mà cấp trên muốn và kẻ thù không biết chúng tôi đã có mặt tại đây. Nhiều khi chúng tôi làm việc với  LLDDB người Mỹ. Nhiều đặc vụ, họ nhờ chúng tôi tìm kiếm căn cứ của Việt Cộng, hướng nào, cấu trúc cất nhà cửa, hầm hố, bao nhiêu cửa sổ, cửa ra vào. Chúng tôi ghi nhận hoạt động của Việt Cộng ra sao. Đặc vụ này chỉ do thám, ghi các chi tiết rồi rút lui. Hóa ra có LLĐB do người Mỹ trả tiền và huấn luyện như mấy người Nùng, ở trên đường Thi Sách, nhà Dũng đầu Bò. Nhóm này lãnh lương nhiều hơn LLĐB Việt Nam Cộng Hoà.


Hai; chúng tôi phải tìm ra kho chứa vũ khí và nhiên liệu mà Việt Cộng dấu. Nếu chúng tôi khám phá ra thì cho nổ, phá huỷ. Lâu lâu có bắt được một cán binh Việt Cộng đem về căn cứ để khai thác. Hay nhiều khi chúng tôi được trao một tấm ảnh của sĩ quan Việt Cộng để ám sát hay bắt cóc. Thường cấp chỉ huy gửi nhiều toán đến xem xét khu vực. Chúng tôi không biết các toán khác làm gì. Mình đoán là có nhiều căn cứ LLĐB khắp miền nam nên không gặp nhau. Khi đụng trận là mệt bỏ mạng như chơi như vụ đặc vụ mà ông Cư kể ở Hạ Lào. Treen bản đồ, họ chia ra từng ô vuông, rồi thả từng nhóm vào mấy ô vuông đó, lục soát tìm kiếm rồi rút lui, đến bãi đón, trực thăng đến bốc về.


Buồn đời, mò các trang nhà của cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam thì khám phá các bài viết kể về ông Nguyễn Văn Cư, gốc Bình Đình. Qua cuộc đời của ông ta do người Mỹ kể lại, giúp mình hiểu thêm chút gì về cuộc chiến ở miền nam khi xưa ở ngoài thành phố. Mình ở trong thành phố Đà Lạt nên không hiểu gì những gì người dân sống ngoài thành phố.


Khi xưa mình có gặp chị Lệ Lý Hayslip ở San Diego. Chị ta kể đời sống trong làng khi xưa ra sao. Ban ngày thì quốc gia dạy cộng sản khát máu rồi rút ra thành phố còn ban đêm thì mấy ông Việt Cộng ra, bắt học tập chống Mỹ cứu nước. Mình nghe chị ta hát mấy bài hát khi xưa rất vui. Quốc gia dạy hát bài nào, hát ban ngày rồi tối về Việt Cộng bắt hát bài nào. Sáng theo quốc gia chiều theo cộng sản. Chắc lâu ngày hoá điên.


Mình thắc mắc một điều là đọc tài liệu Việt Nam Cộng Hoà thì được biết lực lượng đặc biệt bị giải tán vào năm 1970, và được đưa lại cho binh chủng Biệt Động Quân nên mình thấy lạ là ông Cư kêu là ra trường rồi đi LLĐB đến khi mất nước. Ai biết vụ này thì cho em hay.


Qua hình ảnh của chị ông Cư bị bắt đi tải đạn. Cho thấy người dân bị bắt, ép buộc chống Mỹ cứu nước. Chả phải vì căm thù gì cả. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắc sơn tử



   

 

    

    

  

Trinh sát trên đường mòn Hochiminh

 Có ông lính mỹ từng tham chiến tại Đàlạt, trong trận Tết Mậu Thân gửi cho mình đường link của nhóm cựu phi công Mỹ tại Việt Nam. Có một bài của ông mỹ tên Tony Spletstoser, viết về một người lính việt thuộc Lực Lượng Đặc Biệt, tên Nguyễn Văn Cư hay Cứ vì không để dấu. Mình có kể một bài ông Mỹ này viết về ông Cư thuộc lực lượng đặc biệt mới được trực thăng thả xuống bãi đáp trong hố bom, bị Việt Cộng phục kích là chạy thục mạng, sống sót sau 21 ngày trong rừng già.

Mình không hiểu đi đánh giặc sao lại đeo cravate đội mũ như đi nhảy đầm

Buồn đời mình mò tiếp trên trang nhà của ông ta thì lại thấy ông ta viết một bài khác cũng chính do ông Cư này kể. Lâu quá mình không nhớ rõ. Hình như ông Cư này sang Hoa Kỳ và đi học lại, ra kỹ sư đi làm đến khi về hưu thì phải. Còn ông Mỹ mình đọc trên mạng, được biết ông ta đã qua đời ở tuổi 86. Lâu rồi mình có đọc mấy trang nhà của lính biệt kích này nọ. Nay không tìm ra nữa. Chắc mấy ông này đã già, hết muốn ghi lại thêm về quá khứ một thời.


