“In desperation” Trong nổi khốn cùng

Mình xin giới thiệu một bài viết của ông Nguyễn Thế Thăng. Sau tháng 4 1975, ông ta vào chiến khu Việt Cộng để tiếp tục chiến đấu với các chiến hữu, tương tự vài người lính trinh sát của đại đội 302 xưa của Đà Lạt mà mình đã kể. 

Bài viết được đăng trên một tập san War, Literature & the Arts về quân đội Hoa Kỳ. Bài này do ông Lê Văn trên diễn đàn Adran Đà Lạt dẫn. Mình không chia sẻ trực tiếp được từ trang cá nhân của ông ta nên mạn phép chép lại, luôn tiện chép luôn bài bằng anh ngữ đăng trên tập san của quân đội Hoa Kỳ, cho ai không đọc được tiếng Việt.

See English version below

 TRONG NỖI KHỐN CÙNG

Tác Giả: Nguyễn Thế Thăng

January 31, 2022 90

Tại Việt Nam, trước 1975, Nguyễn Thế Thăng tốt nghiệp khoá K2DH/ĐH/CTCT, Đại Học Chiến Tranh Chính Trị. Sau tháng Tư, 1975, ông cùng các chiến hữu vào mật khu tiếp tục chiến đấu chống cộng. Tháng 10-1975, sau nhiều nỗ lực chống trả, mật khu chống cộng bị chiến xa cộng sản tràn ngập, tác giả bị thương rồi bị bắt với vũ khi trên tay, bị mang “triển lãm” tại huyện Thống Nhất, Đồng Nai. Bài viết sau đây là hồi ký về những ngày tháng khốn cùng kể trên.

Câu chuyện không liên quan tới nước Mỹ, nhưng bản Anh ngữ của bài viết - do chính tác giả dịch - đã được chọn đăng trong tập san "War, Literature Art" cua Học Viện Quân Lực Hoa Kỳ (USAF Academy). Phải chăng tờ tạp chí này coi đây như một phần ký ức cần soi sáng của người Mỹ về chiến tranh Việt Nam.

Sau đây là câu chuyện điển hình về Nỗi Thống Khổ Bi Hùng mà Người Lính Cộng Hoà hằng gánh chịu sau ngày mất nước với lòng can đảm bền bỉ tuyệt đối của người luôn vững tin về Chính Nghĩa của Quân, Dân Miền Nam cũng như của toàn Dân Tộc Việt Nam.

***

Suốt cuộc đời tôi trên mảnh đất quê hương bất hạnh, có lẽ mùa Ðông 1975 là một cái đông lạnh lẽo nhất. Không biết có phải vì miền Nam Việt Nam vừa trải qua một cuộc đổi đời khủng khiếp, hay vì lúc ấy tôi đang bị cùm tại Trại A9 Long Thành, Biên Hoà (Ngã Ba Thái Lan) trong một dãy nhà tôn vách gỗ mà không hề có lấy một tấm mền mỏng che thân! Ban ngày ngủ, ban đêm phải thức trắng ngồi xoa bóp liên tục khắp cả người cho ấm. Ôi đêm dài vô tận trong cái lạnh thấu xương cộng thêm vết thương trên người còn tươi máu.

Chính từ chuỗi ngày đêm nơi tầng cuối địa ngục này lại trở thành một phước duyên cho tôi tập tễnh bước vào Thiền để sống sót và tồn tại đến ngày nay.

Trước và sau ngày 30/4/75 tôi đã không hề có ý định chạy ra nước ngoài. Khoảng đầu tháng 6/75, tôi lên Trà Cổ (Hố Nai, Biên Hoà) rồi từ đó vào rừng gia nhập Liên Ðoàn 5 của Ðại Úy Lê Ðình Thạch (trước đây thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh) gồm một số Biệt Kích Dù, Biệt Ðộng, Cảnh Sát, Ðịa Phương Quân…

Chúng tôi sống trong các mật khu cũ của việt cộng vùng Sông Buông, Sông Mây (đầu Chiến Khu D). Việt cộng tràn ra thành phố, bỏ ngõ mật khu của họ lại với đầy đủ chòi, lán, vọng gác trên cây, bếp với nồi niêu xoong chảo, nương khoai, vườn rau và một số rất lớn lựu đạn chày chỉ còn được dùng để đánh cá vì hệ thống kích hoả bị hư đến hơn 60%. Chúng tôi thường tấn công những kho gạo Tân Bình, Tân Bắc, Trà Cổ… Trước khi vác gạo về mật khu, chúng tôi dọn sạch kho đem bỏ từng bao trước cửa mỗi nhà dân. Dân địa phương và gia đình cũng tiếp tế cho chúng tôi rất nhiều thực phẩm khác. Vũ khí cũ như M16, M79 dần dần hết đạn, chúng tôi phải đánh Việt cộng để lấy AK, B40…

Ðến khoảng tháng 9/75, lực lượng chúng tôi đã có khoảng 80 người. Biết không thể chống cự nổi bọn cộng sản đang say men chiến thắng, chúng tôi dự trù sẽ đi đường bộ băng ngang Kampuchia đến vùng biên giới Kampuchia - Thái Lan để dưỡng quân rồi tùy cơ ứng biến. Trong vùng còn có một toán thuộc Liên Ðoàn Biệt Cách 81 (trước 30/4/75) hoạt động độc lập dưới sự chỉ huy của một người tên Wòng A Cẩu. Chúng tôi cũng đang liên lạc để sáp nhập với một lực lượng khác do Thiếu Tá Tam (Thiếu Tá Nguyễn Phước Trường) chỉ huy. Có một linh mục tham gia tên Trần Học Hiệu — Linh Mục Hiệu sau này đã bị giết chết trong tù. Khoảng tháng 10/75, việt cộng đưa hai Trung Đoàn có bốn chiến xa yểm trợ tấn công đơn vị chúng tôi và đơn vị của Thiếu Tá Tam. Chúng tôi trải quân ra thật rộng với từng tổ tam tam chế, đóng chốt trên tất cả những yếu điểm, kể cả những chòi trên ngọn cây, bình tĩnh sử dụng thật tiết kiệm từng viên đạn một. Chiến đấu trong hơn bốn ngày đêm, chúng tôi đã mất hơn nửa quân số. Sau khi Anh Thạch hy sinh, chúng tôi phải xé lẻ tan hàng.

Ba người theo tôi đi về Phước Long. Ðến 10g sáng (?), chúng tôi lọt ổ phục kích gần Xã Vĩnh Cửu (?), một Trung Đội cộng sản nằm dài theo bụi tre cách khoảng mười lăm, hai mươi thước bắn xối xả vào chúng tôi đang di chuyển giữa đồng trống, quần áo tôi bị thủng nhiều lỗ, một viên AK xuyên qua đầu gối (đang ở thế ngồi chồm hổm để bắn lại) làm tôi ngã vật ra sau nhưng vẫn tiếp tục bắn đồng thời ra lệnh ba thuộc cấp thoát thân.

Chuẩn Úy Nguyễn Thạch Ðiệp nhất định liều chết để lôi tôi đi… Tôi hét lên, Ðiệp vẫn không buông tôi ra, tôi phải chĩa súng vào người Ðiệp gằn giọng nếu không chạy đi, tôi phải bắn chú, Ðiệp rớm nước mắt “dạ” rồi vọt liền, cùng lúc với đợt xung phong xáp lá cà của địch, một tên dùng nguyên khẩu súng với trái đạn B40 đập lên đầu tôi, tôi né qua một bên, bị trúng vào gáy rồi ngất đi. Hình như một tên chỉa AK vào đầu tôi định bóp cò, một tên khác la lên:

- Đừng bắn, thằng này cấp cao, tài liệu sống, đem nó về”.

Lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên võng vải nylon, máu me ướt sũng lưng, bọn việt cộng thay nhau khiêng tôi đi. Ngang qua một số dân địa phương đang làm rẫy, tôi thoáng nghe vài tiếng kêu… Giê-Su Ma!

Toán cộng sản đưa tôi về huyện Thống Nhất, tỉnh Ðồng Nai (Biên Hoà), nhốt tôi trong một căn nhà không có nóc — bị pháo kích sập, chỉ còn bốn bức tường với các cửa đóng kín bằng những tấm ván lớn chéo nhau. Tôi được đặt trên một bao tải cũ, gối đầu trên một cục gạch thẻ, trên người chỉ còn một quần lót dính đầy máu đã khô, đầu gối được bó lại bằng chính cái áo trận của tôi.

Ðêm đó trời mưa như trút, cả người tôi ướt như chuột nằm chịu trận suốt mấy giờ. Vết thương đau nhức khủng khiếp, máu vẫn tiếp tục loang loang theo nước mưa. Sau cùng vì quá lạnh, sức đã kiệt, tôi lên tiếng kêu gọi bộ đội xin chuyển tôi đi nơi khác, không nghe tiếng trả lời, tôi ráng lết vào sát chân tường để núp. Nếu lúc đó cửa có mở tôi cũng không thể trốn đi vì đầu gối chân phải đã bị bắn xuyên từ bên này sang bên kia, xương bánh chè bị vỡ nát. Bị bắt tại trận với vũ khí trên tay thế này chắc chắn 100% là chết, nếu lỡ sau này có sống sót, có lành cũng thành phế nhân, tôi đành quyết định chọn con đường tự sát. Ráng đập đầu vào tường nhưng sức không còn. Thử cắn lưỡi thì thú thật đau quá, không đủ can đảm. Có lẽ phải nhờ Việt cộng giết giùm thôi.

Tôi bắt đầu la lên chửi rủa cộng sản, chửi đích danh Hồ Chí Minh khan cả tiếng. Tôi tiếp tục chửi tất cả những tên đầu não cộng sản lúc bấy giờ mà tôi nhớ được như… Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Phạm Hùng, Lê Ðức Thọ… Rồi không biết ngất đi từ lúc nào. Khi tỉnh dậy toàn thân tê tái, tê như đóng băng, đầu vẫn gối trên cục gạch, thân vẫn nằm trên cái bao tải ướt sũng, trên người gần như trần truồng được đắp lại bằng… một tấm tôn! Ngoài kia gió vẫn rít gào, trời vẫn vô tình mưa rả rích, nước mưa vẫn gõ nhịp đều đặn trên tấm tôn lạnh lùng…

Sáng hôm sau việt cộng triệu tập một cuộc mít-tinh dân chúng huyện Thống Nhất để triển lãm mục đích răn đe với khoảng hơn bốn mươi xác những “tên ác ôn đã đền tội”. Mười một người bị bắt (tất cả đều bị thương), số còn lại trốn thoát. Chúng khiêng tôi ra đặt nằm phía sau một chiếc xe Jeep mui trần cho bà con xem. Rất nhiều tiếng đả đảo từ những tay cò mồi. Không ít những giọt nước mắt nghẹn ngào. Vẫn vỏn vẹn một chiếc quần lót đẫm máu, tôi ngồi thẳng người, bình tĩnh nhếch mép cười khi nghe những tiếng hô đòi tử hình kẻ “tội phạm”. 

Lúc đó đối với tôi hai tiếng “tử hình” nghe không còn ghê rợn nữa mà thật bình thường vì đó chính là điều tôi mong đợi và chấp nhận như một sòng phẳng tất nhiên. Một cô trung niên, mặt khá xinh, người nhỏ nhắn, có vẻ rất hung hăng, vừa xô đẩy những bộ đội giữ trật tự, vừa hô to:

- Ðả đảo những tên “xâm lăng” (?) khốn nạn, hoà bình không muốn chỉ muốn chiến tranh, những tên mặt người dạ thú, giả nhân giả nghĩa, giết hại dân lành… Hãy để cho tôi nhổ vào mặt nó, đập vào mặt nó, tôi mới hả dạ!

Tôi nghĩ mụ này là “việt cộng cái” giả dạng thôi, lòng tôi thanh thản đến lạ lùng. Hãy để chúng trổ tài bịp bợm. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi cõi đời ô trọc bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ cách nào, dù xấu nhất. Tôi mỉm cười nhìn thẳng vào mắt mụ khi mụ vung nắm đấm. Mụ không nhổ vào mặt tôi. Mụ cũng không đập vào mặt tôi. Mụ luồn tay vào bụng tôi làm như đấm tôi vậy, miệng vẫn tiếp tục chửi rủa. Tôi cảm thấy cái gì đó nằng nặng trên bụng, liếc nhanh, thì ra đó là một quả quít nhỏ, tôi vội lấy tay che lại, nụ cười thành trơ trẽn biến mất, nhường chỗ cho sự ngạc nhiên đầy lý thú và cảm thông rất nhanh. Ðôi mắt diễn viên trong một thoáng lạc đi rồi trở lại ngay với vở kịch còn dang dở! Cô ấy trạc tuổi tôi hoặc nhỏ hơn chút ít. Ðến bây giờ, tôi vẫn hằng ước mong có được một dịp tái ngộ người ân nhân tuyệt vời này – Không phải vì đơn thuần quả quít mà vì giá trị khích lệ trong một hoàn cảnh quá hy hữu.

Những ngày và đêm tiếp theo là thủ tục hỏi cung. Bộ đội chánh quy từ miền Bắc tương đối nhẹ tay, một vài người nói và làm như miễn cưỡng, một người đã lén pha cho tôi một ly sữa sau lần tôi bị ngất đi vài giờ, nhưng những tay “giải phóng – cộng sản người miền Nam” thì thật tàn bạo… Chính nơi đây tôi đã được nhìn thấy thế giới bên kia sau những lần chết đi, có lần kéo dài đến sáu, bảy tiếng… Tôi đã nhẹ nhàng thanh thoát, lướt bay trên những cánh đồng đầy hoa, không một chút bụi. Không cảm giác áo quần mặc trên mình dù rằng quần áo rất đẹp, không tơ lụa nào sánh bằng, hình như kết bằng mây ngũ sắc. Cả không gian thật tươi mát, thật sạch như vừa trải qua một cơn mưa nhẹ. Bầu trời không một áng mây, không có mặt trời nhưng lại rất sáng và trong suốt như pha lê. Tôi đã nhớ lại từng chi tiết nhỏ cả quãng đời đã qua từ khi nhập thế. Những điểm tốt cùng với bao nhiêu điều xấu. Vui vẻ, hài lòng, thảnh thơi trước những việc thiện. Hối hận, ăn năn, dằn vặt, đau khổ trước những điều bất thiện. Có lẽ đó là “Toà Phán Xét” theo giáo lý đạo Thiên Chúa.

Có thể đó chính là Niết Bàn và Ðịa Ngục theo Phật Giáo chăng? Tôi đã nghe và hiểu những con chim đang hót những lời tán tỉnh. Tôi đã thấy những con cá giành ăn và nghe chúng cãi nhau. Chính nhờ vậy tôi lại càng không sợ chết nữa, trái lại còn mong muốn được ra đi thật sớm. Tôi như tỉnh ngộ và nhận rõ rằng cái xác này tuyệt nhiên không phải là tôi. Nó chỉ là một phương tiện, một địa chỉ tạm trú của một trong vô lượng vô số kiếp mà thôi. Quá đủ rồi. Tôi đã thoát ra và ngắm nhìn cái xác này bất động. Mấy lần đầu, tôi nghĩ đó chỉ là những giấc mơ.

Sau vài lần lập đi lập lại thành xác tín, thành khẳng định những gì bên kia cửa tử, tôi khẩn khoản một cách chân tình, một cách rất bình thản: Các anh thấy tôi đã chết nhiều lần, tôi đã được qua thế giới bên kia, đẹp lắm, bình yên lắm, tôi thề sẽ không bao giờ oán hận các anh, tôi hứa sẽ mang ơn nếu các anh cho tôi một viên đạn vào đầu để tôi được đi luôn, không phải trở lại cõi đời này.