Ông ta kể đặc vụ trinh sát của ông Cư và 5 người khác tại Hạ Lào năm 1972. Buồn cười là mình, người Việt lại đọc bài của người Mỹ kể chuyện người Việt trong thời chiến. Cho thấy người Mỹ rất ngưỡng mộ lính Việt Nam Cộng Hoà thay vì các tuyên truyền cho rằng lính Việt Nam Cộng Hoà đánh trận không giỏi nhằm che dấu sự thất bại của Hoa Kỳ tại Đông-Dương.


THE RECON MISSION, 

Vietnam/Laos DMZ


by Nguyen van Cu’, Ex-Sgt,

ARVN Special Forces.

As told to Tony Spletstoser

 

Ông Cư cho biết nhóm Lực lượng đặc biệt G-2 của ông đóng quân tại Huế, có phi đạo. Mình đoán là căn cứ Phú Bài mới có phi đạo. Mình có xuống phi trường Phú Bài một lần. Mình đọc bài khác thì được biết căn cứ này từng thuộc lữ đoàn 101 di động của Hoa Kỳ được gọi là LZ Sally nằm phía Bắc của Huế độ 17 cây số. Không hiểu tại sao dạo này mình tải hình ảnh không được vào bài. 



Mình xem không ảnh mấy trại lực lượng đặc biệt đa số được xây theo hình tam giác như trại Bến Hét gần Komtum, có phi đạo bên ngoài. Có lẻ như vậy chỉ có 3 mặt phòng thủ thay vì 4, 5 mặt.


Cấp trên cho biết có cộng quân di chuyển gần biên giới Lào, và họ muốn biết thêm tin tức tại vùng này. Cấp trên cho biết có thể có 200 đến 300 xe vận tải của quân đội Bắc Việt xuất hiện tại vùng này. Ông Cư đoán là có những toán trinh sát đã đi trước vì họ cho biết quân phục của bộ đội ra sao.  Chắc có ăn cắp hay nằm vùng kiếm được. Thường các cuộc trinh sát như vậy, cấp chỉ huy gửi đi nhiều toán trong một tháng để xem xét tình hình về báo cáo. Và cộng quân không hề hay biết. Sau này nghe nói có nằm vùng trong các đơn vị LLĐB. 


Rất bí mật ngay cả chúng tôi cũng không biết các toán khác là ai và làm gì. Có thể có nhiều toán lực lượng đặc biệt đóng quân nhiều nơi. Mình có xem danh sách các đơn vị LLĐB đóng khắp 4 cùng chiêm thuật.  Chúng tôi chỉ nghe những gì cấp chỉ huy muốn chúng tôi biết. Càng biết ít càng tốt vì lỡ bị bắt thì không biết gì nhiều để khai.

Đường mòn hochiminh, đưa quân Bắc việt vào nam

Toán của chúng tôi gồm 6 người. Chúng tôi chỉ mang theo thực phẩm và nước cho 9 ngày. Hồi nhỏ mình nghe nói là họ có thuốc khử trùng khi uống nước suối này nọ nên không hiểu ông Cư giải thích là phải đem theo 9 bình nước cho 9 ngày. Chúng tôi bận quân phục của cộng quân, ngay cả ba lô của chúng tôi cũng tương tự như của họ. Mỗi người mang một cây súng AK47, với hai băng đạn (30 viên cho mỗi băng đạn) dán phía sau khẩu súng thêm 2 băng đạn khác bỏ phía sau ba lô. Chúng tôi mang theo 12 trái lựu đạn nhỏ (của Bỉ) và một quả lựu đạn khói (White-Phosphorus.) chúng tôi đem theo những gói thức ăn, cơm nấu sấy khô (LRRP ration), cá khô hay thịt khô. Quan trọng nhất là nước, mỗi người đem theo 9 bi-đông. Tuy nặng nhưng nước rất quan trọng. Chúng tôi cần ít nhất một bi-đông cho mỗi ngày. Mỗi người có một handie-talkie cấp cứu nhỏ như loại của phi công Mỹ (PRC-90) mà người Mỹ hay gọi cục gạch (the Brick), có một locator beacon. Một người trong mang máy truyền tin PRC-25, (Prick25) để liên lạc với cấp chỉ huy. 


Một buổi chiều, họ thuyên chuyển chúng tôi bằng trực thăng, bay rất thấp. Đến gần 1.5 cây số của mục tiêu, chúng tôi nhảy dù từ 200 bộ anh, độ 60 mét trên các đầu ngọn cây. Cả toán nhảy cận nhau. Khi nhảy dù thấp như vậy sát cây, cần phải học, được huấn luyện đặc biệt. Không như nhảy xuống ở cánh đồng. Vì rất khác vì có thể chết như chơi. Các cây xuất hiện nhanh chóng, chân phải giữ chung trong khi 2 tay phải đưa cao lên đầu khi cơ thể bắt đầu rớt xuống qua các cành cây. Mình đoán là nếu để tay dưới, trúng phải nhánh cây hay gì là ngọng, gãy tay như chơi.


Khi chúng tôi ngưng rơi, dính vào cây, chúng tôi phải tháo dù.  Chúng tôi cắt các dây dù, đem dù xuống và cột dây để đu xuống. Sau đó dấu và ngụy trang mọi thứ. Để Việt Cộng không phác giác sự hiện diện của chúng tôi.


Trực thăng phải bay với tốc độ bình thường, không thể nào bay đứng một chỗ trên vùng để thả chúng tôi xuống bằng dây cáp vì có thể gây chú ý cho cộng quân. Tối đó chúng tôi bắt đầu di chuyển đến khu đóng quân của Việt Cộng. Chu vi rất lớn 4 cây số vuông. Độ 4-5 cây số cách biên giới Lào. Chúng tôi đi độ 1.5 cây số tới vùng tìm kiếm, quan sát, trong  “2 squares”. Mình đoán là 2 cây số vuông của khu vực được chỉ định thám sát. Họ được lệnh chỉ trinh sát trong khu vực 2 squares này thôi. Cấp chỉ huy có thể thả các toán lực lượng đặc biệt khác để trinh sát các khu vực khác. 2 cây số thì rất ngắn, 4 cây số vuông thì rất nhỏ. Chắc họ dd  rất chậm. 


Chúng tôi đều di chuyển chậm và trong im lặng như tại Hoa Kỳ khi chúng ta đi săn Nai. Chúng tôi đi vài bước, ngừng, nghe ngóng vài giây, xem xét xung quanh cẩn thận. Chúng tôi tuy ở trong rừng già, rừng sâu nhưng ở dưới đất thì bóng cây che ánh mặt trời nên ít có cây cỏ mọc. Xem như ở  ngoài đồng. Chúng tôi di chuyển ra ngoài, lấy cây lá để ngụy trang. Tôi đi đầu. Mỗi người đi sau đều có có nhiệm vụ riêng. Mỗi người đi cách nhau 30 mét, xa đủ giúp người đi sau thấy rõ. Khi chúng tôi ngưng để xem xét, người thứ 2 quay và nhìn phía bên tay phải, người thứ 3 nhìn bên trái, và cứ như vậy đến người cuối cùng. Chúng tôi liên lạc qua dấu hiệu của bàn tay như hệ thống liên lạc của người Mỹ. Chúng tôi cẩn thận, không đụng những gì trên đường mòn đi, ngay cả các lá rơi nằm trên mặt đất. 


Hôm trước, mình xem một phim của Nga nói về lính đặc nhiệm của họ tại chiến trường Á Phú Hãn. Phim quay khác với các phim của Hồ ly Vọng Mỹ. Viết tới đây nhớ anh Phong, đại đội trinh sát 302 Đà Lạt khi xưa kể chuyện. Có lần đi trinh sát với người Mỹ đem theo quân khuyển. Một lần họ bắt được một cô Việt Cộng, hỏi chỗ để đạn dược chỗ nào, thì cô ta nói là biết chỗ nên kêu dẫn đi. Đang đi thì con chó ngưng lại nên cả toán nhảy qua trái qua phải theo bài bản. Sau vài lần như vậy, anh Phong kêu với Al Cornett, cố vấn mỹ  chắc phải cẩn thận vì nhảy qua trái qua phải hoài, lạng quạng đụng mìn hay lựu đạn của Việt Cộng gài là mệt. Ngồi xem xét thì khám phá ra con chó ngửi ngửi phía sau cô gái tải đạn. Hóa ra cô ta sợ quá nên ị trong quần. Chó Mỹ chưa bao giờ thấy hay ngửi mùi kít của cô gái Lam Hồng nên tò mò. Chán Mớ Đời 


Người đi cuối cùng có nhiệm vụ xem xét phía sau, quan sát xem có ai theo dõi toán. Xóa các vết chân trên đường mòn như chưa có ai đi qua. Mỗi lần chúng tôi ngừng thì thay đổi cách nhìn, quan sát. Mỗi người đều dựa vào nhau, không thể nào bỏ qua hay quên các chi tiết dù nhỏ nhặt. Chúng tôi quan sát các toán tuần tra của Việt Cộng khi họ đến rồi đi. Chúng tôi không để ý đến thời gian, chỉ để ý làm sai không bị phát hiện, không bị bắt. Trong cuốn sách của ông Al Cornett cố vấn của đại đội trinh sát 302. Ông ta có kể có lần đi trinh sát, núp trong bụi, một cán binh Việt Cộng đến nơi chỗ ông núp, và tiểu nơi người ông ta như mưa ngày nào thấm ướt vai anh. Phải nằm yên đợi cán binh Việt Cộng phê xong rồi mới từ từ di chuyển đến chỗ khác. Mình có một anh hàng xóm khi xưa ở Đà Lạt, anh ta đi biệt kích. Có lần vào rừng quan sát, Việt Cộng đến gần tè vào người, hình như bị phát giác nên phải bắn rồi chạy. Gia đình được tin mất tích khóc như mưa bấc. May quá tuần lễ sau, tìm lại chỗ hẹn, được trực thăng bốc về. Sau này được chuyển qua Biệt Cách Nhảy Dù, nhảy vào An Lộc đánh sáp lá cà với Việt Cộng. Sau được thăng đại uý trước khi Sàigòn đầu hàng. Mình có đọc mấy bài viết kể về anh ta trong những ngày cuối cùng của Phước Long. Rất được nhiều người nể phục.