Thật bất ngờ, kể từ hôm đó, họ không hề đụng chạm đến tôi nữa. Một lần, một tay cán bộ bắt tôi nhận diện những đồng ngũ đã hy sinh qua những tấm hình chụp trắng đen. Anh Thạch nằm chết bên cạnh khẩu M60 không còn một viên đạn. Mắt anh một nhắm, một mở. Miệng anh như mỉm cười. Tôi lặng người, nước mắt lưng tròng. Tay cán bộ giả vờ nhìn đi chỗ khác. Tôi cố tình tìm nhưng không nhìn thấy xác Chuẩn Úy Vũ Thế Cường, là anh họ của tôi — anh ruột mẹ tôi là Vũ Thế Nghiệp tức nhà báo Thần Phong hai năm sau đó bị xử bắn tại Thủ Ðức. Vĩnh biệt các anh và hẹn ngày gặp lại, tôi khẽ thì thầm.

Quay trở về mùa Ðông 1975 tại Trại A9 Long Thành. Trại nằm ngay tại Ngã Ba Thái Lan gồm nhiều dãy nhà tôn vách ván nơi đang tập trung học tập các cựu viên chức hành chánh Việt Nam Cộng Hoà. Chúng tôi khoảng năm mươi người gồm nhiều thành phần bị nhốt trong dãy nhà ngang cuối cùng có hàng rào kẽm gai quây kín. Tất cả tù nhân bị cùm hai chân, xiềng một tay vào ban đêm, ban ngày chỉ xiềng một tay vào một chân.

Cùng trại có một người lớn tuổi tên là Phan Xuân Hạ, bị bắt vì nghi ngờ là sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng Hoà đang trốn tránh. Cụ rất hiên ngang, dõng dạc. Nghe cái tên quen quen, tôi hỏi cụ có liên hệ gì với với một người bạn cùng khoá là Phan Xuân Mai không. Cụ chỉ mỉm cười: Con cháu trong nhà thôi. Bà Minh Ðăng — Không biết tên thật, chủ đại bài gạo Minh Ðăng, Biên Hoà — người phụ nữ duy nhất bị bắt vì tiếp tế nguyên một xe gạo vào rừng, đã dùng sợi dây xích làm xâu chuỗi, không biết bà đã đọc bao nhiêu kinh mà sợi xích sáng bóng như thép ròng vậy.

Nguyễn Văn Chi, người bị đánh hội đồng nhiều nhất trong suốt hơn hai tháng vì bị nghi ngờ là Thiếu Úy Trần Văn Chi — Thiếu Úy Chi bị một viên đạn xuyên qua vai phải, trốn thoát, hiện đang ở San Jose - California, Ngô Ðình Chiến bị bắn xuyên qua bả vai trái, tay trái bị liệt. Nguyễn Văn Cân bị ghẻ toàn thân chỉ trừ hai con mắt, Nguyễn Y người Bình Ðịnh — trông giống hệt hình Quang Trung Ðại Ðế, Trịnh Văn Thương bị bắn xuyên qua đùi, Phạm Văn Thận với chiếc jacket với hàng chục lỗ đạn…

Cũng trong trại này có một người lính cũ của tôi, Ðào Văn Lành, không biết bị bắt bao giờ và về tội gì. Anh được làm trong nhà bếp, phụ giúp nấu cơm cho trại. Một lần đem cơm cho tù nhân, anh nhận ra tôi nhưng không dám nói, chỉ ra hiệu. Tôi thì vẫn… muôn đời Lục Quân Việt Nam, cứ bô lô ba la, cứ vui trước đã, đằng nào cũng chết, vui ngay cả với tử thần như một thân hữu đang đợi trông. Cơm ngày hai bữa trưa và chiều, mỗi người được hơn một chén cơm với “thịt cọp”. Thịt cọp có nghĩa là muối hột, khi nhai kêu cọp cọp.

Tôi chỉ ăn một nửa muối, phần còn lại dùng pha nước để tự rửa vết thương. Thỉnh thoảng được một chút canh nấu bằng lá cải già hay bí rợ với muối. Một hôm Lành lén trao cho tôi một lon sữa bò trong đó có phân nửa chất nước đen đen, quẹo quẹo mà Lành nói là nước cá kho. Chao ơi, nó ngon làm sao. Mỗi bữa ăn, tôi chỉ dám chan một muỗng cà phê trên chén cơm hẩm mà tưởng như đang thưởng thức món cá cao lâu ngày nào. Khoảng hơn mười ngày sau, khi vắng bóng người, Lành hỏi nhỏ:

- Nước cá kho tôi cho ông có ngon không?

- Cám ơn Lành, đang thiếu thốn mà được như thế không gì so sánh bằng.

Lành thật thà:

- Ông biết không, tụi nó kêu tôi rửa cá khô, nguyên cả ký lô cá khô tôi rửa bằng một tô nước thôi, nước đó tôi cô lại còn nửa lon cho ông xài đỡ. Ráng sống, ráng nhịn cho qua nghe ông!

Rồi cũng qua một mùa Ðông. một mùa Ðông tang thương, thê lương trên khắp nẻo đường đất nước. Cả miền Nam biến thành một trại tù khổng lồ. Bốn tháng sau tôi bị chuyển về giam tại xã Ngãi Giao, quận Ðức Thạnh — Phước Tuy/Bà Rịa. Chỉ cùm hai chân ban đêm nhưng ban ngày vẫn phải đeo xiềng vô một chân để đi lao động — mục đích giữ tù không chạy trốn. Từng đoàn tù với xiềng xích kêu loảng xoảng trên đoạn đường gần làng Bình Giả, tôi lẩm bẩm hát bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ (Nguyễn Ðức Quang) thật thấm thía:

… Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người,

nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi.

Nụ cười xa vời, nụ cười của lòng hờn sôi.

Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian!

Trung Úy Nguyễn Văn Tài lúc nào cũng chỉ một câu vọng cổ trong Chuyện Tình Lan Và Ðiệp: “Em tên là Nguyễn Thị Lan(g), xác còn nằm đó mà hồn tan(g) lâu rồi!”

Ở đây tuy ấm hơn nhưng rất khó ngủ vì hàng sư đoàn rệp tấn công suốt đêm. Cũng tại nơi này, hai thằng em tôi là Ðồng Quang Nhường và Nguyễn Văn Hiển bị đánh chết. Hai em trốn trại bị bắt lại. Chúng trói hai tay hai chân rồi treo lên xà nhà như đang khiêng hai con heo. Ðích thân thằng trại trưởng dùng búa gỗ (một khúc cây tròn đường kính cỡ 15cm, dài khoảng 30-40cm, đục một lỗ ở giữa tra cán vào, cán dài khoảng 1m, dùng để đập tôn cho bằng). Nó vung thẳng cánh đập một nhát vào đầu Ðồng Quang Nhường nghe bộp như đập một quả dừa. Nguyễn Văn Hiển ngoái đầu qua nhìn, thuận tay nó vớt một búa ngay quai hàm của Hiển, quai hàm trẹo lặt qua một bên, máu vọt ra có vòi. Tôi nhắm mắt lại kêu Trời! Cố bịt miệng để khỏi la thành tiếng.

Cả hai xác Nhường và Hiển co giật vài lần rồi buông thõng. Vài phút sau, chúng cắt giây thả hai xác xuống. Tôi và ba người nữa tình nguyện đi chôn. Cả hai xác còn nóng hổi được đặt nằm trên tấm gỗ dài cỡ 1 thước 8, rộng 25 phân, hai cánh tay đong đưa theo nhịp bước, nhất là theo cái cà thọt khấp khểnh chân què của tôi. Hiển máu vẫn còn chảy toong toong trên đường. Cái đầu của Nhường ọp ẹp như quả cà chua úng, hai mắt lồi lên, mặt sưng tím bầm. Ðất tổ ong mà dụng cụ đào chỉ là mấy cái cuốc xẻng cũ sứt sẹo. Trung Úy Tài nhỏ con nhất nhưng là người khoẻ nhất, hăng hái nhất… Mấy ông ráng đào sâu sâu cho hai đứa nó. Cố gắng mãi đến tận mặt trời lặn cũng chỉ đào xuống được khoảng bảy tấc! Cả hai xác đều bị chôn nguyên trạng, không áo quan, không poncho hay chiếu bó lại. Tôi ráng gom vài mảnh báo cũ phủ mặt cho hai em. Xếp vài cục đá xung quanh đầu rồi lấp đất nhè nhẹ như sợ hai đứa đau.

Ðêm đó tôi không tài nào ngủ được. Khoảng nửa khuya, dưới ánh đèn heo hắt, tôi nhìn thấy thật rõ ràng: Nguyễn Văn Hiển đang đứng bên cửa sổ phòng giam, không nói gì, đôi mắt thật buồn nhìn về xa xăm. Tôi nói thầm: Hiển ơi, thôi em hãy đi đi, đừng luyến tiếc gì cõi đời giả tạm này, nghiệp báo em đã trả xong, đừng oán ghét, đừng hận thù, hãy để cho lòng thanh thản mà siêu thoát…

Tôi cứ nói như thế, lặp đi lặp lại, dỗ dành, van lơn, lâu lắm, bóng Hiển tan dần rồi biến mất. Hình như có tiếng người trở mình bên cạnh. Tôi xoay qua: Trong bóng tối mờ mờ, tôi nhận ra Ðồng Quang Nhường, hai anh em như đang nằm trên một toa xe lửa, dưới lưng cái gì bầy hầy như phân trâu bò. Tôi hỏi nhỏ: Chúng nó đưa anh em mình đi đâu đây? Chúng nó sẽ đưa anh ra Bắc nhưng anh đừng lo — Nhường lúc nào cũng lạc quan — mọi việc sẽ rất tốt đẹp, rồi anh sẽ vinh quang nơi xứ người. Tôi cười khẩy: Mẹ kiếp, miền Bắc chính là xứ người, không phải xứ của anh em mình, nhưng cái thân tàn tật tù tội trên đất cáo Hồ thì vinh với quang cái khỉ khô gì. Nhường cười. Hai anh em cùng cười với nhau. Tôi bừng tỉnh. Chơ vơ. Thì ra đó chỉ là một ác mộng.

Mấy tháng sau tôi nhận được lệnh: Tha thụ hình, cho phép đi cải tạo. Tôi bị chuyển qua Trại Lê Lợi. Nơi đây tuy không bị còn bị cùm hay xiềng nhưng ở trong khu cách ly. Bên kia hàng rào nhìn thấy Ngô Bá Lai, Nguyễn Hữu Tạo và một số rất đông bạn bè khác, nhận ra nhau trong ánh mắt thật ngỡ ngàng, tủi nhục, chua xót, đắng cay. Ngô Bá Lai nháy mắt bảo tôi ra nhà vệ sinh, hai đứa trật quần ra ngồi bên nhau trao đổi tin tức. Lai ân cần hỏi tôi thiếu thốn gì không. Một tháng sau chuyển qua trại Long Giao. Tôi vào trại với hai cổ tay và cánh tay bị trói chặt ra sau lưng bằng dây điện thoại, hai chân trần với vỏn vẹn một bộ đồ trên người và một túi vải nhỏ đeo trước ngực. Phạm Văn Bông nhận tôi về tổ, trong cùng tổ có Trần Ngọc Hoàn; cùng đội, cùng trại có Nguyễn Quyết Thắng, Nguyễn Nhự, Chung Gia Phong, Bùi Ðức Hùng, Nguyễn Thành An, Ðặng Kim Cương, Trương Hội, Phạm Ðức Thịnh… Trại bên có Nguyễn Ðức Phương. Bạn bè chia sẻ cho tôi thật nhiều đồ dùng và thực phẩm. Phạm Tuế tặng tôi một chiếc quần treillis còn khá mới.

Ngày 23/5/1977, chuyển ra miền Bắc trên chuyến tàu Sông Hương. Nằm trong toa xe lửa trên đoạn đường từ Hải Phòng lên bến phà Sông Hồng với toàn phân trâu, phân bò, tôi cứ mãi miên man nghĩ về từng chiến hữu trong chiến khu, nghĩ thương hai thằng em bị thảm sát trong tù, về thân phận mình, về dân tộc và quê hương cơn quốc nạn. Ðôi mắt cay cay chiều xót xa…



Người lính Nguyễn Thế Thăng

——oo0oo——


Hình: Ông bà Nguyễn Thế Thăng và trưởng nữ, 23 tuổi, vừa tốt nghiệp Tiến Sĩ Dược Khoa hạng danh dự tại OHSU (Oregon Health… Science University).

Tony Thang Nguyen

Bản anh-ngữ

In Desperation

The winter of 1975 was the bleakest season of my existence in my unfortunate country. Vietnam had just undergone a brutal change and I was in chains. I was held captive in a low-ceilinged steel-roofed structure called Camp A-9, in Longthanh City, not far from where the Cobra King Division from Thailand was once stationed. These nights were excruciatingly cold and seemingly endless. Without the slightest cover, I dozed off during daytime so I could massage my body the entire night long to keep myself warm. And I was nursing an open, bleeding wound that I had no way to keep it clean other than to douse it with some salty water, lick it and chew out the rotting flesh.

Neither before nor after the Fall of Saigon in April of 1975 did it enter my mind to leave Vietnam. Instead, I made my way to join the Resistant Force founded by Ledinh Thach, a former Captain of RVNAF 5th Infantry Division. We were a fighting force composed of people from Special Forces, Paratroops, Rangers, Infantry, Police and Paramilitia. My rank was Captain.

We occupied the abandoned former Viet Cong secret strongholds as they swept into the cities. These areas, called River Buong and River May, were still strewn with necessities for a campsite, such as tents, cottages, look-out posts on tree-tops, cooking utensils as well as a tended root and vegetable patch. Left behind was also a great quantity of local-made hand grenades, mostly damaged by moisture; we used these solely for catching fish. We often ransacked rice warehouses nearby, in such places as Tanbinh, Tanbac and Traco. Before withdrawing back to our campsite, we never forgot to liquidate the warehouse and leave a full sack of rice at the front door of every nearby civilian dwelling. They in turn supplied us with other necessary staples. For weapons, we had some M16s or M79s, but with less and less ammunition as the time went by. So we attacked VC outposts to get their AK47s and B40s.

We all agreed to make our way to the border of Thailand, by a jungle trail across Cambodian territory. We would then make further decisions after some rest. We knew that there was an 81st Airborne Ranger unit under the leadership of Wong A Cau stationed somewhere nearby and we tried to join forces with them, as well with a contingent led by Commandant Nguyen Phuoc Truong, also known as Major Tam. We also had a priest with us, Catholic Father Hieu (full name Tranhoc Hieu. Father Hieu was later killed by the communists during his imprisonment).