Anh Phong kể khi tan rút về Sàigòn thì gặp ông đại tá Phạm Huấn, tư lệnh Biệt Cách Nhảy Dù, xin sát nhập. Ông này đồng ý rồi 30/4 đến. Sau này gặp nhau ở trại tù ngoài Bắc. Tính rủ trốn trại thì bị đổi trại. Vụ chuẩn úy Phúc của đại đội trinh sát 302 đánh quân cảnh ở trường Võ Bị, bị tòa án quân đội lên án 7 năm tù chắc nổi tiếng trong quân đội nên khi nghe tên tiểu đoàn 204 là ông đại tá đồng ý ngay. 


Phải mất 2 ngày trời mới đến chỗ Việt Cộng đóng quân. Như vậy họ đi rất chậm vì trung bình con người đi bộ độ 6 cây số một giờ. Cái này phải công nhận là đầu óc phải nhẫn nại lắm mới lê từng bước từng bước thầm. Họ khám phá ra chỗ cất dấu xăng dầu trước tiên, có độ 15 đến 20 kho chứa dầu dài độ 20 bộ anh ngang và 25 bộ anh chiều dọc. Có độ 55 thùng phuy chứa xăng.


Chúng tôi biết theo luật quốc tế thì chúng tôi có thể bị xử tử về tội gián điệp nhưng cũng biết nếu bị bắt thì sẽ sống tới khi nào họ không muốn khai thác chúng tôi nữa . Do đó chúng tôi đều có mang theo viên thuốc được khâu nơi cổ áo để sử dụng trong trường hợp bị bắt. Chỉ cần cắn vào đó nơi áo là xong om. May chúng tôi bận áo quần như họ nên dễ hoạt động. Chúng tôi đến nơi độ 2 giờ chiều. Còn sớm nhưng chúng tôi đều mệt mỏi. Chúng tôi tạm nghỉ và xem xét mọi người. Chúng tôi tìm được một chỗ cách các khu dữ trữ xăng liệu. Chúng tôi biết chúng tôi cần khoẻ và đầy năng lượng. Nếu mệt quá sẽ có thể phạm lỗi lầm nguy hại đến tính mạng của nhóm và nhiệm vụ. Nếu chúng tôi làm đúng thì nhiệm vụ dễ dàng còn nếu phạm một lỗi lầm thì cả toán bị nguy khốn.


Chúng tôi chia nhau canh gác và tìm cách ngủ lấy sức. Chúng tôi ngồi tựa lưng vào nhau, để bảo vệ cho nhau, chúng tôi ngủ kiểu này. Chúng tôi không bao giờ nói chuyện hay cởi ba lô xuống. Mọi người đều có một cuộn dây trong túi. Chúng tôi cột sợi dây vào nhau. Chúng tôi ra hiệu cho nhau bằng cách kéo sợi dây. Nếu có người lạ đến, chúng tôi sẽ biết trước khi họ khám phá ra chúng tôi. mình có hỏi người quen từng ở trong lực Lượng đặc Biệt, thì được biết ông Mỹ viết hơi quá.


Chúng tôi không tạo ra tiếng động. Chúng tôi có mảnh giấy để viết sẽ làm gì tiếp. Các cuộc liên lạc đều diễn ra trong yên lặng. Chúng tôi dời mọi người ở vào những địa điểm tốt để qua đêm. Chúng tôi ngồi ngủ từ 12:30 khuya đến 6 giờ sáng. Trong khi phim hồ ly vọng là nói chuyện chạy bú xưa la mua. 


4 ngày tới chúng tôi sẽ tìm tòi, xem xét về nhiên liệu của Việt Cộng. Khởi đầu chúng tôi ở gần nhau, mỗi người nhìn mỗi hướng, và từ từ di chuyển từng địa điểm chậm chậm. Quan sát cách Việt Cộng thiết bị, làm việc ra sao để về báo cáo lại cho cấp chỉ huy. Có như vậy chúng tôi hay các toán khác sẽ biết cách hoạt động như Việt Cộng mà không phạm lỗi lầm. 