One day in October 1975, the Viet Cong started attacking our unit as well as Major Tam’s. They had two regiments of more than one thousand infantrymen and four T54 tanks encircling us. We were eighty men strong. We spanned a wide area, and met them in tactical three man units. We positioned ourselves at every strategic spot, even on the tree-top lookouts. We used our ammunition sparingly, making our shots count. And thus we fought them for four days and nights and lost about half of our comrades. When Captain Thach was killed, we decided to dissolve the unit. Three men came with me, making our way toward the Cambodian border through PhuocLong Province. At ten a.m. the next day a Viet Cong platoon, spread behind and along a range of bamboo trees, barely forty to sixty feet away, ambushed us near Vinhcuu hamlet. We were crossing an open field and thus were sitting ducks to them. The bullets were flying, tearing my jacket with holes. Then I was hit in my right knee as I was crouching to return the fire. I fell backwards, still firing. I ordered the three men of my unit to escape. But W.O. Nguyenthach Diep was hell-bent on dragging me along with him. Ignoring my protest, he would not release his grip on me. Pointing my gun at him, I ordered sternly: “Release me at once and go or this bullet is for you.” Tears brimming in his eyes, he answered, “Yes, sir” and disappeared. The enemy was soon swarming over me in a hand-to-hand combat. One tried to hit me on the head with his B40 launcher, but I swerved my head, and it hit the back of my neck. I fell down unconscious. In a blur, I seemed to see another Viet Cong pointing his AK to my head about to pull the trigger. Another voice warned, “Don’t kill him. This fellow is an officer. We can get more info from him. Let’s bring him back.” When I next regained consciousness, I found myself on a nylon hammock, my back soaked through with my fresh blood. The VC soldiers were carrying me through the rice field where some villagers were tending to their crops. I overheard faint voices saying “Jesu Ma” (Oh my God).

I was detained in Thongnhat district, Dongnai province. My cell was in a bombarded house whose roof was missing. Its wooden windows were nailed shut with crisscross boards. My head rested on a big brick. My body lay on a jute sack and was totally bare except for my bloodstained underwear. I found my army shirt wrapped around my broken knee. I endured the excruciating pain in the endless cold rain for several hours and then I raised my voice and asked my jailers to move me to a drier spot. No one answered. I dragged myself to a corner to seek shelter. Were the door to open at that moment, I would not be able to go anywhere, as the bullet that felled me had gone through my right knee, shattering my kneecap. Evaluating the situation, I was quite certain that I could no way escape a death sentence—I was caught red-handed with a deadly weapon in my hands, fighting my way. Were I to escape death through any unexplainable occurrence, I still would surely become an invalid. Committing suicide was the only best way. I tried to hit my head against the wall but I had no strength left. Biting my tongue was too painful and my stamina failed me. Only one solution was left and that was to let the Viet Cong do the killing for me. I began to call Ho Chi Minh by name and yelled out invectives against him until I was hoarse. No result. Then I called the Viet Cong top leaders names that I could remember, such as Le Duan, Truong Chinh, Phamvan Dong, Pham Hung, Leduc Tho... I kept insulting them until I passed out.

When I came to, I found myself the same as I was before, stiff and numb and cold. My head still rested on a brick, my body was still lying on the jute sack, almost naked but now covered by a damaged rusty metal sheet. The wind went on howling, the rain unfeelingly pouring, raindrops pounding rhythmically on the damned metal.

The following morning, the Viet Cong called a general meeting of all the population of the Thongnhat District. They displayed about forty corpses of our men killed in the attack that they labeled 40 “cruel rebels” who had been “punished.” Eleven of us were captured, all of us wounded. The rest, about thirty men, had escaped. The Viet Cong brought me to the back of an army Jeep for the populace to view. Some shouted slogans like, “Death to the traitor,” while some others tried to stifle their cries. I sat back in my bloodshot, flimsy underwear, slightly smiling. Death was what I wished and waited for. A death sentence was therefore no longer ominous to me. It was just a normal consequence of my actions.

A young woman about my age shoved the guards aside so that she could have a closer look. She said, “this traitor, this invader, doesn’t bow to peace but goes on killing innocent victims.” She went on, her rage feeding on itself: “I want to spit on his face, to crush the skull of this creature that bears a human face but fosters inside a bloodthirsty animal.” I sat, unmoved, thinking she was just a female “Victor Charlie” performing her play. I just wanted to see this comical tragedy end. I was ready to die in whatever form, or by whatever means. I met her gaze steadily while she raised her fist against me. Instead of swinging at my face, or spitting on me, her hand touched my belly. I looked down in haste and saw a small tangerine there. I quickly covered it with my hand and met her eyes in wonder. With a glimpse of recognition for my gratitude she went on with her performance. At present time, I still wish for an opportunity to somehow meet this wonderful actress again, and thank her, for the tangerine, yes, but most importantly for the moral uplift she provided me.

Then began the days of interrogations. Interrogators from the regular PAVN from the North were somewhat bearable. Some seemed reluctant to be tough. One of them even stealthily brought me a cup of hot milk, after I had passed out. But at night, groups of VC’s came to torture me. They punched and kicked and hit me with wooden clubs. Sometimes, they stood on my broken knee, and jumped up and down on it. This went on for six or seven days. It seems they had selected me for special treatment because I was the only high ranking officer there at that time.

The interrogators from the Liberation Army of the South were the cruelest. The intense pain of their torture occasionally caused me to pass out, sometimes for several hours. During these periods, I saw myself floating above fields covered with colorful, giant flowers. I was clothed in the richest material made from the gossamer of a rainbow. The air was pure and fresh like after a light rain. And the atmosphere was crystal clear and bright even with no sunlight. I could recall every detail of my entire life as far back as the day I was born. I was happy when recalling my good deeds and then remorseful or ashamed of my bad actions. Was this the “Judgment Day” according to the Christian doctrine, or the “Nirvana and Hell Stage” of Buddhism? I don’t know, but suddenly I understood the twitter of birds and the chatter of fish, quarreling over a morsel of food. I therefore was no longer afraid of death. On the contrary, I yearned for the earliest moment when I could leave this earth behind. I wanted to exit this body of mine, which only housed my real being while it evolved through endless stages of transmigration of my soul. It was simply one among trillions of temporary addresses. When I awoke from each of these comatose bouts, I thought that all I had seen were simply dreams. But as the same experiences kept reoccurring, I then firmly believed in my afterlife. I told my torturers, sincerely and in earnest, “Please help me get through death’s portal. I have seen beauty and serenity on the other side of death. I will be forever grateful to you if you put a bullet in my brain and end it all. I don’t want to continue this terrible life. I promise I will not bear any grudge against any of you, ever and ever.” Mysteriously, my tormentors left me alone after that.

One day, a high-ranking member of the VC cadre showed me some black- and-white pictures of my slain comrade-at-arms for identification. I first of all recognized Captain Thach lying dead next to his empty M60, one eye closed, the other opened, a seeming smile on his lips. My heart sank. Tears sprang to my eyes.

The VC turned his head away as if he saw nothing. I also tried to find the body of my cousin, Warrant Officer Vuthe Cuong. His was not among the pictures. (His father, Vuthe Nghiep, was my uncle, my mother’s full brother. Nghiep was a journalist writing under the pseudonym of Than Phong. He was executed two years in Thu Duc, a borough of Saigon city). I said a silent prayer: “Good bye for now, my dear brothers, until we meet again.”

At Camp A9, most of the inmates were former governmental officials of the Republic of Vietnam. The camp consisted of rows of bunkhouses, steel-roofed, and walled with thin wooden boards. Perpendicular to the last row house was a bunkhouse surrounded by layers of barbed wire. About fifty of us occupied it. At night only one of our arms was unfettered; but on the contrary, during daytime, one hand and both legs were free. Here were some of my cellmates: a gentleman named Phanxuan Ha, who was suspected to be a high-ranking officer of the RVN Armed Forces using a fake ID card. He bore himself with poise and dignity. I asked him whether he had any relationship to a classmate of mine in the National Polwar College by the name of Phanxuan Mai. He smiled and said, “Oh, he might be a younger relative.” There was also a woman named Mrs. Minh Dang, the only female to be incarcerated with us. Her crime was that she supplied us “rebels” with a whole truckload of rice. Her iron chain became her rosary, and she fingered it while praying until it shone like polished stainless steel. Nguyenvan Chi was the one who was mistreated and tortured the most, as they mistook him for 2nd Lt. Tranvan Chi. (The real Lt. Chi bore a bullet through his right shoulder, but later made it to California USA). And there was Ngodinh Chien with his left arm paralyzed as the result of a bullet through his left shoulder, and Nguyenvan Can who had sores all over his body, except for his eyes. Another man from Binhdinh province looked like former Emperor QuangTrung. Trinhvan Thuong had a bullet wound through his calf; Phamvan Than wore a jacket peppered with dozens of bullet holes.

Also in this cell house I met a former soldier of mine named Daovan Lanh. I had no idea when and why he was incarcerated. But by then he was assigned kitchen duty for the camp. One day, while bringing rice rations to us prisoners, he recognized me, and just nodded as a sign of acquaintance. As for myself, a real infantryman of our RVNAF, I held my cheerful countenance. I joked with everyone, as I was expecting my certain death to come as a welcome friend. Every day we were fed twice, a single bowl of rice with “tiger” meat. A play on the onomatopoeic sound kop, kop, translated into “cop,” a tiger. The “tiger meat” was really rock salt, which when chewed gave out that sound. I used only half of my ration of salt to eat; the other half I used in a solution to wash my wounded knee before licking it with my own tongue. Once in a great while, we were fed with some cabbage soup or pumpkin seasoned with salt. Then one day, Lanh, the cook, surreptitiously gave me half of a small can of something dark and viscous, which he said was reduced fish sauce. Oh my, it was divine. I used only one spoonful each time on my bowl of stale rice, and it brought back to me flavors of high-end restaurant fare I used to enjoy.

A dozen days later, when no one was around, Lanh whispered to me, “Did you find the “sauce” o.k.?” “Many, many thanks to you, my friend,” I said. “In the dire straits I am in now, what you gave me has no comparison.” Lanh said, “They (the VC cadres) asked me to wash about two pounds of dried fish. I washed that whole thing with only one bowl of water. Then I reduced the water by half and that was the sauce you got. Please use it–try to endure and survive, OK?”

The winter passed by, a winter of grief and sorrow befalling all Vietnam that had suddenly turned into a huge prison. Four months later the VC transferred me to Ngaigiao hamlet, Ducthanh district. Though my cell was warmer than the previous one, it was far more difficult to rest. Swarms of bedbugs devoured us all night long.

At night, both my feet were shackled. In the daytime, when we went to our labor duty, only one foot was fettered. And thus we went through the Binhgia village narrow paths, with clanging chains marking our steps. I muttered a song entitled “Vietnam, Vietnam, our indomitable country,” and bitterly felt the meaning of the words, “I shake my shackles noisily in the face of everyone.” My smile was not a natural one. It was a far-fetched one. It was an enraged one. I will step up and smash this chain on the face of those people. 1st Lt. Nguyenvan Tai would sing over and over one line from a romantic opera called ‘The saga of Lan and Diep’: “My name is Nguyenthi Lang, my body lies here, but my soul has gone elsewhere a long time ago.”

It was in this camp that I witnessed the horrible death of two of my soldiers, named Dongquang Nhuong and Nguyenvan Hien. They had tried to escape from the camp but were recaptured. The VC bound their hands and feet and hung them upside down from the roof-trestle as one would hang two pigs. The head of the camp came out and picked up a wooden hammer used to straighten sheets of corrugated tin plates. It was about five to six inches in diameter, over a foot in length. A handle around four feet long bore into the middle. With one single strong blow, the man swung the hammer right onto Dongquang Nhuong’s head as if it were a coconut. With a thud-like noise it hit its aim. Nguyenvan Hien turned his head to see his friend and received a blow right in his jaw. The jaw fell apart while blood shot out jet-like. I closed my eyes and stifled a scream. The two bodies squirmed a few times and then hung lifeless. They lowered the bodies. I and three other men volunteered to bury them. The bodies, still warm, were laid upon a plank about six foot long and nine inch wide. We walked forward, the dead men’s arms swinging with the uneven steps of our gait. Hien’s head was still oozing blood. Nhuong’s head looked like a gigantic overripe tomato, with its eyes bulging and its face discolored and swollen.

The rocky soil was extremely hard to dig, particularly so when we only had some old, broken shovels. Lt. Tai, the smallest man but also the strongest and most dedicated, encouraged us, saying, “Let’s try to dig a deep grave for them, men.” We tried and huffed and puffed. At dusk, we had reached less than three feet. So we buried our two comrades as they were, with nothing to wrap their bodies, neither poncho nor mat. I gathered some old newspapers and covered their faces. Then I picked up a few pebbles and lined them around their heads, and ever so lightly, I covered their faces.

That night, it was impossible for me to fall asleep. Around midnight, under the feeble light of our cell I clearly saw Nguyenvan Hien standing by the window, looking out with sorrowful eyes in an immense empty silence. I muttered quietly words of consolation: “Hien, dear, be gone in peace. Leave this cruel world behind.

You have paid your dues. Be free from anger and hate. Let your mind soar to immortal bliss.” And thus I kept repeating my pleas and prayers until Hien’s ghost blurred into nothingness. I then felt something, perhaps a body moving next to me. I turned around and found Dongquang Nhuong lying with me on something liked the floor of a moving train, our backs damp as we were lying on cattle dung. I whispered to him, “Where do you think they are moving us to?” He replied, “Do not fret, big brother, they’re taking you to the North, but everything will be all right with you. You’ll be then successful overseas.” He laughed. Nhuong was always optimistic. I laughed with him and asked, “What? The North has never been our country. It’s our enemy’s land. And talk about success? How do you expect an inmate, an invalid to boot, to succeed at anything on that forsaken land of those cruel communists? OK, big success considering anyway.” We both roared with laughter. I awoke. I was lonely by myself. It was just a dream, and I was awake in a nightmare.

A few months later, an order came concerning my condition: “This inmate is relieved from punishment and is allowed to enlist in a re-education camp.” I was moved to Le Loi Camp. Here, though no longer under shackles, inmates were kept away from the population. I recognized quite a few of my friends over the barbed wire, such as Ngoba Lai and Nguyenhuu Tao. We just acknowledged each other by a glint of the eye, feeling ashamed, confused and bitter. Ngoba Lai winked at me and walked to the direction of the outhouse. There crouching next to each other, we exchanged information. Lai asked if I really needed anything but I gratefully refused his help, his condition was not much better than mine. A month later, I was sent to camp Long Giao. My arms were again tied behind me with telephone wires. My feet were bare, and I had nothing on me other than a pair of flimsy shorts and a little bag hanging in front of my chest. My two classmates, Phamvan Bong and Tranngoc Hoan, voluntarily received me into their group. I shared the same camp with other friends Nguyenquyet Thang, Nguyen Nhu, Chunggia Phong. Buiduc Hung, Nguyenthanh An, Dangkim Cuong, Truong Hoi, and Phamduc Thinh. In a camp next to ours there was Nguyenduc Phuong. These Polwar classmates shared foodstuff and clothing with me. I finally got a pair of army pants, a gift from Pham Tue.

On May 23, 1977, I was sent to North Vietnam aboard the ship Songhuong. We debarked at Haiphong harbor. The trip from Haiphong to the ferry on the Red River was by train. On the floor of the train, as I laid my body down amid the water buffalo dung, my mind went back to my fellow combatants in the jungle, to the horrifying death of my two young soldiers, to my own fate, to my own people, and to the national tragedy that befell Vietnam. With much sadness, bitter tears pricked my eyes.

Tony Thang Nguyen

Editor’s note: Captain Nguyen endured over eight years of hard labor in concentration camps throughout North Vietnam. He says that he dropped in weight from one hundred and fifty pounds to ninety pounds. In all the time of his incarceration, he was allowed to see his mother and his younger sister twice, for less than an hour each time. He was released in 1983, and emigrated to the United States in 1992.

Captain Nguyen of the Republic of Vietnam Armed Forces is now a Major, the Executive Officer of the Interpreters Team, Oregon State Defense Force. He owns and operates Tigard Transmissions Center. He is married and has two daughters. He married his wife three months after his release from the prison camps. His wife is a niece of an RVNAF Chaplain incarcerated along with him a long time. This Chaplain introduced Nguyen to his relative’s family with strong recommendations. Nguyen graduated from the RVNAF Political Warfare College.

56 War, Literature & the Arts

  

Gặp gỡ 2 phụ nữ trong tuần

 Tuần này, chạy xuống gần Temecula để xem một cái vườn bơ mà chủ muốn bán. Mình có quen một bà chuyên viên địa ốc, tên Angela. Cứ lâu lâu gọi mình hỏi mua cái này cái nọ. Mình thì nghe ai bán nhà bán cửa thì chạy di xem liền dù không có tiền. Mụ vợ mình cứ la, không tiền mà cứ đòi đi mua nhà.

Càng già càng ít đòi hỏi. Khi xưa ra đường cái gì cũng muốn nhìn hết, nhất là mấy cô nay thì chỉ nghe đến nhà đất thì mình mới hồ hởi chạy đi. Hoá ra vườn bơ nằm cạnh cái làng phật tử ông thầy Nhất Hạnh tu. Đứng trên đồi, thấy bên kia thung lũng là làng tu. Thấy họ làm rất đẹp, có đường cho xe chạy lên đồi,…vài cái nhà nhỏ dưới các bóng cây lớn.

Mình gặp chủ vườn thì hỏi chuyện thêm về cách ông ta trồng trọt, chăm sóc vườn ra sao. Hoá ra ông ta còn theo cách xưa, chưa cập nhật hoá kỹ thuật mới như mình vừa xin tiền chính phủ thực hiện năm ngoái. Nhìn các vườn xung quanh thì họ đã bỏ trồng bơ (nước đắt tiền) và đa số trồng ổi, it tốn nước hơn. Nước vùng này đắt lắm. Vườn mình còn độ 4 mẫu chưa được khai thác, mình tính trồng thêm cây ăn trái khác, ít tốn nước nhưng nay có người muốn mua để xây 80 căn nhà.

Mình hỏi ông ta tiền nước bao nhiêu một năm, ông ta kêu $60,000, mình đoán là $70,000/ năm. Ông ta chỉ có 11 acres, xem như 55% của vườn mình. Lúc mình mới mua thì tốn nước độ $40,000-$50,000/ năm. Sau mình thay đổi hệ thống tưới, làm lại hoàn toàn với tiền của chính phủ nên bớt 40% tiền nước nên dễ thở hơn. Nay chỉ trả độ $25,000-$30,000 cho mỗi năm. Vấn đề chính là áp suất của nước hơi lộn xộn, thay đổi theo độ cao. Xung quanh có nhiều nhà vườn nên khi họ tưới vườn của họ sẽ khiến giảm áp suất nước. Chỉ có 90 PSI khi không có các vườn bên cạnh tưới nên khi trời nóng vào mùa hè là mệt, không tưới được hết vườn là chết cây, trái rụng.

Mình xem lời lỗ của ông ta ra sao thì thấy ông ta thua non nên phải bán. Ông ta thú thật là mua cái vườn này rẻ từ 3 năm nay nhưng phải chặt cây ngắn lại như mình đang làm nên thu nhập không nhiều. Ông ta nói có người đã trả giá ông ta muốn bán. Mình hỏi sao không ký thì ông ta kể là còn đợi mình và một người khác. Thật ra, họ trả giá mà phải đợi mượn tiền ngân hàng thì khó mà bán. Ngân hàng ít khi cho mượn tiền để mua đất nhất là khi họ xem Financial statement.

Mình mời bà chuyên viên đi ăn. Khu này thì có mấy sòng bài của người da đỏ nên mời bà ta vào sòng bài gần đó tên Pala ăn cho chắc ăn. Mỹ da trắng làm ăn chung với các bộ lạc người da đỏ, họ mua đất thì xem như tự trị, không phải đóng thuế lợi tức, mở sòng bài, giàu to. Bác nào ở Cali, lập gia đình với một người da đỏ là giàu. Mua nhà mua đất, làm ăn đứng tên người phối ngẫu, khỏi đóng thuế nhà đất, lợi tức gì cả.

Ngồi ăn, bà ta kể đang gặp khó khăn, đang mua một Mobile home ở San MArcos. Giá đâu $320,000, làm chủ đất luôn chớ không trả tiền đất mỗi tháng. Mình nói nếu bà không mua thì mình mua cho thuê, trả tiền huê hồng cho bà ta. Tiền thuê nghe bà ta nói độ $2,300/ tháng. Để xem có duyên hay không. Nghĩ lại nhà cửa sắp banh-ta-lông nên thôi. Mình nghe ông chủ trên 80 tuổi, gần đất xa trời, nên tính sẽ thương lượng trả 10% còn 90% ông ta cho vay. Khỏi mượn tiền ngân hàng gì cả. Mình không hiểu tại sao bà ANgela, không chịu đi đường này. Bà ta tham nên cộng thêm tiền Huê Hồng vào cái nợ nên gặp khó khăn vì giả định sẽ sai lệch rất nhiều. Khi tham người ta chỉ nghĩ đến số tiền nhận được mà không nghĩ cách binh khác.

Hôm kia, đi ăn cơm trưa, mình nghe tên bạn làm thẩm định giá cả nhà cửa thì hắn cho biết là ngân hàng kêu hắn xem trị giá của mấy nhà mà người chủ nhà không trả tiền vì Covid-19, dân tình không trả tiền nên chủ nhà không có tiền để trả nên ngân hàng định kéo. Có lẻ mình sẽ bán nốt căn nhà ở xa, rồi rồi giữ tiền đợi nhà xuống rồi tính. Có tên bạn nói bỏ vào I-bonds.

Từ hai tuần nay, có một cô gốc Việt đến dự họp Toastmasters. Cô ta cho biết lý do muốn gia nhập vì sắp sửa đi phỏng vấn công việc. Cô ta kể là học về Sinh Vật Kỹ NGhệ nhưng rồi thích làm trong gánh xiếc nên bỏ nghề kỹ sư đi theo đoàn xiếc trình diễn. Lấy ông chồng người Mỹ, làm công nghệ thông tin nhưng muốn viết phần mềm để dạy trẻ con học.

 Cô gốc Việt này chắc bị bố mẹ la nhiều vì không theo học làm kỹ sư hay bác sĩ như bố mẹ mong muốn, lại đi làm xiếc. Đại dịch xẩy ra nên không làm ăn gì được. Cô ta mới làm YouTube rồi lên tiếng tại sao người á đông rất khó được chọn các vai. Cô ấy nêu lên sự kỳ thị đối với các nghệ nhân da màu, không ngờ các nghệ sĩ của các cộng đồng khác cũng lên tiếng, khiến cô ta được mời tham dự các buổi nói chuyện và có công ty muốn mướn cô ta nên cần tập nói trước công chúng. Mình phục cô này vì dám đi ngược lại trào lưu của người Mỹ gốc việt tại Hoa Kỳ. Xong om

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Một ký ức Đà Lạt vừa bị xoá bỏ

 Mình định viết về tấm ảnh này từ lâu, về căn nhà đối diện hồ Xuân Hương của bà dược sĩ, kiêm dân biểu Nguyễn Thị Hai khi xưa. Không biết tác giả của tấm ảnh là ai, có thể chụp lén một cặp trai gái đang ngồi cạnh hồ Xuân Hương, nơi bệ xi-măng, xây tròn xung quanh những cây tùng, nhìn qua biệt thự của bà dược sĩ Nguyễn Thị Hai, mang tên Trang Hai. 

Biệt thự, mình ước mơ một ngày được ở trong đó khi còn bé. Nay thì thất kinh vì họ đã cho dẹp bỏ, xoá hết tàn dư của chế độ cũ. Chắc để xây khách sạn cao cấp tại đây. Chắc sẽ dện cả chục tầng cao hơn mấy cây thông. Có người cho biết là để nới rộng đường Trần Quốc Toản vì giao thông Đà Lạt bị banh-ta-lông. Dần dần đồi núi Đà Lạt sẽ bị xén đất hết, trở thành đồng bằng. Chán Mớ Đời 

Khi xưa, đường Hai Bà Trưng, khúc lên đồi bệnh viện Nhi đồng, cư xá viện Pasteur là đồi. Nay về thấy họ xắn đất, để xây nhà nên mình hơi lo là một ngày nào đó, đất sẽ bị trùi vì nước mưa đọng lại, bao nhiêu đất trên đồi sẽ phủ hết phía dưới đường Hai Bà Trưng tương tự như khu vực mới bị lỡ đất ở xóm Bà Thái khi xưa. Đất Đà Lạt toàn là đất sét thêm hệ thống dẫn thoát nước mưa khá thô sơ. Lâu ngày, nước tụ sẽ đẩy đất ở dưới vì bị đọng nước.

Gần nhà mình ở Cali, cách đây độ 15 năm có một cái tường talus xây cao độ 3 tầng lầu để chống giữ đất đồi bị trùi. Một năm bị El Nino đến thăm, mưa liên tu ti mấy ngày khiến đất bị trùi, kéo theo bức tường xi-măng dầy độ 30 cm và nhà cửa trên cao.

Hồi nhỏ, mình mơ có một ngày sẽ làm chủ căn biệt thự của ông bác sĩ Sohier và căn nhà này. Không hiểu tại sao, dạo học Văn Học, mình hay chạy xe lòng vòng Đà Lạt, xem các biệt thự thay vì đi ngắm gái, đánh bi-da như xưa với mấy tên bạn. Bên cạnh biệt thự này, phía tay phải, ngay cầu Ông Đạo đi qua, có căn biệt thự của gia đình một cô bạn học chung năm xưa 11B tên Hà, và một cô khác tên Vy Thị Thu Thuỷ ở trọ. Mình có đến nhà vì muốn xem bên trong nhưng không được cho vô nhà, chắc họ sợ mình chôm đồ. Mặt mình rất là gian gian từ xưa đến nay. Ít ai mời vào nhà họ.

Theo mình, kiến trúc biệt thự này không đẹp như các căn khác tại Đà Lạt ở đường Trần Hưng Đạo, Hùng Vương hay Huỳnh Thúc Kháng,… chắc không phải do ông kiến trúc sư tây vẽ. Cũng có thể chỉ là nhà nghỉ mát cho gia đình ở Sàigòn, lâu lâu lên Đà Lạt chơi nên không xây cất to lớn. Hình như mình có kể về ông tây này, đã thiết kế những căn biệt thự tại Đà Lạt xưa, rất đẹp. 

Sau này, thời đệ nhất Cộng Hoà, bổng nhiên có một thế hệ kiến trúc sư trẻ Việt Nam xuất hiện, thiết kế các công trình ở Đà Lạt rất đẹp, khá tân tiến và hiện đại cho vùng Đông Nam-Á thời ấy như chợ Đà Lạt, Giáo Hoàng Học Viện, trường Võ Bị Quốc Gia, viện đại học Đà Lạt,…

Thường thì văn học và nghệ thuật nói lên tư duy của người dân, trí thức trong hoàn cảnh hiện tại và những viễn kiến cho tương lai. Việt Nam Cộng Hoà, thời ông Diệm như một thời đại khai phóng, mở đường cho một Việt Nam mới hiện đại, sau khi dành lại độc lập. Nhờ đó mà kiến trúc và nghệ thuật thời ấy khá mới mẻ, đầy sáng tạo. Cộng thêm các nhà trí thức và văn nghệ từ Bắc di cư vào nam, tạo ra một nguồn lửa văn học và nghệ thuật rất đặc biệt và còn ảnh hưởng đến ngày nay, vẫn tồn tại trong người Việt.

Mình thấy tấm ảnh rất đẹp. Chụp trên đường Nguyễn Thái Học, gần đường lên Nhà Lao, nơi mẹ mình bị nhốt tại đây gần 6 tháng thời Tây. Cặp trai gái Đà Lạt trong tấm ảnh, chắc đang bàn về tương lai, sở hữu một căn nhà như biệt thự của bà dược sĩ Nguyễn Thị Hai, nằm trên đường Trần Quốc Toản mà khi xưa đi học, mỗi ngày đều chạy qua đây. Nhưng muốn đến căn nhà, phải làm sao qua hồ nước. Một thử thách của đời người. Bơi qua hồ hay đi vòng cầu Ông Đạo Trần Văn Lý. Có người cho biết là biệt thự mang tên “Trang Hai”, chắc mang tên tiệm dược khoa mang tên Trang Hai Dược Cuộc của bà Nguyễn Thị Hai.
Tấm ảnh này có lẻ khi mới được xây cất thời Tây, trước năm 1922, cùng thời với khách sạn Palace. Khi tây về nước, người Việt mua lại rồi làm vũ trường, nhà hàng. Mình nhớ hồi nhỏ có vào đây một lần với ông cụ khi có bạn ở đâu đến chơi, ngồi ngoài vườn, uống nước cam vàng dưới mấy cây thông khiến mình mê căn nhà này. Thấy tên tiệm là “Au Cabaret”. Sau này bà dược sĩ Nguyễn Thị Hai, ở Sàigòn mua lại rồi cho xây thêm một gian bên tay trái, tương đối đẹp hơn trước. Thấy lạ, mặt tiền này hướng về hướng Bắc của Đà Lạt, có lẻ vì vậy mà họ xây cửa sổ cao hơn mấy cánh cửa ra vào, vì cái mái nhà và veranda che khuất ánh sáng.

Hình này cho thấy sau khi được xây thêm một phần bên tay trái, cái lan-can trên lầu 2, được phá đi chỉ còn chỗ phòng ngủ chính đi ra veranda, để đứng ngắm hồ Xuân Hương. Dựa trên ảnh trên thì mình đoán căn nhà được nới rộng thêm về hướng BẮc, so với bức tường của nhà bếp. Do đó họ làm một dàn Pergola để nói hai phần mới và cũ. Hướng bắc thêm nhìn ra hồ nên họ làm cửa sổ sát trần nhà để có cái nhìn rộng hơn về hồ Xuân Hương. Phần bên trái được xây thêm, mình đoán là cửa ra ngoài, cũng là cầu thang lên lầu gần đó, có cửa sổ tròn, không biết có phải nhà tắm tại đây hay không.
Có lẻ không có đất, địa thế trên đồi nên phần cho người làm ở và nhà bếp được xây dính liền. Thường thì mấy biệt thự lớn ở Đà Lạt, có xây phần của gia nhân ở phía sau như nhà của bác sĩ Lương ở đường Phan Chu Trinh thì phải. Cầu thang đi xuống đường Trần Quốc Toản, có lẻ được xây khi còn thời làm nhà hàng “Au Cabaret” để khách có thể đến thay vì đi vòng lên con đường phía sau lên kho bạc, nơi mà có vụ cướp xe ngân hàng của ông Nguyễn Tấn Đời, năm mình học 3ème hay Seconde thì phải. Mỗi lần chạy ngang con đường này, là mình hay liếc vào cổng căn nhà mộng mơ của tuổi trẻ.