Việt Cộng để lại các cây to, còn mấy cây nhỏ và bụi cây thì họ chặt hết. Lý do là từ trên cao, máy bay không thấy gì cả vì các cây lớn đều che hết. Có như vậy mới dễ dàng di chuyển và chứa nhiên liệu. Hèn gì họ nói đường mòn như đường cao tốc.  Có nhiều chỗ, xe và hầm chứa nhiên liệu có thể đi tới đi lui dễ dàng. Chúng tôi thấy nhiều người làm việc tại đây, nhiều khi họ thấy chúng tôi, nhưng họ lo việc của họ nhiều hơn thay vì chú ý đến chúng tôi. Lý do là chúng tôi ăn bận như họ. Khi họ thấy chúng tôi chỉ cười hay giơ tay chào. Không bao giờ tìm cách trốn sẽ gây chú ý. Cứ làm như đang làm việc tại nơi đó. Như một toán đi tuần của bộ đội. Chúng tôi ở xa quân đội Sàigòn nhưng Việt Cộng không biết lính ngụy có mặt ngay bên cạnh.


Chúng tôi mỗi người có một máy chụp hình 35mm và 4, 5 cuốn phim để chụp hình vào ban ngày và ghi lại những gì thấy ngay cả những gì không quan trọng lắm.


Thật ra chúng tôi không đơn độc, cấp chỉ huy bay trên đầu chúng tôi. Mỗi di chuyển, chúng tôi khám phá, dù nhỏ nhặt đều báo cáo cho cấp chỉ huy, bay trên trời. Bay trên máy bay bà già L-19, xa một tí để không bị khám phá hay nghe. Cấp chỉ huy là đại uý, cũng lên chức qua các cuộc trinh sát nên hiểu những gì chúng tôi đang trải qua hay nói. Cấp chỉ huy rất giỏi và thông minh, được lên cấp vì gan dạ và chiến công chớ không phải được cơ cấu. Cấp chỉ huy có một phi công được huấn luyện để công tác với lực lượng đặc biệt.  Mình có ông cậu ruột khi xưa đóng quân ở phi trường Quảng Ngải, bay trinh sát máy bay L-19. Sau bị Việt Cộng bắn từ dưới đất hư mất một con mắt, giải ngủ. Sau 75 đi tù, Việt Cộng kêu là thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và bộ đội.


Nhớ Mậu Thân thấy máy bay bà già cất cánh ở phi trường Cam Ly. Bay vòng vòng trên khu vực Số 4 rồi buồn đời ra sao bắn một phát trái khói. Thế là vài phút sau máy bay khu trực bay lại thả bom napalm. Lửa khói bay mù mịt. 


Khi chúng tôi liên lạc với cấp chỉ huy, chúng tôi để micro của máy truyền tin trong áo để không có tiếng nói thoát ra ngoài. Chúng tôi báo cáo những gì thấy và nghe và địa điểm trên bản đồ. Cấp chỉ huy nói cần những hình ảnh chỗ nào,… căn cứ cộng quân có trên ngàn người nên chúng tôi phải đóng vai bộ đội, biết chỗ họ cất kho quân liệu. Điểm ngạc nhiên là thấy lá cờ Việt Cộng to lớn, còn to hơn lá cờ trong dinh độc lập ở Sàigòn. Ở dưới đất thì thấy to lớn nhưng trên trời không thấy vì cây to che hết. Chúng tôi thấy cán binh Việt Cộng sửa chửa các xe vận tải để chuẩn bị vào nam mà trên không chả thấy gì. Cấp chỉ huy phải ở trên trời cả ngày, khi nào bay về căn cứ để lấy xăng thì có máy bay khác đến thay thế. Chúng tôi tiếp tục như vậy được 4.5 ngày hay 5 ngày. Cứ mỗi lần di chuyển là báo cáo cho cấp chỉ huy trên trời.


Sau 5 ngày trời thu thập tin tức, nói là đã thấy hết những gì cần biết, cấp chỉ huy liên lạc báo cáo với cấp trên. Chúng tôi dự định đi 9 ngày, nhưng cũng muốn rời vùng này càng sớm càng tốt để đến điểm hẹn để được bốc về.


Cấp chỉ huy cho biết là muốn tiêu huỷ khu vực này. Chúng tôi đồng ý nhưng bằng cách nào.  Chúng tôi được thả vào khu vực này để trinh sát, không có đem theo chất nổ. đại uý kêu sẽ thả dù chất nổ. Nghĩa là chúng tôi phải rời khỏi nơi này để đến chỗ thả dù tiếp tế để cộng quân không phát hiện. Sau đó quay lại đặt chất nổ phá huỷ các kho nhiên liệu.


Chúng tôi tự hỏi tại sao họ không kêu máy bay đến bỏ bom vì biết toạ độ. Có lẻ cấp chỉ huy muốn công tác của chúng tôi nhẹ nhàng thay vì ồn ào với máy bay F5. Mình đoán là năm 1972, người Mỹ rút quân nên có lẻ vì vậy không dùng không lực như xưa. Xăng nhớt được Hoa Kỳ viện trợ rất ít nên Việt Nam Cộng Hoà cần phải tiếp kiệm. Cậu mình kể là trước khi bay thả dàn sau này, lính gọi cũng không bay đến tiếp tế hay thả bom. Không có xăng và đạn dược. Cấp chỉ huy ra lệnh cho biết bao nhiêu chất nổ để họ thả dù. Chúng tôi có 2 ngày để chuẩn bị. Có thể họ cho thêm người đến giúp khiến chúng tôi lo lắng vì đông người sẽ thêm động rừng.


theo mình hiểu khi xưa trinh sát 302 đi thám sát, theo dõi nhưng nếu thấy có nhiên liệu, hầm chứa quân liệu thì mấy ông thần mỹ kêu máy bay thả bom. Sau này Nixon rút quân nên chắc hết bom đạn để thả nên phải chơi mìn.