Họ cho phá xập hết căn nhà ít nhất cũng trên 90 năm vì năm 1932 có lũ lụt thì hình ảnh cho thấy chưa được xây. Đường Trần Quốc Toản chỉ là con đường nhỏ. Một di tích lịch sử của hồ Xuân Hương. Có người cho mình thấy tấm ảnh chụp trước năm 1932, thấy căn nhà hai tầng này. Xin cảm ơn. Mình viết theo ký ức nên nhiều lúc không chính xác, bác nào thấy sai thì cho biết để em cập nhật hoá.
Đây tấm ảnh của một người tại Đà Lạt, mới gửi cho mình. Mình có tấm ảnh này nhưng không để ý. Hình này chụp trước năm 1932 vì cái đập-đê ngay chỗ Thuỷ Tạ (chưa được xây), đã thấy căn biệt thự có chấm đỏ. Cảm ơn người Đà Lạt đã chỉ cho. Theo giải thích thì năm 1922, khách sạn Palace được xây xong thì đã thấy căn biệt thự này rồi. Có thể là nhà của quản lý khách sạn Palace vì rất sơ sài.
Theo chú thích của anh người Đà Lạt, tấm ảnh trên vào năm 1932, khi khách sạn Du Parc vừa được xây xong (chấm xanh đậm) còn chấm đỏ là biệt thư sau này mang tên Trang Hai, chỉ hai gian nhà như tấm ảnh nhà hàng “au Cabaret”. Xem tấm ảnh này thì hoá ra khu bị lũ lụt năm 1932, nằm phía bên kia cầu Ông Đạo. Mình lại đoán phía bên nhà hàng Thanh Thuỷ. Để hôm nào, mình rảnh sẽ sửa lại. Không nhớ bài nào. Chán Mớ Đời 

Nhìn từ bên kia hồ sang (đường Nguyễn Thái Học). Phía sau căn nhà này là đường chạy lên bưu điện. Vấn đề là nới rộng ra nhưng xe chạy vào chợ vẫn phải đi qua cầu Ông Đạo nhỏ bé, vẫn gây ùn tắc. Chán Mớ Đời 
Xong om

Năm 1971-1972 mình đi bộ từ khu Hòa Bình tới Adran mỗi ngày cũng đi ngang ngôi nhà này và vài nhà khác trước khi leo lên những bậc thang Dalat Palace rồi xuống dốc xuống Adran, cũng mơ ước và thắc mắc ai là chủ những ngôi nhà trong mơ này.

Nhờ Sony NguyenUsa - Hoàng Tử Bé Đà Lạt - Le Dalat Petit Prince'S Me, mới biết chủ ngôi nhà là dược sĩ Nguyễn Thị Hai, chủ nhân viện bào chế Trang Hai, bà Hai cũng là dân biểu Nguyễn Thị Hai. Dược sĩ Hai cũng dính dáng xa gần với cô trình dược viên Nguyễn Thị Mai Anh (https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Th%E1%BB%8B_Mai_Anh) là phu nhân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước khi cô lấy chồng, nghĩa là bà Hai là big boss và giàu có từ hồi bà Thiệu còn là con gái, hồi còn Tây mà đã làm chủ viện bào chế dược phẩm. (Dũng Le)

Bùng binh hồ Xuân Hương ngày nay. Chắc chụp trước rạp xi-nê Ngọc Lan, chỗ quán phở ngày xưa, bãi đậu xe Honda cho khán giả xem xi-nê. Mình nhớ có leo lên đây với ông cụ một lần khi về thăm Đà Lạt. Đó là lần cuối mình đi chơi với ông cụ. Lần sau về thì ông cụ yếu. Xong om

Năm 1995, khi mình thiết kế một dự án du lịch của tập đoàn Tân Gia Ba, phát triển khu Dankia. Tập đoàn này mướn công ty mình thiết kế khách sạn Equatorial ở Sàigòn. Mình có nghĩ về sự phát triển Đà Lạt trong tương lai. Theo mình thì Đà Lạt nên dời hệ thống hành chánh và kinh tế về Bảo Lộc, cũng thuộc tỉnh Lâm Đồng, cận Sàigòn, Long Khánh hơn là phải chạy thêm 150 cây số. Long Khánh, khi về Sàigòn, mình có chạy qua khi lên Đà Lạt, xa Sàigòn một tị, nên xây phi trường quốc tế để không gây kẹt xe tại sân bay trong Sàigòn.

Du khách quốc tế hay nội địa từ phi trường ở Long Khánh, có thể lên Bảo Lộc nhanh. Phi trường Liên Khương nhiều khi bị mây mù nên khó đáp xuống, làm trễ nải du lịch. Trong khi đó, cho phát triển các trung tâm du lịch và khách sạn cho du khách đến Đà Lạt về phía Đức Trọng, Tùng NGhĩa hay Đơn Dương vì du khách có thể đi tắm biển ở Ninh Chữ, Cà Ná, Phan Thiết hay Nhà Trang. Sáng đi chiều về, hay ngược lại vẫn hưởng được cái lạnh của Đà Lạt. Rau cải trồng xung quanh Đà Lạt như ở Tùng Nghĩa,..

Du khách đến Đà Lạt bằng xe buýt điện từ Đức Trọng, Trại MÁt, Đơn Dương lên trong ngày rồi chiều về lại. Biến Đà Lạt thành một thành phố như ở Thuỵ Sĩ với những phong cảnh, kiến trúc như ở Thuỵ Sĩ, sẽ làm du khách mê và trở lại. Tha hồ mà cho mướn phong cảnh Đà Lạt để các hãng phim quốc tế ở Á Châu mướn, khỏi đi qua Thuỵ Sĩ. Mình làm việc hai năm tại Thuỵ Sĩ, thấy hao hao Đà Lạt nên nghĩ sau này, có về Đà Lạt, sẽ thiết kế theo khung cảnh Thuỵ Sĩ nhưng vẫn giữ tâm hồn của Đà Lạt.

Các khách sạn sẵn có tại Đà Lạt thì trùng tu lại, nâng cấp lên, giá cao hơn. Ở Hoa Kỳ, muốn ngủ qua đêm các trung tâm du lịch, người ta phải đặt phòng trước cả năm hay 2 năm vì giới hạn phòng và giá rất cao, ít tiện nghi.

Các trung tâm du lịch trên núi tại Hoa Kỳ hay âu châu, thường họ không cho xe cộ vào nhiều quá. Đậu phía ngoài rồi đi xe buýt chở vào. Chỉ có những người sinh sống ở trong thì có thể vào hay các khách sạn sang trọng, đắc tiền. Dùng tiền du khách để tu bổ lại Đà Lạt. Đà Lạt sẽ thu hút du khách ngoại quốc nhiều hơn như Hội An. Nếu mình không lầm, ngày nay chỉ có đường Minh Mạng là còn chút gì của Đà Lạt xưa, từ khúc Nguyễn Biểu đi xuống chỗ quẹo. Không gian vẫn còn chút gì của Đà Lạt khi xưa.

Mai mốt, họ đập phá khu dinh tỉnh trưởng xong thì sẽ làm thịt luôn các khu phố xung quanh. Mình không rõ dự án xây khách sạn trên đồi dinh tỉnh trưởng, có thiết kế thêm về chỗ đậu xe cho du khách hay không. Mình chỉ nhớ là có lần ở Sàigòn, một anh bạn học cũ với đồng chí gái, dẫn mình đi ăn cưới con của một người bạn học cũ. Đến một nơi có đến 10 sảnh để tổ chức một lúc 10 đám cưới thì không có bãi đậu xe dưới hầm hay đâu cả. Phải chạy qua khu nhà dân, nhờ họ coi xe, trả tiền họ. Dưới hầm thì khó vì nước. Mình đọc tài liệu thì nước sông Sàigòn dâng mỗi năm mấy cm.

Khi xưa, mỗi lần có chợ Tết, mình thấy kẹt xe hơi rất nhiều ở dưới chợ. Nay dân đông gấp 3, 4 lần và thêm xe cộ nhiều thì Chán Mớ Đời.

Thật ra, người tây phương cũng lầm lẫn rất nhiều khi kiến thiết lại đô thị của họ sau đệ nhị thế chiến. Sau này, họ khám phá ra những lỗi lầm của họ nên đã thay đổi. Mình đi khắp âu châu khi xưa, nên có dịp viếng các trung tâm đô thị bị bom, chiến tranh tàn phá để xem thành phố nào đã tái thiết lại. Có lẻ chúng ta nên rút kinh nghiệm của họ để phát triển Đà Lạt thay vì đọc mấy cuốn sách cũ mèm từ 100 năm qua về thiết kế đô thị, để áp dụng kiến trúc xã hội chủ nghĩa sai lầm của thế giới vào Đà Lạt. Chán Mớ Đời 

Mình nghe nói là họ sẽ đóng cửa đèo Prenn để nới rộng con đường lên Đà Lạt để khỏi bị kẹt xe. Con đường đèo này, được xem là đẹp nhất Việt Nam. Adieu Đà Lạt. 

Làm như vậy để không phát triển Đà Lạt quá tải sẽ hết thu hút du khách. Du khách ngoại quốc đến Việt Nam, họ thích biển hơn là núi rừng vì xứ họ đã lạnh rồi. Hè chỉ muốn ra biển tắm nắng. Do đó muốn thu hút du khách thì Đà Lạt phải có đặc trưng về nét gì đó tương tự Hội An được thế giới biết đến vì Phố Cổ. Du khách nội địa thì chỉ đến vào các dịp Tết,… sau đó thì dân cư Đà Lạt ngáp ruồi, hay bị nhiễm Covid như mấy tuần lễ sau Tết nên chặt chém, làm 3 tháng sống 1 năm như các trung tâm du lịch gần biển ở âu châu.

Các tỉnh ở Đức quốc, bị bom đạn trong thời đệ nhị thế chiến. Ngày nay, người đức họ cho xây lại như xưa với kỹ thuật ngày nay. Đi viếng mấy chỗ này rất đẹp. Ngay Luân Đôn bị Đức quốc Xã dội bom, mình làm việc ở Luân Đôn được hai năm, đi đến những nơi được xem bị bỏ bom thì thấy vẫn như xưa, không có gì thay đổi cả.

Đà Lạt chỉ có xe buýt chạy bằng điện hay đi bộ trong thành phố. Trồng thêm hoa Anh Đào như ở Nhật Bản. Mấy phố như đường Minh Mạng, Hàm Nghi, Tăng Bạt Hổ sẽ như các thành phố nhỏ của Thuỵ Sĩ trên núi. Du khách trả tiền trước ở khách sạn nên không cần bán vé hay soát vé gì cả. Nay thì xong om. Chán Mớ Đời 

Đây là một thí dụ: thành phố Dresden của Đức quốc, khi xưa, quân đội đồng minh, dội bom gần như nát bấy nhưng họ vẫn xây lại như xưa thay vì huỷ bỏ, xây cái mới, rẻ hơn. Phố xá cho đi bộ, không có xe hơi chạy qua.
Hình ảnh thành phố Dresden năm 1968 và sau khi thống nhất được Tây đức bơm tiền để sửa chửa lại hết để người đức trở về. Khi tường Bá Linh sụp đỗ thì người Đông đức bỏ chạy hết qua Tây đức. 
Hình ảnh năm 1983, đông Đức (cộng sản) đói không có tiền tu sửa lại đến khi thống nhất, Tây đức bỏ tiền kiến thiết lại. May là bọn tư bản không dãy chết nếu không thì những ngôi nhà cũ khi xưa của Đức quốc sẽ không bao giờ được xây sửa lại, làm viện bảo tàn tội ác tư bản.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Webinar về an ninh mạng trên đài truyền hình Little Sàigòn

 Càng ngày chúng ta càng sử dụng Internet để chuyển tiền, trả nợ qua các hệ thống tài chánh và chúng ta có thể bị lừa. Mình có người em rể làm kỹ thuật thông tin cho một công ty bị hacker chiếm mất website rồi kêu trả tiền chuộc đâu $30,000. Anh ta phải bỏ thì giờ làm lại website nhưng tin tức, tài liệu của công ty đã bị người khác ăn cắp.

Một anh bạn khác bị ăn cắp số an sinh xã hội, rồi họ lần ra bằng lái xe,…và mua xe BMW dưới tên của anh ta. Phải mất cả năm hai năm mới bắt được thủ phạm làm trong ngân hàng, nên biết thông tin của mình hết.

Tuần này, nghe nói nhóm Hacker nào đã hack các website của Nga Sô. Do đó chúng ta phải cẩn thận. Mình đang do dự, chưa biết phải sử dụng phần mềm nào để giữ các mật mã khi vào các các trang nhà ngân hàng, bảo hiểm để trả tiền. Hy vọng, thứ 7 này mình sẽ hỏi anh chuyên gia về lưu trữ mật mã. Nay mình có nhiều trương mục lắm nên đầu óc hơi lộn xộn, khó nhớ hết mật mã.

Thứ 7 này, mình sẽ tiếp chuyện với ông Quan Đinh, một chuyên gia về an ninh mạng trong chương trình “Tài Chính” trực tuyến của đài truyền hình Little Sàigòn. Chương trình sẽ được trực tuyến qua Zoom. Nếu bác nào tò mò và muốn biết về Phishing, baiting, malware,… và đặt câu hỏi thì xin ghi danh trước qua đường link sau đây:

Where: 
Join Zoom Meeting
https://us02web.zoom.us/j/3683327266?pwd=K0JWN0VTU09rdkJJd29hK2R4R3FzUT09
Meeting ID: 368 332 7266
Passcode: LSTV

When: 
Saturday March 5th from 2PM-2:40PM 


Thân mời

Nguyễn Hoàng Sơn 

Sông Cờ Đỏ, giúp Trung Cộng làm bá chủ Á Châu

 Mình xin giới thiệu một bài viết của bác sĩ Ngô Thế Vinh của Liên Đoàn Biệt Cách Nhảy Dù khi xưa, một chuyên gia về Đồng Bằng Sông Cửu Long. Mình quen anh ta, trước đại dịch, hay gặp mỗi tháng với mấy anh bạn khác để bàn về vấn đề cứu nguy đồng bằng sông Cửu Long. Anh ta nghiên cứu rất lâu về vấn đề này, có đi xem địa thế của con sông này từ bên tàu.

VIỄN CẢNH 2022: TUNG HOÀNH VỚI SÔNG CỜ ĐỎ: TRUNG QUỐC ĐANG VẮT KIỆT NGUỒN NƯỚC CỦA CHÂU Á

Dẫn Nhập _Các dân tộc sống trên lục địa Châu Á ở hạ lưu các dòng sông từ Tây Tạng và Trung Quốc chảy xuống, trên 1,6 tỉ người này đã phải gánh chịu hết cả thiệt hại kinh tế nông nghiệp, ngư nghiệp và môi trường các hạ vực đã bị thoái hóa dần dần suốt nhiều thập niên qua trong khi Trung Quốc hưởng hết ích lợi nhờ thủy điện vì trên thượng nguồn họ xây hàng trăm con đập, tàng trữ hàng trăm tỉ mét khối nước, giam hãm 90% phù sa và thay đổi toàn diện dòng chảy môi sinh trên toàn lưu vực. Nhưng tham vọng Trung Quốc chưa dừng lại, Trung Quốc đã bắt đầu xây một đại công trình mang tên Sông Cờ Đỏ, dài trên 6.180 km để hàng năm chuyển dòng lấy 60 tỉ mét khối nước ngay từ nguồn không cho xuống hạ lưu sông Mekong, Salween và Brahmaputra. Sông Cờ Đỏ của Trung Quốc là một mối đe doạ tiềm tàng to lớn, với khả năng gây ra tội ác cho nhân loại – imminent threat to humanity. Trung Quốc tránh không ký bất cứ một hiệp ước hợp tác sông ngòi quốc tế nào, để họ đơn phương thực hiện những tham vọng của mình. Không một siêu cường nào trên thế giới ngạo mạn khai thác dòng nước bất chấp cuộc sống của bao nhiêu triệu cư dân hạ lưu như thế.  Việt Ecology Foundation

Bắc Kinh có khả năng dùng “vũ khí nước” như một đòn ngoại giao bắt 25% dân số thế giới làm con tin / holding hostage. Khác với những hồ chứa đập thuỷ điện, vừa giữ nước vừa xả nước, Sông Cờ Đỏ là một chiến lược đổi dòng lấy nước – có nghĩa là 100% lượng nước này sẽ bị mất đi – không bao giờ được đền bù,  đối với các quốc gia hạ nguồn. [1]

Hình 1: Quốc gia Tây Tạng, nơi phát xuất những con sông lớn của Châu Á: (1) Dương Tử, (2) Hoàng Hà, (3) Indus, (4) Sutlej, (5) Yarlung Tsangpo – Brahmaputra, (6) Irrawaddy, (7) Salween, (8) Mekong. [nguồn: Bản đồ cập nhật của Michael Buckley, Meltdown in Tibet,Palgrave MacMillan 2014] [3]

CƠ THỂ HỌC CÁC CON SÔNG LỚN CHÂU Á

Các con sông lớn như mạch sống của toàn Châu Á đều bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng, còn được mệnh danh là Cực Thứ Ba của Trái Đất. 

_ Đông Tây Tạng: phía đông là khởi nguồn của hai con sông lớn hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Trung Quốc: (1) sông Dương Tử6.500 km dài nhất Châu Á chảy về hướng đông theo suốt chiều ngang lãnh thổ Trung Hoa tới Thượng Hải – Shanghai, (2) sôngHoàng Hà thì chảy về hướng bắc rồi chuyển sang hướng đông tới Thiên Tân – Tianjin, và cả hai cùng đổ ra biển Trung Hoa.

_ Tây Tây Tạng: phía tây bắc, là (3) sông Indus và (4) sông Sutlej chảy về hướng tây nam và giao thoa với ba con sông khác để hình thành vùng châu thổ Punjab giữa hai nước Ấn và Hồi. Phía tây nam là (5) sông Yarlung Tsangpo là “con sông cao nhất thế giới”, với các ghềnh thác xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn, rồi chảy qua Ấn độ, Bhutan và Bangladesh, con sông đổi tên là sôngBrahmaputra trước khi đổ vào Vịnh Bengal, Ấn Độ Dương. 

_ Nam Tây Tạng: phía nam là ba con sông (6) sông Irrawaddy và (7) sông Salween chảy xuống Miến Điện theo hướng bắc nam trước khi đổ vào Biển Andaman. Riêng con (8) sông Mekong chảy qua nhiều quốc gia  với nhiều tên khác nhau, từ Tây Tạng: có tên Dza-Chu có nghĩa “nguồn nước của đá”, tiếp tục chảy về hướng nam băng qua những hẻm núi sâu của tỉnh Vân Nam với tên Trung Hoa là Lan Thương Giang / Lancang Jiang “con sông xanh cuộn sóng”qua đến biên giới Lào Thái mang một tên khác Mae Nam Khong “con sông mẹ”, xuống Cam Bốt lại mang một tên khác nữa Tonle Thom “con sông lớn”, cuối cùng chảy qua Việt Nam mang tên Cửu Long với hai nhánh chính là sông Tiền và sông Hậu đổ ra Biển Đông trước kia bằng chín cửa sông, nhưng nay chỉ còn bảy. [Hình 1] 

TÂY TẠNG KHÔ HẠN CHÂU Á CHẾT

Và cũng dễ hiểu tại sao, bằng mọi giá Trung Quốc phải chiếm cho bằng được Tây Tạng – vùng cao nguyên chiến lược vô cùng quan trọng, giàu có về nguồn nước, phong phú về tài nguyên thiên nhiên – đó cũng là “định mệnh sinh học – biological destiny”của Tây Tạng, một quốc gia nhỏ bé với chưa tới 1,5 triệu dân bản địa (thống kê 1965, dân số gốc Tây Tạng 1,321,500; Leo A. Orleans, The China Quarterly Jul-Sep, 1966) và đang bị Hán hoá, người Tây Tạng nay đã trở thành thiểu số ngay trên đất nước mình. 

Phải chứng kiến tốc độ tàn phá sinh cảnh Tây Tạng, ngay nơi đầu nguồn,  các con sông lớn Châu Á đang bị Trung Quốc khai thác một cách triệt để với những đập thuỷ điện, cùng với nạn phá rừng tự sát / suicidal deforestation, tới các kế hoạch khai thác hầm mỏ đại quy mô, gây ô nhiễm nguồn nước. Hiện tượng biến đổi khí hậu với khí thải từ các nhà máy đốt nhiên liệu hoá thạch đang gây hiệu ứng nhà kính khiến khối băng tuyết tưởng như vô tận nơi cực thứ ba trái đất đang nhanh chóng bị đẩy lùi và tan rã.

Cũng để thấy rằng, những con sông Châu Á từng nguyên sinh trong thế kỷ trước thì nay đã biến dạng suy thoái và không còn như xưa nữa.

Cảnh tượng ấy khiến Đức Dalai Lama đang lưu vong phải thốt lên lời kêu cứu và ông đã chọn ưu tiên bảo vệ môi sinh thay vì những vấn đề chính trị nóng bỏng. Trong một lần gặp gỡ với Đại sứ Hoa Kỳ Timothy Roemer ở New Delhi, thủ đô Ấn Độ vào tháng 8/2009, Đức Dalai Lama nói rằng:   

"Lịch trình chính trị có thể hoãn lại 5-10 năm nhưng cộng đồng quốc tế cần tập trung quan tâm tới biến đổi khí hậu trên Cao nguyên Tây Tạng: khối băng tuyết đang tan rã, nạn phá rừng, và ô nhiễm nguồn nước do những dự án khai thác hầm mỏ, là những vấn đề cấp thiết, không thể chờ đợi."[nguồn: Wikileaks Cables, the Guardian 10 Aug. 2009]

Bắc Kinh xác nhận là sẽ xây thêm các con đập thuỷ điện lớn trên thượng nguồn sông Yarlung Tsangpo – Brahmaputra, trước khi con sông xuyên quốc gia ấy chảy sang Ấn Độ, Bhutan và Bangladesh. Brahmaputra là dòng sông huyết mạch của ba quốc gia này.  

Khi các công trình hoàn tất, tổng công suất / total capacity của những con đập thủy điện trên Cao nguyên Tây Tạng sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam): 22.500 megawatts, lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử.

Hình 2: Bích chương của Hội Phụ nữ Tây Tạng:Hâm Nóng Toàn Cầu trên Cao nguyên Tây Tạng; Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết. [3]

Cho dù đang có những mối lo âu về sự tồn vong của quê hương Tây Tạng nhưng Đức Dalai Lama rất quan tâm tới những vấn đề chung của nhân loại. Ông nói tới vấn đề môi sinh rất sớm với tầm nhìn xa và trong mối tương quan toàn cầu và “phải làm sao giữ xanh hành tinh này, qua thông điệp nhân Ngày Môi Sinh Thế Giới / World Environment Day [ngày 05.06.1986]:

“Hòa bình và sự sống trên trái đất đang bị đe dọa bởi những hoạt động của con người thiếu quan tâm tới những giá trị nhân bản. Hủy hoại thiên nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là do hậu quả của lòng tham lam và thiếu tôn kính đối với sự sống trên hành tinh này... Chúng ta dễ dàng tha thứ cho những gì đã xảy ra trong quá khứ do bởi u minh. Nhưng ngày nay do hiểu biết hơn, chúng ta phải duyệt xét lại với tiêu chuẩn đạo đức là phần gia tài nào mà chúng ta thừa hưởng, phần nào chúng ta có trách nhiệm sẽ truyền lại cho thế hệ mai sau."[3]

SÔNG CỜ ĐỎ / HỒNG KỲ HÀ 红旗河 
MỘT KHỦNG LONG CỦA BẮC KINH

Từ mấy thập niên qua, ai cũng đã biết Trung Quốc đã và đang xây thêmhàng trăm đập thủy điện trên khắp các dòng sông với những hồ chứa nước khổng lồ, ngăn chặn phù sa làm đảo lộn toàn hệ sinh thái, tác động đến sinh kế của bao nhiêu triệucư dân dưới nguồn. 

Nay tiến thêm một bước đột phá nữa, Trung Quốc đang có thêm một kế hoạch vĩ mô / mega project, vô cùng táo bạo – khai mở một con sông nhân tạo: Sông Cờ Đỏ / Red Flag River, lớn nhất thế giới xuyên lưu vực, kết nối với mạng lưới sông thiên nhiên của Châu Á, nhằm chuyển nước về hướng Bắc củng cố nền an ninh nguồn nước – cũng là nguồn an ninh lương thực của Trung Quốc. Với dự án Sông Cờ Đỏ dài 6.180 km này, Trung Quốc hàng năm sẽ giành thêm được 60 tỉ mét khối nước – có nghĩa là các quốc gia khác sẽ mất đi lượng nước sinh hoạt thiết yếu này.

Không tham khảo với các quốc gia láng giềng,có thể nói Trung Quốc với hơn 1.4 tỉ dân đã đơn phương khai mào một trận chiếnmôi sinh không tiếng súng và sẽ gieo hoạ cho 1,6 tỉ người thuộc các dân tộc lân bang chung sống với họ trên lục địa Châu Á.

Sông Cờ Đỏ có tham vọng chuyển 60 tỉ mét khối nước hàng năm tương đương với 21% lượng nước đầu nguồn hàng năm tại ba con sông xuyên quốc gia / transnational rivers: Mekong, Salween và Brahmaputra. Lượng nước quý giá này chính là nguồn sống, sinh kế của các dân tộc Nam Á, và Đông Nam Á vẫn phải dựa vào số nước ấy sẽ được chuyển tới vùng Tân Cương – Xinjiang phía bắc và tây bắc Trung Quốc.

Dự án Sông Cờ Đỏ xuyên lưu vực này sẽ gây chấn động dư luận nơi các quốc gia lân bang – đặc biệt là Ấn Độ, quốc gia có dân số đông thứ hai chỉ sau Trung Quốc. 

Những nước dưới hạ nguồn sẽ phải rất quan tâm trước một viễn tượng có thể khó lường. Do Tây Tạng có nước chảy xuống là nhờ mưa và tuyết tan khi trời ấm, mức nước và lưu lượng sẽ cao nhất từ tháng hai cho đến tháng bảy, cho 70% tổng số nước cả năm, khi đó là thời gian tối ưu cho con Sông Cờ Đỏ dựa vào thế năng và động năng cao để chuyển dòng và chiếm đoạt nhiều nước nhất. Các nước hạ lưu cùng lúc đó lại đang vào mùa khô, vì thế sau khi Sông Cờ Đỏ hoạt động, hạn hán giáng xuống hạ lưu chắc chắn sẽ khắc nghiệt hơn nữa. Lúc đó họ chỉ còn biết dựa vào lòng tử tế của Trung Quốc, điều mà người Tây Tạng, Ngô Duy Nhĩ, Việt Nam đã từng được nếm trải. 

Vì thế Sông Cờ Đỏ của Trung Quốc đã tiềm tàng một mối đe doạ to lớn, gần như tội ác cho nhân loại – imminent threat to humanity. Trung Quốc đã tránh không ký bất cứ một hiệp ước hợp tác sông ngòi quốc tế nào, để họ không bị ràng buộc có thể đơn phương thực hiện những tham vọng của mình. Không một siêu cường nào trên thế giới ngạo mạn khai thác dòng nước bất chấp cuộc sống của bao nhiêu triệu cư dân hạ lưu như thế.  

Riêng Việt Nam thì sao?  Vẫn là sự im ắng “truyền thống” cho dù Sông Cờ Đỏ sẽ lấy nước sông Mekong từ ngay nơi đầu nguồn.

Trung Quốc “vĩ đại” theo nhiều ý nghĩa, thể hiện cho tinh thần Đại Hán ấy trong quá khứ đã có Vạn Lý Trường Thành, là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Nay với tiến bộ khoa học kỹ thuật, Trung Quốc còn thực hiện thêm những công trình mới có tầm vóc thế giới: đập thuỷ điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử lớn nhất thế giới, và nay Sông Cờ Đỏ sẽ là con sông nhân tạo chuyển dòng lấy nước cũng lớn nhất thế giới với chi phí tốn kém nhất thế giới. Đây là một đại công trình làm thay đổi cả diện mạo của lục địa Châu Á. Với sẵn nguồn nhân lực, với quyết tâm và có khả năng kỹ thuật cao, Bắc Kinh có thể dư sức thực hiện Dự án Sông Cờ Đỏ này. Nhưng với cái giá nào phải trả của các quốc gia lân bang thì không được Bắc Kinh quan tâm tới.

Hình 3a: Sông Cờ Đỏ với Dự án chuyển nước vĩ mô “tam tung, tứ hoành / ba dọc, bốn ngang”; (a) đường đen mỏng: các dòng sông lớn; (b) đường đen đậm: Sông Cờ Đỏ và hai nhánh chính nối với các con sông thiên nhiên trong dự án chuyển nước nối lưu vực nam-bắc của Trung Quốc; (c) đường đen đậm đứt quãng gần: đường dẫn nước nam-bắc trong Dự án Chuyển Nước Nam-Bắc / SNWTP / South-North Water Transfer Project; (d) đường đen đậm đứt quãng xa: trong kế hoạch thực hiện. [nguồn: Bản đồ của Genevieve Donnellon-May và Mark Wang trên The Diplomat Oct. 7, 2021, với thêm ghi chú tiếng Việt của người viết] 


Hình 3b: GS Vương Hạo (Wang Hao), Chủ tịch Nhóm Chuyên gia trong cuộc Hội thoại về “Sông Cờ Đỏ” – một dự án vĩ đại của Trung Quốc – đã ngạo mạn phát biểu: “Ít nhất trên quy mô ngàn năm / thiên niên kỷ, Dự án Sông Cờ Đỏ sẽ đem lại những lợi ích vượt xa hơn là những tác hại.” 

LỊCH SỬ SÔNG CỜ ĐỎ VỚI “TAM TUNG TỨ HOÀNH”

Dự án này được soạn thảo bởi “nhóm nghiên cứu S4679” của Đại học Thanh Hoa / Tsinghua ở Bắc Kinh – được so sánh như một Harvard của Đông phương; do giáo sư Vương Hạo / Wang Hao là kỹ sư trưởng của Viện Nghiên Cứu Tài nguyên Nước và Thuỷ điện của Trung Quốc.

Sông Cờ Đỏ là một hệ thống thuỷ lợi với dòng chảy trọng lực / gravity flow water diversion system, lấy nước từ các con sông trên cao nguyên Tây Tạng [được mệnh danh là “nóc của thế giới” với độ cao trung bình 4.500 m trên mặt biển], dẫn vào một đường kênh chính / main channel đưa nước tới vùng Tân Cương / Xinjiang khô cằn – có khả năng “biến Tân Cương thành một California Made in China xanh tươi trù phú”, đồng thời cũng dùng con sông nhánh Chunfeng dẫn một lượng nước khổng lồ vào lưu vực Turpan tới vùng bắc Tân Cương. [Hình 3a,b] 

Công trình thuỷ lợi Sông Cờ Đỏ còn đem nước tới Tân Cương và các tỉnh phía tây bắc như Cam Túc / Gansu, Ninh Hạ / Ningxia. Các tỉnh này nếu có nguồn nước sẽ trở thành một vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất nước. Ước tính là lượng nước cung cấp cho các tỉnh tây bắc sẽ nhiều hơn lưu lượng nước hàng năm của con sông Hoàng Hà / Yellow River đổ ra biển. Dự án này sẽ tạo thêm được 13,3 triệu hectares diện tích canh tác ở Tân Cương và thêm 130.000 km2 các ốc đảo / oasis xanh tươi ở vùng tây bắc Trung Quốc. 