Thường cấp chỉ huy suy tính rất đúng nhưng không hiểu lần này hơi khác thường. Có thể sau khi ngồi văn phòng, người ta bắt đầu suy nghĩ lộn xộn. Chúng tôi bắt đầu lo lắng về nhiệm vụ mới. 


Chúng tôi còn lại chút thịt khô và cơm. Chỉ còn 2 ngày mà chúng tôi phải đi ra khỏi khu vực để lấy đồ thả dù, trở lại. Quá nhiều nguy hiểm. Nhất là chúng tôi quá mệt mỏi, rất dễ phạm lỗi lầm. Chúng tôi nói với cấp chỉ huy là mọi người muốn rời khỏi nơi đây về căn cứ. Cấp chỉ huy bắt đầu hiểu và đồng ý bốc họ về.


Nhưng ông ta muốn đi chúng tôi ngược hướng đi vào khu vực này vì muốn chúng tôi xem xét một địa điểm. Ông ta cho toạ độ của PZ, chỗ điểm hẹn để máy bay đón. Khi cuộc điện đàm chấm dứt thì trời đã xế chiều. Tôi nhìn bản đồ thì thấy địa điểm nằm ngoài 3 cây số vuông. Làm sao chúng tôi có thể di chuyển đến đó trong vòng 2 ngày. Khi di chuyển trong khu vực này, chúng tôi không biết sẽ gặp chuyện gì. Khi xung quanh toàn là bộ đội Việt Cộng. Chớ đâu phải đang ở Sàigòn chợ lớn. 


Tối đó tôi nói chuyện qua viết chì và giấy. Chúng tôi biết là không có đủ thời gian. Nếu chúng tôi đến trễ nơi hẹn thì lại kẹt thêm vài ngày. Chúng tôi di chuyển độ 2/3 cây số vuông độ 600 m. Bây giờ là 11:30 đêm và trời hoàn toàn tối đen và không biết ở đâu nên dừng nghỉ chân. Chúng tôi lần các cuộn dây, và ngồi đấu lưng để canh gác và ngủ.


Sáng hôm sau độ 5:30 sáng một người có nhiệm vụ canh gác, nghe tiếng động độ 100 mét, anh ta giựt dây để đánh thức chúng tôi dậy. Chúng tôi nghe nhiều người đi xung quanh chúng tôi và nói chuyện huyên thuyên. Chúng tôi ở trong góc của mấy cây lớn. Hoá ra chúng tôi ở ngay bộ tư lệnh của Việt Cộng. Cấp chỉ huy biết chỗ này nhưng không cho chúng tôi biết. Có lẻ một toán trinh sát khác đã đến đây và báo cáo rồi được bốc đi. Chúng tôi nhìn nhau và nghĩ đừng lo sợ, nếu chết thì chết nhưng điểm chính là thoát ra vùng này.


Nhiệm vụ đã xong vì biết đây là bộ chỉ huy của cộng quân, nay chỉ cần thoát ra khỏi khu vực này đến điểm hẹn. Chúng tôi rời khỏi nơi đó độ 100 mét thì một người giơ tay ra hiệu là anh ta sẽ đi trước để xem sao. Ra hiệu đi nhanh rồi về lại báo cáo. Độ 30 phút thì chúng tôi nghe tiếng súng. Chúng tôi lo sợ vì khu vực này Việt Cộng không bắn ngoại trừ bắn một trong chúng tôi. Chúng tôi quên mọi nguy hiểm, trở lại để xem tình hình thì thấy trên đồn canh bắn tơi bời về phía ngược lại chúng tôi nên đoán là bắn người đồng đội. Chúng tôi không hiểu từ 5.5 ngày vừa qua đi ngang đây và không ai khám phá chúng tôi mà nay lại bắn tùm lùm.


Quá trễ để nói bây giờ , chúng tôi phải bắn tên đứng trên tháp canh để cứu đồng đội. Chúng tôi bắn hạ tên canh trên tháp canh và chạy về phía người đồng đội. Gần đến anh ta thì gặp một đồn canh khác bắn xối xả vào chúng tôi nên phải nằm xuống và bò lui. Chúng tôi thấy cái tháp canh bắn đồng đội xung phong đi trước  và chúng tôi. Một đồng đội trong toán chạy lên thì bị bắn. Chỉ còn 4 chúng tôi. Tôi bắn điếm canh và kéo đồng đội về. Vô ích vì anh ta đã chết. Mấy người khác đều nằm xuống im. Cộng quân chưa tìm ra địa điểm của chúng tôi.


Tôi trở lại chỗ toán núp, và báo cáo cho cấp chỉ huy là chúng tôi đi vào khu chỉ huy của cộng quân và hai người bị bắn chết. Cấp chỉ huy kêu đến địa điểm hẹn, nghĩa là phải đi ngang khu chỉ huy của cộng quân. Nơi hai đồng đội vừa bị bắn chết. Nghĩa là nhiệm vụ chưa xong nếu chúng tôi chưa xem xét khu vực này. Chúng tôi quyết định chia nhau ra để đi vì nếu đi chung thì có cơ duyên bị bắt cả đám. Tương tự đi săn, gặp 4 con thỏ, chúng chạy khắp nơi thì việc đầu tiên là quyết định bắn con nào trước. 3 người kia tách nhau đi theo hướng mà cấp chỉ huy ra hẹn.


Bổng nhiên tôi nghĩ nếu đi theo các đồng đội, cộng quân đã biết chúng ta đi về hướng đó, nên không nên. Nên tôi trở lại nơi chúng tôi nghỉ qua đêm tối qua. Vừa trở lại điểm này thì nghe tiếng động phía các đồng đội đi. La hét và súng bắn. Lúc đó tôi biết là không nên đi về hướng đó. Cấp chỉ huy không biết hoàn cảnh của chúng tôi chớ không phải muốn giết chúng tôi. Tôi không bao giờ gặp lại các bạn đồng đội.


Tôi bắt đầu đi lại điểm chúng tôi được thả dù. Tôi ngừng để liên lạc với cấp chỉ huy. Ông ta hỏi chuyện gì xẩy ra dưới đó. Tôi trả lời là sẽ nói cho ông ta sau trong 30 phút. Tôi biết đồng đội đã bị bắn chết và máy truyền tin đã bị cộng quân tịch thu nên không muốn nói gì qua điện đàm. Chỉ mới 10 giờ sáng. Bây giờ tôi bị lộn xộn vì không vâng lệnh cấp chỉ huy. Lệnh trên sai lầm nhưng tôi phải cứu mạng mình trước.


Tôi trở lại điểm được thả dù, phải đi chậm vì không biết chuyện gì xảy ra vì không có ai đi chung để đề cao cảnh giác. Việt Cộng có thể đang tìm kiếm tôi. Tôi không gọi cấp chỉ huy sau 30 phút và tiếp tục di chuyển. Sau 2 tiếng tôi gọi cấp chỉ huy. Ông ta hỏi mày đang ở đâu, các con ra sao, không đứa nào gọi hết. Tôi trả lời không biết, họ không đi với tôi. Cấp chỉ huy hỏi đang ở chỗ nào, tôi nói sẽ nói sau. Tôi không thể nào báo cho ông ta biết là không an toàn nói địa điểm của tôi qua điện đàm. Tôi tắt máy truyền tin và tiếp tục di chuyển về hướng thả quân. Càng ít nói càng tốt, càng an toàn. Tôi thấy máy bay của cấp chỉ huy quay đầu bay về căn cứ.


Ngày hôm sau, tối gần đến chỗ thả dù hôm đầu tiên thì nghe máy bay bà già của cấp chỉ huy bay lại. Tôi lấy cái gương cấp cứu ra để làm tín hiệu. Tôi cho biết mình là ai và hỏi ông ta có hiểu không. Trong lực lượng đặc biệt chúng tôi học cách đọc và ký hiệu của máy bay như đạp thắng mạnh là “Không”, đẩy cái cần số đến rồi kéo lại là “vâng”, hay quay bên trái hay bên phải có ý nghĩa khác. Để hôm nào mình gặp ông cậu lái máy bay bà già khi xưa để hỏi thêm chi tiết.


Sau đó tôi gọi cấp chỉ huy và nói muốn được bốc về. Cấp chỉ huy chửi la kêu mất tin tức cả ngày trời. Tại sao không đến điểm hẹn như đã dặn lại chạy tới đây. Còn mấy đứa con kia đâu. Tôi cho biết là không biết đồng đội ở đâu. Không muốn nói điện đàm vì sợ cộng quân đã tịch thu máy truyền tin. Đói hết nước và thực phẩm. Ông ta cho biết sẽ báo cáo với cấp trên. Sau đó nói ngày mai 10 giờ sáng sẽ trở lại để  bốc tôi. Tôi tìm một chỗ để núp qua đêm.