Ngoài những lợi ích về canh nông kể trên, Sông Cờ Đỏ còn bảo đảm an toàn nguồn nước cho Trung Quốc. Với Kế hoạch Dự án Chuyển Nước Nam-Bắc / SNWTP / South-North Water Transfer Project, Trung Quốc tạo được một mạng lưới nước / water grid system có tên là “tam tung tứ hoành / 三纵四横 / ba dọc bốn ngang”:

Tam tung / sanzhong / ba dọc: là 3 tuyến dẫn nước từ nam lên bắc; 2 tuyến trung và đông đã hoàn thành, tuyến tây đang triển khai. Khi tuyến phía tây này hoàn tất, sẽ có 17 tỉ mét khối nước được chuyển từ thượng nguồn sông Dương Tử sang sông Hoàng Hà ngay từ trên cao nguyên Tây Tạng, có khả năng phục sinh con sông Hoàng (Hà) đang bị cạn kiệt.  

Tứ hoành / siheng / bốn ngang: là 4 dòng sông chảy từ tây sang đông là: Hoàng Hà (Yellow river), Hoài Hà (Huai river), Dương Tử (Yangtze river) và Hải Hà (Haihe river) 
Hệ thống “Tam Tung Tứ Hoành” này sẽ bảo đảm cung cấp nguồn nước cho thủ đô Bắc Kinh và các thị trấn lớn vùng bình nguyên phía bắc Trung Quốc. 

Ngoài ra, Sông Cờ Đỏ còn có thêm hai kênh sông Hồng Duyên / Hongyan Hà dẫn nước đến Diên An / Yan’an phía bắc tỉnh Thiểm Tây / Shaanxi, và sông Mạc Bắc / Mobei dẫn nước vào Nội Mông và cả Bắc Kinh. Cũng qua kênh sông Mạc Bắc, Sông Cờ Đỏ cung cấp nguồn nước cho vùng đồng bằng phía bắc Trung Quốc, và qua nhánh sông Hồng Duyên cung cấp nước cho lưu vực Tứ Xuyên / Sichuan Basin. [Hình 3a,b]

Đây là một bức tranh quy hoạch thuỷ lợi cực lớn –không chỉ tạo ra một hệ thống cấp nước mới cho vùng tây bắc Trung Quốc mà còn kết nối với hệ thống mạng lưới nước quốc gia để có "bảo đảm kép" về mặt chiến lược cung cấp nguồn nước cho Bắc Kinh và vùng bắc Trung Quốc[1]

VẪN BIỆN HỘ CHO TRUNG QUỐC

Rồi ra, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu vẫn có một số vị tiến sĩ hay trí thức khoa bảng trong và cả ngoài nước – sẽ hành xử như những luật sư tự nguyện bào chữa cho Bắc Kinh rằng: Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc. Họ vẫn chỉ biết dựa vào một con số đơn giản, cho rằng chỉ có 16% số lưu lượng sông Mekong đổ xuống từ Trung Quốc. Và nay, Sông Cờ Đỏ có lấy thêm đi mấy phần trăm % của con số 16% ấy thì nạn hạn hán nếu có xảy ra cũng không phải lỗi Trung Quốc.

Thực tế vào mùa khô khi nước khan hiếm nhất, lượng nước từ Trung Quốc xuống Mekong lên tới 40% và 70%, gấp hai tới bốn lần hơn con số họ cố ý trích dẫn. [nguồn: https://www.lowyinstitute.org/the-interpreter/china-eyes-its-next-prize-mekong]

Và người ta vẫn có thể tự ru ngủ mà bảo rằng: tranh chấp nước “trên nguồn – dưới nguồn / upstream – downstream” bấy lâu vẫn là chuyện bình thường, ngay cả giữa các địa phương trong cùng một quốc gia. 

Có cần nhắc với họ không là năm 2016, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam đã phải lên tiếng cầu cứu xin Trung Quốc xả nước từ con đập Cảnh Hồng / Jinhong để cứu đại hạn nơi ĐBSCL lúc đó, và cuối cùng cũng không đạt hiệu quả nào! 


Hình 4: trên, Hạn hán khắc nghiệt nơi ĐBSCL năm 2016, khiến Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng lúc đó phải lên tiếng cầu cứu Trung Quốc cho xả nước từ hồ chứa đập thuỷ điện Cảnh Hồng nhưng không đạt hiệu quả nào; dưới, Cái bắt tay “hữu nghị” của Tập Cận Bình – lúc đó là Phó Chủ tịch TQ và TT  Nguyễn Tấn Dũng tháng 12/2011. [nguồn: trái, VN Express 3/11/2016] 

SÔNG CỜ ĐỎ VỚI TRÁI TIM BIỂN HỒ VÀ ĐBSCL

Tuy dự án Sông Cờ Đỏ S4678 không được công bố chính thức nhưng chắc chắn sẽ gây ra sự quan tâm rộng rãi. Cao nguyên Tây Tạng vốn được coi là một vùng sinh thái trù phú nhưng cũng rất mong manh và dễ bị tổn thương. 

Sông Cờ Đỏ chắc chắn làm giảm thêm nguồn nước của các con sông xuyên quốc gia – trong đó có sông Mekong. 

Rõ ràng, Sông Cờ Đỏ sẽ đem lại cho Trung Quốc một thứ “siêu quyền lực” bá chủ về nguồn nước  / hydro-hegemony trên toàn Châu Á, với “quyền sinh sát tắt mở vòi nước” theo ý mình – nhất là khi Bắc Kinh muốn cho các nước nhỏ “một bài học” – vẫn nói theo ngôn từ của Đặng Tiểu Bình. 

Ngoài nước lớn là Ấn Độ, có đủ sức đối trọng với Trung Quốc, hầu như chưa có các quốc gia hạ nguồn nào khác chính thức lên tiếng – Riêng với Uỷ Ban Mekong Việt Nam – 23 phố Hàng Tre Hà Nội, cách ĐBSCL hơn 1.600 km, thì vẫn là sự im lặng hay hoàn toàn bị động. 

Vẫn với một khuôn mẫu hành xử bấy lâu, chưa bao giờ Bắc Kinh muốn chia sẻ thông tin / hay muốn thực lòng tham khảo với các quốc gia hạ nguồn về dự án Sông Cờ Đỏ S4679, chắc chắn sẽ có ảnh hưởng huỷ hoại lâu dài đối các dòng sông xuyên quốc gia này. 

Theo ước tính của hai tác giả Genevieve Donnellon-May / Đại Học  Singapore và Mark Wang / Đại học Melbourne, thì Bắc Kinh có khả năng dùng “vũ khí nước” như một đòn ngoại giao bắt 25% dân số thế giới làm con tin / holding hostage. Khác với những hồ chứa đập thuỷ điện, vừa giữ nước vừa xả nước, Sông Cờ Đỏ là một chiến lược đổi dòng lấy nước – có nghĩa là 100% lượng nước này sẽ bị mất đi – không bao giờ được đền bù,  đối với các quốc gia hạ nguồn. [1]

_ Tình trạng “đói lũ” ở ĐBSCL đã xảy ra thường xuyên hơn trong những năm gần đây. Lũ – mùa nước nổi xuống ĐBSCL, phụ thuộc chính vào lượng nước mưa từ thượng nguồn sông Mekong. Nếu mưa ít ở lưu vực trên / upper basin, kéo theo nạn thiếu nước trong hàng trăm các hồ chứa thuỷ điện, thì khi tới mùa mưa nước sẽ bị chặn lại trong các hồ chứa – thay vì lượng nước mưa ấy ồ ạt theo dòng sông xuôi chảy xuống hạ lưu. Hậu quả là sông Mekong sẽ thiếu nước, gây tình trạng hạn hán trên toàn hệ thống sông rạch. 

_ Do đó sẽ rất ngây thơ để bảo rằng 16% lưu lượng nước từ Trung Quốc là không đáng kể, và cho rằng các hồ thuỷ điện không tiêu thụ nước. Nhưng khi các hồ thuỷ điện thiếu nước, phải cần thời gian lâu để tích trữ lại lượng nước thiếu vào chuỗi các hồ chứa, những hồ chứa đập thuỷ điện đã “phá vỡ cả một chu kỳ điều hợp thiên nhiên kỳ diệu” của con sông Mekong. Không còn lũ cao / hay đỉnh lũ trong mùa mưa để con sông Tonle Sap có thể chảy ngược dòng vào Biển Hồ, tăng diện tích Biển Hồ lên gấp 5 lần (từ 2.700 km2 mùa khô tới 16.000 km2 mùa mưa). Biển Hồ được ví như một biển dự trữ nước ngọt thiên nhiên khổng lồ tiếp nước cho cả hai vùng châu thổ Tonle Sap / Cam Bốt và ĐBSCL / Việt Nam trong cả hai mùa mưa nắng.  

Một con sông sinh thái / river ecosystem không đơn giản chỉ có nước mà phải là một dòng chảy bao gồm các sinh vật / biotic (như cây cỏ, rong tảo, sò ốc tôm cá), những vi sinh vật / microorganisms cùng với những vật thể phi sinh khác / abiotic (như cát sỏi phù sa), tất cả cùng tương tác với nhau như một cơ thể sống.   

Tác hại của chuỗi đập thủy điện và nay với thêm Con Sông Cờ Đỏ không chỉ cướp nguồn nước mà còn huỷ hoại hệ sinh thái của con sông: chặn nguồn phù sa trong các hồ chứa – mà phù sa là yếu tố bấy lâu bồi đắp tạo dựng nên vùng đồng bằng châu thổ từ hàng bao ngàn năm. Nay cũng nguồn nước ấy khi xuống tới ĐBSCL do “bị đói phù sa”, đã dẫn tới một tiến trình đảo nghịch: thay vì bồi đắp, thì nay lại “ăn đất” gây sạt lở không chỉ các bờ sông mà cả suốt chiều dài 800km vùng ven biển.  

_ Rồi còn phải kể tới nạn đất lún do lạm dụng khai thác tầng nước ngầm, cùng với ảnh hưởng của “biến đổi khí hậu” hâm nóng toàn cầu, nước biển dâng, với các hiện tượng El Niño và La Niña khiến các vùng châu thổ là dễ bị tổn thương nhất – trong đó có ĐBSCL, và tất cả đã làm đảo lộn mọi dự đoán về thời tiết thuỷ văn để có thể kịp thời đối phó! 

TRUNG QUỐC VẪN LỐI HÀNH XỬ CÔN ĐỒ

Tháng 2 năm 1972, khi TT Nixon viếng thăm Bắc Kinh, bắt tay với Mao Trạch Đông dọn đường cho một Trung Quốc mở cửa; rồi tiếp theo đó với chính sách “Đổi Mới” của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng vươn lên như một siêu cường, theo cái nghĩa “nước lớn bá quyền”, và chính Đặng Tiểu Bình đã từng giáng cho Việt Nam một bài học bằng trận chiến tranh đẫm máu nơi biên giới phía bắc (1979). 

Và rồi như một chính sách nhất quán, Bắc Kinh đã có một lối hành xử rất côn đồ từ Biển Đông (với Hoàng Sa Trường Sa và với Đường Lưỡi Bò), vào tới đất liền chiếm đoạt nguồn nước, luôn luôn hăm doạ và bắt nạt các “tiểu quốc / nước bé”, bất chấp mọi trật tự và luật pháp quốc tế.

Bằng chứng là mới đây vào tháng 10/2021 Trung Quốc đã ngang nhiên từ chối ký một “hiệp ước chia sẻ nước / water sharing treaty” với các quốc gia hạ nguồn. [1]

Chia sẻ thông tin, chấp nhận đối thoại chân thành, điều mà các chuyên gia thuỷ học Trung Quốc có thể dễ dàng làm nhưng đối lại vẫn là sự vô cảm.  Không đối thoại, không có tham khảo, trên mọi dự án lớn liên quan tới toàn vùng, cho dù Bắc Kinh biết rằng cách hành xử ấy sẽ tạo nên những mối quan hệ căng thẳng nhưng họ vẫn bất chấp. Với Trung Quốc ngày nay, chỉ có một tiếng nói của sức mạnh. Cuộc đấu tranh để sinh tồn có thể dẫn tới cuộc chiến tranh vì nước ngay trong thế kỷ 21 này

NGÔ THẾ VINH 
Mekong Delta 1995 – 2022

 

THAM KHẢO:

  1. _ What’s Behind China’s Latest Mega Hydro-Engineering Project. Genevieve Donnellon-May, Mark Wang. The Diplomat Oct 07, 2021. 
    _ Red Flag River and China Downstream Neighbors. Genevieve Donnellon-May, Mark Wang. The Diplomat Oct 23, 2021.

  2. Đồng Bằng Sông Cửu Long và Những Bước Phát Triển Tự Huỷ Hoại. Ngô Thế Vinh. Việt Ecology Foundation May 01, 2018 vietecology.org/article/article/299

  3. Mùa Xuân Tây Tạng và Câu Chuyện Những Dòng Sông. Ngô Thế Vinh. Việt Ecology Foundation. Jan 20, 2017 vietecology.org/article/article/197

  4. Thoi Thóp Trái Tim Biển Hồ, Miền Tây Đau Thắt Ngực. Ngô Thế Vinh. Việt Ecology Foundation. Nov 7, 2015 vietecology.org/article/article/122



Tấm không ảnh của Đà Lạt

 Có anh nào dân Đà Lạt tên Phú, cựu học sinh trường Trần Hưng Đạo, gửi cho mình tấm không ảnh, lại khiến mình bay về miền quá khứ, nói như người Mỹ “back to the future”. Mình định không viết về Đà Lạt xưa vì toàn kể những kỷ niệm cá nhân, thấy bơ vơ quá nhưng lại có người liên lạc, gửi hình như thầm nói; viết tiếp. Có ông thần nào, người Sàigòn, yêu thích Đà Lạt nên cứ hỏi mình, rồi lượt gọt những từ phản động, rồi tải lên cho bà con ở Việt Nam đọc. Người Sàigòn còn chú ý đến sự tàn phá của Đà Lạt xưa nên mình kể tiếp.

Mình có tấm ảnh này nhưng thiên hạ gửi lại xem kỹ hơn thì thấy có nhiều điểm khác chưa kể. 

Tấm không ảnh này cho thấy 3 con đường: bên trái là đường Hàm Nghi trên đồi, bị cây che khá nhiều, ở giữa là đường Phan Đình Phùng mà khi xưa, thời Tây được người Việt gọi là Đường Cầu Quẹo và bên phải có một đoạn đường Hai Bà Trưng, từ trường Thăng Long (Hiếu Học) đến dốc Hai Bà Trưng. Sau khi giải ngủ, ông cụ mình đi học trường này ban đêm, lấy bằng tiểu học để vô ngạch công chức của ty Công Chánh Đà Lạt, được thêm lương mua sữa cho con. Tối mình hay đi đón ông cụ đi học ra. 