Cuối cùng hôm sau cấp chỉ huy bay lại và hỏi đang ở đâu. Tôi nói chỗ hôm qua làm tín hiệu vì không muốn dùng máy truyền tin. Cấp chỉ huy hỏi cây chỗ đó cao bao nhiêu, tôi nói độ 100 mét, và 60 mét. Cấp chỉ huy kêu phải tìm chỗ nào trống hơn để móc tôi ra khỏi. Tôi nói ông ở trên trời thì thấy rõ hơn, rồi cho tôi biết toạ độ. Ông ta cho biết đã tìm ra và hướng dẫn tôi đến đó. Cùng lúc đó tôi nghe “whoosh” trên đầu ngọn cây thì tôi biết họ sắp đến. Đó là F-5 của không quân Việt Nam Cộng Hoà thường được dùng trong các nhiệm vụ mật. Sau đó là chiếc Slick (UH-1H) trên đầu tôi và thả dây cáp xuống. Tôi gắn dây cáp vào cái móc của áo vét “D” trên vai và máy bay bốc tôi lên. Thường thì khi được kéo lên thì hay đụng cây vì địch quân bắn nên phi công không có thời gian để kéo dây cáp lên hết nên phải bay và kéo cùng lúc. Kỳ nay có trợt da tôi cũng nín đau được.


Khi chúng tôi trở lại căn cứ, họ gặp tôi ở bãi đáp trực thăng. Có người lấy máy hình và phim, họ cho tôi vào một chiếc xe kín mít và đưa về căn cứ. Họ cho tôi tắm rữa và thay đồ mới. Không cho ăn. Sau đó đưa tôi đến phòng họp và bắt đầu hỏi tin tức về cuộc thám sát. Họ hỏi về căn cứ cộng quân và tại sao bị lộ. Tôi kể và có những điều khiến họ không hài lòng hay không muốn nghe. Họ bàn bạc với nhau rồi kêu tôi cố ý cải lệnh. Không đến điểm PZ như đã ra lệnh và bỏ tôi ở tù 4 ngày.


Tù đây là bỏ vào CONEX, rất nóng vào ban ngày. Tôi tự hỏi tôi làm nhiệm vụ đem về tin tức hình ảnh và có nhiều đồng đội chết vì các tài liệu này. Nhưng suy nghĩ lại thà ở tù còn hơn là chết như các đồng đội. Các cấp chỉ huy của chúng tôi rất nghiêm. Chúng tôi phải nghe lệnh và thi hành. Thông thường giúp chúng tôi thoát hiểm, sống sót trở về. Tôi không nghĩ cấp chỉ huy muốn chúng tôi chết vì phải mất 2 năm trời để huấn luyện chúng tôi. Họ đều biết tất cả những gì chúng tôi biết nên rất nghiêm.


Lúc nào chúng ta cũng có những việc không muốn làm nhưng chúng ta phải thi hành.


Họ huấn luyện chúng tôi ở trại lực lượng đặc biệt, trước tiên là cứu mạng sống của mình và sau đó đặc vụ là chính. Lần này tôi biết họ sai nhưng không thể nào giải thích cho cấp trên được. Do đó tôi phải không nghe lệnh để cứu mạng của mình. Và họ phải phạt tôi để làm gương. Dù họ biết tôi sống sót là điểm mừng. Vẫn mang về tài liệu.


Sau khi kể câu chuyện này thì ông Cư nói với tác giả. Ông ta cho biết tốt nghiệp huấn luyện lực lượng đặc biệt năm 1971. Từ 1971 đến tháng 4 năm 1975. 10 nhiệm vụ bí mật đầu tiên ông ta đều tè trong quần vì lo sợ. Ai nói không lo sợ là hơi khác thường. Chỉ sau đó tôi bắt đầu học cách kiểm soát nổi lo sợ của mình. Nếu ông có gặp ai nói từng tham gia lực lượng đặc biệt và nói không sợ thì nên tránh xa họ.


Ông Cư cho biết ông ta sinh ra tại Quy Nhơn, miền trung Việt Nam. Gia đình có bố mẹ, và 4 người con. Khi Việt Cộng đến khu vực sinh sống của gia đình thì gia đình phải rời quê để vô Nha Trang tránh giặc. Khi chúng tôi di tản thì bố tôi vẫn còn ở trong nhà để lấy đồ đem theo. Chị tôi bổng chạy về nhà để lấy thêm gạo thì Việt Cộng bắt chị ta. Họ bắt chị ấy làm dân công, tải đạn như con lừa chở đồ nặng. Tôi không bao giờ gặp lại chị tôi. Sau này tôi nghe mấy người già ở lại quê cho hay, máy bay thả bom Việt Cộng và chị ta chết trên đường mòn Hochiminh.


Tôi không bao giờ quên chị tôi và những gì Việt Cộng đã hành xử với chị tôi. Tôi không bao giờ kể cho vợ tôi, đồng đội về chị tôi. Khi tôi tham gia lực lượng đặc biệt, mỗi lần tôi bắn hạ một Việt Cộng, tôi nghĩ “ thêm một thằng không hại con gái của gia đình nào khác hay chị của ai khác”.


Đọc bài tường thuật này khiến mình nghĩ đến ông chú ruột, đi bộ đội vào Nam. Nghe nói bị bom B52 dập chết trên đường mòn hochiminh


Hình như ông Cư có viết một cuốn sách hay ông Mỹ nào viết cho ông ta. Mình đọc lâu rồi ông ta qua Mỹ đi học tốt nghiệp kỹ sư và rất giỏi. Ai biết tin tức thì cho mình xin.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắc sơn tử