Trường này, nếu mình không lầm có lần do thầy Chử BÁ Anh làm giám đốc, sau này, dọn về đường Hoàng Diệu, đổi tên thành trường tư thục Văn Học mà mình có học tại đây hai năm cuối trung học đệ nhị cấp, được thầy Chử Bá ANh cho học miễn phí. Như có huông nên sau đó, được học bổng đi tây.

Mình đoán tấm ảnh được chụp từ trên máy bay, trước khi mình ra đời, vì thấy nhiều nơi khi mình lớn lên biến mất và những khu được xây cất thời mình còn nhỏ chưa được xây và sau Mậu Thân khi dân tình chạy giặc Việt Cộng, ở quê vào Đà Lạt.

 Nếu nhìn đường Hai Bà trưng từ bên tay phải sang thì thấy ít nhà cửa. Xa xa thấy dãy nhà của trường Thăng Long (Hiếu Học) xưa. Mình nhớ có học chung lớp hè với một cô nữ sinh trường Bùi Thị Xuân, ở khu chung cư này, tên Hoàng Lan thì phải. Khá xinh. Đối diện, trên đồi, có nhà của Hạnh, học chung khi xưa ở Yersin, mình có gặp lại một lần khi về Đà Lạt với con gái ga-ra STT, tên Phượng, chị của ca sĩ Lệ Thu bên Tây, có đến nhà mình một lần với Tú Anh, tại nhà con gái thầy Tạ Tất Thắng, thêm 1 trong hai chị em sinh đôi ở khu Nhà Chung. Cô chị thì nay ở Úc Đại Lợi.

Có con suối chảy song song đường Hai Bà Trưng, chảy về suối Cam Ly. Thật ra con suối này có chỗ được chia làm hai nhánh, 1 gần đường Hai Bà Trưng và một gần đường Phan Đình Phùng. Khu nhà thầy Thành Bắp Sú, chú Hồng dưới đồi lên nhà thương Đà Lạt, chưa được xây cất, ngay cả mấy nhà gỗ, nơi ông người Tàu, bán xắp xắp ở bên hông rạp Ngọc Hiệp ở.

Nói chung là phân nữa tấm ảnh bên phải là đất đai và nhà cửa của gia đình ông bà Võ Đình Dung. Ông này là thầu khoá có tiếng tại Đà Lạt khi xưa, người thầu xây cất nhà ga xe lửa Đà Lạt, và khu phố Hoà Bình (dãy nhà hàng Mekong, Việt Hoa và phía bên kia từ tiệm bánh mì Vĩnh Chấn đến phòng răng ông Trình). Theo mình đọc hay hỏi thiên hạ còn sống tại Đà Lạt thì từ Mã Thánh đến trường Việt Anh, toàn là đất và nhà của ông bà Võ Đình Dung. Như vườn ông Ba Đà, gần xóm mình.

Có chị bạn, nhà ở đầu đường Hai Bà Trưng, nơi mà nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, hay đạp xe đạp chở người em trai mà bạn bè hay gọi Vinh Kennedy đến thăm cô sinh viên đại học Đà Lạt, từ Sàigòn lên ở trọ sau này cưới nhau, cho hay là bố mẹ mướn nhà của ông bà Võ Đình Dung.

Chính ông bà Võ Đình Dung, đã hiến đất để xây chùa Linh Sơn và Linh Phong cho các phật tử Đà Lạt. Gia đình này có công xây dựng lên Đà Lạt khi xưa. Ông ta làm thầu khoán và nghị viên thành phố Đà Lạt dạo ấy nên biết rõ các khu vực được thiết kế, dành cho người Việt nên bỏ tiền ra mua hết đất đai và xây cất nên được xem là người giàu có nhất Đà Lạt.

Đây là rạp hát LangBian (Lâm Viên), sau này bị đập phá, biến thành cây xăng Ngọc Hiệp. Bên tay phải là tiệm Đức Lập, có cái hẻm đi vào, có tiệm mì quảng Thanh Bình thì phải của ông bắc kỳ nấu đồ ăn miền Trung, ngon có tiếng tại Đà Lạt. Mình có ăn 2 lần.

(Cảm ơn Sơn có nhắc đến rạp hát Langbian, hồi đó mình gọi là rạp Long Biên, là của ông bà nội chị là ông  Cai Sớm làm chủ. Sau vì thất bại trong việc xây dựng cơ ngơi nhà La Faro không được thanh toán sòng phẳng,  bà nội chị phải bán rạp hát lấy tiền trả công thợ. Lúc đó rạp Long Biên chiếu phim Việt Nam và phim Ấn Độ. Tụi chị vô xem khỏi mua vé. Lâu lâu cũng có hát cải lương.)

Nổi bật nhất là rạp xi-nê Ngọc Hiệp và rạp xi-nê LangBian. Giữa 2 rạp chiếu bóng nay là hai tiệm ăn của người Tàu tên Kim Linh và Như Ý. Sau này, rạp Xi-nê Lang Bian được phá bỏ để xây cây xăng Ngọc Hiệp, và dãy quán bên hông dãy phố Đức Tín, có quán mỹ quảng của ông bắc kỳ tên Thanh Bình thì phải.

Mình nghe một chị nữ sinh Yersin cho biết là con trai của rạp Xi-nê Ngọc Hiệp và Ngọc Lan, mới qua đời. Mình có nhắn tin cho Võ Hoàng Đa, bạn rất thân với anh chàng này từ bé nhưng không thấy trả lời.

Chỗ này, sau này họ xây một số nhà cửa trong hẻm này, đưa đến chiếc cầu nhỏ, băng qua vườn thiên hạ rồi đến đường Hai Bà Trưng, khúc trường Nữ Công Gia Chánh, không thấy trong ảnh. Hẻm này mình có học chung với Nguyễn Đình Tài, Lê NAm Sơn, Lê HÙng Sơn và Nguyễn Hùng. Mình có gặp lại Nguyễn Đình Tài, Lê HÙng Sơn và NGuyễn HÙng, còn Lê NAm Sơn thì nghe nói sau 75, làm CM30 nên bạn bè xa lánh, nay nghe nói ở Bảo Lộc, có tiệm mì rất nổi tiếng. 

Khu vực bên đường Hai Bà Trưng thì sau Mậu Thân thì thiên hạ cắm dùi xây nhà cửa nên khó nhận ra. Còn nay về thì chỉ biết tôi đi trong mưa sa.

Theo tấm ảnh thì khách sạn và tiệm ăn Cẩm Đô chưa được xây cất vì cao 2-3 tầng nhưng không thấy bóng dáng. Tương tự phía Hai Bà Trưng chưa thấy khu nhà của tên học chung khi xưa Vy Nhật Tảo. Ngược lại thì thấy tiệm bi-da Hồng Ngọc, nhà của bác sĩ Đào HUy Hách. Khu Dốc Nhà Làng hình như chưa được xây cất luôn. Có thấy mấy căn nhà gỗ mà anh bạn học chung khi xưa ở đó, cho thiên hạ thuê làm tiệm hớt tóc Như Ý, chưa thấy tiệm giầy Hồ Út.

Hôm trước, có đọc một bài viết của anh nào ở khu vực rạp Ngọc Hiệp, kể rất chi tiết các quán ăn, tiệm xung quanh. Ai tò mò thì lên tìm nhóm thân hữu Đà Lạt bắc Cali mà tìm đọc.

Bên phải đường phan đình PHùng, cận cảnh, sau dãy tiệm Đức Tín thì có dãy phố có tiệm sách Minh Thu. Mình gần như mướn và đọc hết sách của tiệm này vào mùa hè. Mình nghe nói con gái của tiệm này, học chung hay quen với Chử Nhất ANh tại Virginia, Hoa Kỳ.

Sau đó có tiệm Luồng Điện, của ông nội tên bạn học chung khi xưa tên Trần Trọng Ân. Mình có đến nhà hắn chơi bắn bi, xem hắn làm Sauce Mayonnaise. Phía sau có một con hẻm và vài căn nhà và đường đi ra ;hía sau vườn trồng rau. Hình như có một cô tên Bạch Tuyết, học trường Thành NGọc với mình. Lâu quá không nhớ rõ. Chán Mớ Đời 

Tên Ân này, nghe kể sau 75, làm công an, chửi bới bạn học khi lên văn phòng hắn, xin giấy đi đường chi đó rồi chết vì say rượu chi đó. Mình chỉ nhớ đi xem phim Độc Thủ Đại HIệp, Bambi với tên này. Hắn mê phim tàu lắm. Mình thì thích phim tây hơn. Sau này lên Grand Lycee thì hết chơi vì hắn học M1 còn mình học M2. Lâu lâu gặp mặt nhau thì cười một cái.

Kế bên tiệm Luồng Điện là tiệm sửa xe đạp và Honda, tên gì mà bổng nhiên quên tên. À Công Thành. Ông chủ là em của bác Cháu, có tiệm bán xe Honda ở đường Phan Bội Châu, bà con chi đó với mẹ mình. Chị em bạn dì chi đó nên mỗi lần gặp là phải chào. Hình gia đình này có một người em có tiệm sửa và bán xe Honda ở đường Mình Mạng, chỗ gần Photo Đại Việt, gần dốc Nhà Làng. Có nhà cậu Lan, từng làm trưởng ty cảnh sát Đà Lạt. Hình như là nằm vùng cho Việt Cộng.

Đại khái là khi xưa, bà cụ mình quen cả chợ Đà Lạt nên đi đâu cũng chào hỏi mà mình thì theo tục lệ xưa, phải cúi đầu chào đủ trò khi ra phố. Kể ra đây chắc ít ai còn nhớ những nhân vật này như bà Tư Bổ, bà Giáo Trình,…

Lâu lâu, đi ngang qua đây, mình hay đứng lại nghe thiên hạ chửi nhau bằng giọng Bắc và giọng Huế. Số là đối diện tiệm Công Thành có một tiệm khác, cũng sửa chửa và bán xe đạp, xe Honda. Thường thiên hạ đi hỏi giá tiệm này rồi qua tiệm kia hỏi gía, ai mất khách thì chửi thề rồi cãi nhau như mổ lợn. Thiên hạ bu lại xem rất đông. Mình nhớ cô gái tiệm Tân Tiến, chửi giọng Bắc kỳ mê luôn. Mình học để khi chửi lộn thì sử dụng. Mình học tiếng Việt nhờ nghe thiên hạ chửi lộn ngoài chợ và ngoài đường. Mình rất mê nghe thiên hạ chửi nhau nhất là phụ nữ. Họ chửi rất bài bản, có vần có điệu nên mình phục phụ nữ từ bé đến nay. Họ làm thơ qua những câu chửi. Ai buồn đời thì tìm mấy bài chửi của mình ghi lại, giọng bắc, giọng Huế đủ thứ. Chán Mớ Đời 

Có tên bạn học, con tiệm vàng Kim Thịnh, chửi tiếng Huế nghe cực đỉnh. Hắn hay đọc bài của mình nên kể lại đây để hắn tưởng niệm lại những ngày tháng năm cũ đã khiến nhiều tên trong lớp  nghe điếc con ráy. Nghe nói, sau này hai tiệm này, chuyên gia chửi ở đường Phan Đình Phùng làm sui gia, ký kết hiệp định tiệm sửa xe Honda, sinh đàn cháu mang tên Romeo và Juliet. Hôm nào buồn đời, mình kể chuyện tình của hai anh chị Romeo và Juliet đường Phan ĐÌnh Phùng. Kinh

Dãy phố cuối bên tay phải có tiệm may của ông Ba Hoà, chuyên may liểng đám ma, nay con ông ta nối nghiệp. Khi xưa, lính ra trận chết nhiều nên ông này giàu có vì Đà Lạt ít ai may liểng đám ma. Bên cạnh tiệm ông này là tiệm bán gạo, tạp hoá chi đó của gia đình một nữ sinh Bùi Thị Xuân, tên Liên, tập Thái Cực Đạo ở Thao Trường. Con trai Đà Lạt dạo đó hay gọi Liên Thái Cực Đạo, rất Tom Boy. Mình có gặp lại cô này tại Virginia, khi cô nàng chở vợ chồng Chử Nhị Anh đi xem nhà để mua. Mình không nhớ cô này có đẹp hay không chỉ nhớ là khá đẩy đà khi mình gặp lại.

Cạnh tiệm may của ông Ba Hoà, có con hẻm nhỏ mà người dân hay họp cho, thường được gọi là Chợ Nhỏ Phan Đình Phùng. Mình hay đi qua để về đường Hai Bà Trưng. Trong khu này có một tên học chung khi xưa ở Lycee tên Đào thì phải. Tên này lớn tuổi hơn mình, chở gái đi chơi khiến mình phục nức nở. Bố tên này có bồ hay sao ở Sàigòn. Mẹ hắn nhờ bà Dì mình, ở Sàigòn 20 năm, đi với bà ta xuống Sàigòn đánh ghen. Dạo ấy, dì mình, thợ may áo dài, từ Sàigòn lên, mướn chỗ may ở tiệm ông Ba Hoà. Kinh

Đặc điểm ở khu xóm này là nhà nào cũng xây một cái tường nhỏ trước cửa nhà để khi mùa mưa đến, bị lụt thì nước không tràn vào nhà. Phía sau khu nhà này có con suối. Dân xóm này, cứ đem rác ra đổ dưới suối, làm nghẹt nên mùa mưa là nước không thoát được, tràn lên bờ. Chuyện rất dễ hiểu, chỉ cần mọi người đồng ý đừng đổ rác xuống suối thì không bị lụt khi trời mưa nhưng dân khu đó theo chủ nghĩa mackeno. 

Đối diện tiệm may ông Ba Hoà thì mình không để ý lắm vì ít khi đi phía bên đó. Chỉ nhớ có tiệm giò chả An Lộc, tiệm Tân Tiến, tiệm gì làm nệm ghế Salon của một tên học Yersin khi xưa tên Châu. Nhà của ông thầy Tường dạy mình Thái Cực Đạo. Ngoài ra có tiệm bán vật liệu xây cất, tên gì có chữ Ký phía sau, bổng nhiêu quên tên. Không biết có phải Lưu Hội Ký, tiệm này hình như ở đường Minh Mạng, đối diện tiệm vàng Kim Thịnh. Cứ ghi xuống rồi khi nào tìm ra sẽ bổ sung. Cạnh tranh với tiệm Đức Lập bên kia đường.

Đối diện tiệm ăn Kim Linh và Như Ý thì chưa thấy dãy nhà phía sau có nhà Chú Cương, an ninh quân đội, bạn ông cụ mình. Thiên hạ hay gọi chú là Cương Đen, có lần chú được bổ sang Nhật Bản học về an ninh quân đội mấy tháng. Sau 75, đi tù rồi đi mỹ rồi về lại Đà Lạt và qua đời tại đây.

Đây là tấm ảnh nghe nói được chụp năm 1936, vị trí rạp Ngọc Hiệp, chỗ đường Mình Mạng quẹo xuống đường Cầu Quẹo, sau được đổi lại thành Phan Đình Phùng. Có chú thích bằng tiếng tây “quartier indigène “  mình có kể theo tấm ảnh này rồi.

Có anh nào, cựu học sinh Trần Hưng đạo, có kể rất chi tiết khu rạp Ngọc Hiệp nhưng không nói đến tiệm bảo hiểm Rồng Vàng của bác Nguyễn Đình Hoè, hay họ Võ thì phải, tay vợt số một bóng bàn của Đà Lạt khi xưa, nằm ngay góc con hẻm đi lên đường HÀm Nghi, chỗ tiệm phở Tùng. Mình có chơi với con trai của bác hồi nhỏ nhưng lớn lên thì quên. (Còn tiếp)

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn